Mê tông chi quốc 4: Cửu Tuyền U minh

Chương 1 – NHÀ THÁM HIỂM COROT MAAR

Chương 1 – NHÀ THÁM HIỂM COROT MAAR

Hồi 1 DÃI RỒNG TRƯỜNG SINH


Phía dưới vòng tròn nham thạch gần như là lò nung cao áp, nhưng mãi đến khi hội Tư Mã Khôi lún dần xuống vực sâu theo vỏ ốc Anh Vũ, rồi rơi xuống thâm cốc nằm chìm hẳn vào quyển Manti, họ mới phát hiện mây gió bao quanh thủy thể tạo thành vòng tròn từ trường nằm ở vành đai 30° vĩ Bắc đã giúp họ ngăn cách tuyệt đối với dòng dung nham nóng bỏng và địa áp phía ngoài.
Mọi người không tìm thấy tung tích của Nấm mồ xanh, trước mắt chỉ còn bóng đêm hư vô. Nhờ những đốm sáng yếu ớt do ma sát địa từ ở phía xa phát ra, cả hội nhìn thấy một bóng đen khổng lồ nằm sừng sững trong màn sương mù dày đặc, mọi người liền lấy đó làm vật tham chiếu, di chuyển dần dần từ trên cao xuống rồi tiến về phía trước.
Trong khe núi sâu nấm dại mọc um tùm, vỏ ốc cúc đá lô nhô trên mặt đất, địa hình nhấp nhô cao thấp, nơi lún xuống có nhiều khe nứt, chỉ cần lại gần một chút sẽ cảm nhận luồng hơi nóng như hơi chạy tàu hỏa phả vào cơ thể, trong đó toàn là những hang động pha lê tự nhiên, động nào cũng chứa đầy nước. Nếu lấy đèn quặng soi kỹ sẽ phát hiện những mỏm pha lê nhọn hoắt, sắc lẻm đâm tua tủa như rừng rậm, thật là một cảnh tưởng kỳ lạ đến nỗi khó ai dám tin là thật.
Mọi người đều hết sức ngạc nhiên, nhưng chỉ cần lại gần và dừng lại bên cánh rừng pha lê ẩm ướt, oi nóng lâu thêm một chút là cảm thấy tim đập rất nặng nề, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, quần áo giày dép sũng nước, nên ai nấy đều tranh thủ nghỉ ngơi lấy lại sức và liên tục uống nước để duy trì thể lực.
Tư Mã Khôi thấy pin và cacbua tiêu hao quá nhanh, mà tốc độ di chuyển của cả đội lại quá chậm chạp nên trong lòng lo lắng không yên, nhưng nhất thời anh cũng không nghĩ ra cách gì, chỉ biết than thầm: “Năm xưa Tần Quỳnh gặp nạn phải bán cả ngựa, coi như xui tận mạng, thế mà giờ bọn ta còn không bằng Tần Quỳnh, đừng nói ngựa, ngay cả lạc đà cũng chẳng có nữa là”.
Hải ngọng cũng sốt ruột như kiến bò chảo lửa, nhưng anh vẫn để bụng chuyện lúc trước, nhìn Nhị Học Sinh mà “ngứa mắt trái, đỏ mắt phải”, nhân lúc nghỉ ngơi và lấy thêm nước, anh bĩu môi nói với Tư Mã Khôi: “Thằng mọt sách kia đáng ghét thế không biết, nhìn loại người như cậu ta, tớ lại liên tưởng đến một chuyện”.
Tư Mã Khôi thờ ơ hỏi lại: “Cậu liên tưởng đến chuyện gì?”
Hải ngọng đáp: “Liên tưởng đến nồi cơm to đùng chúng ta vừa nấu chín, sắp được ăn đến nơi thì bị thẳng tiểu tử kia hất cả vốc cát vào. Đúng là đồ thất đức!”.
Nhị Học Sinh tự cảm thấy xấu hổ, nên mặc Hải ngọng châm biếm, bới móc, cậu ta chẳng dám ho he gì, chỉ lặng thinh cúi đầu không đáp.
Cao Tư Dương sợ mọi người lại cãi nhau thêm chập nữa, cô bèn lảng sang chuyện khác, hỏi Tư Mã Khôi xem đã có kế hoạch gì chưa?
Tư Mã Khôi cảm thấy bóng đen trong sương mù rất không lành, nó cao chí ít cũng tới ngàn mét, e rằng tấm bia Vũ Vương không thể cao to dường vậy, có khi nó là dãi rồng từ trong mạch đất chảy xuống cũng chưa biết chừng, bây giờ chỉ còn cách liều mạng đến tận nơi xem rõ trắng đen thế nào thôi.
Hải ngọng hỏi: “Dãi rồng… là cái gì hả Khôi?”
Tư Mã Khôi đáp: “Ngay từ thời Hán Đường, thành Lạc Dương xảy ra một cơn địa chấn dữ dội, cả thôn làng bị sụt xuống lòng đất, duy có một người tên là Vương Nguyên thoát khỏi kiếp nạn, bởi ông ta may mắn gặp được “dãi rồng”.
Nghe nói, Vương Nguyên là người thông thạo huyền cơ, tu đạo, luyện khí, khi mặt đất nứt toác thôn làng sụt xuống, ông ta vẫn đang nằm ngủ trong nhà. Lúc mới bị lún, cả thôn chưa hề hấn gì, người dân trong thôn vẫn gào thét kêu cứu được, nhưng đến lúc sụt xuống tận suối sâu, thì già trẻ gái trai, chó mèo gà lợn trong thôn đều chìm nghỉm trong nước, chỉ mình Vương Nguyên từng luyện huyền thuật mới nổi trên mặt nước và thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, ông ta rơi xuống vực sâu cách mặt đất hàng ngàn trượng, bị dòng nước cuốn trôi vào một hang động rất lớn, đột nhiên ông ta thấy có một con quái xà thò đầu xuống, từ miệng nó chảy ra thứ dịch đen ngòm, thân nằm vắt dọc vách đá, lừng lững như cột đình. Ông ta sợ hãi cuống quýt vòng sang bên tháo chạy, nhưng chưa đi được bao xa thì bụng đói đến nỗi không lê nổi bước chân, đưa tay quờ quạng xung quanh thấy mặt đất toàn là bụi đất rất mịn, mềm nhão, lại còn phảng phất mùi thơm như mùi cám gạo, đang lúc đói vàng mắt, ông bèn nắm một vốc nhét bừa vào miệng, ăn xong thấy quả nhiên giải quyết được cơn đói. Từ đó, ông cứ ăn thứ đó để duy trì sự sống. Ông đi ròng rã suốt ba năm dưới lòng đất mới thoát được ra ngoài. Sau này, ông ta đem chuyện kể cho một vị học giả uyên bác. Vị học giả nghe xong bèn bảo Vương Nguyên, chất dịch dấp dính màu đen là dãi của con rồng già sống trong sông Hoàng Hà nhả ra, nếu uống chất dịch đó sẽ trường sinh bất tử, còn đám bụi đất kia là dãi rồng bị phong hóa biến thành bùn, ăn nhiều đến đâu cũng chỉ có tác dụng no bụng chứ không có hiệu quả siêu việt gì hơn.
Hải ngọng thần người nghe, rồi chép miệng: “Bọn mình mau qua đó xem sao, uống được dãi rồng có khi lại biến thành thần tiên cũng nên”. hoatanhoano.wordpress.com
Cao Tư Dương nói: “Nếu thật có dãi từ miệng con rồng già rớt xuống, thì tôi cũng chẳng dám uống, nghĩ đến đã thấy buồn nôn…”
Thắng Hương Lân đoán: “Dãi rồng dưới lòng đất mà người xưa nói đến, có lẽ là một loại khoáng quặng dạng lỏng nào đó, ăn vào là mất mạng đấy!”.
Ngay từ đầu, Tư Mã Khôi đã cho rằng câu chuyện này vô căn cứ, nhưng anh vẫn kể để trấn an mọi người. Vì trong vực sâu tràn ngập sương khí mịt mù khắp tứ bề, ngoài chiếc bóng mờ ảo kia, thì không tìm thấy bất cứ vật tham chiếu nào khác, nên giờ chỉ còn cách liều chết xông vào, mới mong tìm thấy chút manh mối. Anh quan sát thấy xung quanh vương vãi đầy vỏ ốc cúc đá, ở đây không hề có dấu tích của sự sống nhưng sương khí dưới lòng đất mù mịt, nóng ẩm thế này kiểu gì chẳng tồn tại những vật thể sống khác, tính mạng của các thành viên trong đội có thể bị uy hiếp bất cứ lúc nào. Anh hiểu rõ, chỉ cần lơ là đôi chút là sẽ đi sai cả ván cờ, chỉ cần thiếu cảnh giác đôi chút, là có thể sẽ xảy ra sự cố. Bởi vậy, tuy ngoài miệng anh vẫn nói điềm nhiên, nhưng trong lòng không dám khinh suất chút nào.
Cả hội vừa đi vừa nói chuyện, đi được chừng vài mét, khoảng cách giữa họ với chiếc bóng màu đen ngày càng rút ngắn dần. Cuối cùng, mọi người phát hiện thứ đó không phải dãi rồng, cũng không phải bất kỳ vật thể gì, mà là một cột khói đen. Giống như luồng khói đen bốc lên sau khi thiêu cháy cả thảo nguyên, cột khói được tạo thành từ vô số khói bụi đậm đặc ngưng tụ, tổng thể trông giống hình chóp tròn lộn ngược, càng lên cao thì càng to dần ra, nom tựa một vòm nấm khổng lồ sừng sừng nằm bất động giữa tầng không, con người đứng dưới chân nó trông như những con kiến ngẩng đầu nhìn tán lá khổng lồ.
Hội Tư Mã Khôi cảm thấy nóng bức đến mức không thể chịu được, khói bụi trong bóng tối xộc vào mũi, khiến việc hít thở cũng khó khăn, mỗi người đều tự tìm một mảnh vải ướt che lên mặt, sau đó hạ kính chắn gió xuống, dừng chân quan sát. Mặt đất trước mắt lún xuống tạo thành sườn dốc, cột khói đen được phun ra từ miệng một hang động khá lớn bị sụt xuống, thì ra đó là tàn tích của chiếc tàu ngầm Z-615 bị nguyền rủa. Sau khi rơi khỏi núi từ, nó bị chìm xuống mặt biển mênh mông, xuyên qua thủy thể, rơi xuống lòng vực sâu, đâm thủng cả mặt đất, một nửa cắm trong động, khiến cột khói dày đặc không ngừng bốc cao lên không trung, không khí trên cao khá loãng khiến quầng khói đặc ngưng tụ và lơ lửng giữa bầu trời.
Tư Mã Khôi quan sát hồi lâu, anh cho rằng cột mây hình nấm đáng sợ kia chỉ là vết tích do địa nhiệt dưới lòng đất trào lên còn sót lại, trông đồ sộ đến khiếp nhưng thực ra không có gì khác thường. Đang lúc đi vòng qua đó, anh chợt nghe thấy một tiếng động nhẹ phát ra từ trong xác con tàu. Tư Mã Khôi rất nhạy cảm, chỉ cần gió lay cỏ động cũng lập tức phát giác ra ngay. Anh bật đèn quặng, soi về phía đó thì thấy có một người đang thò đầu chui ra khỏi xác tàu. Kẻ mới đến phát hiện ánh sáng lay động đang soi vào mình, liền vội vàng lẩn vào màn sương đen đang lan tỏa mịt mù.
Ban đầu, Tư Mã Khôi cứ ngỡ đó là Nấm mồ xanh, nên không định cho phép đối phương chạy thoát khỏi tay mình thêm lần nữa. Anh bất chấp cái nóng như thiêu đốt của cột khói đen, lao như tên bắn xuống sườn dốc. Thấy kẻ đó bị khói bụi che khuất, anh bèn thò tay ra túm lấy, không ngờ thân thủ của đối phương cũng hết sức lanh lẹ, hắn nhanh như một con mèo hoang, quay người rồi lăn xuống đất, thoát khỏi tầm tay của Tư Mã Khôi một cách uyển chuyển đến kinh ngạc.
Lúc này, hội Hải ngọng cũng lao đến bao vây, chùm sáng đèn quặng và họng súng nhất loạt chiếu vào kẻ mới đến, buộc hắn phải đứng im tại chỗ.
Khói đen quanh đó khiến tầm nhìn bị giới hạn đến cực độ, Tư Mã Khôi cứ ngỡ mình đã tóm cổ được Nấm mồ xanh, nhưng nhìn kỹ lại qua kính chắn gió, anh thấy kẻ đó đầu đội mũ da, mình khoác tấm áo da dê lộn, cổ đeo chuỗi bánh đả cẩu, hai con mắt gian manh đảo loạn xạ, tuy hắn cũng bịt mặt bằng mảnh vải ướt, nhưng anh vẫn nhận ra, hắn ta không phải cái gã Triệu Lão Biệt mà đáng lẽ phải chết từ nhiều năm trước thì còn ai vào đây?
Tư Mã Khôi vừa kinh ngạc vừa hãi hùng: “Sao lão quái này lại vẫn sống nhe nhởn sau bao phen tử nạn vậy nhỉ? Lẽ nào hẳn uống dãi rồng và trở nên trường sinh bất tử?”
Nhân lúc mọi người đang thẫn người chưa biết xử lý thế nào thì Triệu Lão Biệt đã nhanh như cắt đâm bổ vào Nhị Học Sinh, người duy nhất không cầm súng trên tay, để hi vọng mở đường thoát thân.
Nhưng lần này, Tư Mã Khôi đã đoán trước được hành động của Triệu Lão Biệt, anh lao lên dũng mãnh như con sư tử, quật lão ngã xuống đất, thò tay giật khẩu trang của đối phương.
Tư Mã Khôi ép báng súng vào cổ Triệu Lão Biệt, lúc này nếu muốn kết liễu mạng sống của lão thì dễ như trở bàn tay, nhưng nghĩ lại anh thấy hội anh và Triệu Lão Biệt cũng chưa xảy ra xung đột gì quá đáng, chưa đến mức phải ép đối phương đến bước đường cùng, huống hồ sự việc đến nước này, có giết Triệu Lão Biệt cũng không cứu vãn được tình thế.
Mọi người đứng dưới nấm mây, ai cũng thấy khó thở, biết đây không phải nơi tiện bề nói chuyện, họ liền áp giải Triệu Lão Biệt đến nơi khác.
Hội Tư Mã Khôi vây quanh Triệu Lão Biệt, hai bên đều đang thăm dò đối phương, không ai chịu mở lời trước, cảnh tượng lúc này đúng là “dạ đầy lời mà miệng không nói”.
Cuối cùng, Triệu Lão Biệt không chống đỡ nổi khí thế của đối phương, bèn lên tiếng hỏi Tư Mã Khôi: “Sông không đổi thì núi phải dời, không ngờ chúng ta lại gặp nhau…”, nói xong lão liếc trộm sắc mặt Tư Mã Khôi, rồi tiếp lời: “Vị thủ lĩnh đây thân thủ thật phi phàm, chắc do bậc tiền bối lục lâm cao thủ nào đó truyền thụ phải không, chúng ta tuy không họ hàng thân thích nhưng cùng là người trong giới, đều ăn bát cơm mà sư tổ để lại, các lão gia đi mòn gót khắp cõi trời đất, kết giao với bao nhiêu bằng hữu, ăn hết cơm của thiên hạ, rõ ràng là nhân vật thượng đẳng kiệt xuất, thân phận tôn quý, hà cớ gì phải chèn ép một kẻ biệt bảo hèn mạt như mỗ?”
Tư Mã Khôi nói: “Lão chớ múa mép với tôi, ai chẳng biết thủ đoạn lục lâm chia thành hai loại thượng hạ, thượng gọi là “xuyên thiên”, hạ gọi là “nhập địa”, công phu xuyên thiên là bản lĩnh có thể bay như chim, lượn như én, đi trên mái nhà như giẫm trên đất bằng, lẻn vào nhà trộm của mà quỷ không biết, thần không hay; còn nhập địa là đào huyệt động, bới địa đạo, chuyên làm mấy phi vụ đào mồ đổ đấu. Nhưng bất luận là “xuyên thiên” hay “nhập địa” thì đều không chung một đường với mấy dị thuật biệt bảo nhà lão, nên có nói thuật của tôi và thuật của lão là hai lĩnh vực hoàn toàn khác biệt cũng chẳng có gì quá đáng”.
Cao Tư Dương và Nhị Học Sinh không biết thân phận của Triệu Lão Biệt, hai người cứ ngỡ đó là Nấm mồ xanh, họ không ngờ dung nhan hắn lại đầu gián mắt chuột như thế.
Nhưng Tư Mã Khôi thì rất rõ, Triệu Lão Biệt không phải Nấm mồ xanh, có điều chắc chắn lão ta có liên quan mật thiết với Nấm mồ xanh. Tư Mã Khôi cũng biết rất rõ lão ta gian xảo khó lường, bao quanh lão là vô số những ẩn số không có lời giải, thử hỏi một người rõ ràng đã chết và để lại thi thể ở một nơi, làm sao có thể sống lại và xuất hiện ở một nơi khác?
Nếu tính cả lần này, thì Tư Mã Khôi đã gặp Triệu Lão Biệt cả thảy ba lần, cũng có thể đó là ba người hoàn toàn khác biệt. Người thứ nhất, anh gặp trong nghĩa địa La Sư ở Trường Sa, lần ấy lão ta đi đào viên Lôi công mặc, rồi bị rơi xuống huyệt mộ, bị lửa ma thiêu chết. Người thứ hai anh gặp là kẻ đã tháo chạy khỏi chiếc hộp thời gian, rồi chết trước di chỉ Hắc Môn ở thành cổ Lâu Lan, còn bây giờ lại xuất hiện một Triệu Lão Biệt khác trong vực sâu dưới lòng đất.
Hải ngọng gặp phải sự việc kỳ lạ, đầu óc ngây ra, anh cứ cảm thấy Triệu Lão Biệt là yêu quái hóa thành, phải mau chóng trừ khử lão càng sớm càng tốt.
Tư Mã Khôi đầy dạ ngờ vực, nhưng trong đầu trăm ngàn mối tơ vò, anh không biết bắt đầu hỏi từ đâu, chợt anh nghe Thắng Hương Lân thì thầm bên tai: “Có khi lão ta không phải Triệu Lão Biệt đâu”.
Tư Mã Khôi chợt tỉnh ngộ: “Ừ nhỉ, xem tình hình thì Triệu Lão Biệt xuất hiện ở Hắc Môn và Triệu Lão Biệt trong vực sâu là cùng một người, bởi vì đối phương vẫn nhớ rõ sự việc xảy ra trong chiếc hộp thời gian, nhưng lão ta chưa bao giờ mở miệng thừa nhận mình là Triệu Lão Biệt. Tất cả chỉ là suy đoán chủ quan của mình mà thôi”.
Nghĩ vậy, Tư Mã Khôi liền hỏi thẳng lão: “Tên họ lão là gì, lão từ đâu tới đây?”
Ánh mắt gian manh của lão lóe lên tia xảo trá, khuôn mặt cố nặn ra nụ cười ranh mãnh, lão vòng tay thưa: “Người đi qua không để lại họ tên, không biết Trương Tam, Lý Tứ. Nhạn bay qua không để lại tiếng, không biết xuân hạ thu đông. Chư vị đã có lòng hỏi, thì hôm nay mỗ đành để lại họ tên quý tính ở đây vậy”.


