Chương 17:
Đói mềm cả người. Tôi nướng thịt ăn trưa và có cảm giác như đang nhai cỏ khô. Cuộc đổ bộ bất ngờ của những kẻ đồng loại đối địch đã xáo trộn tất cả nếp sống lâu nay vốn buồn tẻ mà êm đềm. Bứt rứt không yên, tôi cứ nhấp nhổm như ngồi trên lửa. "Hình như mình vừa phạm phải một sai lầm khủng khiếp nào đó... Nhưng là việc gì?..." Những ý nghĩ ngổn ngang trong đầu mà chẳng có điều gì rõ nét.
Cuối cùng tôi đành bỏ bữa ăn, xách súng ra ngồi bên suối cố tĩnh tâm để suy nghĩ về từng việc...
Chuyện trả súng? Đó chỉ là đòn tâm lý! Mấy khẩu súng không làm cho kẻ địch mạnh hơn. Thế còn việc báo cho họ chiếc trực thăng rơi và những người chết? Cũng đáng làm, vì lòng nhân đạo... Nhưng làm vậy khác nào gọi chúng trở lại một lần nữa? Không, việc đó chẳng can hệ gì! Nếu chúng muốn, không gọi chúng cũng đến.
Vậy điều gì đã tạo nên tâm trạng day dứt nặng nề đến thế? Mất cảnh giác thì rõ rồi, có hối cũng muộn, hậu quả đã xây ra. Mà dù có sơ suất, việc đối đầu với kẻ địch là tình huống được lường trước. Hay có phải tôi đã mềm lòng khi không giết những kẻ bắn vào mình? Chúng là kẻ thù, và lúc đó tôi đủ sức diệt gọn, kể cả chiếc trực thăng kia nữa. Bọn lính dù được tuyển lựa huấn luyện kỹ, thiện chiến và nguy hiểm. Tha chết, lại gọi máy bay chở chúng về, khiêng giúp xác chết. Phải chăng khi sống giữa rừng, xa hẳn đồng loại và chỉ biết bầu bạn với mấy con thú, con người ta trở nên đa cảm? Tôi đã khoan dung và động lòng trắc ẩn không đúng lúc?
Nhưng việc gì phải giết khi có cách khác tốt hơn? Tôi nhớ lại giọng nói khấp khởi của người lính bị bắn què chân: "...chắc em sẽ được giải ngũ...". Lại còn cô gái ôm mặt khóc khi biết anh mình chết tại đây. Dù sao trong họ vẫn còn có tình người. Nếu thu phục được họ, dù chỉ ở mức độ nào đó, vẫn tất hơn là giết. Ở đây tôi chỉ có một mình, phải tự quyết định lấy tất cả. Hãy làm những gì mình cho là đúng và cần phải làm. Tôi tin vào lòng nhân ái, chính nó sẽ tạo nên sức mạnh.
Được rồi! Giờ nên suy tính về những việc sắp tới. Mấy người lính đó nghĩ gì về tôi, chưa biết. Nhưng chắc chắn họ phải báo cáo lại toàn bộ sự việc với kẻ đã ra lệnh cho họ đến đây. Nếu địch nắm được tin tức về số vàng từ một nguồn nào đó, chúng sẽ không tin vào chuyện tôi lạc rừng. Chúng đã biết cái "tổ” của tôi, vậy sẽ có một cuộc tập kích bất ngờ nhằm bắt sống để khai thác? Không loại trừ trường hợp đó. Chúng có thừa điều kiện tiến hành những cuộc đột kích như thế.
Hay mình lẩn vào rừng sâu, tìm nơi khác ở? Nhưng còn số vàng? Tuy được giấu kín nhưng chắc gì đã an toàn tuyệt đồi? Chẳng lẽ để kẻ địch tự do lục lọi từng gốc cây hòn đá rà tìm từng thước đất? Bảo vệ số vàng đến cùng là trách nhiệm của tôi. Lúc này nếu có đủ sức trở về, tôi cũng không thể bỏ đi khi địch đã tới đây. Hơn nữa tôi không muốn lẩn tránh. Số đạn và lựu đạn hiện có đủ đánh trả cả trung đội địch, chỉ cần khéo léo và giữ thế chủ động. Bám sát địch là cách tốt nhất để tìm hiểu âm mưu của chúng. Tôi đã biết nguồn gốc số lương thực vũ khí trên chiếc trực thăng, nhưng chưa rõ nó đến đây làm gì. Một nửa câu hỏi vẫn còn đó...
