Chương 647: Lại thi triển diệu thủ
Khi Đơn Phi nhắc đến chuyện cũ, sự kính nể phát ra từ đáy lòng.
Câu “Cung làm Tư Mã, phá hàng Xa Sư… Phân ưu vì nước... Thanh tuyền hốt tư...” mà hắn đọc ra ban nãy chính là lời tường thuật cuộc đời huyền thoại của Cảnh Cung. Đại ý là vào thời Đông Hán, Cảnh Cung mở màn đánh thắng Xa Sư, nước Xa Sư thu vào bản đồ của Hán thất, cũng vì thế được bổ nhiệm làm Mậu Kỉ Giáo Úy. Sau đó Hán thất thiết lập phủ Đô Hộ ở Tây Vực, Hung Nô phía bắc công kích Xa Sư, Cảnh Công không đủ binh lực, bị bao vây nhưng không đầu hàng, trong thành thiếu nước, Cảnh Cung dẫn binh đào sâu mười lăm thước vẫn không tìm được nguồn nước, bất đắc dĩ uống nước trong phân ngựa để giải khát. Nhưng trời không tuyệt đường người, sau khi Cảnh Cung bái thiên, trong giếng đột nhiên có nước, nguy cơ được giải trừ, mọi người tát nước trên đầu thành, để Hung Nô tưởng quân Hán được thần trợ, phẫn nộ lui binh.
Nhưng sau đó Đô Hộ Trần Mục ở Tây Vực bị bắc Hung Nô giết, Mậu Kỉ Giáo Úy Quan Sủng thành Liễu Trung và Cảnh Cung bị bao vây cùng lúc, Cảnh Cung lâm vào tuyệt cảnh, nhưng vẫn không quy thuận Hung Nô.
Khi Cảnh Cung đau khổ giãy dụa thì Hán Minh Đế đột nhiên chết, cả Trung Nguyên quốc tang, việc xuất binh vì thế chậm trễ.
Dù Hung Nô tàn nhẫn, nhưng kính trọng anh hùng, nhiều lần công thành đều thất bại, tiến hành chiêu hàng với Cảnh Cung, hứa chỉ cần y đầu hàng thì vinh hoa phú quý bất tận. Cảnh Cung giả ý để sứ giả lên thành, kết quả giết chết sứ giả, treo trên thành trì tỏ quyết tâm, Thiền Vu Hung Nô giận không kềm được, nhưng không thể làm gì Cảnh Cung. Dù Cảnh Cung thành công chống đỡ đợt tiến công thành của Hung Nô, nhưng lương thực sau đó của binh sĩ chính là nấu giáp nấu cung nỏ, ăn da và gân thú để duy trì sự sống.
Đơn Phi nói “Chiêu hàng không hàng, giết sứ Trần Thi; Hung Nô vây thành, ăn sạch da gân” chính là nhắc đến đoạn quá khứ này.
Đoàn người của Cảnh Cung chịu đựng cả một năm dài, nhưng Hán thất vẫn còn bàn luận xem có xuất binh hay không. Lúc đó tiếng nói phản đối rất lớn, trong mắt mọi người thì đó là việc không thể, nội dụng bàn luận không khác gì so với bộ phim “Giải Cứu Binh Nhị Ryan”, đó là có cần hy sinh nhiều người đi cứu những người sắp chết?
Lúc này những câu văn của Tư Đồ Bào Dục đã được lưu danh thiên cổ, Cảnh Cung người ta vì Hán thất chống lại Hung Nô, kinh doanh Tây Vực, người ta kiên trì trung nghĩa với ngươi, nếu quốc gia vứt bỏ nghĩa sĩ dũng mãnh, sau này còn muốn người đời bán mạng cho nhà Hán ngươi sao?
Cuối cùng Hán thất xuất binh, nhưng khi tướng lĩnh đến thành Liễu Trung thì phát hiện Quan Sủng đã chết, lại chuẩn bị trở về, khi đó Phạm Khương, tổ tiên của Phạm Hương mới xuất hiện.