Hồi 2: TRƯỜNG SINH BẤT TỬ


Tư Mã Khôi gặp Triệu Lão Biệt cả thảy ba lần, lần thì gặp lúc lão đã chết, lần thì gặp lúc lão đang sống, lần nọ cách lần kia rất nhiều năm. Nếu dựa vào tử thi của lão trước Hắc Môn ở thành Lâu Lan để suy đoán thì Triệu Lão Biệt mà hội Tư Mã Khôi gặp trong chiếc hộp thời gian cấu kết với đội thám hiểm người Pháp xuống lòng đất ăn trộm bảo vật, có lẽ là những năm Dân quốc, còn Triệu Lão Biệt mà anh gặp ở nghĩa địa La Sư và cùng lão đi đào Lôi công mặc có lẽ là năm 1968 – sau khi Trung Quốc giải phóng, rồi lão chết, hội anh đã chôn thi thể lão trong nghĩa địa hoang. Vậy mà giờ đây, lão lại lần nữa xuất hiện sờ sờ ngay trong vực sâu trước mặt anh, dung mạo không khác gì hai gã Triệu Lão Biệt đã chết trước đây, vẫn cách ăn vận của kẻ lang thang, vẫn bộ dạng lấm la lấm lét của gã biệt bảo tuổi ngoại ngũ tuần, rõ ràng lão là yêu quái trường sinh bất tử.
Tư Mã Khôi không thể lý giải những ẩn sổ thần bí bao quanh con người này, cho dù lão quả thực trường sinh bất tử đi chăng nữa, thì cũng không thể có chuyện đã bị thiêu cháy thành tro bụi mà vẫn có thể tái thế giữa nhân gian thêm lần nữa. Bởi vậy, anh cho rằng, Triệu Lão Biệt mà anh gặp lần lượt ba lần, thực ra là ba con người hoàn toàn khác nhau.
Ai ngờ, vừa nghĩ vậy, liền nghe Triệu Lão Biệt nói: “Mỗ quê ở Quan Đông, là con cả, cha mẹ sớm qua đời, nên chẳng ai đặt tên họ đàng hoàng cho cả, sau này theo sư phụ học nghề biệt bảo. Sư phụ mới đặt cho mỗ cái tên Triệu Lão Biệt”.
Tư Mã Khôi và Hải ngọng nghe xong, liền đánh mắt nhìn nhau, cảm thấy da gà nổi hết toàn thân, sự việc đang diễn tiến theo chiều hướng quái dị nhất – cả ba lần họ gặp, đều chỉ là một người, chính là Triệu Lão Biệt.
Hải ngọng cứng lưỡi một lúc, mới nhắc Tư Mã Khôi: “Tớ biết rồi, nói không chừng dưới gầm giường nhà lão quái này có chồn tinh ẩn trốn đấy…”
Những người khác nghe vậy đều ngơ ngác không hiểu, chỉ duy Tư Mã Khôi là hiểu ý Hải ngọng muốn ám chỉ điều gì. Năm đó, khi hai người vẫn lang thang ở khu Hắc Ốc, họ từng nhiều lần nghe người ta kể một câu chuyện quái dị:
Không ai nhớ rõ câu chuyện xảy ra vào triều đại nào, chỉ đoán có lẽ là thời tiền Thanh, trong thôn có nhà họ Khuyết, hai vợ chồng mưu sinh bằng nghề đốn củi, làm ruộng, cuộc sống tuy đạm bạc nhưng đôi vợ chồng trẻ rất yêu thương nhau, tính tình nhân hậu, biết giữ trọn đạo trước sau, bởi vậy ngày tháng họ ở bên nhau rất thoải mái, vui vẻ.
Hai vợ chồng chỉ sinh hạ được một mụn con trai, đứa bé vừa ra đời đã có đôi tai rất lớn, vừa dày lại vừa rủ xuống, hai vợ chồng mừng lắm, luôn miệng khoe với mọi người: “Con trai tôi có tướng Phật, sau này chắc chắn hưởng phúc thọ mãi không hết cho mà xem”. Thế là, họ đặt tên con trai là Phúc Nhĩ.
Nhưng sau này, có ông thầy tướng số xem xong lại phán: “Đứa trẻ này tai to nhưng vô phúc; hai tai phải dày vuông mới là bậc quý nhân, tai dày phúc dày, tai mỏng phúc mỏng; tai vừa to, vừa tròn là bậc anh minh, hiền tài; hai tai nhọn thì vất vả cả đời; hai tai dính vào đầu, sẽ phú quý đến già; nhìn thấy mặt mà không nhìn thấy tai là tướng đại phú đại quý”.
Theo tướng pháp mà giang hồ lưu truyền, điều này có nghĩa là vành tai của con người không được thò ra và hướng về phía trước, mà phải ép về hướng sau gáy mới là tướng có phúc. Người ta thường nói: “Hai tai đón gió, bán cả đất chôn thây”, bởi vậy trước đây có nhà mê tín, thường ép vành tai của đứa trẻ sơ sinh về phía sau lúc nó đang ngủ, để đề phòng tai đứa trẻ biến thành tai đón gió bán cả đất đai vườn tược của tổ tông để lại, đợi khi đứa trẻ dần dần luyện được thói quen tự ép tai mình về phía sau, thì họ không cần để ý đến nó nữa.
Ông thầy bói coi tướng cho Phúc Nhĩ, thấy hai tai cậu bé trên mỏng dưới dày, hai bên thò ra trước, thì phán thằng này có tướng nghịch tử, dẫu muốn thay tướng đổi mạo cũng đã muộn.
Hai vợ chồng họ Khuyết không những không tin, mà còn bực mình đuổi ông thày tướng số “thối mồm” ra khỏi nhà. Từ đó về sau, họ càng ngày càng cưng chiều Phúc Nhĩ, từ bé đến lớn nó chỉ biết mở miệng thò tay đòi cơm, không cần làm bất cứ việc gì, suốt ngày lêu lổng, lớn lên gã lại học đòi thói lừa tiền, chơi gái, khiến người cha giận quá thổ huyết mà chết.
Phúc Nhĩ không những không thấy đau lòng và hối hận, mà còn ngỗ ngược hơn trước, gã bán hết cả điền sản của gia đình, lại còn trộm gà cắp chó của thiên hạ. Một lần, Phúc Nhĩ bị người ta kiện lên nha môn, nên đành trốn vào trong núi, giữa đường gã gặp đám người dân tộc Miêu đen chuyên nuôi trùng luyện thuật. Thế là gã theo họ lang thang kiếm cơm ở vùng giáp ranh giữa hai tỉnh Quý Châu và Hồ Nam. Mấy năm sau, tên này lại trở về quê hương bản quán, về đến nhà, gã không những chẳng hồi tâm chuyển ý, biết nghĩ đến chuyện hiếu thuận với mẹ già, mà lại càng tác oai tác quái giết người, cướp của. Con gái nhà ai đen đủi bị gã nhắm trúng, gã sẽ xông thẳng tới cưỡng hiếp ngay lúc ban ngày ban mặt, ai dám kháng cự, gã liền cho một nhát ngay. Tên Phúc Nhĩ còn điên cuồng độc ác hơn cả lũ sơn tặc thảo khấu.
Trộm nghĩ ngay trước cổng vương pháp, làm gì có đất cho gã lộng hành, quả nhiên chuyện của gã đã kinh động đến quan phủ. Quan phủ sai nha dịch đến bắt Phúc Nhĩ, áp giải lên công đường. Ai ngờ, gã ngang nhiên thừa nhận tội trạng và nhanh chóng bị mang ra xử tội. Người ta áp giải gã đến giữa phố chém bay thủ cấp, dân chúng ai cũng vô tay khen quan phủ hành động mau lẹ. Nào ngờ, ngay ngày thứ hai sau khi bị hành hình, người ta lại thấy gã nhởn nhơ đi trên đường phố và vẫn gây tội ác khắp nơi.
Quan phủ đương nhiên cũng không thể yên lặng đứng nhìn, ngài lại lần nữa bắt gã về chấp pháp, nhưng bất kể cái đầu của Phúc Nhĩ bị chặt bao nhiêu lần, thì hôm sau người ta lại thấy gã vẫn nghênh ngang đi trên phố, vẫn sống nhe nhởn như chưa từng bị chết. Dân chúng bách tính hoang mang sợ hãi, không hiểu gã là quái vật phương nào, đành để hắn giương oai diễu võ, không ai dám làm gì gã.
Cuối cùng, người mẹ già của Phúc Nhĩ không cam tâm nhìn con trai mình tiếp tục gây tội ác tày đình nữa, bà đành vì đại nghĩa mà ra tay cắt bỏ máu mủ ruột già. Bà mẹ đau khổ chạy đến nha môn bẩm báo với quan phủ, nói thằng con bất hiếu này trước đây từng luyện yêu thuật trong núi sâu, dưới gầm giường chôn giấu “táng hồn đàn”, tuy thân xác bị hành hình cắt thủ cấp trên pháp trường để thị uy dân chúng, nhưng chẳng bao lâu sau một con người mới sẽ mọc ra từ trong “chiếc hũ giấu hồn”.
Quan phủ bán tín bán nghi, lập tức sai người đến nhà gã đào bới, quả nhiên thấy một cái hũ đen sì sì, hình dáng giống như chiếc hũ đựng xương cốt, ông bèn cho người đập tan ngay tại chỗ, sau đó ra lệnh bắt Phúc Nhĩ áp giải lên pháp trường, thi hành án lăng trì tùng xèo, rồi nghiền xương thành tro vụn, tung rắc khắp nơi. Từ đó về sau, không thấy sự lạ yêu quái chết đi sống lại tiếp tục xảy ra nữa.
Chuyện này không được ghi chép trong sử sách, chỉ là người này truyền miệng cho người kia mà thôi. Tư Mã Khôi cũng không biết bên trong “táng hồn đàn” rốt cuộc là thứ quỷ quái gì. Anh thấy Triệu Lão Biệt sau mỗi lần chết đi thì lại sống dậy như chưa bao giờ chết, giống y đúc gã Phúc Nhĩ trong truyền thuyết ly kỳ thời xưa.
Tư Mã Khôi không tin trên thế giới này có cái gọi là “táng hồn đàn”, nó hoang đường giống như “đỉnh tụ bảo”. Tương truyền cuối thời Nguyên, đầu thời Thanh, có một người vô cùng giàu có, tên là Thẩm Vạn Tam, của cải nhà ông ta chất cao như núi, ăn mãi không hết, ông ta lấy đâu ra lắm tiền thế? Nghe nói, lúc chưa phát tài, trên đường về nhà, Thẩm Vạn Tam vô tình gặp một người dân quê bắt được rất nhiều ếch ở ven hồ, và đang mổ bụng moi ruột tại trận, máu me nhuốm đỏ một khoảng đất. Thẩm Vạn Tam không nỡ nhìn cảnh này, bèn móc hầu bao trả tiền để mua mấy trăm con ếch còn lại, sau đó phóng sinh chúng xuống dưới hồ. Một buổi tối nọ, ông ta lại đi ngang qua cái hồ đó, bỗng nghe thấy bầy ếch kêu ra rả, từ dưới hồ trồi lên một chiếc đỉnh cổ, vứt một đồng vàng vào trong đỉnh, sẽ lập tức biến thành hai đồng. Thẩm Vạn Tam thấy vậy nảy lòng tham nên đã chiếm cái đỉnh này làm của riêng, gia tài khổng lồ của ông ta về sau đều nhờ chiếc đỉnh này mà có. Sau này, toàn bộ gia tài nhà Thẩm gia đều bị Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương tịch thu, Thái Tổ bắt họ Thẩm phải cống nạp chiếc đỉnh thần kỳ này. Chu Nguyên Chương hỏi Lưu Cơ Lưu Bá ôn xem vật này là vật gì, thì được trả lời, đây là đỉnh “tụ bảo”, tức là chiếc đỉnh nhả tiền, hậu thế thường gọi là “chậu nhả tiền”, nếu người sống rơi vào trong đó, sẽ lôi ra được hai người giống nhau như đúc.
Tư Mã Khôi cũng thầm đoán, chẳng lẽ Triệu Lão Biệt vô tình rơi vào đỉnh “tụ bảo”, vì vậy trên đời này mới có nhiều người giống nhau như đúc đến vậy? Nhưng đỉnh “tụ bảo”, “táng hồn đàn” và “trường sinh bất tử”, ba khái niệm này đều không hoàn toàn giải thích được trường hợp của Triệu Lão Biệt. Những bí mật trên người lão ta e rằng chỉ một mình lão mới biết rõ mà thôi.
Tư Mã Khôi thầm cân nhắc, thấy khó mà xếp Triệu Lão Biệt vào phe ta hay phe địch, không thể nói rõ lão ta là tà phái hay chính phái, chỉ có thế nói lão ta là “kỳ nhân”, từ đầu đến chân cất giấu bao nhiêu ẩn số, lão đứng giữa hai chiến tuyến “đội khảo cổ” và “Nấm mồ xanh”. Tư Mã Khôi biết rõ Triệu Lão Biệt là người gian xảo, không thể tin hoàn toàn những gì lão nói, nhưng cũng không thể không hỏi cho rõ đầu đuôi. Thế là, anh bảo mọi người đừng nói gì nữa, tránh lỡ miệng tiết lộ cơ mật. Hãy để Triệu Lão Biệt kể rành mạch về gốc gác của lão ta, đợi tới khi làm rõ được chân tướng sự việc sẽ hậu xét.
Triệu Lão Biệt thấy không thể thoái thác được nữa, bèn múa mép chống chế: “Chư vị anh hùng đã hỏi, thì mỗ đây cũng xin thưa. Cái nghề biệt bảo của mỗ đúng là phải dựa vào bản lĩnh thực sự mới kiếm được miếng ăn, mắt phải nhìn tinh, miệng phải thử chuẩn, năm châu bốn bể chỗ nào cũng nhào vô, sóng gió vạn trượng nơi nào cũng không tha…”
Hải ngọng ngứa ruột hừ giọng: “Lão còn dám nói thêm một câu thừa nữa, tôi sẽ bẻ từng cái răng một đấy. Không tin tôi và lão cứ thử là biết ngay”.
Triệu Lão Biệt sợ so vai lại, khúm núm nói: “Tại mỗ không biết trời cao đất dày, mong vị hảo hán lượng thứ… nhưng… các vị muốn lão nói điều gì mới được chứ?”
Hải ngọng nghiến răng, quắc mắt quát: “Lão có thành tâm muốn nói không thế hả? Muốn lão nói gì, tự bản thân lão cũng không hiểu à? Chẳng lẽ lại đợi tôi phải mở mồm hỏi? Đầu tiên, mau khai ra lão lén lút chạy đến chỗ này làm gì!”
Triệu Lão Biệt nhăn mặt kể lại chuyện mình vừa trải qua. Lão bảo mình cũng bị nhốt trong vực sâu, thấy trong sương mù có vật gì rơi xuống, bèn chạy đến xem, phát hiện có một con tàu bằng sắt lún xuống đây, khiến khói đen trong lòng đất phun lên cao cả vạn trượng. Lão vẫn nhớ chuyện mình bị nhóm người này truy kích trong sa mạc thành Lâu Lan, chẳng ngờ oan gia ngõ hẹp, đôi bên lại gặp nhau ở chỗ này. Triệu Lão Biệt như chim sẻ sợ cành cong, thấy tình thế có vẻ không ổn bèn quay người định chuồn. Những chuyện xảy ra sau đó thì mọi người đều biết cả rồi.
Hải ngọng càng nghe càng điên tiết: “Lão chết tiệt này nói thế cũng bằng không, lão định qua mặt Hải ngọng ông như qua mặt một thằng ngốc đấy à? Hôm nay không vặn từng cái răng của lão thì không xong…”
Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng hỏi không ra đầu ra đũa, bèn giơ tay ngăn lại, rồi quay sang hỏi Triệu Lão Biệt: “Tôi và lão chẳng nuôi thù kết oán gì với nhau, nhưng chuyện của lão vô cùng quan trọng với bọn tôi. Bởi vậy, hôm nay lão phải kể rành rẽ tất cả mọi việc cho bọn tôi nghe. Đừng hòng qua quýt che mắt bọn tôi. Hãy nói hết ra, ví dụ lão từng gặp ai, luyện công phu gì, kiếm được những báu vật gì, trải qua những sự việc gì, đã đi đến những đâu… Lão mau khai báo tuốt tuột ra cho tôi!”.
Triệu Lão Biệt nói vẻ khó xử: “Vị thủ lĩnh đây cũng là người từng trải giang hồ, chắc cũng hiểu bắt người ta kể chân tướng sự thật khác gì đòi đào mả bố người ta lên. Nom các vị nai nịt thế này, phải chăng là đến đây tìm… tấm bia Vũ Vương? Tuy Triệu Lão Biệt mỗ bất tài, nhưng cũng nguyện giúp các vị một tay”.
Mọi người nghe lão nói mà lặng cả người. Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân đồng thanh hỏi: “Lão biết bia Vũ Vương dưới vực sâu thật sao?”
Triệu Lão Biệt thấy mình nói trúng tim đen, bèn giả bộ vòng vo: “Nói vậy cũng không phải, mỗ chỉ biết tí chút thôi”.
Hải ngọng sốt ruột hỏi dồn: “Thế lão có biết bia Vũ Vương là cái gì không?”
Triệu Lão Biệt gật đầu: “Đương nhiên là biết chứ…”
Hải ngọng tò mò: “Rốt cuộc nó là vật gì?”
Hội Tư Mã Khôi nín thở tập trung, tất cả mọi người đều chăm chú nhìn Triệu Lão Biệt, ai cũng muốn nghe xem rốt cuộc lão sẽ nói gì.
Nhưng Triệu Lão Biệt chỉ thủng thẳng:“Tấm bia đó chẳng phải phiến đá khổng lồ hay đặc biệt gì, nó không khác gì các tảng đá bình thường trên núi. Nếu không người ta đã chả gọi nó là bia đá. Bia đá ấy mà, vốn dĩ chỉ là một tảng đá, không phải vàng, cũng không phải ngọc”.
Hải ngọng nổi giận lôi đình, túm cổ Triệu Lão Biệt mắng: “Tiên sư thằng già, tao thấy mày chán sống rồi thì phải!”
Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt cố tình nói loanh quanh, thì cũng thấy ghét không chịu được, anh liền ra hiệu bảo những thành viên còn lại cứ cho lão nếm mùi đau khổ, không cần can ngăn, để mặc Hải ngọng dạy lão một bài học.
Triệu Lão Biệt bị Hải ngọng hành hạ một hồi, quả nhiên nhũn như con chi chi, không dám khoe khoang kiến thức nữa. Lão nói: bia Vũ Vương quả thực chỉ là một hòn đá rất đỗi bình thường, câu lão nói khi nãy hoàn toàn là sự thật. Tuy hòn đá nào cũng giống nhau, nhưng mỗi hòn lại có một số mệnh khác nhau, cũng giống như con người vậy. Nếu ta lột sạch quần áo của gã ăn mày trên đường phố và hoàng đế ngồi ngất ngưởng trên ngai vàng ra, thì hai người chẳng qua chỉ là hai cơ thể với lớp da bọc lấy khối máu thịt. Bởi vậy mới nói người và người đâu có gì khác biệt. Chết đi cũng chỉ vùi thân dưới ba tấc đất, mục rữa rồi để bọn giun dế làm tổ. Nhưng vì sao hoàng đế lại ngồi trên vạn người, muốn bao nhiêu thê thiếp được bấy nhiêu thê thiếp? Còn ăn mày thì phải sống dưới đáy cùng của xã hội, cả đời chịu cảnh đói rét? Đó là vì số mệnh của hai người đó không giống nhau, họ cùng phận mà không cùng mệnh.