Lại còn lời hứa với cô gái ấy, nếu trong vài ngày tới họ lên bốc hài cốt? Tôi không thể thất hứa. Trên đất nước này, bất cứ một gia đình nào cũng coi việc chôn cất tử tế hài cốt người thân là điều thiêng liêng. Tôi tin cô ta sẽ quay lại, và cùng mong như vậy. Đó là cơ hội để gián tiếp khai thác những thông tin có ích. Dĩ nhiên kẻ địch cũng đủ tinh khôn để lợi dụng việc này. Phải hết sức cảnh giác với cô ta và những người đi cùng.
Tồi đó tôi xách súng đạn và chiếc máy truyền tin lên lót ổ ngủ trên ụ đại liên, sau khi đem số vũ khí còn lại giấu kỹ ở mấy nơi. Trận đánh lúc sáng chỉ tốn mươi viên đạn mà thu được mười bốn băng đạn tiểu liên cùng một mớ lựu đạn và mấy cây dao găm Mỹ. Lãi to!
Để yên tâm hơn, tôi gọi con báo theo. Còn lũ khỉ cả ngày nay trốn trong rừng, gần tối mới trở về leo tít lên cành cao nghiêng ngó, không dám chơi đùa trên bãi cỏ như thường lệ. Hôm nay chúng được một mẻ sợ khiếp vía. Việc tôi tới ở đây làm chúng bị vạ lây.
Ngày hôm sau mọi chuyện vẫn bình thường. Rừng cây, suối nước và vùng đồi cỏ vẫn yên tĩnh. Trên bầu trời xanh lồng lộng chỉ có mấy con diều hâu chao liệng tìm mồi.
Tôi nằm trên ụ đại liên suốt ngày, chỉ một lần xuống suối lấy nước. Được cái ở đây cũng thoải mái. Hôm nay có gió nhẹ, và giàn dây leo che trên ụ súng bây giờ tốt um, bóng râm mát rượi. Giá có cuộn sách nằm đọc thì tuyệt.
Tôi dùng chiếc xẻng cùn khoét rộng thêm xung quanh hố, đổ đất vào mấy chiếc bao lúc trước vẫn dùng đựng đất đem đi đãi, để làm bao cát chắn trước ụ súng. Cũng phòng xa vậy thôi, chứ khẩu đại liên đặt ở đây chỉ phát huy được tác dụng trong tình thế bất ngờ. Còn nếu trực thăng phát hiện ra, chỉ cần một phát rốc két là tan tành tất cả. Nhưng nơi này là vọng gác án ngữ hướng tiến của địch từ đồi cỏ. Ở xung quanh, trực thăng không có nơi nào khác để đỗ xuống ngoài vùng đồi và cái trảng cát trước mặt. Nếu phải đánh nhau lần nữa, khẩu AR15 có kính ngắm là vũ khí thích hợp nhất. Qua trận đụng độ vừa rồi mới thấy nó lợi hại như thế nào. Tuy vậy, không hiểu sao tôi vẫn cứ thích khẩu AK hơn.
Đêm xuống được một lúc thì trăng lên. Vầng trăng đêm nay chưa thật tròn nhưng rất sáng. ánh trăng vằng vặc trên màn sương trắng mờ giăng khắp rừng. Đoạn suối bên kia tráng cát lấp lánh ánh bạc, tiếng nước chảy róc rách suốt đêm.
Tôi ngồi mơ màng nhìn cảnh vật mờ ảo dưới trăng mà nghĩ đủ thứ chuyện. Càng về khuya trời sáng lạnh. Cũng may tôi có xách lên bao than củi, gây được đống lửa cạnh chỗ nằm. Than củi cháy đượm không có lửa ngọn, lại đốt dưới hố nên không sợ lộ. Nhưng biện pháp này chỉ tạm thời chứ lâu dài phải tìm cách khác. Không thể cứ ngày lại ngày thấp thỏm lo âu chờ địch mò tới. Vả lại sức tôi giờ yếu đi nhiều, nằm đất dầm sương mãi rồi có lúc qụy xuống. Mà nằm thế này cũng nguy hiểm. Con cọp rừng dưới gần đây vẫn mon men lên vùng đất của tôi, nhiều đêm nghe tiếng nó gầm rất gần. Vẫn biết cọp rừng già không mấy khi bắt người, nhưng lỡ đâu nó muốn "đổi món"? Để vài bữa nữa xem sao, chứ tình hình này chắc phải dạy cho nó biết thế nào là "rừng nào cọp ấy”...