Phạm Khương vốn là một quân lại dưới tay Cảnh Cung, phụng mệnh đến Đôn Hoàng thu nhận áo gấm binh sĩ, nhìn như là một nhân vật không hề quan trọng, nhưng vì Cảnh Cung chạy nhanh cầu viện, biết quân Hán muốn rút, đau khổ cầu xin, nói dù Quan Sủng đã chết, nhưng Cảnh Giáo Úy vẫn nằm trong vòng vây, sao các ngươi có thể bỏ mặc? Các ngươi đến làm gì, du ngoạn sao?
Quân Hán không ai là không sợ hãi kỵ binh của Hung Nô, không ai dám đi, Phạm Khương giận quá phát điên, không biết cầu xin khổ sở biết mấy thì mới cổ động được hai ngàn người đi theo, quay về cứu Cảnh Cung.
Không có giao chiến long trời lở đất, một cử chỉ không đáng kể đó, nhưng vào lúc cả nước chần trừ, duy chỉ có Phạm Khương khăng khăng tiến hành, sau khi quan sử biết chuyện liền đặt bút viết đoạn sử này vào sử ký.
Đơn Phi không bao giờ quên những sự tích anh hùng thế này, nhưng đa phần là ghi chép trong “Danh tướng truyện”, nếu không trong lúc nhất thời sao hắn có thể thốt ra lời nói tinh tế như thế.
“Danh tướng truyện” chọn lọc những sự tích thiên cổ danh tướng, bình luận ưu khuyết điểm, sự tích của Phạm Khương được sử quan ghi lại đôi lời trong sự tích của Cảnh Cung, chỉ một dòng chữ đó, đủ khiến Phạm Khương lưu danh ngàn năm.
Lời nói của Đơn Phi tóm tắt, nhưng mỗi câu đều là chuyện cũ liên quan đến Cảnh Cung và Phạm Khương, bình luận khách quan đúng trọng tâm, sao có thể không khiến Phạm Hương lòng mang kích động?
- Đơn huynh đệ…không ngờ còn người nhớ đến chuyện xưa của tổ tiên ta, ta còn tưởng… Phạm Hương nghẹn ngào, trong mắt đã ngấn lệ, lời nói của Đơn Phi không có sức ảnh hưởng gì với người ngoài, nhưng đối với Phạm Hướng, đó đã chạm đến nỗi lòng của ông ta.
- Mời ngồi, xin mời ngồi. Phạm Hương lại bảo.
Đám người Trụ Tử khẽ biến sắc, từ lúc họ quen biết Phạm Hương, vẫn luôn cảm thấy đây là một lão già âm dương quái khí. Dù là tiếp đãi Ban Doanh thì ông ta cũng lúc nóng lúc lạnh, đám người Trụ Tử chưa từng nghĩ mấy lời của Đơn Phi lại khiến Phạm Hương gọi hắn là huynh đệ, thậm chí là bảo hắn ngồi.
Đơn Phi rất là xấu hổ, vội bảo: - Phạm lão trượng quá khách khí rồi, nếu đã là huynh đệ thì cần gì phải phân ghế trên ghế dưới?
Phạm Hương cười ha hả nói : - Đơn huynh đệ nói đúng, đã là huynh đệ, vậy sao lại xưng ta là lão trượng?
Đơn Phi mỉm cười nói: - Phạm huynh nói rất đúng.
Thấy hắn đổi cách xưng hô, Phạm Hương càng mừng hơn, thấy người hầu đã dọn thức ăn lên xong, quát lớn:
- Tương Tư, sao còn chưa mang rượu lên?
Tương Tư bận rộn, thi thoảng quay sang nhìn về hướng đám người Phạm Hương, nghe thế nói: - Phạm gia, ngài đang mang bệnh, thầy thuốc nói ngài không thể uống nhiều rượu. Hôm qua ngài đã uống nhiều rồi.
- Mặc kệ mấy lời nhảm nhí của thầy thuốc! Phạm Hương cười nói: - Y nói ta không uống rượu còn sống được thêm vài năm, nhưng gặp được huynh đệ tri tâm, không uống vài ly, sống thêm vài năm làm gì?
Mọi người không kìm nổi cười, Ban lão cha cười to nói: - Đây mới là lão Phạm ta biết, đúng thế, món ngon không có rượu, hứng thú giảm ngay, mau mang rượu lên.
Tương Tư cau mày, hơi không vui rời đi, nhưng vẫn mang bình rượu lên bàn ăn, có chút khẩn cầu nhìn Ban lão cha.