Hồi 3: SỐ MỆNH LÀ DÒNG SÔNG THẦN BÍ

Mọi người nghe Triệu Lão Biệt nói thì đều cảm thấy rất mông lung: “Số mệnh của con người đúng là trăm người trăm vẻ, nhưng hòn đá thì làm sao có số mệnh được?”
Thắng Hương Lân suy đoán: “Có lẽ Triệu lão sư phụ muốn nói – mọi sự vật trên đời đều có cơ duyên riêng của nó… ”
Tư Mã Khôi nói: “Cho dù hòn đá có số mệnh, thì nó vẫn chỉ là một hòn đá, tấm bia Vũ Vương chìm xuống vực sâu sao có thể chỉ là một hòn đá bình thường được?”
Triệu Lão Biệt thấy mọi người vẫn chưa hiểu chuyện, liền bảo: “Thế thì nói thế này vậy, chư vị đều là những người đi nhiều biết rộng, chắc hẳn biết Đường Thái Tông Lý Thế Dân chứ hả? Sau khi chết, Thái Tông hoàng đế được an táng ở Chiêu Lăng, trên mặt đá của điện thờ chạm khắc hình sáu con chiến mã. Đó đều là những con chiến mã ngài từng cưỡi lúc sinh thời, chỉ vỉ sơn lăng của Thái Tông được gọi là Chiêu Lăng, nên bức phù điêu sáu con tuấn mã được đặt tên là ‘Chiêu lăng lục tuấn’, sáu con tuấn mã đó lần lượt là Táp Lộ Tử có công cửu giá, Bạch Đề Ô ngày đi ngàn dặm, Quyền Mao Oa thiên mã hạ phàm, Thanh Truy động tác uyển chuyển như dải lụa trắng, Thập Phạt Xích tuấn mã huyết thống Ba Tư, Đặc Lặc Phiêu phi nhanh như gió.
Thực ra, phiến đá có khắc ‘Chiêu lăng lục tuấn’ chỉ là một phiến đá bình thường, trong núi có biết bao phiến đá như thế, nhưng vì trên bề mặt nó chạm khắc kiệt tác, nên nó mới trở thành báu vật, người nào nhìn cũng thèm muốn, kết cục nó bị một bọn trộm mộ để mắt tới, chúng đập nát điện, cất nó trong hòm, rồi cho lên tàu vượt biển sang hợp chủng quốc Hoa Kỳ”.
Triệu Lão Biệt còn nói thêm. Lúc bọn trộm mộ hủy hoại ‘Chiêu Lăng lục tuấn’, chính mắt lão cũng trông thấy, các cậu nói xem trên đời này có biết bao tảng đá, sao có những tảng đá đứng trơ gan cùng tuế nguyệt hàng ngàn vạn năm, rồi bị phong hóa mủn nát trên núi mà mãi mãi không có ai ngó ngàng tới, trong khi đó có những tảng đá lại được người ta lựa chọn làm tấm bia khắc ‘Chiêu Lăng lục tuấn’? Nói đến cùng chẳng phải đều tại chữ ‘mệnh’ thôi sao? ‘Mệnh’ nói một cách đơn giản thì chỉ mỏng như lớp giấy dán cửa sổ, còn nói sâu hơn thì nó là vực sâu như biển cả không nhìn thấy đáy.
Hải ngọng bừng bừng lửa giận, ngoạc mồm ra mắng: “Bọn khọm Tây quả là đáng ghét, nẫng hết hàng tốt mà tổ tông chúng ta để lại, trách gì năm đó nổi dậy loạn Nghĩa Hòa Đoàn, thử hỏi không nổi dậy liệu có thành công không? Lúc đó mà ông đuổi kịp thì ông đã đẩy đường sắt, nhổ cột điện hất tung mẹ tàu chúng nó xuống biển cho rồi”.
Triệu Lão Biệt vội chối bay chối biến: “Nói gì thì nói mỗ đây ít nhiều vẫn là người có thực lực, người ta có câu ‘thà chết cũng không khai, thà đói cũng không làm giặc’, nghề vớ vẩn gì mà chẳng kiểm nổi hai bữa cơm nhạt qua ngày, sao phải đi làm cái việc hạ tiện sớm tối hầu hạ bọn chó đó?”
Tuy Tư Mã Khôi cũng phản cảm với lối nói chuyện mập mờ của Triệu Lão Biệt nhưng trong lòng anh cũng đôi chút cảm nhận được hàm ý giấu phía sau – số mệnh giống như một dòng sông thần bí, không ai biết nó sẽ đưa ta đến đâu, con đường phía trước của hội anh cũng đầy rẫy những điều chưa biết. Nhưng cuối cùng anh cũng hiểu Triệu Lão Biệt muốn nói gì, bia Vũ Vương chẳng qua chỉ là một phiến đá lớn, bản thân nó không hề có điểm gì đặc biệt, dòng chữ khắc trên tấm bia cổ đó mới là điều then chốt, nhưng trên phiến đá cùng lắm cũng chỉ khắc mấy hàng chữ “long ấn triều Hạ” đã thất truyền từ lâu chứ mấy, thực sự không thể tưởng tượng được mấy ký tự cổ đại đó có thể phát huy được tác dụng gì.
Tư Mã Khôi đành tiếp tục truy vấn Triệu Lão Biệt: “Lão có biết trên tấm bia Vũ Vương ghi chép bí mật gì không?”
Triệu Lão Biệt gật đầu đáp: “Vị thủ lĩnh đây nói rất chính xác, trước đây mỗ không biết, nhưng bây giờ thì đã hiểu rồi”.
Trong khoảnh khắc, tim mọi người như thắt lại, họ đều đợi để nghe Triệu Lão Biệt nói ra bí mật trên tấm bia Vũ Vương.
Triệu Lão Biệt ra vẻ thần bí nói: “Chúng ta bèo nước tương phùng, duyên phận cũng khá sâu đậm, các vị đã muốn hỏi bí mật khắc trên tấm bia đá kia rốt cuộc là gì, thì mỗ cũng xin nói thật vậy, các vị nghe đây…”
Cả hội không thể tưởng tượng nổi một phiến đá khổng lồ bị chìm dưới vực sâu từ mấy ngàn năm trước có thể ghi chép lại bí mật kinh thiên động địa gì, giờ phút này, lòng hiếu kỳ của mọi người đã dãn ra đến cực điểm, ai nấy đều nín thở lắng nghe như thể chỉ sợ lọt mất chữ nào. hoatanhoano.wordpress.com
Triệu Lão Biệt vốn không muốn tiết lộ bí mật với đối phương, nhưng bị đẩy vào thế bí, lão lên gân lên cốt nói: “Bí mật này đúng là chuyện động trời, các vị nói nó là thế nào thì nó chính là thế ấy… nghĩ nó là thế nào thì nó chính là thế ấy!”
Hải ngọng ngứa ruột, phăm phăm lao vào lão, rút dao săn ra, định đẽo Triệu Lão Biệt thành “cây gậy người” luôn một thể.
Tư Mã Khôi thấy tuy xung quanh lai lịch của Triệu Lão Biệt có nhiều điều ly kỳ, nhưng lão ta chẳng qua chỉ là hạng ít học, mở miệng ra là thở toàn khẩu ngữ giang hồ, lời lẽ thô kệch, muốn lão giải thích rõ ràng mọi bí mật cổ xưa ẩn chứa trong tấm bia Vũ Vương còn khó hơn lên trời, dẫu sao mọi người đã xuống tận đáy vực sâu, kiểu gì cũng nghĩ được cách tìm thấy tấm bia cổ, trước mắt phải xác định chính xác lai lịch của lão đã. Nghĩ vậy, anh bảo đối phương trình bày cặn kẽ từ đầu chí cuối xem lão “đã gặp những ai, học những công phu nào, biệt bảo được những báu vật gì, trải qua những sự kiện nào, từng đi đến đâu, vì sao lại xuất hiện ở dưới lòng đất này – nơi mà con người không thể đặt chân tới và biết bí mật của tấm bia Vũ Vương qua nguồn thông tin nào?”
Triệu Lão Biệt cũng biết tiếc mạng sống, mắt thấy không thể tiếp tục che đậy được nữa, lão đành khai ra thân thế của mình: Triệu Lão Biệt có cuốn bí thuật biệt bảo gia truyền, ngoài cặp mắt tinh như cú vọ phân biệt được mọi báu vật trên đời, lão còn biết chút ít về mấy món công phu “miêu thoán cẩu thiểm”(1). Ngoài ra, lão luyện cả khí công, từ trước đến giờ chưa bao giờ bị ảnh hưởng bởi sự nóng lạnh của thời tiết. Trời nóng bức bao nhiêu, lão vẫn mặc áo da như thường, có điều lão ta quanh năm chỉ quanh quẩn khai hoang trồng cấy ở vùng nông thôn, chưa bao giờ được ra ngoài mở mang tầm mắt, cũng chưa đi đâu xa quá cổng làng.
1 Miêu thoán cẩu thiểm: nghĩa là “chó chui mèo lủi”.
Triệu Lão Biệt là hạng người ếch ngồi đáy giếng điển hình, cùng lắm cũng chỉ thấy bầu trời rộng bằng lòng bàn tay, lúc nào cũng nghĩ ta đây tài giỏi lắm. Đến những năm Dân quốc, cả nước lâm vào nạn đói, người dân ở nông thôn chết đói như ngả rạ, lão đành bươn trải ra ngoài tìm kế mưu sinh, nhưng lúc đó thế thời đang loạn lạc, lão không thể tìm thấy báu vật trong thành, trong khi ngoài thành thì nhan nhản bọn ngựa vang(2), giặc đất, chỉ bất cẩn một chút là mất mạng như chơi. Có câu “Hổ đói chặn đường vồ người, người đói ra đường mãi võ”, lão cũng bày đại mấy gánh hàng, diễn thử mấy chiêu, nhưng chuyện đời ăn cần tiền, ở cũng cần tiền, trên có mái nhà, dưới có nền nhà, chi phí cống cho quan viên và giang hồ đều phải nộp đủ, lão lại chỉ biết mấy chiêu nhà quê, chẳng có mấy người cam tâm móc túi bỏ tiền xem lão diễn. Cuối cùng hết cách, lão đành hạ quyết tâm làm giặc đất.
Những năm đó, tuy cả gầm trời đều loạn thành mớ bòng bong, nhưng giới giang hồ vẫn duy trì giới luật nghiêm ngặt. Người ta vẫn bảo “đất có thổ công sông có hà bá”, thổ công hà bá đã không gật đầu thì đố dám chen chân nhập bọn, mà nếu đánh lẻ thì ngặt nỗi thổ không thông, người không quen. Xưa có câu rất chí lý “ làm ăn không đắc địa, chỉ tổ rước cục tức vào thân”, Triệu Lão Biệt đương nhiên cũng thấu hiểu đạo lý này, lão cảm thấy tốt nhất nên tìm một “bóng tùng” để nương tựa, bởi rốt cuộc lưng có dựa gốc cây thì thân mới mong mát mẻ. Cái gốc cây to nhất lúc ấy tất nhiên là Thường Thắng Sơn. Nghĩ vậy, Triệu Lão Biệt liền đến bái kiến thủ lĩnh, thắp hương xin nhập hội, nào ngờ tên thủ lĩnh đó lại trông mặt mà bắt hình dong, thấy Triệu Lão Biệt quê mùa một cục nên không mấy coi trọng.
2 Ngựa vang: chỉ dân cướp đường.
Triệu Lão Biệt thấy mình bị người ta coi thường thì tức nổ ruột, nghĩ thầm: “Bàng Thống thời Tam quốc tuy hình dáng xấu xí bé nhỏ, không đạo mạo cốt cách như Gia Cát Lượng, nhưng tài năng thì chẳng kém cạnh gì, thế mà lúc đầu gặp mặt, Lưu Bị cũng có ý xem thường ông ta. Con người trên cõi đời này đa phần đều là hạng mắt thịt dung tục, chỉ biết coi bì tướng chứ đâu biết coi cốt tướng, sao hiểu được khí chất anh hùng?”
Triệu Lão Biệt tự ái, lão liền quyết định bỏ đi xa một mạch đến tận Tân Cương. Chặng đường này bám đầy phong trần bụi bặm, lão càng lúc càng đi xa dần về phía tây, càng đi xa bóng người càng thưa thớt. Lão không biết đường đi lối lại, cũng không biết mình đang đến huyện nào, tỉnh nào. Một ngày nọ, lão hành hương đến một nơi, nơi ấy vô cùng hoang vắng lạc hậu. Không biết bao năm rồi chưa có người lạ bước chân vào trong thôn, dân chúng trong vùng không hề biết thế giới bên ngoài đã thay vua đổi chúa từ lâu, họ cứ ngỡ người đang an tọa trên ngai vàng giữa đất kinh thành vẫn là vua Càn Long.
Triệu Lão Biệt không ngờ ở đây lại có nơi vắng vẻ dường vậy, lão định đi nhanh để kịp tìm nơi tá túc trước khi trời tối, nhưng suốt chặng đường chỉ thấy bãi hoang nối tiếp sa mạc, phía trước không thấy làng bản, phía sau không thấyquán trọ, mây đen che khuất ánh trăng, đêm khuya vô cùng tĩnh mịch, lão thu hểt can đảm bước về phía trước, bỗng lão nghe thấy phía sau văng vẳng “sột soạt”.
Triệu Lão Biệt dừng bước, chiếu cặp mắt mèo quan sát xung quanh thì phát hiện có một con chó rất lớn đang bám theo mình. Con chó mặt xanh nanh vàng, nó trừng cặp mắt xanh lục, sáng quắc như đèn pha, thè cái lưỡi đỏ au như máu, ngoác mồm nhe răng hướng thẳng về phía Triệu Lão Biệt. Triệu Lão Biệt cuống quýt xua tay, miệng suỵt suỵt, hòng đuổi con chó hoang đi chỗ khác. Nào ngờ, con chó hung dữ lao đến cắn xé điên loạn chiếc áo da của lão. Triệu Lão Biệt cậy mình có tí võ, thò tay rút ra cái tẩu thuốc lớn vẫn giắt ở thắt lưng, gõ mạnh vào đầu con chó dữ. Phía đầu tẩu thuốc của lão bịt nắp đồng rất nặng, gõ vào đầu đảm bảo phải nổi một cục to bằng quả ổi. Con chó đau quá, kêu “ăng ẳng” rồi co mình lại, nhưng vẫn dai dẳng bám theo lão không chịu buông tha. Tiếng kêu của nó như thể tiếng gọi đồng loại. Lát sau, Triệu Lão Biệt thấy càng lúc càng nhiều chó đến hơn.
Triệu Lão Biệt cuồng loạn chân tay, vừa ra sức gõ loạn xạ đầu tẩu thuốc, vừa co cẳng chạy nhanh về phía trước, nhưng bầy chó hoang quá dữ tợn, chúng xé nát cả chiếc áo da khoác bên ngoài, vai và bắp chân của lão đều bị thương. Đang lúc nghĩ bụng chắc phen này không thể trụ thêm được nữa, bỗng lão thấy phía xa có mấy đống lửa, thế là lão vừa lăn vừa bò đến đó. Mấy con ác cẩu thấy ánh lửa thì không dám đuổi theo nữa.
Đám lửa đó là điểm hạ trại của một đoàn ngựa, đứng đầu là mấy người Pháp, họ dẫn theo nhóm thổ tặc vào sa mạc khai quật xác khô để vận chuyển ra nước ngoài triển lãm. Lúc ấy, trời đang lúc canh khuya, mấy người Pháp thấy toàn thân Triệu Lão Biệt bê bết máu, chạy gấp đến nỗi thở chẳng ra hơi, họ rất đỗi ngạc nhiên, vội vàng gọi phiên dịch đến hỏi xem đã xảy ra chuyện gì.
Triệu Lão Biệt thở hồng hộc nói: “Đừng hỏi nữa, đây rốt cuộc là đâu? Sao nhiều chó thế? Mà toàn là chó hoang, chưa bao giờ tôi thấy loài chó dại nào lại hung dữ thế này, lỡ bị nó cắn thì thực không phải chuyện chơi, gõ vỡ đầu mà nó vẫn không chịu nhả mõm ra…”
Mấy người Pháp và bọn thổ tặc đi cùng, nghe lão nói mà trố mắt nhìn nhau. Ở hoang mạc này lấy đâu ra chó hoang, chắc chắn người này vừa bị một đàn sói bao vây rồi! Lão ta ăn gan hùm mật gấu hay sao mà dám một mình chạy lung tung giữa hoang mạc trong khi thân không găm súng, tay không mang đuốc như vậy?
Ở rừng già núi sâu vùng Quan Đông cũng có sói, nhưng phần lớn chúng chỉ xuất hiện đơn độc, đặc điểm hình dáng cũng hơi khác với sói sa mạc. Nghe mọi người nói vậy, Triệu Lão Biệt mới hãi hùng nhận ra, không ngờ khi nãy mình gặp phải sói, nghĩ lại vẫn thấy dựng hết tóc gáy.
Tay cầm đầu đội thám hiểm Pháp thấy Triệu Lão Biệt một mình mở đường máu phá được vòng vây của bầy sói, thì nghĩ thầm người này chắc chắn phải có bản lĩnh xuất chúng. Sau này, cuốn cổ tịch biệt bảo lấy trộm được trong lăng tẩm vua Chăm Pa cũng là của tay đội trưởng người Pháp đó tặng cho lão. hoatanhoano.wordpress.com
Năm Dân quốc 15, đội thám hiểm người Pháp nghe nói phía dưới di chỉ Hắc Môn ở thành cổ Lâu Lan có chôn giấu bảo vật. Khi ấy, Triệu Lão Biệt đã lăn lộn khắp vùng sa mạc Gobi ở Tân Cương khá lâu, lão rất rành địa phận vùng này, bởi thế lão dẫn đội thám hiểm Pháp tiến vào Lopnor tìm kiếm di tích cổ Lâu Lan. Giữa đường, bọn họ gặp bão cát, Triệu Lão Biệt bị lạc khỏi đội thám hiểm, bão cát tung bay mịt mù, tối tăm trời đất, giơ tay ra không nhìn thấy ngón. Lão mò mẫm tìm được một cửa động, liền vội vàng ba chân bốn cẳng chui xuống đó lánh nạn.
Tư Mã Khôi và Thắng Hương Lân ngồi cạnh nghe Triệu Lão Biệt kể, mới biết thì ra đó chính là thời điểm Triệu Lão Biệt chui vào “chiếc hộp thời gian”. Lúc ấy, Triệu Lão Biệt lại ngộ nhận rằng, đội khảo cổ muốn giết lão diệt khẩu, nên tìm mọi cách chạy trốn, cuối cùng bị luồng không khí nhiễu động cuốn đi mất. Lúc tỉnh lại, lão thấy mình đã rơi xuống đất, gần như bị cát vàng chôn sống, may mà trước khi bị cái nóng sa mạc hun thành thịt khô, lão lại được hội người Pháp kịp thời đào lên. Lão cứ ngỡ mình vừa trải qua một cơn ác mộng. Triệu Lão Biệt ngầm ghi nhớ trong đầu mấy bức hình mà đội khảo cổ nhắc đến khi trước. Lão cứ một mực đinh
ninh đó chính là những gợi ý ngầm về biệt bảo Lâu Lan. Thế là, mấy người bọn họ lại chỉnh đốn đội ngũ, bắt đầu xuất phát, họ chui xuống lòng đất từ cửa Hắc Môn.
Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Nói như vậy thì sau đó Triệu Lão Biệt và tất cả hội người Pháp đều chết hết trong di chỉ dưới lòng đất Lâu Lan cổ, vậy sao một mình lão lại có thể xuất hiện ở đây để kể lại về cái chết được nhi?”. Nghĩ đến đây, đột nhiên anh nhớ ra, trong truyền thuyết Chăm Pa cổ đại nhuốm đậm màu sắc tôn giáo, người ta gọi vực sâu bị biển ngầm dưới đất ngăn cách với thế giới bên ngoài là “vương quốc của người chết”.