Cứ nghĩ vẩn vơ như vậy, mãi gần sáng tôi mới chợp mắt được.
Tiếng con Aga kêu béo béo bên tai làm tôi tỉnh giấc. Có lẽ nó muốn nhắc tôi hôm nay đến ngày hẹn với cô "giặc lái".
Mặt trời lên. Quả cầu lửa lung linh chuyển từ màu đỏ sang màu trắng chói lòa. Bầu trời xanh dần và dâng lên cao thăm thẳm.
Tôi bồn chồn kiểm tra lại súng đạn, mặc dù đã chuẩn bị kỹ từ hôm trước. Gì chứ vũ khí bao giờ tôi cũng bảo quản cẩn thận. Hồi ngoài kia, tôi vẫn được tiếng là người giữ súng kỹ nhất.
Khoảng tám giờ sáng thì có tín hiệu gọi vang ra từ máy truyền tin. Chưa vội trả lời, tôi nâng ống nhòm hồi hộp nhìn về hướng đông. Kia rồi! Chiếc trực thăng xuất hiện. Nó bay thẳng tới và to lên rất nhanh. Chỉ có một chiếc.
Tôi cầm máy bật nút nghe. "... Người của rừng! Đây Thủy gọi người của rừng...". Cái cụm từ dùng để chỉ tôi nghe khá buồn cười. Cô ta không biết gọi sao vì hôm trước tôi không nói tên.
Máy bay ngang qua ngọn thủy tùng. Tiếng gọi trong máy nghe càng thúc giục khẩn thiết. Tôi bấm nút trả lời: "Tôi nghe!".
- A?... - Một tiếng reo nhỏ và giọng cô ta nói nhanh - Đây là Thủy. Tôi lên theo lời hẹn hôm trước. Xin anh giữ liên lạc và cho phép đáp xuống.
- Có mấy máy bay? Mấy người? - Tôi hỏi cộc lốc.
Giọng trong máy trả lời, nghe đã nguội đi sự mừng rỡ:
- Chỉ một chiếc của tôi. Trên máy bay có bảy người, ba người nhà và ba người... theo giúp việc.
- Được rồi! Xuống đi! Đỗ cuối trảng cát, gần lối vào nhà tôi ấy! Cô biết chứ?
- Tôi hiểu. - Cô ta đáp gọn.
Chiếc HU1A lướt qua trên ụ súng, cỏ lau lay động ào ào. Tôi giương nòng đại liên ngắm theo. Ngon ăn quá? Chỉ cần nhấn cò là... Trong đầu tôi vẫn đầy ấn tượng kinh hoàng và căm hận khi nhìn thấy loại trực thăng này.
Tới đầu trảng cát, chiếc trực thăng lượn một góc hẹp, xuống thấp dần rồi hạ càng trước dải rừng non. Tôi buông khẩu đại liên, nâng ống nhòm lên mắt.
Cánh cửa bên ghế lái bật mở, phi công bước xuống. Đúng cô ta rồi! Bộ quần áo màu cỏ may kiểu đàn ông mặc bỏ áo trong quần không làm mất đi những nét mềm mại cua cô gái.
Cửa hông máy bay mở ra, những người trên đó lục tục kéo xuống. Tôi chăm chú nhìn kỹ. Đi đầu là một ông già dong dỏng cao, mái đầu điểm bạc. Theo sau có hai ông già khác, rồi đến ba người lính mặc quân phục, một trung sĩ và hai hạ sĩ. Nhìn bên ngoài không thấy ai mang vũ khí. Cả sáu người đưa mắt nhìn quanh, vẻ ngỡ ngàng trước cảnh rừng núi hoang vu. Còn cô gái thái độ bồn chồn hiện rõ trên nét mặt chứ không bình thản như hôm trước. Cũng phải thôi! Bây giờ tôi không ra, cô ta chỉ có nước khóc mà quay về.
Tôi vớ tấm nilon trùm khẩu đại liên, hạ giàn ngụy trang xuống rồi xách khẩu AR15 cùng chiếc máy truyền tin luồn ra khỏi ụ súng, chạy dọc cái khe cạn về hướng họ.