Ông ta mở nắp bình rượu ra, khẽ thở dài: - Rượu Tư Hương của ông đúng là càng để lâu càng thơm, ta đến Lâu Lan, nhớ nhất chính là lão Phạm ông và cả bình rượu Tư Hương này. Khó khăn lắm mới chịu lấy ra, ta và Đơn huynh đệ phải uống thêm vài ngụm nha.
Nói thế, ông ta rót một phần ba bát rượu cho Phạm Hương, sau đó rót đầy bát của mình và Đơn Phi.
Mùi rượu xông vào mũi, cả sảnh đường đều thơm ngát.
Trụ Tử và mấy hán tử ngửi mùi rượu mà thầm nuốt nước miếng, Ban lão cha thấy thế quát lớn: - Đây là rượu do Phạm huynh ủ nhiều năm, cực kỳ quý báu, các ngươi chưa đủ trình độ để thưởng thức, Thiêu Đao Tử thích hợp với các ngươi hơn.
Đơn Phi nhìn bộ dạng thèm nhỏ dãi của đám người Trụ Tử, mỉm cười nói: - Ta không sành rượu, hay là chia vài chén cho họ.
Đám người Trụ Tử gật đầu vâng liên tục.
Phạm Hương cười to bảo: - Đơn huynh đệ quá xem thường ngu huynh rồi, ta không có bản lĩnh gì, nhưng rượu thì ủ rất nhiều. Lão Ban, mỗi người một bát thế nào?
Ban lão cha cười bảo: - Vậy ông uống ít chút đi.
Tương Tư nghe thế cười mừng, cảm kích nhìn Ban lão cha.
Phạm Hương ha hả cười nói: - Lão Ban, lâu quá không gặp, mà lại nhỏ mọn thế rồi, đúng là khó gặp.
Ban lão cha lặng lẽ nói: - Muốn chiếm tý lợi từ tên giữ của như ông không dễ, may có Đơn huynh đệ ở đây, tên giữ của như ông mới bớt bớt lại.
Khi ông ta nói đã rót đầy rượu cho mọi người, đám người Trụ Tử một hơi cạn sạch, đều khen rượu ngon.
Đơn Phi nâng bát rượu lên nhấp một ngụm, thấy Phạm Hương vẻ căng thẳng nhìn hắn, biết lão già này đang đợi lời bình phẩm của hắn, hồi lâu mới nói: - Ta không biết bình rượu, nhưng màu sắc của rượu trong suốt, vào miệng mùi thuần nồng, như Hàn Nga một khúc lưu luyến ba ngày, hồi vị vô cùng, thật sự là rượu ngon hiếm có.
Phạm Hương hả hả nói: - Đơn huynh đệ thật là khiêm tốn, lời bình phẩm của đệ cực đúng đạo rượu, mạnh hơn nhiều so với đám người uống rượu như trâu uống nước như Trụ Tử, loại người như đệ nếu không biết thưởng rượu thì trên đời này thật sự không còn mấy ai biết thưởng rượu rồi. Uống rượu vốn là biết lòng huynh đệ, rượu thơm tình trọng, nay cả hai đều có, ngu huynh khó tránh uống thêm vài hớp.
Khi ông ta nói xong thì định uống cạn, nhưng uống được một nửa thì nhíu mày, vẻ rất thống khổ.
- Phạm gia! Tương Tư luôn lo lắng, thấy thế liền mặc kệ lễ nghi, một tay giật lấy bát rượu trên tay Phạm Hương.
Sắc mặt của Phạm Hương tái xanh, nhưng không phải vì Tương Tư cản trở. Hao hết khí lực, cuối cùng ông ta uống hết bát rượu, cố nhịn đau khổ, cười nói: - Nha đầu này, cứ thích chuyện bé xé ra to, rồi…ăn cơm.
Nói rồi ông ta muốn nhấc đũa, nhưng tay phải cứ run rẩy.
Ban lão cha ý thức được tính nghiêm trọng của vấn đề, vội hỏi: - Lão Phạm, bệnh của ông nghiêm trọng hơn rồi phải không?
- Ai nói không? Tương Tư vội la lên: - Phạm gia không cho…
- Tương Tư! Phạm Hương quát to.