Hồi 4: QUẺ BÓI CỦA TRIỆU LÃO BIỆT

Mọi người đều cảm thấy hành tung của Triệu Lão Biệt rất quái dị, khó mà biết lão là ma hay yêu quái, bao quanh lão là vô vàn ẩn số, không ai có thể đoán chính xác được rốt cuộc là gì nên đành chờ lão tự kể ra.
Tư Mã Khôi hỏi Triệu Lão Biệt: “Tự lão thừa nhận mình đã chết trong sa mạc Lâu Lan từ những năm Dân quốc 15, thế bây giờ lão là người hay ma?”
Triệu Lão Biệt sa sầm nét mặt, lão không muốn bị người khác lật tẩy chân tướng, nhưng lão cũng biết trò đãi bôi ba câu sáu điều khó mà qua mắt được Tư Mã Khôi, nên lão đành khai ra nguyên nhân của sự việc:
Trước khi Triệu Lão Biệt cùng hội người Pháp xuất phát vào sa mạc Lâu Lan, lão đã về Quan Đông một chuyến, mang đổi tất cả của cải tích cóp bấy lâu thành vàng, rồi đánh thành từng thỏi, tìm một nơi vắng vẻ giấu thật kỹ.
Khi ấy vừa đúng lúc Quan Nội họp chợ phiên, tuy ở đây không sầm uất như những đô thị lớn, nhưng nơi này là địa bàn xung yếu của các đoàn thương nhân vùng tây bắc, người đi chợ nườm nượp, phiên chợ đông đúc bán ti tỉ thứ, lớn bé đều có cả, lớn thì có gia súc cỡ ngựa, lạc đà; bé thì có gương lược, cây kim, sợi chỉ. Người ta bán đủ thứ từ tạp hóa, thuốc bôi, ống da, sừng bò, cho tới roi ngựa, mã tấu, yên cương ngựa, hơn nữa ở đó người ta còn bày trò diễn ảo thuật mãi võ. Đến các sạp ở ngoài cổng Quan Nội, người ta lại bày bán đủ các loại hàng ăn, quán xá lô xô, san sát nhau. Đúng là náo nhiệt vô cùng!
Triệu Lão Biệt thấy trời hãy còn sớm, nên lão rẽ vào phiên chợ ngó nghiêng mỗi chỗ một tí. Lão là người xuất thân bần hàn, nên chẳng bao giờ dám móc tiền túi ra tiêu, có đi chơi chợ, lão cũng chỉ ngắm nghía cho thích mắt chứ không dám mua gì. Cứ như vậy, lão loanh quanh hết một ngày mà vẫn chưa chán, hôm sau lão lại ra chợ xem, thấy phía trước người ta xúm đông xúm đỏ, lão cứ tưởng có trò gì hay, nên cũng cố chen chúc vào “giải ngố” cho bằng được.
“Giải ngố” là tiếng địa phương vùng Quan Đông, ý muốn chỉ việc xúm vào xem hôi, vừa không mất tiền lại vừa giải sầu. Triệu Lão Biệt rất giỏi trò này, lão cố sống cố chết len cho bằng được lên hàng đầu, ngồi xổm trên mặt đất, chăm chú quan sát, thì ra nhân vật chính là một vị thầy bói tuổi ngoại tứ tuần, vẻ ngoài trắng trẻo, sạch sẽ, thân hình khá phốp pháp, trên sống mũi còn gá thêm cặp kính cận, cách ăn vận khá giống giới văn sĩ bụng nhét đầy chữ.
Thầy bói đó ngồi trên một tảng đá, phía trước là miếng gỗ dài, bày xếp ngay ngắn những giấy bút, ống mực, hộp trốc, phía sau cắm lá cờ hiệu quảng cáo, trên đó vẽ hình bát quái, hai mặt viết hai hàng chữ “Thiết Chủy bán tiên, xem tướng phán mệnh.”
Vị thầy bói này hành tẩu trên giang hồ cũng đã lâu, lại rất biết cách làm hàng, học rộng biết nhiều và đặc biệt có tài ăn nói. Anh ta không ngồi đờ ra như cá chết, im lìm sau sạp hàng, mà trước tiên anh ta kể chuyện, người qua đường vừa nghe là dính vào luôn, người xúm đến xem càng lúc càng đông, cứ như vậy anh ta chẳng lo không có khách tự nguyện chui đầu vào rọ.
Vị thầy bói tự xưng mình họ Hồ, quê ở Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, dân giang hồ gọi anh ta là Hồ Thiết Chủy – Thiết Chủy nghĩa là “miệng sắt” – ý muốn ám chỉ anh ta xem tướng đoán số chính xác như thần, chưa bao giờ nói sai nửa lời. Anh ta lấy hết sức đập miếng gỗ trên bàn, rồi lặng thinh tạo khí thế, sau đó mới đằng hắng mở màn: “Chư vị lão gia, đừng thấy cái này trông có vẻ tầm thường mà coi thường, thực ra nó có lai lịch hẳn hoi đấy. Người xưa dạy ‘Một thỏi thước gỗ chia bảy phần, thượng chí quân vương hạ chí thần, quân vương một mảnh trị quan nhân, quan nhân một mảnh trị lê dân, thánh nhân một mảnh truyền Nho giáo, thiên sư một mảnh trấn quỷ tà, sư gia một mảnh tuyên Phật pháp, Đạo gia một mảnh thuyết huyền môn, một mảnh lưu lạc chốn nhân gian, trôi nổi tám phương khuyên dân chúng’.
Triệu Lão Biệt thấy lời ăn tiếng nói của vị thầy bói này khá mạnh miệng, khiến người ta chỉ muốn nghe tiếp xem anh ta nói gì, thế là lão ngồi xổm xuống đất, không bỏ đi nữa.
Lão thấy vị thầy bói “miệng sắt” kia tiếp tục sang sảng: “Hồ mỗ đây lần đầu đến nơi đất quý này, theo lệ phải tự báo gia môn trước. Mỗ là hậu duệ đời thứ 72 của Hồ lão chân quân, theo dòng tướng pháp Ma Y, sở trường xem tướng xem tay, xem từ da xuyên thấu đến tận cốt xương, phân biệt nguyên thần, từ đó có thể phán đoán được phúc, thọ, phú, bần và cả mệnh lý sinh tử”.
Nói xong, vị thầy bói rút ra một tập tranh phác họa chân dung của các nhân vật lịch sử. Anh ta giở đến một trang rồi giơ ra cho mọi người xem, trang đó vẽ Đại Minh Hồng Vũ hoàng đế Chu Nguyên Chương, bản vẽ này phỏng tác theo bức vẽ nguyên mẫu ở Minh Cung, bên cạnh còn chú thích sinh thần bát quái, đôi mắt của hoàng đế trong bức họa có mí trên ngắn, mí dưới dài, lỗ tai to hướng lên trên, lỗ mũi hở và hếch, cằm cũng hướng lên trên. Trong tướng sổ, tướng này gọi là “Ngũ lộ hướng thiên(l), địa cách(2) thoáng rộng”.
1 Ngũ lộ hướng thiên: chỉ hai lỗ tai, hai lỗ mũi và miệng hếch lên trời.
2 Địa cách: chỉ cằm.
Hồ Thiết Chủy chỉ tay vào bức họa, miệng thao thao bất tuyệt, khoe sư tổ của mình trước đây từng phán mệnh cho hoàng đế Chu Nguyên Chương, sinh thần bát tự của ngài quá rắn, nếu không gặp thời thì chỉ thành kẻ ăn mày nơi đầu đường xó chợ, nhưng một khi đã gặp thời thì lập tức trở thành thiên tử. Ngài vừa sinh ra đã biết nói, nhưng gọi cha cha chết, gọi mẹ mẹ chết, chỉ tại cha mẹ ngài mệnh mỏng, không chịu đựng được lời vàng tiếng ngọc của bậc chân mệnh thiên tử.
Hồ Thiết Chủy nói xong về tướng mệnh của hoàng đế Chu Nguyên Chương, lại tiếp tục bình đến cuộc đời của Đường Thái Tông. Trong lúc kể sự tích của những vĩ nhân thời cổ, anh ta còn chỉ tướng số ngũ quan của đám đông vây quanh, rồi luận sang hèn, hên xui, ví như người này làm nghề gì, người kia nhà có mấy người, có con trai con gái hay không, gần đây có vào vận không. Mà hay một nỗi, tất cả lời phán của anh ta đều chính xác tuyệt đối, ai nấy cứ gọi là gật gù khen chuẩn lia lịa.
Chuyện đời thường chỉ thích đàm luận những việc kỳ lạ, ở chợ lại toàn hạng người thô lỗ, ít học, thấy Hồ Thiết Chủy nói càng giật gân, khoa trương, mọi người lại càng xúm đông xúm đỏ đến xem.
Hồ Thiết Chủy thấy đám đông đã kha khá, mới bắt đầu vào chủ đề chính: “Từ trước đến giờ, mỗ thu mỗi quẻ nửa đồng Đại Dương, nhưng hôm nay là lần đầu tiên đến đây, lại được các vị cổ vũ như vậy, thôi thì mỗ cũng học theo Trương thiên sư bán thuốc mắt, buông tay lấy cái tiếng là chính, chỉ thu nửa giá thôi, không những vậy còn mua một quẻ, tặng một quẻ, nếu nói sai một câu, nửa xu mỗ cũng không dám lấy…”
Nào ngờ, đúng lúc đó một trận cuồng phong chợt nổi lên, cuốn đất cát bay tứ tung, đám đông chạy tán loạn. Hồ Thiết Chủy bán nước bọt suốt nửa ngày trời, đến lúc sắp kiếm được tiền thì chẳng còn mống người nào, anh ta không kìm được tiếng thở dài, đành dọn hàng tránh tạm vào trong quán trọ ngay phía sau. Triệu Lão Biệt cũng ngồi xổm ở ngay cửa quán trọ, rút tẩu thuốc ra hút đợi ngớt bão cát, mới dám đi.
Hồ Thiết Chủy hụt mất vụ làm ăn, thì không cam tâm, anh ta liếc mắt thấy Triệu Lão Biệt đứng ngay cạnh, liền nảy ra ý dụ Triệu Lão Biệt mở hàng. Anh ta mon men lại gần mời chào: “Mỗ thấy lão nông đây ngũ quan cân đối, chẳng hay có muốn để Hồ mỗ coi cho quẻ bói xem vận may thế nào không?”
Triệu Lão Biệt thấy Hồ Thiết Chủy còn không tính được trời sắp nổi bão, thì làm sao lão dám tin vào mấy trò giang hồ này của anh ta, huống hồ cho dù anh ta có đạt đến trình độ một nửa thần tiên thật, thì lão cũng không nỡ rút nửa đồng Đại Dương ra để xem tướng, bởi thế lão chỉ tảng lờ lắc đầu. hoatanhoano.wordpress.com
Hồ Thiết Chủy giải thích: “Có câu rất hay ‘Trời có lúc nổi gió bất thường, người có lúc họa phúc khôn lường’ , Tướng pháp Ma Y của Hồ mỗ chỉ xem được cho con người, chỉ đoán được họa phúc khôn lường của con người, chứ không xem được sắc mặt của ông trời. Nếu lão huynh không tin, thì mỗ đây cứ xem tướng cho lão huynh, luận đàm tam bộ đại vận gồm tiền vận, trung vận và hậu vận, nếu nói chuẩn thì đến lúc đó lão huynh trả tiền sau cũng không muộn, còn như nói sai nửa câu, mỗ sẽ không lấy của lão huynh nửa xu”.
Triệu Lão Biệt vẫn lắc đầu không chịu, lão thấy bỏ ra nửa đồng để xem tướng quá ư là lãng phí, tướng mạo là do cha mẹ nhào nặn mà thành, có sao dùng vậy, việc gì phải xem, nếu có tiền thừa thãi thà mua đồ đánh chén còn hơn.
Hồ Thiết Chủy cũng là tay lì lợm, anh ta đã mở miệng mời chào, thì làm gì có chuyện trốn tránh không xem được, bởi xung quanh còn có bao con mắt khác dòm vào, kẻ biết thì hiểu tại thằng cha quê mùa kia ki bo không nỡ móc tiền túi ra xem, nhưng kẻ không biết lại truyền tai nhau bảo anh thầy bói chỉ chuyên mấy chiêu lừa lọc giang hồ. Chính vì vậy, anh ta cố chấp mời mọc Triệu Lão Biệt phải xem bằng được: “Đã vậy thì bận này mỗ không lấy tiền của lão huynh nữa, nếu xem chuẩn thì sau này lão huynh rỉ tai mọi người giúp mỗ là được rồi”.
Triệu Lão Biệt vừa nghe không cần mất tiền, thấy mình lãi to, bèn hồ hởi đồng ý luôn, nghiêm mặt lại để Hồ Thiết Chủy xem tướng.
Hồ Thiết Chủy ngắm nghía khuôn mặt Triệu Lão Biệt mấy hồi, anh ta lập tức thấy hối hận bởi khi nãy đã lỡ lời khen đối phương ngũ quan cân đối, cái mặt này phải nói là xấu không còn gì để nói, mày gián mắt chuột, mệnh bạc phúc mỏng, là kiểu khuôn mặt quân thần bất hợp điển hình.
Triệu Lão Biệt thấy Hồ Thiết Chủy lẳng lặng không nói suốt hồi lâu, bèn sốt ruột hỏi: “Ông anh không cần phải ngại, tốt hay xấu gì cũng cứ nói thẳng cho mỗ biết”.
Lúc trước, Hồ Thiết Chủy nói không chừa lối thoát cho mình, nên giờ đành phải thành thực phán tuốt tuột: “Lão huynh, mỗ xem tướng lão huynh môi mỏng răng lộ, chứng tỏ là người trong cương ngoài nhu, mắt bé mày dựng, chứng tỏ là người hùng tâm tráng chí. Thiên đình(3) rộng, chứng tỏ có mệnh hành tẩu bốn phương, địa cách hẹp, chứng tỏ ít nhận được sự dạy dỗ của cha mẹ, không có anh chị em ruột, cũng không được học qua đạo Khổng Tử, Mạnh Tử, chỉ kiếm cơm dựa vào chút kỹ nghệ gia truyền mà thôi…”
3 Thiên đình: chỉ vầng trán.
Triệu Lão Biệt vừa nghe mấy câu đã thấy nói rất sát với thực tế cuộc đời lão. Cha mẹ đều sớm chầu trời, xung quanh chẳng có ai thân thích, tuy lão cũng biết ít chữ, nhưng quanh năm phiêu bạt chốn giang hồ, nên cũng chưa bao giờ có cơ hội tiếp xúc với sách thánh hiền. Thế là, lão để Hồ Thiết Chủy nói tiếp.
Hồ Thiết Chủy thầm xét đoán sắc mặt đối phương, rồi tiếp tục nói: “Con người ở đời đều có tam bộ đại vận, lần lượt là tiền vận, trung vận, hậu vận. Mỗ thấy tướng mạo của lão huynh sớm ra đời, sớm vất vả, sớm lao động, tiền vận có ba cái ‘sớm’ ấy, ứng với số ‘tam tảo’. Ngoài ra, lão huynh lập nghiệp muộn, phát tài muộn, hưởng phúc muộn, trung vận có ba cái ‘muộn’ ấy, ứng với phận ‘tam vãn’. Ngày còn trẻ, lão huynh làm nhiều việc bất thành, khó thi triển được tài trí, đến tuổi trung niên thì trước khó sau dễ, thành đạt dần dần, lại được quý nhân cất nhắc và trọng dụng”.
Triệu Lão Biệt mừng hớn hở ra mặt, giơ ngón cái lên khen ngợi: “Ông anh xem tướng chuẩn lắm, nói thật, cuộc đời mỗ đây đúng là trước khó sau dễ, mấy năm gần đây, lăn lộn mãi mới ngẩng đầu lên được một tí. Ông anh thử coi tiếp xem hậu vận của mỗ thế nào, về sau phúc thọ được hưởng bao nhiêu, dương thọ còn mấy năm nữa?”
Hồ Thiết Chủy lắc đầu nói: “Lão huynh đã có lời như thế, thì xin lượng thứ cho mỗ được nói thẳng, mỗ thấy khuôn mặt của lão huynh tuy ngũ quan mất cân đối nhưng xếp lại cùng nhau thì vẫn kéo dài được mạng sống, hạn số vẫn hưởng được đến già. Có điều, lão huynh có mấy việc lớn, nếu không làm chu toàn, thì ông trời nhất định sẽ giảm thọ của lão huynh”.
Triệu Lão Biệt nghe đến đây, lòng cũng thấy gai gai, lão từng kết bè với lũ người Tây đào mồ quật mả, ăn trộm quốc bảo, làm bao việc tổn hại âm đức. Lúc này, lão bị người ta vạch trần chân tướng thì đương nhiên cũng cảm thấy hốt hoảng, lão liền vội vàng hỏi: “Thế … bị mất bao nhiêu năm dương thọ?”
Hồ Thiết Chủy nói: “Hồ mỗ thấy ấn đường của lão huynh đổ sắc đen, hung sát phản chủ, rõ ràng dương thọ đã tận, bây giờ là lúc ngựa phi đến bờ vực, muốn dừng cương cũng khó, thuyền trôi đến giữa dòng, muốn vá lỗ thủng cũng đã muộn, lão huynh chắc chắn không thể sống qua cuối tháng này đâu. Nếu Hồ Thiết Chủy mỗ phán không chuẩn thì mỗ đây nguyện nhai nát lưỡi của mình luôn”. hoatanhoano.wordpress.com
Triệu Lão Biệt là người lòng dạ hẹp hòi, chỉ thích nghe lời hay, không muốn nghe lời dở. Lão thấy đối phương phán hạn số mình đã tận, thì cảm thấy thấy thằng cha Hồ Thiết Chủy này chắc lại kiếm cớ lừa tiền thiên hạ, phải bỏ tiền ra, hắn ta mới chịu chỉ điểm cho cách giúp tai qua nạn khỏi. Triệu Lão Biệt tự thấy mình đã trải qua bao nhiêu sóng to gió lớn, làm gì có chuyện bị mấy trò giang hồ vặt vãnh này che mắt được. Thế là, lão bèn bỏ ngoài tai lời cảnh bảo của thầy bói, lão là hạng người thà mất mạng cũng không chịu mất tiền, bèn đanh giọng bảo Hồ Thiết Chủy: “Thôi, ông anh không cần nói nữa, cho dù bị chết đứng ở đây, mỗ cũng không bỏ tiền túi ra đâu”.
Nhưng Hồ Thiết Chủy lại rất nghiêm túc, anh ta không hề nhắc đến việc vòi tiền. Anh ta xem xong tướng mạo, còn muốn xem tay tiếp cho Triệu Lão Biệt, người ta có câu “xem tướng không xem tay, tất chưa được truyền thụ”, thế là anh ta kéo ngay tay trái của Triệu Lão Biệt lại trước mặt, vừa xem đã thấy bàn tay lão có sáu ngón, anh ta vừa xem vừa lẩm bẩm trong miệng: “Bàn là hổ, ngón là rồng, thà để rồng nuốt hổ, cũng không được để hổ nuốt rồng. Ngón ngắn, bàn dài là rồng nuốt hổ, bàn dài ngón ngắn là hổ nuốt rồng. Tiếp đến ngón tay, xem nào, ngón cái là vương, ngón út là thần, ngón chỉ là binh, ngón giữa là tướng, ngón chỏ là yêu ma. Các ngón tay của lão huynh sắp xếp lại với nhau sẽ là: hổ ăn rồng, binh át tướng, thần lừa vương, yêu ma làm loạn; xem ra sống đến năm 50 tuổi đã là hạn số của lão huynh rồi. Để mỗ xem tiếp đường chỉ tay của lão huynh nào… á… á… á….”
Hồ Thiết Chủy thấy các đường chỉ trong lòng bàn tay của Triệu Lão Biệt, thì liên miệng kêu lên ba tiếng hoảng hốt, âm sau cao hơn âm trước, tiếng sau kỳ hơn tiếng trước, sắc mặt từ điềm tĩnh bỗng trở nên kinh ngạc, hai mắt nhìn chằm chằm vào đường các đường chỉ tay đến nỗi không rời nổi tầm nhìn ra chỗ khác, anh ta quan sát chăm chú quá mức làm Triệu Lão Biệt cũng thấy rờn rợn.
Hồ Thiết Chủy không đếm xỉa gì đến cảm nhận của Triệu Lão Biệt, chỉ mải khen kỳ tích trước mặt: “Từ khi Hồ mỗ thành nghệ xuống núi làm thầy đến nay, xem tay cho không biết bao nhiêu người, cũng đã từng đọc không biết bao nhiêu sách tướng số, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy loại đường chỉ tay như thế này ở chốn nhân gian!”, nói xong, anh ta ngẩng đầu nhìn Triệu Lão Biệt, rồi thảng thốt nói với vẻ mặt tràn đầy kinh ngạc và nghi ngờ: “Sao mỗ cứ thấy lão huynh không phải là người nhỉ?”