Ngang nơi máy bay đỗ, tôi dừng một phút cho hơi thở dịu lại, đoạn vạch lá bước ra, đi thẳng tới toán người đang đợi. Thấy tôi, cô gái mừng rỡ ra mặt, nhưng chỉ hơi cúi đầu chào. Ba ông già nhìn tôi chăm chú. Mấy người lính lộ vẻ lo lắng.
"Chào các bác!" Tôi lên tiếng chào trước rồi bước đến bắt tay họ và khẽ gật đầu với những người khác. Ba ông chào lại và đứng im, có lẽ chưa biết mở lời như thế nào. Cô gái nhìn ông già dáng dong dỏng cao, ý chừng nhắc nhở. Ông bước lên một bước và nói:
- Thưa với anh, chúng tôi là...
Thấy ông lúng túng, tôi vội đỡ lời:
- Xin các bác đừng ngại, cháu chỉ là bậc con cháu thôi mà. Ở đây nắng quá, mời mọi người vào trong kia, ta ngồi nghỉ rồi bàn chuyện luôn thể.
Nét mặt mấy ông già tươi tỉnh hẳn lên, còn ba người lính không giấu được vẻ vui mừng. Họ đưa mắt cho cô gái như muốn hỏi gì đó. Cô ta tiến lại gần tôi, nói:
- Dạ, trên máy bay có mang theo một số thứ để bốc mộ, anh cho đem xuống...
Tôi vui vẻ:
- Cô đừng khách sáo, tôi không khó tính lắm đâu!
Thái độ của tôi đã làm giảm sự căng thẳng cho những người khách vừa đổ bộ từ trực thăng. Bầu không khí như thoáng ra và dễ chịu hơn. Mọi người tíu tít chuyền các thứ trên máy bay xuống. Tôi liếc nhanh thấy có ba chiếc tiểu sành, mấy cái cuốc xẻng cùng những thùng, gói, túi xách...
Đoàn người mang vác lỉnh kỉnh đi vào dải rừng non. Thấy ông cụ lớn tuổi nhất xách cái túi khá nặng, tôi đỡ lấy: "Bác để cháu mang giúp...". Thực lòng tôi thương mấy ông già. Họ bay lên đây trong tâm trạng lo âu phấp phỏng, chỉ mong đưa được nắm xương của con về. Trông họ cũng bình dị, thân thuộc như những người dân quê tôi. Tôi có cảm giác như đã gặp họ đâu đó, nhất là bác già dong dỏng cao, hình như bố của cô gái.
Khi đã mời mọi người "an tọa" quanh chiếc bàn đá, tôi mới lúng túng thật sự. Chẳng có gì để tiếp khách. Mấy ngày qua tôi chỉ lo việc đón loại khách khác. Tôi đành vẫy cô gái lại, nói nhỏ:
- Cô Thủy này, nhờ cô đun hộ ít nước uống!
- Dạ, để em? Em có mang trà lên...
Mấy người linh đứng gần đó nghe thấy liền mau mắn nói: "Chị Thủy để đó cho em...". Tôi chỉ lối cho họ xuống suól lấy nước rồi quay vào tiếp chuyện mấy ông già:
- Xin lỗi các bác, lúc nãy cháu quên chưa giới thiệu, cháu tên là Hải. Còn vì sao cháu ở đây, chắc cô Thủy đã có nói.
- Anh Hải à? - Ông già dong dỏng cao nói - Tôi là Thành, ba của cháu Thủy và... cháu Trà. Đây là anh Lý, - ông chỉ ông cụ lớn tuổi nhất - ba cháu Tình. Còn anh Hồng là ba cháu Lộc. Chẳng giấu gì anh, - ông nói tiếp - hai năm nay tìm kiếm mãi mà không biết mấy cháu chết ở đâu. Nay nhờ có anh mới biết, nên lên đây xin anh giúp, cho chúng tôi đem mấy đứa nó về chôn ở quê để được yên lòng đôi chút...
Tôi nhìn ba người cha của những kẻ bị chính tay mình bắn chết và nghĩ, khi biết điều đó, không hiểu họ sẽ nói gì? Tôi không hề áy náy về việc mình đã làm. Nhưng nhìn những người cha đau khổ đang ngồi trước mặt, tôi không biết nói sao. Chẳng lẽ chỉ an ủi họ bằng một câu chung chung: "Tại chiến tranh...", hay nói đó là số mệnh? Họ tự cho mình là người may mắn khi tìm được xương con. Ừ, cũng có thể thật! Đâu phải ai cũng được như vậy. Tôi nghĩ đến ngôi mộ đá cô đơn trên bãi cỏ gần gốc thủy tùng, ở dưới đó không có đốt xương nào...