Tương Tư lo lắng đến ướt mắt, thấy Phạm Hương vừa ho liên tục vừa xua tay, cuối cùng giữ im lặng.
Đơn Phi hơi nhíu mày, chậm rãi nói: - Cảnh Cung thủ tiết, Phạm Khương trọng nghĩa. Phạm huynh hẳn là di truyền tổ tiên, biết chúng ta có việc cần cầu, nên mới nhịn đau không nói.
Tương Tư bỗng quay sang nhìn Đơn Phi, thật sự không biết sao người thanh niên này lại có tâm tư khéo hiểu lòng người như vậy, vừa mở miệng liền nói đúng ý của Phạm gia.
Phạm Hương cũng kinh ngạc, nhưng vẫn mỉm cười nói: - Đơn huynh đệ đánh giá cao ngu huynh rồi, ngu huynh chỉ là mượn cớ uống thêm vài ngụm rượu mà thôi.
- Lão Phạm, ông đúng là không xem ta là huynh đệ rồi. Ban lão trượng kích động nói: - Bệnh tình hóa nặng sao không nói, sao ta…sao… Người ông ta có thể dựa vào ở Lâu Lan chính là Phạm Hương, có thể thuận lợi tráo đổi Công Chúa Lâu Lan ra vào thương đội cũng nhờ sự giúp đỡ của Phạm Hương. Ông ta biết, trước mắt nguy cơ tứ phía, cũng biết chỉ có người huynh đệ này mới chịu ra tay giúp đỡ, vì thế vừa đến Lâu Lan liền liên lạc Phạm Hương. Ông ta biết bệnh tật đôi chân của Phạm Hương nghiêm trọng, gần đây lại hoàn toàn không thể đứng dậy, nhưng nghĩ rượu có tác dụng hoạt huyết, uống một chút không sao, nhưng không ngờ bệnh tình của Phạm Hương lại nghiêm trọng đến mức này.
Trong lòng kích động, Ban lão cha nói không thành lời, ông ta biết lời của Đơn Phi không sai, Phạm Hương không muốn ông ta lo lắng nên mới ra vẻ bình tĩnh.
Đơn Phi khẽ thở dài: - Ban lão trượng nói không sai. Phạm huynh thật sự không xem chúng ta là huynh đệ. Nếu huynh muốn uống thêm vài bát thì hãy để huynh đệ đây nghĩ cách!
Cái gì?
Mọi người nghe vậy thì kinh ngạc, Tương Tư càng không hiểu người thanh niên này sao lại nói thế.
Phạm Hương nhìn thấy sự ấm áp trong mắt Đơn Phi, nén đau cười nói: -Đúng vậy, không biết Đơn huynh đệ có cách nào? Ta vốn cho rằng uống một chút thì không sao cả, nào ngờ bây giờ lại đầu lại đau dữ dội, hận không thể chặt đầu xuống mới được. Nếu đệ không chém đầu xuống, có cách khác để ngu huynh uống thêm mấy ngụm rượu, thì rượu ngon trong nhà ngu huynh mặc đệ uống.
Ông ta tự nhiên là nói chuyện vui đùa, bất luận Đơn Phi có giúp đỡ hay không, thì chỉ dựa vào lời bình của người thanh niên này về tổ tiên ông ta và việc giúp đỡ con cháu Ban thị, Phạm Hương ông ta đã coi Đơn Phi như huynh đệ rồi.
Là huynh đệ, ông ta lúc này mới ra vẻ bình tĩnh cười nói, chỉ mong có thể có ích; là huynh đệ, ông ta mới không chờ đợi quá nhiều ở Đơn Phi, huynh đệ giúp đỡ là tình người, huynh đệ không giúp cũng có chỗ khó của huynh đệ.
Huynh đệ là dùng để hiểu, trước nay không dùng để lợi dụng.
Đơn Phi cười nói: -Một lời đã định. Nếu ta nghĩ ra cách, Phạm huynh cũng đừng tiếc rượu ngon. Trong lúc hắn nói cười, ba ngón tay phải đã đặt lên cổ tay Phạm Hương.
Mọi người kinh ngạc, trong đôi mắt đẹp của Tương Tư cũng lóe lên vẻ khó tin.