Hồi 5: PHÂN HỒN

Triệu Lão Biệt nghe vậy liền sa sầm nét mặt hỏi: “Ông anh nói vậy là ý gì? Đường chỉ tay của mỗ có gì không ổn hả?”
Anh thầy bói Hồ Thiết Chủy giải thích: “Lòng bàn tay của lão huynh… sao lại có ba đường sống?”
Triệu Lão Biệt vội rụt phắt tay lại, không chịu cho đối phương xem tiếp, rồi giả bộ ngu dại hỏi: “Ông anh vừa nói linh tinh gì thế hử?”.
Hồ Thiết Chủy nghiêm nghị trả lời: “Tôi tuyệt đối không thể xem nhầm, trong lòng bàn tay của lão huynh quả thực có ba đường sống đấy!”
Thì ra, bàn tay con người ẩn chứa mọi bí mật “thái cực, lưỡng nghi, tam tài, tứ tượng ngũ hành”(1), sinh tử hung cát đều nằm trong lòng bàn tay. Hồ Thiết Chủy thông hiểu tướng pháp Ma Y, ngực giấu thiên nhãn, đặc biệt rất giỏi xem tay xem tướng, phán hung cát, đoán vận khí sinh tử như tận mắt chứng kiến, nhưng anh ta thấy lòng bàn tay của mọi người đều chỉ có một đường sống, trong tất cả các điển tích tướng số, khẩu quyết, hình phổ cũng chưa từng có tư liệu nào đề cập đến nhân, vật sở hữu cả ba đường sống, trừ phi đó không phải là người.
1 Thái cực là cực duy nhất của cõi trời đất; lưỡng nghi chỉ hai cõi âm dương; tam tài chỉ ba đối tượng trong vũ trụ gồm trời, đất và con người; tứ tượng là tứ thánh thú, gồm Thanh Long, Bạch Hổ, Huyền Vũ và Chu Tước; ngũ hành là năm hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
Hồ Thiết Chủy nhìn tay trái của Triệu Lão Biệt, thấy ba đường sống phân bố rất kỳ lạ, có một đường sống chính và hai đường sống phụ, trong hai đường phụ thì có một đường hướng dương, một đường hướng âm. Trên đời này tuyệt đối không thể có người cùng lúc xuất hiện ba đường sống như vậy.
Hồ Thiết Chủy tin rằng, đường chỉ tay là sự ám thị của số mệnh, bao nhiêu năm nay, chưa bao giờ anh ta bói nhầm, xem tướng số thấy rõ ràng là ngày chết của Triệu Lão Biệt đang đến gần, nhưng sao trong lòng bàn tay lại xuất hiện thêm hai đường sống nữa, rõ ràng là hai tay không giống nhau? Anh ta thấy sự lạ như thể ăn mày bị bỏ đói hàng trăm năm, nay đột nhiên gặp bữa sơn hào hải vị, làm gì có chuyện dễ dàng chịu bỏ qua. Thế là, anh ta bám chặt cánh tay của Triệu Lão Biệt, đòi xem tiếp.
Điều Triệu Lão Biệt sợ nhất là bị người ta vạch trần chân tướng, lai lịch, lão thấy Hồ Thiết Chủy đoán sự như thần, trong lòng cũng bất giác thấy phát hoảng, liền vội vã đẩy đối phương ra xa, giắt cái tẩu vào thắt lưng, rồi vác bao tiền bằng vải thô lên vai, sau đó xin thất lễ cáo từ, rồi vội vội vàng vàng rời khỏi quán trọ, đội bão cát rợp trời ra khỏi thành, cắm đầu hướng về phía đồng không mông quạnh vắng bóng người.
Phía tây bắc vốn dĩ là nơi hoang vắng, ra khỏi Quan Đông, đi về hướng tây một đoạn đường là tiến vào vùng sa mạc. Triệu Lão Biệt cứ ngỡ đã cắt đuôi được con đỉa Hồ Thiết Chủy, nào ngờ vẫn bị đối phương bám lẵng nhẵng sau lưng, anh ta cưỡi lừa đuổi theo sau, bỏ cả đồ nghề xem bói ở lại, đòi Triệu Lão Biệt cho xem tiếp đường chỉ tay của bàn tay trái.
Bất luận thế nào Hồ Thiết Chủy cũng muốn phải làm rõ bí mật của ba đường sống, bây giờ anh ta không cần lấy tiền nữa, mà còn muốn dốc hết mười mấy đồng Đại Dương cho Triệu Lão Biệt, cốt chỉ muốn lão đồng ý cho xem tay tiếp.
Hồ Thiết Chủy chèo kéo mãi, còn Triệu Lão Biệt thì sống chết không đồng ý, cứ thế kẻ trước người sau tiến dần vào sa mạc. Lúc này, bão cát càng trở nên dữ dội hơn, nếu tiếp tục đi về phía trước e rằng sẽ bị bão cát nuốt chửng mất. Đúng lúc đó, cả hai nhìn thấy một quán ăn ven đường, họ đành tạm thời lánh vào trong nghỉ chân. hoatanhoano.wordpress.com
Nơi này vắng vẻ, cách đại lộ một quãng khá xa, thông thường chỉ có đoàn xe ngựa của bọn buôn lậu mới đi qua đây, bởi vậy quán ăn này nom rất sơ sài, trong quán bày mấy cái bàn gỗ, sau quầy ngoại trừ ông chủ quán cao to lỗ mãng ra, thì không thấy có vị khách nào khác.
Hồ Thiết Chủy vẫn bám riết lấy Triệu Lão Biệt không chịu buông tha. Khi cả hai đã vào trong quán ngồi, anh ta bảo: “Gió cát to quá, mỗ thấy thời tiết này xem ra không đi được nữa đâu, hay chúng ta ngồi đây ăn chút gì đã!”
Triệu Lão Biệt chối từ: “Mỗ đây tự mang lương khô, ngồi ở cửa gặm hai miếng là no rồi, cần gì phải lãng phí tiền nữa”.
Hồ Thiết Chủy khuyên: “Lão huynh cứ yên tâm, tiền này để mỗ trả, đợi ăn no uống say rồi, lão huynh chỉ cần đưa mỗ xem tay cho thật thỏa là được. Huynh xem, mỗ đây đã nói khô cả miệng, xin huynh hãy niệm tình Hồ mỗ chân thành như thế mà…”
Triệu Lão Biệt nhăn mày nhăn mặt nói: “Ông anh đúng là chúa dằn vặt người khác! Đường vân tay của mỗ cũng có gì kỳ lạ đâu, sao ông anh cứ nhất định đòi xem cho bằng được? Chẳng qua tại mỗ lao động vất vả quá, ngoài đường vân chính ra thì da thịt gấp sâu thêm vài nếp nữa mà thôi!”
Hồ Thiết Chủy cố chấp phản bác: “Không phải, mỗ thấy đường sống của lão huynh rất khác người thường, đúng là vô cùng kỳ lạ, đáng để mỗ đây nghiên cứu cẩn thận”.
Triệu Lão Biệt bất lực, đành phải ngồi xuống ghế, rồi quay sang hỏi Hồ Thiết Chủy : “Thế… chúng ta ăn gì bây giờ?”
Hồ Thiết Chủy nói: “Mỗ mới đến đây lần đầu, lão huynh cứ việc chủ động gọi món”.
Triệu Lão Biệt gật đầu, rồi quay sang quầy hỏi chủ quán: “Này anh bạn, trong tiệm có gì ngon không?”
Chủ quán đáp: “Có rượu, có mỳ”.
Triệu Lão Biệt lại nói: “Thế thì cho hai tô mỳ lớn, không cần rượu, cho gấp đôi hải hải mê tự nhé!”
Chủ quán nghe xong, bèn đằng hắng nhắc lại: “Hai tô mỳ lớn, gấp đôi hải hải mê tự…”
Hồ Thiết Chủy thấy lạ bèn hỏi: “Hải hải mê tự là thứ gì thế?”
Triệu Lão Biệt giải thích: “Ông anh lần đầu đến đây nên không hiểu, mỗ vừa bảo chủ quán cho nhiều thịt bò hơn một chút ấy mà”.
Hồ Thiết Chủy “à” lên một tiếng: “Hóa ra vậy, đúng là đất mỗi phương một hơi, người mỗi nơi một tiếng, mỗi vùng lại sử dụng một tiếng địa phương khác nhau nhỉ”.
Lát sau, chủ quán đặt hai tô mỳ với sợi to như dải quần, rắc ớt bột, khói bốc nghi ngút, mùi thơm tỏa ra nức mũi.
Triệu Lão Biệt ngồi xổm trên ghế dài, giả vờ hít hít hà hà hơi nóng, cố tình kéo dài thời gian không vội ăn, mà đợi Hồ Thiết Chủy động đũa trước.
Lúc này, Hồ Thiết Chủy cũng bắt đầu thấy đói, bèn đánh một lèo cạn cả nước tận đáy bát, anh ta vừa lau miệng vừa hỏi Triệu Lão Biệt: “Lão huynh không đói à?”
Triệu Lão Biệt cười hì hì, chỉ ngồi cạnh liếc Hồ Thiết Chủy không nói gì, thực ra con đường này lão đã đi mòn gót chân, giao du với đủ hạng người trong giang hồ, ngay cả dân trộm cướp bản địa cũng chẳng xa lạ gì, lão thấy không cắt đuôi được Hồ Thiết Chủy, liền dẫn anh ta đến một quán “đen” của người quen, định bụng đánh thuốc mê cho thằng cha oan gia này gục luôn.
Nào ngờ, đợi suốt hồi lâu mà Hồ Thiết Chủy vẫn bình an vô sự. Hóa ra, anh ta cũng là người hành tẩu giang hồ nhiều năm, tuy không hiểu ngôn ngữ lục lâm nhưng anh ta vẫn làm một liều thuốc khắc chế trước cho vững dạ, đề phòng bọn quán “đen” hạ thuốc mê, có liều thuốc này vào bụng, uống thuốc mê bất quá cũng chỉ như ăn phải hạt tiêu mà thôi. Nhờ vậy, anh ta chẳng những không lăn ra ngủ mê mệt mà vẫn lằng nhằng đòi Triệu Lão Biệt cho xem tay, giữa lúc đang nhì nhèo, bỗng đâu sau gáy bị phang một gậy thật mạnh.
Hồ Thiết Chủy kêu “á” một tiếng thất thanh, sờ tay ra sau gáy thấy toàn máu tươi, thoạt nhiên anh ta cảm giác trời đất quay mòng, rồi đổ đánh “rầm” xuống sàn. Thì ra, anh ta vừa bị tên chủ quán dùng gậy sắt hạ gục. Gã chủ quán kéo anh ta ra hiên nhà, lột sạch quần áo, trói vào tấm phản xả thịt, mổ phanh bụng, lọc được một đĩa xương thịt đầy ụ, nấu chín mời khách qua đường ăn. hoatanhoano.wordpress.com
Triệu Lão Biệt nói với hội Tư Mã Khôi: “Thằng cha thầy bói này đúng là cũng khá cao tay, không hổ danh “miệng sắt”, nhưng đến lượt mình thì gã lại lú đến mức không xem nổi hạn số của chính mình, gã ăn phải bùa phải bả hay sao mà dám đòi moi móc gốc gác của mỗ, thế khác nào muốn đào mả bố mỗ lên? Không thể trách mỗ đây lòng lang dạ sói, đấy là tự gã muốn chuốc vạ vào thân mà thôi. Đây gọi là “đường quang không đi, lại đâm quàng bụi rậm”, mà cũng trách cái lão chủ quán hồ đồ kia nữa cơ, giết người quen tay rồi, chưa đợi mỗ dặn dò kỹ lưỡng đã vội hạ độc thủ. Hôm nay, chúng ta cũng chỉ nói đến đây thôi, chuyện còn lại không thể nói thêm được nữa”.
Cả hội nghe xong, ai nấy đều chau mày nhăn mặt, nghĩ đến tâm địa tàn độc của lão ta mà lòng bất giác gai lạnh, mọi người càng nghĩ lại càng thấy không đoán được lai lịch gốc gác của lão.
Tư Mã Khôi nghĩ thầm: “Nếu những lời Triệu Lão Biệt vừa nói đều là thật, thì hẳn anh thầy bói kia đã phát hiện ra chân tướng của lão nên mới bị lừa vào quán “đen’ và ám toán một cách thê thảm như thế. Chân tướng sự thật này chắc chắn phải liên quan đến những lần sống dậy sau khi chết của lão. Giờ lão nhắc lại chuyện ấy rõ ràng là để ngầm cảnh cáo đội khảo cổ, nếu còn tiếp tục cố truy hỏi, lão sẽ ‘chó cùng dứt dậu’ cho xem, không chuyện gì lão không dám làm cả”.
Sau đó, Triệu Lão Biệt kiên quyết không chịu tiết lộ nội tình, nhưng Tư Mã Khôi cũng nhận ra được vài manh mối, anh lờ mờ đoán được chân tướng của đối phương.
Tư Mã Khôi bảo Triệu Lão Biệt giơ tay trái ra cho anh xem, tuy không hiểu mệnh lý, nhưng anh vẫn biết đường chỉ tay nào là đường sống, anh thấy trên lòng bàn tay của lão ta giờ đây chỉ còn một đường sống mà thôi.
Tư Mã Khôi chợt nhớ lại cuốn cổ tịch mình từng xem lúc ở trong sa mạc, một phần nội dung của nó ghi chép sự việc kẻ biệt bảo thường nuôi một cương thi có hồn mà không có phách, giống như các đạo gia vẫn nuôi ma trong nhà vậy. Tình tiết cụ thể thế nào e rằng ngoại trừ chính kẻ biệt bảo ấy ra, thì không ai có thể biết chính xác. Theo Tư Mã Khôi suy đoán, thứ đó có lẽ là con rối bằng xương thịt với ngoại hình tương tự như kể biệt bảo. Con người có ba hồn bảy vía, có được con rối này rồi, họ sẽ chia hồn ra làm ba phần nhờ thuật biệt bảo và cất giữ ở ba cơ thể khác nhau.
Có thể thấy, suy đoán này là sự kết hợp của hai suy đoán về “đỉnh tụ bảo” và “táng hồn đàn”. Nghe nói kẻ biệt bảo rất giỏi nuôi ngọc, họ lấy viên hoạt đan được hình thành từ con rùa già ngàn năm, sau đó tự rạch mạch của mình, nhét hoạt đan vào nuôi bên trong. Hoạt đan đó gọi là viên biệt bảo, viên biệt bảo sống lâu năm trong người sẽ hòa nhập thành một thể với cơ thể người đó, tương thông với huyết mạch thần hồn của chủ nhân. Anh đoán, Triệu Lão Biệt xuất hiện dưới vực sâu, đã từng đi qua sa mạc Lâu Lan, móc được viên biệt bảo trong mạch môn của cỗ xác khô đó, nên mới nhớ được những sự việc trước đây. Còn Triệu Lão Biệt kia thì hoàn toàn không nhớ gì về quá khứ, chỉ nhớ phải đi tìm viên Lôi công mặc để rồi cuối cùng tử nạn trong nghĩa địa La Sư ở Trường Sa. Nếu quả thật như vậy, thì đối phương không muốn nói rõ gốc tích của mình cũng là điều hợp tình hợp lý, đôi lúc giữ được bí mật của mình lại là con đường sống duy nhất.
Do Triệu Lão Biệt nhất quyết không chịu mở miệng, mà kiến thức về thuật biệt bảo của Tư Mã Khôi lại chỉ có hạn, nên anh cũng không thể suy đoán được những cái ảo diệu ẩn chứa bên trong, anh chỉ đoán suông, chứ cũng không có luận chứng khoa học chắc chắn nào. Có điều, anh cho rằng việc cấp bách nhất lúc này là đi tìm tấm bia Vũ Vương, không cần thiết đôi co chuyện này với lão thêm nữa.
Thắng Hương Lân cũng đồng quan điểm với Tư Mã Khôi, chỉ duy Hải ngọng là cứ khăng khăng cho rằng lai lịch của Triệu Lão Biệt quá là quái dị, anh nhấn mạnh: “Ngay từ đầu, tớ đã nói lão quái này không phải hạng tốt đẹp gì mà lại, nhưng các cậu có tin đâu, xem ra không vấp ngã không rút ra được bài học thật. Hồng vệ binh trong cuộc trường trinh thời kỳ đầu cũng chết quá nửa, bọn thiểu năng đó có dám tin Mao chủ tịch không? Đừng để đến khi chúng ta ngã chổng vó cả lũ, các cậu mới chịu tin tớ!”.
Sao Tư Mã Khôi không hiểu những lý lẽ mà Hải ngọng vừa nói, nhưng không phải chuyện gì cũng chỉ cần hiểu là có thể giải quyết vấn đề. Giờ anh có mấy việc cần phải hỏi Triệu Lão Biệt ngay, tuy rằng đáp án chưa chắc đã đáng tin, nhưng biết đâu anh lại tìm thấy chút chân tơ kẽ tóc nào trong đó. Việc thứ nhất là, Triệu Lão Biệt đã lấy trộm thứ gì trong máy bay C47 sắp rơi và chạy trốn ra khỏi chiếc hộp thời gian? Việc thứ hai là, lão xuống được lòng đất sâu không đáy này bằng cách nào? Việc thứ ba là, lão biết được bí mật khắc trên tấm bia Vũ Vương qua nguồn thông tin nào? Ngoài ra, còn một vấn đề vô cùng quan trọng, đó là Triệu Lão Biệt đã từng tiếp xúc với Nấm mồ xanh chưa?
Triệu Lão Biệt quanh co một hồi lâu, chối ràng việc đầu tiên mình không nhớ nữa, nếu lão nói dối sẽ bị chết đứng tại chỗ. Còn về ba việc sau, thực ra chỉ là một chuyện mà thôi, cái này gọi là “trăm trứng cùng một mẹ sinh ra”. Kể từ khi hội của lão thất thủ ở sa mạc Lâu Lan, Triệu Lão Biệt không còn nơi nào nương tựa, lão đành mò đến vùng núi tuyết ở miền đất Tây Tạng tìm kén tằm trời, chẳng ngờ lại bị bọ cạp băng trong hang động núi tuyết cắn một phát, thế là lão bị đông cứng, lăn ra bất tỉnh nhân sự, không biết bao nhiêu thời gian trôi qua, cuối cùng lão cũng được mấy người dân tộc Tạng bản địa phát hiện. May nhờ trong người có viên biệt bảo, nên lão mới thoát nạn không chết. Trong thời gian đó, lão bắt đầu tiếp xúc với tổ chức Nấm mồ xanh, nghe nói nhóm người này muốn đến tâm Trái đất tìm một tấm bia đá, có tên là bia Vũ Vương. Triệu Lão Biệt biết chuyến hành trình này một đi không trở lại, bởi vậy lão không chịu nhận lời và suýt đã bị tổ chức đó ra tay giết người diệt khâu, lão chạy trốn bạt mạng đến một nơi trên đỉnh núi tuyết của dãy Himalaya, tưởng rằng mình sắp lâm vào bước đường cùng, may thay lão lại được “Thợ săn” – một người từng phản bội và rời bỏ tổ chức ra tay cứu giúp.
Tay “Thợ săn” đó tiết lộ với Triệu Lão Biệt, bia Vũ Vương là một phiến đá rất lớn, bên trên tấm bia khắc chín chữ triện cổ hình rắn, mỗi chữ to như cái đấu đong gạo, khắc lặp đi lặp lại 73 dòng. Còn truyền thuyết Vũ Vương chôn tấm bia chỉ là chuyện hậu thế sau này thêm mắm thêm muối vào mà thôi. Thực ra, tấm bia đó do tổ tiên tộc người Bái Xà để lại, không kẻ nào được phép phá giải bí mật được khắc trên đó, nếu trái phạm ắt sẽ xảy ra sự việc khủng khiếp ngoài sức tưởng tượng.
Hội Tư Mã Khôi đều bất ngờ, lúc này không ai buồn bận tâm đến những chuyện khác nữa, mọi người vội vàng hỏi Triệu Lão Biệt xem lão có biết thủ lĩnh của tổ chức Nấm mồ xanh là ai không? Triệu Lão Biệt tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi: “Các vị đã từng nhắc đến người này khi còn ở trong sa mạc Lâu Lan, trộm nghĩ chắc hẳn các vị đã tận mắt gặp kẻ đó rồi mới phải, việc đã biết rồi, sao cứ phải vặn vẹo mỗ mãi thế?”.
Tư Mã Khôi nói: “Gặp thì đúng là gặp rồi, nhưng lần đầu tiên thì mặt hắn bị mặt nạ da người của quốc vương Chăm Pa phủ lên, lần thứ hai thì bị mặt nạ phòng độc che mất, hắn ta chưa bao giờ để lộ khuôn mặt thật ra ngoài”. Triệu Lão Biệt chớp mắt nói đầy ẩn ý: “Việc này mỗ cũng không dám nói toạc hai năm rõ mười, chư vị cứ nghĩ kỹ lại xem, vì sao ‘không nhìn thấy cảnh sắc núi Lô Sơn’(2)”
2 “Không nhìn thấy cảnh sắc núi Lô Sơn”: là vế trước của một câu thơ được trích trong bài thơ “Đề tây lâm bích” của Tô Thức, nguyên văn là “Bất thức Lô sơn chân diện mục, chỉ duyên thân tại thử sơn trung”, nghĩa là: Không nhìn thấy cảnh sắc núi Lô Sơn, cũng bởi thân đang đứngtrong núi. Câu thơ này mang hàm ý, nếu muốn biết diện mạo của một sự vật thì phải ra khỏi sự vật đó và nhìn toàn cảnh.