Ông Lý, - mà sau này tôi vẫn gọi là già Lý, như cách cô gái gọi - chừng trên bảy mươi tuổi, tóc đã bạc trắng nhưng vẫn tráng kiện. Nét mặt ông điềm đạm tự tin, dáng vẻ của một lão nông từng trải việc đời. Ông Hồng khoảng sáu mươi, da trắng, người hơi đẫy. Ông ít nói, vẻ mặt hiền lành và an phận. Còn ông Thành chắc chưa tới sáu mươi. Ông hơi gầy và nhanh nhẹn, có đôi mắt tinh anh của người học rộng biết nhiều nhưng lại đượm nét trầm tư khắc khổ. Nhìn vào đôi mắt ấy, ai cũng hiểu những nếp nhăn trên trán, trên đuôi mắt ông không chỉ là dấu ấn của thời gian và tuổi tác. Trông ông hơi giống một thầy giáo dạy tôi hồi trước, nhưng thầy nào thì chưa nhớ ra...
Chuyện trò được một lúc, mấy người lính róc nước trà ra những chiếc ca nhôm bưng đến mời. Tôi nói:
- Thưa với các bác, ta uống nước rồi lên trên ấy, sợ trưa nắng nóng. Lúc nào xong việc về lại đây, cháu sẽ kể rõ chuyện các anh ấy chết như thế nào.
- Dạ, trăm sự nhờ anh sắp xếp, chúng tôi lên đây lạ đường lạ đất... - ông Hồng nói.
Tôi đỡ lời ông:
- Bác đừng ngại? Nhưng từ đây lên đó chừng hai cây số đường dốc khó đi, sợ các bác...
Già Lý nói ngay:
- Anh đừng lo, chúng tôi đi được. Có điều là... Nói thế này để anh thông cảm, đáng ra chúng tôi chỉ có người nhà lên đây mà dưới không đoàn không chịu. Họ đưa mấy chú lính đi theo để đỡ đần việc nặng. Tôi cười:
- Không sao đâu ạ! Ai lên cũng được, miễn là có thiện ý!
Mọi người rục rịch chuẩn bị. Tôi bàn với già Lý là chỉ mang vải lên gói hài cốt vì mấy cái tiểu sành khá nặng.
Chúng tôi lên đến nơi không mấy khó khăn. Nấm đất ngày nào qua mấy mùa mưa gió giờ chỉ còn lờ mờ dưới cỏ. Tôi chỉ tảng đá đầu mộ:
- Đây là hướng đầu. Cả ba người chôn chung một chỗ. Cái bác hiểu cho, lúc đó sức cháu chỉ làm được có vậy.
Già Lý cầm tay tôi, nghẹn ngào nói:
- Được vậy là quý lắm rồi? Anh vẫn lên đây thắp hương cho mấy đứa nó phải không?
- Ở đây không có hương già ạ! - Tôi đáp - Thỉnh thoảng đi qua đây cháu có ghé vào đốt ít trầm. Nhưng sao già biết ạ?
- Tôi nhìn cái lư hương này, tôi biết? - ông chỉ vào hòn đá ám khói đặt cuối nấm đất. Nó có hình dáng khá đẹp, một nhặt lõm vào như cái chậu hoa cạn, tôi vẫn bỏ trầm vào đó đốt cho dễ cháy.
Già Lý nói tiếp:
- Con chúng tôi đi lính chống lại Cách mạng là có tội. Vậy mà chúng nó chết giữa rừng giữa núi, vẫn được chôn cất tử tế. Gia đình tôi đội ơn anh, đội ơn Cách mạng...
Tôi nắm tay ông, nhìn những giọt nước mắt lăn dài trên trên khuôn mặt nhăn nheo từng trải mà không biết nói sao.
Mấy người lính bày cái mâm nhỏ, đặt lên đó nải chuồi và chai rượu trắng. Đợi già Lý thắp hương khấn vái xong, tôi vần tảng đá đầu mộ, dùng dao găm đào một lúc rồi lấy lên bọc nilon gói những thứ tìm thấy trong tôi mấy người lính chết trên chiếc trực thăng. Già Lý run run mở gói. Các thứ trong đó đã ẩm mốc, nhưng giấy tờ vẫn còn đọc được.