Hồi 6: RƠI XUỐNG

Nghe Triệu Lão Biệt nói vậy, những câu hỏi không lời đáp trong lòng Tư Mã Khôi lại càng lớn hơn, vì sao không nhìn thấy cảnh sắc núi Lô Sơn ư? Lẽ nào ý lão muốn ám chỉ – đội khảo cổ đã từng nhìn thấy khuôn mặt thật của Nấm mồ xanh, chỉ có điều từ đầu chí cuối mọi người đều không ngờ rằng đó chính là Nấm mồ xanh?
Hải ngọng vốn nóng nảy, thô lỗ, khi gặp chuyện thường chẳng bao giờ chịu động não, cậu ta liếc xéo Triệu Lão Biệt một cái, rồi hỏi: “Đừng đánh đố tôi! Rốt cuộc khuôn mặt Nấm mồ xanh có gì kỳ quái? Lão nuốt phải gan hùm mật gấu hay sao mà dám ỡm ờ nửa vời với tôi?”
Tư Mã Khôi xua tay, ra hiệu bảo Hải ngọng đừng gạn hỏi lão ta nữa, anh biết Triệu Lão Biệt là dân giang hồ lõi đời, nếu lão đã không muốn nói thật thì dẫu có vác gậy sắt cậy miệng lão ra cũng vô dụng, bị ép quá lão lại bịa chuyện để ứng phó thì chẳng thà không nói cho xong, hai bên đều để chừa đường lui cho đối phương thì sự việc sẽ kết thúc êm đẹp hơn.
Hơn nữa, Tư Mã Khôi cũng cảm thấy thực ra những lời Triệu Lão Biệt vừa nói ra tuy khá mập mờ nhưng lại ẩn chứa khá nhiều thông tin, ví dụ: bản thân tấm bia Vũ Vương chỉ là một tảng đá bình thường, tộc người Bái Xà khắc bí mật lên mặt đá bằng chữ triện cổ, mấy hàng chữ ấy dường như vạch ra nguyên lý của vạn vật, đó là một ẩn số đáng sợ không được phép dòm ngó.
Lúc này, Thắng Hương Lân mới lên tiếng hỏi Triệu Lão Biệt: “Triệu sư phụ, xin hỏi lão đến đây bằng cách nào?”
Triệu Lão Biệt không hề có ý giấu giếm chuyện này, lão thành thật kể lại mọi việc xảy ra lúc đó. Sau khi đến Tây Tạng, lão cùng hội người Anh đến Ấn Độ tìm cơ hội. Tuy trải qua bao lần thất bại, nhưng nhóm người Anh vẫn không chịu từ bỏ, lại còn bàn tính lôi kéo thêm mấy trợ thủ nữa xâm nhập thành Nhện Vàng. Triệu Lão Biệt khoe khoang mình biết bí mật về long ấn triều Hạ và sóng điện u hồn, nhưng ở đó sương mù dày đặc gây chết người che phủ kín khe cốc, chỉ có loài rắn bay mới có thể xuyên qua đám sương ấy, bởi vậy muốn vào thành buộc phải điều khiển được rắn bay, không những vậy còn phải có được lớp da mặt tựa thần Phật của quốc vương Chăm Pa, thiếu một trong hai điều kiện đều không được.
Vào thời điểm ấy, tên trùm tổ chức ngầm chuyên không chế việc buôn bán vũ khí và thông tin tình báo đã mua tin này với giá cực đắt, đồng thời yêu cầu Triệu Lão Biệt dẫn nhóm của hắn đến Miến Điện. Triệu Lão Biệt vô tình biết bí mật chôn giấu trong thành Nhện Vàng liên quan đến một thông đạo dẫn xuống vực sâu, vực sâu dưới lòng đất ấy nằm phía dưới cửu tuyền, đó là nơi vạn kiếp không thể siêu sinh. hoatanhoano.wordpress.com
Triệu Lão Biệt tham sống sợ chết, nhưng cũng vô cùng khiếp sợ Nấm mồ xanh, lão biết rõ sau khi xong việc, chắc chắn bọn chúng sẽ giết mình để diệt khẩu hoặc nếu không sẽ ép mình xuống vực sâu dưới lòng đất, thế là lão đánh bài chuồn, nhờ người chỉ điểm, lão đi một lèo từ Miến Điện sang Ấn Độ, rồi chạy sang biên giới Nepal.
Tổ chức phái người đuổi theo truy sát, suýt nữa Triệu Lão Biệt đã lâm nạn, cuối cùng lão may mắn được Thợ săn – một thành viên từng đào tẩu khỏi tổ chức – cứu mạng. Thợ săn tên thật là Hunting, có dòng máu Hoa lai Ấn, tầm ngoài hai mươi tuổi, từng là quân nhân Anh gốc Ấn, cậu ta là người rất nhanh nhạy, quả cảm, giỏi leo núi, săn bắn và trinh thám, thân thủ phi phàm, cậu ta dẫn Triệu Lão Biệt đến một căn cứ bí mật.
Trong căn cứ còn có vị đội trưởng tiền nhiệm của một đội khảo cổ Pháp lưu trú tại Ấn Độ, vị đội trưởng này dành cả cuộc đời để nghiên cứu về tộc người Bái Xà cổ đại, Hunting là trợ lý của ông ta. Lúc đó, ông ta đang khảo sát địa hình của dãy Himalaya để tìm xem cửa động dẫn vào vực sâu nơi tâm Trái đất nằm ở đâu, rồi nghĩ cách phá hủy những bí mật cổ xưa đến mức không thể cổ xưa hơn được khắc trên tấm bia Vũ Vương, để hoàn thành nhiệm vụ này, bọn họ quyết tâm mai danh trốn trong núi.
Đội trưởng và Thợ săn phát hiện thấy một thông đạo nằm phía dưới dãy Himalaya, nhưng vì thời cơ chưa chín muồi nên họ vẫn chưa có cách gì xuống dưới đó được. Lần hành động này bí mật tuyệt đối, người ngoài không một ai hay biết, nay Thợ săn vô tình cứu được Triệu Lão Biệt và đưa lão về đây thì cũng không thể để lão bỏ đi được. Còn Triệu Lão Biệt cũng suýt bị người của tổ chức ngầm ám sát, lão đã sợ mất mật rồi, nên cũng không dám lộ mặt ra ngoài, từ đó đành trốn biệt trong núi sâu, âm thầm giúp đỡ vị cựu đội trưởng đội khảo cổ chuẩn bị mọi việc, đi thu thập tài liệu ở khắp nơi.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, Triệu Lão Biệt trốn trong núi thoáng cái đã mấy năm, nhờ hành sự cẩn trọng nên tung tích của cả nhóm vẫn không bị bại lộ, sau đó căn cứ lại có thêm ba người khác, Triệu Lão Biệt không nhớ rõ tên của họ, chỉ đặt biệt hiệu cho họ theo diện mạo bên ngoài. Gã Râu xồm là phi hành gia của không quân hoàng gia Anh, nay đã xuất ngũ, gã này tính tình cứng nhắc, nghiêm khắc, mặt xồm xoàm toàn râu. Người thứ hai có biệt tài nghĩ ra những phát minh cổ quái, Triệu Lão Biệt gọi gã là Kỹ sư; ngoài ra còn có một nhà khoa học nữ chuyên nghiên cứu về sinh vật cổ, cô em này được Triệu Lão Biệt đặt biệt danh là Mũ trắng. Tính cả đội trưởng, Thợ săn và Triệu Lão Biệt, thì đoàn thám hiểm xuống lòng đất lần đó có cả thảy sáu người.
Khi thời gian sắp điểm thì trong núi đột nhiên xảy ra cơn địa chấn mức độ vừa phải, kim từ đặt trong bát nước bỗng dưng rối loạn phương hướng. Đội trưởng bảo thời cơ đã chín muồi, mọi người lập tức chuẩn bị xuất phát. Trước lúc khởi hành, đội trưởng còn cẩn thận nói rõ cho mọi người cách sắp xếp bố trí của cả chuyến hành động.
Đội trưởng nói, căn cứ vào các di tích mà hậu thế phát hiện, ông suy đoán, thời tiền sử đã tồn tại một nền văn minh cổ đại với quy mô khá lớn, nhưng không được đặt tên cụ thể, hậu thế quen gọi cụm từ di tích này là “nước Tây Cực”, người sáng lập ra cổ quốc này là tổ tiên của người Bái Xà. Trong quan niệm tôn sùng bái tô tem nguyên thủy, rắn mang ý nghĩa tượng trưng cho vòng tròn luân hồi hỗn độn sinh sản, đồng thời còn tượng trưng cho một vòng tròn quái dị nằm dưới lòng đất. Mức độ phát triển của nền văn minh này cũng tương đương với nền văn minh Ai Cập cổ hoặc Ấn Độ cổ.
Sau đó, nạn đại hồng thủy đã hoàn toàn nhấn chìm di tích này dưới lòng nước sâu, những nội dung trong các ghi chép còn sót lại cùng lắm chỉ bằng một phần trăm những gì từng tồn tại. Trước khi xảy ra nạn đại hồng thủy tiền sử, khá nhiều người Bái Xà đã thâm nhập lòng đất và sinh sống tại các hang động sâu hút. Trong khi đó, ở cửu tuyền thăm thẳm có một tảng đá khổng lồ vẫn say ngủ trước miếu thần, trên mặt phiến đá khắc một nội dung vô cùng đáng sợ.
Thời kỳ Hạ Thương Chu, người ta bắt đầu gắn truyền thuyết về đúc đỉnh Đồ Sơn Vũ Vương và tảng đá ấy liền với nhau, thực ra vương triều nhà Hạ chỉ bắt rất nhiều hậu duệ của người Bái Xà làm tù binh và nô dịch, những nô lệ này vẫn sùng bái tấm bia đang bị vùi chôn dưới lòng đất, họ hi vọng sẽ tìm thấy tấm bia đó, hòng lật đổ ách thống trị của vương triều nhà Hạ. Nghe nói, tuy rằng trên tấm bia khắc hàng trăm chữ triện cổ, nhưng thực ra nội dung viết trên đó không nhiều, chỉ có một hai câu nói. Trong rất nhiều lời tiên đoán cổ xưa, người ta đều cảnh báo tuyệt đối không được thăm dò bí mật khắc trên phiến đá, thậm chí đến sờ cũng không được, nhưng nguyên nhân vì sao thì vẫn là một ẩn số, khó lý giải giống như bản thân tảng đá. Đội thám hiểm do vị cựu đội trưởng đội khảo cổ tổ chức muốn chớp thời cơ, xâm nhập miếu thần, tìm thấy tấm bia, điều tra sự thật về bí mật chôn giấu dưới lòng đất nhanh hơn Nấm mồ xanh một bước. Có điều, họ cũng cho rằng không nên nhìn trộm bí mật khắc trên tấm bia, mà chỉ sử dụng thuốc nổ để phá hủy nó một cách triệt để, nhằm tránh những thảm họa mà nó có thể gây ra. hoatanhoano.wordpress.com
Khu vực núi không có đường đi, trong khi đội thám hiểm lại phải mang vác rất nhiều trang thiết bị, bao gồm lương thực, vũ khí, dược phẩm, xuồng cao su, thiết bị chiếu sáng, thuốc nổ, thiết bị thám trắc… Vì vậy, đội thám hiểm đành thuê một nhóm phu khuân vác và mấy chục con ngựa để vận chuyển.
Triệu Lão Biệt nghe nói đội phu khuân vác chỉ đưa mọi người đến điểm xuất phát là sẽ quay về, nên trong lòng rầu rĩ, đội thám hiểm chỉ có sáu người, phải làm cách nào để khuân hết được đống hành lý khổng lồ đấy đây?
Họ đến một sơn cốc nằm ở sườn tây của dãy Himalaya, ngửa mặt lên chỉ thấy bầy ruồi bay lượn vo ve như máy bay tập kích. Khe núi trong sơn cốc sâu hoắm, vào bên trong là không nhìn thấy mặt trời. Cả đoàn châm đuốc lên, men theo khe cốc không ngừng tiến sâu vào trong, dọc đường, họ gặp mấy vách thành tường sụp đổ, hoang phế, nom như di tích của một ngôi miếu nào đó, đi tiếp vào trong thì tới điểm tận cùng. Đó là một hang động lớn, địa thế gần như dựng đứng, phía dưới đen ngòm, lạnh teo teo, không nhìn thấy đáy.
Đám phu khuân vác vừa nhìn thấy bức tường còn sót lại liền thành khẩn quỳ mọp xuống, vái lạy liên hồi, sau đó họ dỡ hành lý của đội thám hiểm xuống đất, rồi dắt ngựa trở về theo đường cũ.
Triệu Lão Biệt nhìn đống thành lý chất cao như núi, lão dò hỏi tay Thợ săn đứng ngay cạnh: “Mấy người chúng ta thì làm sao mà khuân hết nhiều đồ thế này được?”,
Thợ săn chỉ tay vào bức bích họa còn sót lại trên tường, rồi nói: “Yên tâm, đội trưởng sẽ dùng cách này!”.
Triệu Lão Biệt tò mò tiến lại gần mấy bức bích họa quan sát cho kỹ, vừa nhìn lão đã sững người, bức họa thứ nhất vẽ hình một cô gái đang thè lưỡi hút dã thú kiểu sư tử, hổ, voi vào trong miệng. Bức họa thứ hai vẽ cô gái ấy nhả một tòa thành trì nguy nga lộng lẫy từ trong miệng ra.
Cô gái trong bức bích họa không biết là thần thánh phương nào, miệng và bụng của ả ta giống như cái động không đáy, có thể nuốt chửng vạn vật trên đời, rồi lại có thể ọc ra cả một tòa thành trì chỉ trong nháy mắt.
Triệu Lão Biệt cũng hiểu đôi chút về chuyện kỳ quái này, trước kia lão từng đến Hán Trung và nghe một đồng đạo kể rằng: thời Đường có một thương nhân đi làm ăn xa ở Trường An, sau khi bán hết hàng hóa, ông ta mua một con ngỗng nhốt trong lồng trúc, cõng trên vai, một mình trở về quê. Dọc đường, ông ta gặp một chàng thư sinh đang ngồi nghỉ ngơi dưới gốc cây, thấy người thương nhân nọ đi đến, anh ta vội đứng dậy hành lễ. Chàng thư sinh thanh minh mình không quen đi đường dài, nên bàn chân sùi hết bọng máu, quả thực không thể đi tiếp được nữa, anh ta khẩn cầu vị thương nhân nọ làm ơn để anh ta chui vào trong lồng trúc và mang anh ta đi một đoạn. Vị thương nhân nọ cho rằng chắc anh ta chỉ nói đùa, bèn nói: “Lồng trúc nhỏ thế này, huồng hồ lại nhốt một con ngỗng bên trong, nếu cậu chui vào trong đó được, thì tôi gánh cậu một đoạn cũng chẳng hề gì”. Không ngờ, chàng thư sinh vừa cúi đầu một cái đã chui tọt vào bên trong, chẳng những không phải chen chúc với con ngỗng mà trọng lượng của lồng trúc cũng không hề tăng lên. Vị thương nhân thầm lấy làm kinh ngạc, ngặt nỗi lời đã nói ra thì không thể nuốt lại, nên ông ta đành cõng lồng trúc tiếp tục gấp gáp lên đường. Đến trưa, ông ta dừng lại nghỉ chân, chàng thư sinh trong lồng cũng chui ra, nói: “May được ân nhân giúp đỡ, nếu tiểu sinh không có gì báo đáp, chỉ xin mời ân nhân chén rượu nhạt, rồi ngồi hàn huyên đôi điều tâm sự, coi như tỏ lòng thành ý của tiểu sinh với ân nhân”. Vị thương nhân nọ nghe vậy thì ngạc nhiên hỏi: “Ở đây không có quán hàng, cậu lại tay không, chẳng lẽ ủ rượu ngay tại đây à?”. Chàng thư sinh chỉ cười không đáp, rồi đột nhiên há to miệng, nhả ra một hộp cơm, bên trong hộp toàn cao lương mỹ vị, tiếp đó anh ta lại nhổ ra một bình rượu ngon và hai cái chén. Xong đâu đấy, anh ta ngồi xuống uống rượu cùng vị thương nhân, vừa đánh đàn vừa hát, dường như chưa thỏa hứng, anh ta còn muốn ái thiếp mình yêu quý nhất đến múa phụ họa, thế là anh ta lại há miệng nhả ra một mỹ nữ tuyệt sắc, vóc dáng hết sức yểu điệu, nàng vâng mệnh múa hát và rót rượu phục vụ hai người. Vị thương nhân nọ chưa bao giờ nhìn thấy giai nhân xinh đẹp như vậy nên đờ người ra nhìn, quên cả thưởng thức rượu ngon mỹ vị. Còn chàng thư sinh hứng chí quá uống rượu tì tì, say quá ngã lăn ra đất ngủ luôn, lay thế nào cũng không tỉnh. Mỹ nhân thấy phu quân của mình say bí tỉ, liền quay sang nói với vị thương nhân: “Nô tì vốn có một lang quân tâm đầu ý hợp, nô tì muốn nhân cơ hội này gọi chàng đến, mong đại nhân giơ cao đánh khẽ, kín miệng giùm nô tì, nếu chủ nhân mà biết thì nô tì khó tránh bị người trách phạt”.
Vị thương nhân ngờ nghệch gật đầu, rồi ông ta thấy mỹ nhân nọ khẽ mở khuôn miệng xinh xắn, nhả ra một đại hán râu xồm. Tên này hi hí cười dâm đãng, chắc chắn không phải hạng người lương thiện, hai người thậm thụt với nhau vài câu, rồi dắt tay nhau ra sau gốc cây mây mưa hoan lạc. Một nam một nữ vừa mới hú hí đến nửa chặng, thì chàng thư sinh đang say nhè, nằm ngủ trên mặt đất đột nhiên vươn vai dường như sắp tỉnh dậy. Ả tì thiếp thất sắc sợ hãi, nuốt vội đại hán râu xồm vào miệng, rồi hốt hoảng chỉnh đốn trang phục, đầu tóc. Lúc này, chàng thư sinh đã ngồi đậy, lấy tay dụi mắt, sau đó quay sang trịnh trọng hành lễ với vị thương nhân: “Tiểu sinh say rượu đã thất lễ trước mặt ân nhân rồi, xin ân nhân đại xá cho, từ đây cách nhà không còn xa, tiểu sinh xin cáo biệt, hẹn ngày tái ngộ”, nói xong, anh ta nuốt mỹ nhân cùng bình rượu và hộp cơm vào miệng, rồi đi vào rừng và mất hút. hoatanhoano.wordpress.com
Lúc đó, nghe câu chuyện này, Triệu Lão Biệt cảm thấy thật ngoài sức tưởng tượng, bèn hỏi đồng đạo phải chăng trên đời thực sự tồn tại loại dị thuật này?
Vị đồng đạo kia nói, dị thuật này được gọi là phép ảo thuật dịch chuyển càn khôn, cho dù có tồn tại thật thì nó cũng không phải pháp thuật của đông thổ Đại Đường chúng ta, mà chắc chắn được du nhập từ Ấn Độ, chỉ người Ấn Độ mới nghĩ ra được loại pháp thuật quái dị như vậy.
Hôm nay, tận mắt nhìn thấy bức bích họa dưới núi Himalaya, Triệu Lão Biệt mới biết truyền kỳ này không phải là giả, quả nhiên thuật ảo hóa di chuyển bắt nguồn từ đây, thế là lão quay sang Thợ săn, rồi bảo: “Không ngờ trong đội ngũ của mình có nhân vật kiệt xuất ngọa hổ tàng long, thông hiểu dị thuật cao siêu tầm cỡ này, hay là truyền lại cho mỗ, có công phu này trong tay lo gì ngày sau không thể tiêu dao bốn bể?”
Đội trưởng đứng bên cạnh nghe thấy, liền bảo Triệu Lão Biệt đó chỉ là chuyện hoang đường, sao lại coi là thật? Nội dung bức bích họa miêu tả trong chùa chỉ là sự ẩn dụ của cổ nhân, ám thị muốn thâm nhập lòng đất thì phải trượt từ trên trời xuống, chính vì vậy, chúng ta còn cần đến một đồng sự nữa, tôi đặt tên cho đồng sự này là “nhà thám hiểm Corot Maar”.


Hồi 7: CHEO VEO

Theo lời thuật của Triệu Lão Biệt, vị đội trưởng nọ cho rằng trong lịch pháp của Bà la giáo Ấn Độ cổ đại, cứ mấy chục năm lại xuất hiện một lần “thiên địa xâm thực”. Vào năm đó, thời gian ở sườn tây dãy Himalaya sẽ biến mất một ngày, chính khoảnh khắc ấy, trời đất sẽ nuốt nhả lẫn nhau. Hiện tượng dự báo trước khi điều này diễn ra là khu vực đó sẽ liên tục xảy ra động đất, kim chỉ cực từ không ngừng đảo lộn vị trí, gió từ trong cửa động của ngọn núi lửa chết bỗng nhiên thổi ra ù ù. Hình ảnh nữ thần nuốt nhả thành trì trên bích họa trong tự miếu chính là một cách mô tả lại truyền thuyết cổ đại này.
Trên thực tế, hiện tượng này xảy ra do tác dụng của núi từ ở đại dương dưới lòng đất, đến lúc ấy quanh thủy thể sẽ xuất hiện rất nhiều hải động, địa tầng đứt gẫy, hình thành vô số huyệt khí khổng lồ có hình dạng xoáy nước, đội thám hiểm có thể nắm bắt cơ hội này, tránh ảnh hưởng của từ trường dưới lòng đất và sương từ để xuyên qua lỗ động của núi lửa chết, mượn lực đẩy của dòng khí đối lưu, trượt xuống thẳng vực sâu hàng vạn mét. Do thời khắc thông đạo xuất hiện vô cùng ngắn ngủi nên chúng ta buộc phải đáp lên “nhà thám hiểm Corot Maar”.
Căn cứ vào lịch pháp cổ đại, đội trưởng suy đoán, giờ vẫn chưa phải thời khắc thông đạo xuất hiện, nhưng vô số hiện tượng bất thường trước mắt đều cho thấy núi từ trong lòng đất sắp xảy ra biến cố trọng đại, may mà đội thám hiểm đã chuẩn bị kỹ càng suốt nhiều năm, nên giờ dẫu khởi hành có hơi đột ngột thì họ vẫn triển khai hành động theo phương án đã dự liệu từ trước.
Tư Mã Khôi nghe đến đây mới biết, ngoài hội anh ra, thì vẫn còn một đội thám hiểm khác đang âm thầm hành động, đội thám hiểm này muốn xâm nhập vực thẳm dưới lòng đất thông qua dãy núi Himalaya. Có vẻ như những gì đội thám hiểm đó đã làm trong núi Âm Sơn khiến thông đạo xuất hiện sớm hơn bình thường. Ngoài ra, vị đội trưởng kia nắm được manh mối và tư liệu còn sát thực và tường tận hơn cả đội khảo cổ nhiều lần, nhưng bây giờ anh chỉ thấy một mình Triệu Lão Biệt xuất hiện ở đây, không biết những thành viên khác của đội thám hiểm sống chết thế nào? “Nhà thám hiểm Corot Maar” rốt cuộc là ai?
Hội Tư Mã Khôi còn muốn hỏi Triệu Lão Biệt xem chuyện gì đã xảy ra với đội thám hiểm sau khi họ xuất phát từ huyệt động dưới miếu tự?
Lúc này, trên đầu họ bỗng dưng xuất hiện tiếng sấm rền ùng ùng từng chặp, dưới chân rung chuyển ầm ầm, mọi người thầm biết chắc sắp xảy ra chuyện lớn, nhưng ngặt nỗi cả hội đang đứng giữa đám sương mù nên không thể nhìn rõ tình hình xung quanh, lòng dạ ai nấy đều thấp thỏm bất an. hoatanhoano.wordpress.com
Cao Tư Dương khoác súng trường lên lưng, cô trèo lên chỗ cao, nơi sương mù chưa bao phủ tới của vỏ ốc cúc đá để quan sát. Nhờ ánh sét lóe lên, cô trông thấy trong cột mây hình nấm đó, khói đen đặc quánh chịu sự cản trở của áp lực đang dần dần lan tỏa ra tứ phía, tựa như một chiếc ô khổng lồ màu đen trải rộng cả ngàn mét, bủa vây khắp không trung trong địa cốc, lúc này xuất hiện vô số cột khói đen kịt rủ xuống, lớp bụi khói màu dày và đen đặc đang từ từ tan ra, cảnh tượng này thật chẳng khác nào thế giới đang cận kề ngày tận thế.
Cao Tư Dương vội vàng gọi Tư Mã Khôi: “Anh lại đây xem mau lên, trụ mây nấm sắp sụp xuống rồi!”
Tư Mã Khôi trèo lên quan sát, anh cũng cảm thấy tình hình không ổn, tàn tích của chiếc tàu Z-615 bị nguyền rủa đã xuyên vỡ địa tầng, khiến khói đen tích tụ trong mạch đá phun trào, rồi sụt vỡ rơi xuống từ trên cao, nếu bị những mảng khói đen quánh đặc và bỏng rát ấy rơi trúng đầu thì cho dù không bị cháy thành than cũng bị sặc khói mà chết.
Mọi người tần ngần đứng tại chỗ hồi lâu, dẫu có tiến về phía trước thì với tốc độ chậm như rùa bò thế này, cả hội cũng không thể chạy thoát ra khỏi phạm vi nấm mây che phủ, mắt nhìn mây đen lặng lẽ rơi xuống rào rào, nhất thời không biết trốn ở đâu, Tư Mã Khôi đành leo xuống vỏ ốc cúc đá, rồi bảo những người còn lại khoác ba lô và súng lên vai, chuẩn bị tìm đường chạy trốn.
Triệu Lão Biệt cũng hốt hoảng, lão chỉ về phía sau lưng, rồi bảo mình vừa chạy đến từ đằng ấy, nơi đó có chỗ lánh nạn.
Tư Mã Khôi không dám nhẹ dạ cả tin, anh liếc xéo Hải ngọng, ra hiệu không được thả Triệu Lão Biệt, đề phòng xảy ra biến cố.
Hải ngọng túm chặt lấy cánh tay Triệu Lão Biệt, nói: “Cho dù lão tặc này có bản lĩnh bay lên trời chui xuống đất, thì cũng đừng mong chạy thoát khỏi tay Hải ngọng tớ!”
Lúc này, Cao Tư Dương tung người nhảy xuống, cuống quýt nói: “Khói đen sắp rơi xuống rồi, chạy mau!”
Tư Mã Khôi lập tức dẫn đoàn chạy vội về phía trước theo chân Triệu Lão Biệt, xuyên qua khe hẹp của đám khói bụi dày đặc. Dọc đường vừa đi vừa tránh bụi, cả hội cũng tháo chạy được một quãng khá xa, địa hình phía trước bỗng nhiên xuất hiện một khe nứt sâu khá rộng rãi, trên vỏ ốc cúc đá bên cạnh treo hai sợi dây thừng to cỡ cổ tay, đầu còn lại của sợi dây rủ xuống khe nứt, dường như đang treo vật gì đó rất lớn.
Cả hội rạp người, cúi đầu xuống quan sát, phía dưới tối thui không nhìn thấy bất cứ thứ gì, Hương Lân rút một cây đuốc ra, châm lửa rồi vứt xuống dưới, cầu ánh sáng của bó đuốc không ngừng lăn lông lốc xuống dưới, xé tan bóng đêm u tịch, cô trông thấy dưới đáy động có thỏi pha lê thiên nhiên cao tầm trên trăm mét, nơi cách cửa động chừng trên chục mét có một đám vật thể không rõ là da thú hay vải buồm, bên trên có vết tích may vá nối ráp, còn có rất nhiều sợi dây thừng treo trong đám pha lê.
Cầu ánh sáng của thanh đuốc càng lúc càng nhỏ, lăn đến phía sâu bên dưới thì tắt ngóm, cô đoán đáy động có nước tù nên ngọn đuốc mới bị dập tắt.
Thắng Hương Lân ngạc nhiên nói: “Nhà thám hiểm Corot Maar… là khinh khí cầu bay dưới lòng đất sao?”
Mọi người đều cảm thấy đáp khinh khí cầu bay vào không động nơi tâm Trái đất là chuyện không tưởng, nhưng nhóm thám hiểm mà Triệu Lão Biệt tham gia lại dám thực hiện ý tưởng điên rồ này, không những vậy lại còn thực hiện thành công, điều đó chứng tỏ họ đều là những người có trí tuệ và lòng dũng cảm phi thường, hiện giờ đội thám hiểm này vẫn ở trong huyệt động sao?
Lúc này, khói đen không ngừng rủ xuống, cảm giác nóng rát khiến cơ thể khó lòng chịu đựng thêm được nữa, tuy nơi sâu trong hố động cũng khô nóng, nhưng tạm thời vẫn có thể chịu được, mọi người vội vã bám dây thừng, leo lên phần đỉnh của trụ pha lê trơn nhuồi nằm nghiêng nghiêng. Họ soi đèn quặng xung quanh khu vực đang đứng thì thấy tứ bề toàn là các tinh thể trong suốt xếp hàng đều tăm tắp, nhờ đó hiệu quả ánh sáng được khuếch đại lên mấy lần, tầm nhìn bỗng chốc trở nên khoáng đạt khá nhiều, trong khi ấy đám khói đen được dòng khí đối lưu cản lại bên ngoài huyệt động.
Đứng trên đỉnh trụ pha lê khổng lồ, mọi người phát hiện từ chân cho đến đỉnh trụ phải cao tầm trăm mét, rừng rậm pha lê đan cài ngang dọc, địa thế hiểm trở, khu vực xung quanh và dưới chân đều phản chiếu vô số hình chiếu lớn nhỏ, trong vách huyệt động khảm đầy mã não và pha lê, chẳng khác nào một kỳ quan hiếm thấy.
Tư Mã Khôi bảo Nhị Học Sinh thắp thêm một cây đuốc nữa để chiếu sáng, mọi người đưa mắt nhìn dọc theo sợi dây thừng, thì thấy một khung vỏ hình hộp treo nghiêng trên vách, bên ngoài lắp mấy ngọn đèn pha cường quang đều đã vỡ hỏng, xung quanh không một bóng người, trên mặt đất vương vãi đầy những thỏi chì nặng trịch và từng thùng trang thiết bị. Xem dấu vết để lại, có vẻ như lúc đáp xuống đất, “nhà thám hiểm Corot Maar” đã bị mất kiểm soát, nó rơi xuống huyệt động nứt vỡ dưới đáy cốc, cuối cùng mắc lại cheo veo trên đỉnh khu rừng rậm pha lê quy mô rộng lớn khiếp người này.
Tư Mã Khôi, Thắng Hương Lân và Cao Tư Dương xuống dưới lục soát, còn Hải ngọng và Nhị Học Sinh phụ trách trông chừng Triệu Lão Biệt.
Hải ngọng thấy gần đó có chiếc thùng gỗ, bên trên đánh dấu ký hiệu, có lẽ là trang thiết bị rơi xuống từ “nhà thám hiểm Corot Maar”. Tuy nấm thịt mọc dưới lòng đất có thể tạm thời lấp đầy dạ dày, nhưng sau khi hái xuống, chúng mau chóng trở nên khô quắt như vỏ cây, mang theo trên người cũng vô nghĩa. Hải ngọng thầm nghĩ, có lẽ trong thùng có đồ hộp và lương khô, không chừng còn có cả thuốc lá cũng nên, thế là anh kéo Triệu Lão Biệt lại gần kiểm tra. Anh bảo Nhị Học Sinh cầm đuốc đứng cạnh hỗ trợ chiếu sáng, nhưng khi anh lấy dao nạy thùng gỗ thì phát hiện bên trong phủ mấy tầng vải chống ẩm, phía dưới lớp vải nêm chặt thuốc nổ hạng nặng chuyên dùng trong quân đội.
Nhân cơ hội Hải ngọng sững người trong giây lát, Triệu Lão Biệt giằng mạnh tay ra, thân pháp của lão vô cùng nhanh nhẹn, lia tay cướp lấy cây đuốc của Nhị Học Sinh, “vèo” một cái lão đã lộn nửa vòng, liệng qua thùng gỗ chứa đầy thuốc nổ, dẫn cháy ngòi nổ, rồi lập tức rút lui, bám sợi dây thừng trèo lên miệng động.
Hai người phát giác tình hình có biến, tim đập hụt một nhịp, rồi chợt hiểu ra: “Thôi, thế là mắc lừa lão già khốn kiếp!”
Hải ngọng tức giận đến cực điểm, anh lập tức giương súng săn, định bắn tan xác Triệu Lão Biệt, nhưng thùng thuốc nổ đã bị dẫn cháy, đang phát ra những tiếng “xè xè” gấp gáp và nhả đầy khói trắng. Anh hiểu rõ từng đó thuốc nổ đủ để đánh sập cả hang động này, nên đành chạy về phía trước, hợp lực với Nhị Học Sinh thục mạng đẩy thùng thuốc nổ từ trên cao lăn xuống, trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, thùng gỗ đã rơi xuống nước, còn Triệu Lão Biệt cũng kịp bò lên tới miệng động, đồng thời thả cho sợi dây treo phía trên động tuột xuống. hoatanhoano.wordpress.com
Tư Mã Khôi vội vàng quay trở lại, thấy nơi cao nhất của rừng rậm pha lê còn cách miệng động tầm hơn chục mét, địa thế huyệt động trên hẹp dưới rộng, dòng khí đối lưu ở cửa động hoạt động rất mạnh mẽ, dẫu có móng vuốt của thạch sùng cũng không thể quăng mình lên đó được, không có sợi dây thừng đồng nghĩa với việc đội khảo cổ rơi vào tuyệt cảnh ngồi đáy giếng ngắm trời, lòng tự rủa sao mình khinh suất thể, rồi anh ngẩng đầu hét gọi Triệu Lão Biệt.
Hội Hải ngọng thấy phản ứng của Tư Mã Khôi, thì đều rõ dụng ý của anh, chỉ cần lão ta thò đầu ra khỏi đám khói đen trên miệng động, là lập tức nhả đạn bắn chết, thế là mọi người lẳng lặng lên nòng súng đợi chờ thời cơ.
Tư Mã Khôi hét gọi hồi lâu mà vẫn không thấy Triệu Lão Biệt xuất đầu lộ diện, anh chợt nảy ra một ý, bèn nói: “Triệu Lão Biệt, tôi thấy trên người lão thiếu mất một vật, lão có muốn lấy lại nó không?”
Triệu Lão Biệt đứng ở phía trên, đột nhiên nghe thấy Tư Mã Khôi nói vậy, lão bất giác vừa kinh ngạc vừa sợ hãi. Thì ra, gốc gác lai lịch mà lão một mực không chịu nói ra, quả nhiên không khác với suy đoán của Tư Mã Khôi là bao, kẻ biệt bảo phân hồn bằng con rối người, họ đi khắp bốn phương hành thuật biệt bảo, nếu chẳng may xảy ra sự cố, thì để con rối gánh vác hậu quả, nhưng muốn được như vậy trong mạch của con rối phải chôn giấu viên biệt bảo do chính họ nuôi dưỡng từ lâu, sau khi xong việc bất luận khó khăn thế nào, họ buộc phải tìm được xác chết của con rối, cắt mạch để thu hồi lại viên biệt bảo, nếu không thì hồn vía khó vẹn toàn, có sống cũng nửa người nửa quỷ, sau khi chết đi hồn vía sẽ vĩnh viễn bị tiêu tán.
Triệu Lão Biệt chỉ phát hiện thấy một cỗ tử thi khô quắt dưới sa mạc Lâu Lan, cỗ tử thi còn lại thì không biết tông tích hiện ở đâu, lão ta tìm kiếm suốt bao năm ròng mà vẫn không có kết quả, lão cho rằng bí mật ghi chép trên bia Vũ Vương kinh thiên động địa, chỉ cần liếc mắt một cái là thấu hiểu được nhân quả của muôn hình vạn tượng trên đời, muốn biết điều gì thì đều có thể tìm thấy đáp án trên đó, như vậy đương nhiên cũng có thể tìm thấy tông tích của con rối người đang thất lạc kia, chính vì thế lão không tán thành với kế hoạch phá hủy bia đá của đội thám hiểm và âm thầm vạch ra âm mưu đen tối của riêng mình.
Khí cầu của đội thám hiểm đi vào tâm Trái đất thì gặp sự cố, sau khi mất lái, nó treo vắt vẻo trên phần đỉnh của rừng rậm pha lê khổng lồ, cú va chạm dữ dội khiến các thành viên trong đội kẻ thì chết, người thì bị thương nặng. Triệu Lão Biệt cũng bị thương, nhưng chưa đến nỗi mất mạng. Lão ta lấy oán trả ân, sau khi lấy được cuốn sổ ghi chép tất cả các đầu mối, tư liệu trên người đội trưởng, lão đã đẩy tất cả người chết, người bị thương xuống dòng nước, lão cho rằng tự mình có thể tìm thấy bia Vũ Vương, nhân tiện tìm luôn tông tích của con rối còn lại, từ đó tiêu diệt tận gốc mọi hậu họa.
Triệu Lão Biệt hại chết tất cả thành viên của đội thám hiểm xong liền theo sợi dây leo lên miệng động, lão thấy khói đen bốc lên ngùn ngụt thì cho ràng đó chính là bia Vũ Vương chìm dưới vực sâu, nên liền chạy lại kiểm tra, nhưng không ngờ lại chạm trán với đội Tư Mã Khôi ở đó, lão đành nghĩ cách kéo dài thời gian, nhân lúc khói đặc hạ xuống, lão dụ hội Tư Mã Khôi đến gần chỗ “nhà thám hiểm Corot Maar” xảy ra sự cố. Lão biết, lòng huyệt động pha lê dưới đáy thâm cốc này có kết cấu phức tạp khác thường, toàn là rừng rậm pha lê tự nhiên, cao thấp chênh nhau cả trăm mét, chỗ nào cũng đày rẫy những nguy hiểm khó lường, tứ phía đều không có lối ra. Triệu Lão Biệt liền lừa đội Tư Mã Khôi xuống dưới đó, rồi thở phào nhẹ nhõm thoát lên trên, tuy luồng khói đen đày đặc, bỏng rát, nhưng không thể phương hại đến lão. Hội Tư Mã Khôi đương nhiên chẳng thể lường trước được những mưu sâu kế hiểm này trong bụng lão.
Triệu Lão Biệt đang dương dương tự đắc, đột nhiên lại nghe thấy Tư Mã Khôi đọc vanh vách lai lịch của mình, nên không khỏi kinh ngạc. Lão chẳng ngờ đối phương còn am tường cả bí thuật ấy, tuy nhiên lão không tin Tư Mã Khôi lại biết tông tích của con rối người, nên chỉ cười hềnh hệch, bảo: “Cậu quỷ quyệt còn hơn cả quỷ đấy, coi như mỗ đây dạy các cậu biết uống nước rửa chân của mỗ…”, lời còn chưa dứt, bỗng cảm thấy phía sau dường như có tiếng bước chân vọng đến, lão liền giật mình quay phắt lại nhìn, thì thấy một cái bóng từ từ lộ mặt trong làn khói đen.
Triệu Lão Biệt nhìn thấy Nấm mồ xanh, lão sợ đến nỗi sắc mặt phút chốc bỗng vàng ệch ra như nghệ, lão chỉ mải thối lụi né tránh, mà quên phía sau chính là miệng động, chân bước hụt vào khoảng không, trong sát na bao nhiêu hối hận và tuyệt vọng đều dâng trào đến tận tâm can, đúng là “sai một li đi một dặm”. Trong tiếng thét thảm thiết, người lão như cánh diều đứt dây cắm thẳng xuống đáy động.


Hồi 8: QUÁI THÚ DƯỚI HỒ SÂU

Hội Tư Mã Khôi đứng trên đỉnh của khối pha lê, ngẩng đầu nhìn lên miệng động, ánh đèn quặng chiếu đi chỉ thấy một khoảng tối mờ, mọi người đều không ngờ Triệu Lão Biệt bất ngờ lộn cổ ngã xuống đáy động, chỉ thấy lão ta rơi từ miệng động, rồi bị khối khí đối lưu chuyển động vòng tròn không ngừng nhào trộn, cuối cùng lao vun vút và rơi đánh rầm xuống đất, tiếng xương khớp gãy vụn nghe rõ mồn một, lão lăn lông lốc theo sườn dốc trơn nhuồi, cho đến khi thân thể bị một tấm pha lê lồi lên mặt đất chắn lại, miệng lão sùi ùng ục toàn bọt máu, chắc nội tạng đã bị vỡ nát, nhưng nhờ tấm áo da chuột che chắn, cộng thêm xương khớp rắn chắc, nên lão vẫn chưa đoạn khí ngay.
Thêm nữa, lúc lăn xuống, Triệu Lão Biệt va phải một tảng pha lê, giờ bỗng nghe một tiếng gẫy “rắc”, rồi cả khối tinh thể nặng gần trăm cân ào ào rơi xuống từ độ cao mười mấy mét, đập trúng đầu Triệu Lão Biệt, đầu lão bị đập vỡ tan, tóe lên như ngàn cánh hoa đào, phần thân dưới cổ nát bét đổ rầm xuống đất, chỉ có tứ chi vẫn khe khẽ co giật.
Từ lúc Triệu Lão Biệt bị rơi xuống cho đến lúc sọ bi đập nát bét, sự việc chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi. Mọi người đều kinh sợ đến mức chấn động tinh thần, tim gan lạnh ngắt, không hiểu chuyện gì đang xảy ra: “Rõ ràng Triệu Lão Biệt đã leo lên được miệng động, sao bỗng dưng lại nhảy xuống tự vẫn? Hay lão gặp phải thứ gì ở trên đó?”
Tư Mã Khôi xách súng trường đứng đợi hồi lâu, khói đen ngoài động vẫn liên tục phun trào chuyển động, anh không phát hiện có gì khác thường. Tư Mã Khôi thấy Triệu Lão Biệt chết quá thảm thì bảo Thắng Hương Lân, Cao Tư Dương, Nhị Học Sinh đến gần chỗ khinh khí cầu thu thập trang thiết bị vật tư cần thiết, còn mình và Hải ngọng trèo xuống kiểm tra tình trạng của lão.
Hai người trèo xuống khối pha lê dốc dựng đứng, lại gần thi thể Triệu Lão Biệt. Hải ngọng thấy máu tươi bắn tung tóe khắp mặt đất thì nhăn mày cảm thán: “Chết đen đủi thế này, có biến thành ma xuống âm gian, e rằng đến Diêm Vương cũng chẳng nhận ra lão là ai mất”.
Tư Mã Khôi bước đến sát xác lão, lục soát kỹ càng khắp người tử thi, anh thấy dưới nách lão ta quả nhiên cỏ một vết sẹo rất sâu, bèn lấy dao rạch ra, rồi moi từ trong ra hai cục thịt to như hai quả nhãn, trông tròn vành vạnh, bề mặt có nhiều tia máu, dường như có cả ngũ quan mặt người, mắt miệng hãy còn khe khẽ khép mở. Hải ngọng nhìn thấy, liền chụp lấy, ném xuống đất, rồi lấy chân giẫm bẹp như giẫm bong bóng cá.
Tư Mã Khôi thầm nghĩ, chắc Triệu Lão Biệt này là hàng thật, cộng với hai con rối người chết ở sa mạc Lâu Lan và nghĩa địa La Sư ở Trường Sa, lão ta đã chết cả thảy ba lần, giờ đây hai viên biệt bảo cũng đã bị giẫm nát, lão tặc này chắc chắn đã chết hẳn thành tro tàn khói bay rồi. Ngẫm đến tiền nhân hậu quả, Tư Mã Khôi gặp lão ta ba lần, lần lượt ở thành Đom Đóm trong nghĩa địa La Sư, ở chiếc hộp thời gian trong biển cát và ở vực sâu không đáy dưới cửu tuyền này, cả chuỗi sự kiện hoàn toàn là một vòng tuần hoàn nhân quả không thể nào tháo gỡ, nếu không có vòng tuần hoàn sống – chết ấy, số mệnh của tất cả mọi người đều sẽ đổi khác, giờ đây kẻ then chốt nhất của vòng tuần hoàn khép kín ấy đã không còn tồn tại, lão để lại cho hội anh một ẩn số rối nùi như đống tơ vò. hoatanhoano.wordpress.com
Lúc này, Hải ngọng đã lục soát khắp tử thi thêm một lần nữa, anh sờ thấy một cuốn sổ ghi chép trong ống quần lão, cuốn sổ chỉ nhỏ bằng bàn tay, dày tầm một phân, bìa bọc da thật vô cùng tinh tế, bên trong là loại giấy chống ẩm rất bền. Anh liếc mấy cái rồi đưa cho Tư Mã Khôi và bảo: “Trên người lão tặc này chẳng có tí lương khô nào cả, có mỗi cuốn sổ này, cậu xem dùng được không?”
Tư Mã Khôi cầm cuốn sổ, lật vài trang, bên trong ghi chép dày đặc, tất cả đều là tư liệu về tộc người Bái Xà cổ đại, không những vậy còn có rất nhiều hĩnh vẽ về tượng thần, tô tem, ngoài ra ghim khá nhiều bản đồ và ảnh chụp, thậm chí có cả sơ đồ phác họa về thiết kế của khinh khí cầu xuyên lòng đất. Tất cả những bằng chứng ấy đủ chứng minh đây chính là cuốn nhật ký của vị đội trưởng đội khảo cổ Ấn Độ lưu trú tại Pháp.
Tư Mã Khôi biết rõ tính quan trọng của cuốn sổ, nên anh lập tức trèo lên khối pha lê cao nhất, tìm Thắng Hương Lân, đưa cho cô xem bên trong viết những gì.
Thắng Hương Lân đọc lướt qua nội dung cuốn nhật ký, cô không kìm được sự kinh ngạc và kỳ lạ, cô nói người cầm đầu đội thám hiểm xâm nhập tâm Trái đất bằng khí cầu nhiệt từng là giáo sư hướng dẫn cho giáo sư Thắng Thiên Viễn – cha cô, nội dung ghi chép bên trong vô cùng chi tiết. Cô chỉ vào một trang cho Tư Mã Khôi xem, rồi bảo: “Anh xem, đây chính là tấm bia bị chôn dưới lòng đất, vì chữ triện cổ triều Hạ bắt nguồn từ chữ Bái Xà, cho nên hậu thế mới gọi tấm bia đá này là bia Vũ Vương, nói chính xác thì lẽ ra phải gọi nó là bia đá của người Bái Xà mới đúng”.
Tư Mã Khôi quan sát kỹ hình dạng tấm bia, bốn góc đều khắc hình đầu thú quái dị, bên cạnh có các chú giải, kèm theo những phân tích khó hiểu, những phân tích ấy không những không nói rõ trên phiến đá ghi chép những nội dung gì. Mà ngược lại còn thần thánh hóa khiến nó càng trở nên ảo diệu, thần bí. Trong giây lát, Tư Mã Khôi khó lòng lý giải được ý nghĩa của chúng, anh bèn giao cho Thắng Hương Lân và nhắc cô giữ cuốn sổ cẩn thận và nói trước mắt phải tìm đường thoát thân ra khỏi huyệt động đã.
Thắng Hương Lân gật đầu đồng tình, cuốn nhật ký là manh mối quan trọng để tìm kiếm tấm bia đá của người Bái Xà dưới vực sâu. Tuy đội thám hiểm xâm nhập lòng đất bằng khí cầu nhiệt đã lâm nạn, nhưng cuối cùng cuốn nhật ký lại rơi vào tay đội khảo cổ, nếu họ dưới suối vàng có hay, thì cũng yên lòng nhắm mắt.
Trong lúc mọi người nói chuyện, Hải ngọng đã thiêu xong thi thể của Triệu Lão Biệt. Mọi người dùng dây thừng kéo thùng gỗ trong vỏ khí cầu lên, cậy nắp ra, rồi thu thập các trang thiết bị vật tư, phát hiện trong đó có pin dự phòng, dầu hỏa, thuốc lá, lương khô và đồ hộp, không những vậy còn có mấy ngọn đèn quặng cường quang chiếu sáng cự ly xa. Mấy ngọn đèn quặng cổ lỗ sĩ của hội Tư Mã Khôi đã bị vùi dập đến nỗi gần tan xác pháo, mà mãi không có phụ kiện thay thế, may lúc này lại tìm thấy số đèn quặng mới, thực chẳng khác nào “mèo mù vớ cá rán”, có điều, cả hội không phát hiện thấy súng ống đạn dược, có lẽ trong lúc va chạm khi khinh khí cầu đáp xuống, vũ khí đã bị văng đi đâu mất.
Cao Tư Dương tìm thấy hộp y tế cấp cứu liền vác lên vai. Thắng Hương Lân bới được mấy đôi giày đi rừng, loại giày này đi vừa chắc chân lại vừa nhẹ, không những vậy còn tỏa nhiệt thoát khí, lại đóng loại đế giày hiệu Panama trứ danh, tốt hơn các loại đế cao su thông thường nhiều lần. Thắng Hương Lân liền chia giày cho mọi người thay cho đôi cũ.
Nhị Học Sinh vốn đang tuyệt vọng, giờ tìm thấy nguồn lương thực bổ sung, cậu ta liền cho rằng tình hình có chuyển biến tốt, chưa biết chừng mọi người lại có thể sống sót rời khỏi lòng đất, bởi thế tinh thần cậu ta bất giác phấn chấn hẳn lên, khí sắc cũng hồng hào hơn hẳn.
Hải ngọng được thể “đâm bị thóc chọc bị gạo”: “Ranh con nhà cậu đúng là ‘người chết đánh rắm thối’, tỉnh lại được rồi đấy à?”
Nhị Học Sinh phản pháo: “Từ ‘đánh rắm’ không được lịch sự lắm, xét về mặt chuyên môn mà nói… thì phải nói là ‘bom nguyên tử tinh thần đã phát nổ’ mới đúng”.
Tư Mã Khôi bảo: “Đừng vội mừng, rất có khả năng đây chính là huyệt động chôn xác, xuống dễ lên khó, hơn nữa nhiệt độ nơi này cao quá, nếu bị nhốt ở đây lâu, chúng ta cũng chết vì nóng mất”.
Hải ngọng nóng ruột như kiến bò chảo lửa: “Tớ thấy chúng ta giống như con tôm trong chõ nước sôi, nếu không mau tìm cách thoát khỏi đây, kiểu gì cũng bị hấp chín!”
Cao Tư Dương nói: “Hình như dưới đáy rừng rậm pha lê có nước, nhiệt độ ở đó có lẽ không cao như trên này, sao chúng ta không xuống đáy động tìm lối thoát?”
Tư Mã Khôi cũng cảm thấy cách này khả thi, nhưng anh không biết rõ kết cấu của rừng rậm pha lê, nên quay sang hỏi ý kiến Thắng Hương Lân xem kế hoạch này có thực hiện được không?
Thắng Hương Lân nói, trong huyệt động này mọc vô số tinh thể pha lê tự nhiên với quy mô khổng lồ, xung quanh đây chắc chắn phân bố rất nhiều ô đá rỗng tích đầy khói đen, có điều trầm tích hàng tỉ năm sẽ khiến một số khu vực bị phong bế nguội dần đi, cũng có thể sẽ tồn tại lòng hồ hình thành do nước tụ, nếu đó không phải hồ nước tù, thì chúng ta có thể sang được huyệt động bên cạnh, nhưng làm như vậy rất nguy hiểm, bởi vì không ai biết tình hình trong huyệt động kia thế nào, đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ chui vào một mê cung thiên nhiên với kết cấu vô cùng phức tạp, chỉ cần bất cẩn một chút là phải đánh đổi cả tính mạng. hoatanhoano.wordpress.com
Mọi người ngồi thảo luận mọi đối sách, ngoại trừ đi đến đâu hay đến đấy ra, thì cũng không thể nghĩ ra ý tưởng nào hay hơn. Thế là, cả hội kéo xuồng cao su trên khinh khí cầu xuống, bắt đầu trèo xuống dưới đáy khu rừng. Độ ẩm ở nơi sâu trong huyệt động khá lớn, nước đọng trông có vẻ rất sâu, hình thù của khối tinh thể trông lại càng kỳ dị, có khối trong suốt không màu, có khối trắng xám phản quang.
Cả hội từ đỉnh khối pha lê cao hơn trăm mét thận trọng lần mò xuống dưới. Nhìn thấy một thùng nhôm trước đó từ khinh khí cầu rơi xuống, Hải ngọng liền nậy ra xem thì thấy bên trong là một ngọn đèn chiếu chuyên dụng có hình dạng khá cổ quái.
Chiếc đèn chiếu chỉ to cỡ cổ tay, nhưng phát điện bằng ắc quy khoác vai, không có tên nhãn và mã hiệu, kiểu dáng không hề giống các loại đèn chiếu thông thường.
Hải ngọng xách đèn lên, định nhấn tìm cách bật, nhưng vì chiếc thùng nhôm lăn từ trên cao xuống, tuy vỏ ngoài kiên cố, nhưng đồ đạc đựng bên trong cũng không tránh khỏi vỡ nát, hỏng hóc, bởi vậy khả năng chiếc đèn cũng bị hỏng không biết chập mạch chỗ nào mà không sáng lên nổi.
Nhị Học Sinh cho rằng, chắc đèn chỉ bị đứt dây, cậu tin mình có thể sửa được, thế là cậu ta liền cầm lấy đèn kiểm tra một hồi.
Hải ngọng tức khí nói: “Ngay cả anh còn không ‘trị’ nổi nó, con chồn vàng leo cửa sổ như chú mày mà cũng dám thò cái mặt mốc ra à?”
Tư Mã Khôi thấy Nhị Học Sinh chĩa thẳng bóng đèn vào mặt mình, anh vội vàng che lại nói: “Tôi đoán cường độ ánh sáng của loại đèn này phải rất lớn, chiếu vào mặt không khéo mù mắt, chú mày đừng có cầm nó khua loạn xạ như thế!”.
Thắng Hương Lân nói: “Hình như đây là loại đèn cường quang công suất lớn, chúng ta cứ mang xuống dưới động đi, kiểu gì cũng có lúc cần dùng đến nó”.
Tư Mã Khôi gật đầu tán thành, anh bảo Nhị Học Sinh mang bình điện khoác vai và chiếc đèn chiếu đến chỗ an toàn rồi hãy sửa.
Sau đó, mọi người khoác ba lô súng ống lên vai, tiếp tục cuộc hành trình dưới ánh đèn quặng, trên đường mọi người lại gặp ít thuốc súng vương vãi, đi được một quãng nữa thì cả đội dần dần tiếp cận mặt nước, nước dưới đáy động trong vắt, đèn quặng có thể soi tới tận đáy, trong làn nước có rất nhiều loài cá thời tiền sử thân mảnh và dài, bọn chúng cực kỳ mẫn cảm với ánh sáng, đầu chúng không có xương trán trên và xương trán dưới, phần miệng giống như một hang động có thể khép mở, chúng tụ tập thành đàn bơi tung tăng trong nước một cách thần tốc và nhẹ nhàng, nước ở đây trong suốt và êm ả, nhìn chỗ nào cũng thấy từng bầy cá bơi lội.
Không ai biết loài cá này thuộc chi họ nào, có lẽ chúng là loài vật thời tiền sử mà con người chưa từng phát hiện ra, có điều, nước dưới đáy động rõ ràng là dòng nước chảy, thế là mọi người bèn thả xuồng cao su để cho nó trôi theo dòng nước.
Xuồng cao su có van bơm hơi, hai bên là hai khoang chứa khí bằng da hình bầu dục, loại xuồng này có thể chở sáu người, Thắng Hương Lân kéo dây thừng bơm đầy khí vào xuồng, lúc này cả hội mới phát hiện phần đầu xuồng vẽ hình hàm cá mập mặt xanh nanh nhọn, trông vô cùng đáng sợ.
Hải ngọng lấy làm lạ nói: “Tiên sư chúng nó, bọn này định làm trò à? Cái xuồng cao su trông ngon lành thế, tự dưng vẽ cái mặt quỷ đầu thần vào đây làm gì?”
Tư Mã Khôi nói: “Một số chiến đấu cơ cũng vẽ những hình quỷ quái hung dữ để dọa kẻ địch, nhưng tớ cũng chưa bao giờ thấy người ta vẽ lên xuồng cao su thế này, không biết họ định dọa chính mình hay dọa bầy cá dưới nước?”
Thắng Hương Lân xem bức phác họa vẽ trong cuốn nhật ký, mới biết xuồng cao su và khinh khí cầu nhiệt đều do gã “Kỹ sư” trong đội thám hiểm thiết kế và chế tạo. Môi trường dưới lòng đất hoàn toàn cách biệt với thế giới bên ngoài, ở đây có thủy thể sâu rộng khôn lường và có huyệt động phức tạp, sâu hun hút, lúc nào cũng phải cảnh giác đề phòng sự tấn công của những sinh vật tiền sử tưởng như đã tuyệt chủng. Nghe nói, đội thám hiểm tô vẽ như vậy để dọa lũ cá ăn thịt tránh xa chiếc xuồng.
Mọi người vừa đi vừa đẩy xuồng xuống nước, thấy bầy cá đều bơi về một hướng, cả hội liền lên xuồng chèo theo, chiếc xuồng trôi vòng qua những trụ pha lê giao thoa ngang dọc, khoảng cách tới vách động càng lúc càng rút ngắn lại.
Tư Mã Khôi bật đèn quặng, di chuyển về phía đầu xuồng để quan sát, anh lờ mờ thấy phía dưới vách động là một khe nứt lớn, ở đó có hai con vật khổng lồ đen trũi đang bập bềnh trên mặt nước, cổ chúng rất dài, cái đầu hình tam giác bằng và dẹt đang thò lên há miệng hút nước, khóe miệng đỏ au, rộng ngoác có rất nhiều xúc tu chầm chậm ngo ngoe trong làn nước, nom tựa miếng mồi câu, chỉ cần có bầy cá nào bị lừa đến gần, là chúng há cái miệng đỏ lòm như máu nuốt chửng vào bụng, không một tiếng động.


Hồi 9: ĐÈN HỎA DIỆM NHIỆT ĐỘ CAO

Tư Mã Khôi phát hiện dưới chân vách động có khe nứt lớn, nhưng phía trước lại có hai con thủy quái to lớn đồ sộ chắn ngang, trông hai “gã” này phải to cỡ chiếc xe tải, trên lưng có mai cứng giống như mai rùa, chúng nằm phủ phục sát mặt nước, rướn cái cổ mảnh và dài lên cao, cái miệng rộng ngoác tham lam há to đang không ngừng nuốt bầy cá vào bụng. Tư Mã Khôi thấy tình thế không ổn, liền vội vàng giơ tay ra hiệu cho xuồng cao su dừng lại.
Nước trong động trong vắt, đèn quặng soi tới tận đáy, các thành viên khác đều nhìn thấy sự tồn tại của mối nguy hiểm, nhưng các khối tinh thể ở hai bên lại mọc ngang dọc đan xen lẫn nhau, địa hình vô cùng chật chội, không đủ không gian để xoay mũi xuồng, không những vậy, dòng nước còn tiếp tục đẩy xuồng về phía trước, trong chốc lát, xuồng cao su đã lao đến ngay trước mũi con thủy quái, cả hội nhìn thấy rõ xúc tu hai bên mép nó đang động đậy.
Mọi người chạm trán thủy quái ngay ngõ hẹp, không có đất để xoay chuyển, nên bất đắc dĩ phải vượt qua nó. Các sinh vật dưới lòng đất thường rất sợ ánh sáng, nhưng hai con thủy quái khổng lồ chắn cửa động lại như chẳng hề nhìn thấy ánh sang, chúng chỉ mải nuốt bầy cá vào bụng.
Tư Mã Khôi thầm chửi: “Tô tô vẽ vẽ trên xuồng quả nhiên chỉ dọa được trẻ con, gặp thủy quái thật là lập tức ‘tắt điện’, vào thời khắc then chốt chỉ có thể tin tưởng vào súng ống và đuốc, có điều hai con quái vật này mình đồng da sắt, nặng đến mấy tấn, lực sát thương của súng Winchester – M1887 e rằng không đủ sức đe dọa bọn chúng.” Nghĩ đến đây, anh vội vàng quay người lại bảo Cao Tư Dương mang đuốc lên phía trước.
Lúc này, xuồng cao su sắp lao thẳng vào cái miệng đang há rộng của con thủy quái, Hải ngọng không dám chậm trễ, anh kéo Tư Mã Khôi ra sau lưng, giương khẩu súng săn hai nòng kề vai chĩa thẳng vào thủy quái và nổ súng, tiếng súng vang lên đinh tai nhức óc, nhưng hai phát đạn của họng súng cỡ đại chỉ đủ sức tạo một lỗ nhỏ trên đầu con thủy quái, máu phun ra từ lỗ thủng.
Hải ngọng thất sắc kinh hãi, cuống quýt mò đạn nạp vào ổ, nhưng chỉ thấy vòng sóng nước vừa gợn một cái, hai con thủy quái đã thò cái đầu bẹt dí lên khỏi mặt hồ, góc xương hàm bất ngờ chẻ ra thành hai mảnh, vươn dài xúc tu bên mép, lao sầm sập vào Hải ngọng, đớp một cái. Hải ngọng không kịp lên nòng, hùng hổ xoay báng súng, hai tay nắm chặt họng súng, xoay vòng đánh trả thủy quái.
Thắng Hương Lân cũng giơ súng lục liên tiếp ngắm bắn, nhưng đạn ghém hoa cải trong khẩu súng lục PPS chẳng qua chỉ gãi ngứa cho con thủy quái. Hai con vật chen chúc nhau tranh bơi lên trước để chén thịt người, sóng nước xáo động dữ dội, xuồng cao su bị đẩy dựng đứng theo con sóng.
Lúc này, Tư Mã Khôi đã cầm lấy thanh đuốc Cao Tư Dương đưa cho, anh biết một khi xuồng bị thủy quái lật úp, mọi người mà rơi xuống nước thì khó có thể chạy thoát, bởi vậy anh liều mạng sống mái với chúng. Tư Mã Khôi cố đứng vững, nắm chặt ngọn đuốc đang cháy rực chĩa thẳng vào cái miệng rộng ngoác của con thủy quái.
Chẳng ngờ, con thủy quái vừa mới ngoi từ dưới hồ lên, toàn thân ướt sũng nước, ngọn đuốc trong tay Tư Mã Khôi vừa chạm vào đã tắt ngóm, trông chẳng khác nào cái tăm đưa vào miệng nó. Anh đành ném cây đuốc xuống nước, rồi rút sao săn định cố “giãy giụa trước lúc chết”. Đúng lúc đó, đột nhiên có luồng gió tanh táp thẳng vào mặt, cái miệng đen ngòm đã gần trong gang tấc, anh và Hải ngọng muốn tránh cũng không tránh kịp.
Đang lúc nhắm mắt chờ chết, đột nhiên một chùm sáng cực mạnh từ trên đỉnh đầu hai người chợt quét qua, chiếu thẳng vào cái miệng đang ngoác to, một giây sau, hai người đã ngửi thấy mùi khét nhức mũi, đầu của con thủy quái giống như bị ngọn lửa đốt thủng, xuất hiện một lỗ lớn xuyên từ trước ra sau, máu thịt trộn vào nhau bê bết, cơ thể nó uốn éo lăn lộn rồi từ từ chìm xuống đáy nước, con còn lại hình như cũng bị ngọn lửa mạnh đốt bị thương, nó quay người tháo chạy biệt tích.
Đến lúc ấy, mọi người mới bớt hoảng sợ, cố gắng ghìm chiếc xuồng đang nhấp nhô theo luồng sóng dữ, ai nấy đều kinh ngạc nhìn lại phía sau. Thì ra, Nhị Học Sinh vác cái đèn chiếu cổ quái của đội thám hiểm, suốt dọc đường, cậu ta táy máy thế nào cũng sửa được gần xong, lúc nhìn thấy tình thế cấp bách, mà ngặt nỗi trong tay lại không có vũ khí súng ống, cậu ta cuống quá bèn chiếu ánh sáng của đèn cường quang vào thủy quái, chỉ mong xua nó xuống nước, không ngờ chùm sáng của đèn chiếu còn khủng khiếp hơn cả bình phun lửa, có lẽ nó đủ sức đốt thủng cả tấm sắt cách xa mấy mét.
Lúc này, xuồng cao xu được dòng nước đẩy đến khe nứt dưới chân vách động, nhìn đâu đâu cũng thấy những khối pha lê khổng lồ nằm nghiêng, con đường phía trước ngoằn ngoèo, gập ghềnh, lúc rộng lúc hẹp, mọi người biết hoàn cảnh lúc này rất nguy hiểm, nên ai nấy đều căng thẳng quan sát động tĩnh tứ phía xung quanh.
Tư Mã Khôi nghĩ đến lúc suýt bị đèn chiếu soi trúng mặt thì ngạc nhiên hỏi: “Nó là món đồ chơi gì mà lợi hại thế?”
Hải ngọng cũng lạnh tóc gáy, sờ đầu mình và bảo: “Tớ đoán chắc nó là pháp bảo, nếu không sao có thể phun ra ‘tam muội chân hỏa’?”
Nhị Học Sinh cũng ngơ ngác không hiểu, cậu ta chẳng ngờ vừa bật đèn chiếu lên thì ánh đèn phụt ra giống như một ngọn lửa mạnh, may mà lúc ấy không soi vào các thành viên trong đội. Nhưng sau đó cũng không biết chạm vào đâu, mà bất luận cậu ta đập lắc thế nào, đèn chiếu cũng không chịu sáng lại nữa.
Cao Tư Dương nói: “May mà kịp dùng đúng lúc, nếu không chúng ta đều đã chôn thây trong bụng thủy quái rồi!”
Tư Mã Khôi giao cho Nhị Học Sinh nhiệm vụ kiểu gì cũng phải cố gắng sửa cho đèn có thể hoạt động trở lại.
Nhị Học Sinh bảo, lần này cậu ta cũng không biết nó hỏng ở đâu, chỉ biết cố hết sức mà thôi, còn chữa được hay không thì cậu ta không dám chắc.
Tư Mã Khôi nói: “Lúc Hải ngọng còn lăn lộn ở Miến Điện, cậu ta cũng có tài vặt, thường khoe khoang bất kể thứ gì có chữ ‘máy’, thì đều sửa được tuốt. Hay cậu bảo Hải ngọng thử xem, biết đâu lại sửa được cái máy phun lửa này!”
Hải ngọng mới được lĩnh giáo sự lợi hại của đèn chiếu, nên chỉ lo lỡ bị nó chiếu trúng sọ thì chết, thế là anh vội vàng từ chối: “Ôi thôi, tôi mà sửa thì chỉ cần một nhát búa là xong”.
Lúc này, Thắng Hương Lân lại giở cuốn nhật ký ra xem, thì ra đèn chiếu cổ quái đó có tên là “đèn hỏa diệm nhiệt độ cao”, phải nạp điện bằng bình ắc quy khoác vai, vì công suất tiêu hao rất lớn, mỗi lần chỉ chiếu sáng được mấy giây, chưa bao giờ sử dụng được quá một phút. Đội thám hiểm mang thiết bị tiên tiến như vậy xuống lòng đất ngoài để phòng thân trong môi trường khắc nghiệt đầy rẫy những nguy hiểm ra, thì mục đích chính là để phá hủy bí mật khắc trên tấm bia đá của người Bái Xà trong trường hợp ngộ nhỡ thuốc nổ mất tác dụng.
Cao Tư Dương cảm thấy chuyện này rất khó hiểu, vì sao Nấm mồ xanh lại muốn nhìn trộm bí mật khắc trên bia đá của người Bái Xà mà bất chấp hậu quả? Trong cuốn nhật ký, đội thám hiểm cũng không hề nhắc đến bí mật đó, không hiểu rốt cuộc nó là bí mật gì?
Thắng Hương Lân giở cuốn nhật ký đọc hết một lượt, nhưng cũng không phát hiện được những ghi chép chính xác, tất cả chỉ là những phỏng đoán, trước mắt, cô mới biết tấm bia đá của tộc người Bái Xà chính là cội nguồn của tất cả các ẩn số.
Văn tự Bái Xà khắc trên đó chính là tiền thân của long triện triều Hạ, sau khi văn tự giáp cốt xuất hiện thì loại chữ này mới dần dần không được sử dụng nữa; có điều, với những manh mối mà đội thám hiểm hiện nắm được trong tay thì việc phá giải nội dung ghi chép trên tấm bia đá không phải là vấn đề lớn nếu mọi người tìm thấy tấm bia của người Bái Xà dưới lòng đất.
Hải ngọng rầu rĩ nói: “Có chuyện này tôi cứ thắc mãi, có phải tôi muốn biết điều gì thì tấm bia đó đều có thể nói cho tôi biết không? Nhưng nghe Triệu Lão Biệt nói, trên tấm bia của người Bái Xà cũng chỉ khắc chưa tới chục chữ, dùng mấy chữ ấy để ghép thành một câu có khi còn chưa hoàn chỉnh ấy chứ, không hiểu nó có thể ẩn chứa bí mật kinh thiên động địa mẹ gì chứ? Tại sao lại không được phép nhìn? Nếu nhìn thì sẽ làm sao?”
Tư Mã Khôi bảo: “Mọi người đừng đoán già đoán non nữa, trước khi nhìn thấy tấm bia đá thật, thì mọi suy đoán đều vô nghĩa, thử nghĩ mà xem, trên đời này có bí mật nào mà ngay cả nhìn cũng không được phép nhìn, thậm chí còn không được phép nhắc đến? Chắc chỉ có mỗi bí mật về khuôn mặt của Nấm mồ xanh mà thôi.”
Thắng Hương Lân hỏi: “Tấm bia của người Bái Xà vùi dưới lòng đất đã mấy ngàn năm, làm sao nó khắc được khuôn mặt của Nấm mồ xanh cơ chứ?”
Tư Mã Khôi nói: “Thế cũng chưa hẳn, tôi thấy hình như Triệu Lão Biệt biết Nấm mồ xanh là ai, có khả năng lão ta đã vô tình nhìn thấy khuôn mặt thật của hắn, nhưng vì sợ nên không dám nói ra, giống như bí mật trên tấm bia của người Bái Xà vậy, mấy ngàn năm nay có ai dám nhìn, dám nói về nó đâu, bởi vậy giữa hai sự việc này chắc hẳn phải có mối quan hệ không bình thường.”
Cao Tư Dương bảo Tư Mã Khôi: “Nếu anh đoán Triệu Lão Biệt đã biết Nấm mồ xanh là ai, sao lúc đó anh không tiếp tục tra hỏi lão? Bây giờ lão ta ngã xuống đáy động chết rồi, chỉ sợ về sau không còn cơ hội nào tốt như vậy nữa.”
Tư Mã Khôi cho rằng Triệu Lão Biệt chắc chắn sẽ không dám nói ra sự thật vì quá sợ hãi Nấm mồ xanh, dẫu có ép lão nói, có khi lại bịa láo, ai dám tin lời lão? Có điều, trong lòng anh cũng lờ mờ cảm thấy, việc Triệu Lão Biệt úp mở chuyện đội khảo cổ đã từng nhìn thấy khuôn mặt của Nấm mồ xanh dường như còn có ẩn chứa một ý gì khác, nghĩ kỹ lại câu nói úp mở đấy anh lại lạnh cả người.
Lúc này, xuồng cao xu đã xuyên qua rừng rậm pha lê khổng lồ, thâm nhập vào một huyệt động hình mái vòm. Ở đây vương toàn bụi núi lửa đông kết, lưu lại vết tích địa chất không thể xóa mờ, mọi khe nứt dưới đáy động đều có hơi nóng bóc lên và bùn đất nóng bỏng, không thể tiếp tục đi sâu vào trong, mọi người đành bỏ xuồng cao su lại, bò ngang lên những khối pha lê, men theo vách đá tìm lối ra.
Cả hội dùng đuốc soi sáng đường, họ đi được một quãng khá xa trong bóng tối mà không nhìn thấy gì ngoài địa hình trùng lặp đến đơn điệu. Càng vào sâu bên trong càng không thấy bóng dáng của sự sống, hang động này nối tiếp hang động khác, tất cả đều được hình thành do dung nham phun trào từ hàng trăm tỉ năm trước, phía trong bằng phẳng và trơn nhẫy khác thường.
Trên một số vách đá vẫn còn lưu giữ được những bức tranh đá cổ từ mấy ngàn năm trước, dường như đó là tô tem nguyên thủy của người Bái Xà. Đội khảo cổ lấy những bức tranh đó làm ký hiệu và tiến dần về phía trước, nếu chẳng may đi vào huyệt động không có bích họa thì cả đội quay đầu, tìm đường đi lại, cứ như vậy họ liên tục di chuyển vòng quanh không biết bao nhiêu lần qua các vết nứt địa máng, may mà trong tay còn có cuốn nhật ký ghi chép các tư liệu về người Bái Xà để đối chiểu, họ lần theo những bức tranh đá lúc có lúc không tiến sâu vào lòng núi, đó là lòng núi hoang phế từng xảy ra sụt lún.
Mọi người bất ngờ chạm trán với dòng nhiệt lưu ở gần đó, nên đành phải tháo chạy vào trong một di chỉ núi, cả hội vô tình nhìn thấy đường nét mờ mờ khắc họa dung nhan thần Vũ Xà trên vách đá. Trong thể hệ thần thoại của người Bái Xà, vị thần cai quản âm gian là con quái xà đầu người, đầy đủ mặt mũi chân tay, lưng mọc lông chim, trên di tích nền văn minh Inca Maya cũng tồn tại hình Vũ Xà tương tự như vậy, nhưng hình thái của nó giống với rồng hơn và ý nghĩa tượng trưng cũng khác.
Trong bóng tối, Tư Mã Khôi ngẩng đầu và chỉ nhìn được phần cuối của những bức phù điêu, điều đó cho thấy kích thước của bức phù điêu lớn cỡ nào, cái miệng trên gương mặt người của thần Vũ Xà há rộng ngoác, bên trong có cánh cửa đá lõm sâu, muốn thâm nhập vào bên trong huyệt động thì phải mở lối ở đó.
Phía dưới lòng núi sụt lở không có lối đi, mọi người đành mò mẫm tìm đường một hồi. Thấy phía trước là miếu thần – nơi chôn tấm bia đá của người Bái Xà, thế là cả hội lấy hết thuốc nổ loại mạnh ra, châm ngòi dẫn nổ, một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, cánh cửa đá bị phá vỡ, tạo thành một lối đi vào trong.
Tư Mã Khôi thắp sáng đèn quặng, mặc kệ khói bụi xộc vào mũi rất khó chịu, anh vẫn dẫn đầu đoàn để chui vào quan sát. Tư Mã Khôi phát hiện bên trong là một không động rất lớn hình mái vòm, dường như họ đã ở bên trong dãy núi dưới lòng đất, trên mặt đất lổn nhổn rất nhiều tảng đá lớn, khô nóng, bỏng rát, nơi đây dường như đã là điểm tận cùng của thế giới.
Những người còn lại lục tục bám theo sau, chẳng ngờ đội khảo cổ chui vào miệng thần Vũ Xà chưa được bao lâu thì cửa động sau lưng đã xảy ra vụ sụt lở thứ hai. Đá vụn trộn lẫn bụi núi lửa sụt xuống bịt kín cửa động đến mức không còn kẽ hở, đồng thời ngăn cản luôn dòng nhiệt lưu ở phía ngoài. Có điều khi đó, trong lòng mọi người chỉ mải nghĩ đến vô số ẩn số trong miếu thần, nên không hề hoảng loạn khi thấy mình bị nhốt lại bên trong, họ mau chóng định thần lại, kiểm tra súng ống đạn dược, châm một bó đuốc lên soi đường, chuẩn bị tiến vào sâu hơn.
Thắng Hương Lân phát hiện thấy điểm bất ổn, cái động lớn ở phần miệng của thần Vũ Xà giống như một cổng thành, nhưng nhìn địa hình bên trong thì hoàn toàn khác so với những gì miêu tả về miếu thần trong cuốn nhật ký. Có khả năng đây chính là Tử thành mà người Bái Xà để lại dưới lòng đất.


Truyện Cùng Thể Loại
Các Đại Năng Đã Để Lại Thần Thức

Lưu ý: Vui lòng tải app để có thể lưu lại thần thức trên truyện này
Tải app để đọc truyện sớm nhất