Ba người lính cầm cuốc xẻng bắt đầu đào. Khoảng nửa giờ sau thì nhìn thấy những mảnh pôngsô xanh xám. Họ bỏ xẻng, thận trọng dùng tay vét đất. Mấy tấm pôngsô quấn quanh xác đã mục rách, nhưng vẫn giữ được từng bộ xương riêng biệt. Tôi còn nhớ vị trí của từng người nên chỉ cho họ đem xác viên phi công lên trước. Cô gái đứng khóc lặng lẽ.
Ông Thành đến bên tôi nói nhỏ: "Nhờ anh đưa cháu Thủy ra đâu đó..." ông không muốn con gái nhìn thấy hình ảnh cuối cùng của anh mình là bộ xương.
Tôi kéo nhẹ tay cô ta:
- Cô Thủy! Chiếc máy bay rơi đằng kia, cô tới xem?
Cô ta im lặng đi theo. Tôi gọi con báo chạy lên trước để phòng rắn.
Xác chiếc trực thăng nằm im lìm dưới bóng cây, cỏ và dương xỉ đã mọc phủ kín càng máy bay. Mấy nhánh dây leo bò lên mặt kính buồng lái, quấn xanh um quanh đoạn cánh quạt gãy và vô tư nở những bông hoa hình loa kèn màu vàng.
Cô gái chỉ chăm chú quan sát chứ không nói gì. Tôi chỉ giàn rốc két, nói:
- Loại này vào đây tôi mới biết, hồi trước chưa gặp lần nào.
Cô ta trả lời:
- Thứ này mới trang bị lần đầu ở không đoàn. Người Mỹ muốn giao thêm một số vũ khí mới cho không lực trước khi họ rút dần về nước.
- Chắc cô đã sử dụng chúng?
Cô gái nhìn thẳng vào mắt tôi, lát sau mới nói:
- Không! Tôi chỉ lái. Hơn nữa thứ rốc két này mới thử nghiệm mấy lần trên máy bay HU.1A, rồi chấm dứt.
"Lại xưng tôi rồi..." , tôi nghĩ thầm nhưng không bận tâm. Câu chuyện thử nghiệm vũ khí đang hấp dẫn.
- Chắc vì lý do kỹ thuật? - Tôi hờ hướng hỏi.
- Cũng không hẳn! Anh muốn biết rõ phải không?
Tôi gật đầu:
- Đúng vậy!
- Nhưng anh sống một mình, lại đang lạc rừng, cần biết dể làm gì?
Đến lượt cô ta tra hỏi mình đây! Tôi thấy bực. Cô ta nghĩ mình là ai cơ chứ? Dám hỏi vặn tôi... Khoan đã! Hình như cô ta đoán ra điều gì đó... Không, nghĩ tới điều gì thì đúng hơn. Cô ta không tin chuyện tôi lạc rừng. Được! Tôi sẽ nói cho cô ta biết:
- Tôi muốn biết, vì tôi và hai người cùng đi bị bắn bởi loại rốc két này. Đó là hai người đồng đội mà tôi coi như ruột thịt. Họ đã nhào ra hứng lấy những loạt rốc két để cho tôi được sống. Khi các anh ấy chết rồi, hai chiếc trực thăng như chiếc này, như chiếc cô đang lái, vẫn điên cuồng nhào lộn trút vào họ tất cả rốc két có trên máy bay. Tôi ra đến nơi, chỉ còn mấy mảnh thịt... Không còn một đốt xương nào để chôn, cô hiểu chưa? - Tôi ghìm giọng để khỏi thét lên, cảm thấy máu dồn nóng bừng trên đầu.
- Anh... anh nói sao? Bắn... thứ rốc két này ở đây? - Cô ta lắp bắp, mắt mở to kinh ngạc.
- Cô nghĩ chuyện bịa à? Để cô tin, tôi nói thêm: trong trận đó tôi đã bắn chết thằng Mỹ đen bắn đại liên trên trực thăng. Chắc cô biết vụ ấy chứ? Nó xây ra cách năm ngày trước khi chiếc trực thăng này rơi ở đây.
- Em... em biết! Em chỉ muốn nói là... không ngờ... họ lên tới đây để bắn thử... - Cô ta ấp úng thanh minh, nét mặt xúc động thật sự.
- Cô bình tĩnh lại đi! - Tôi dịu giọng - Và nếu không muốn thì đừng kể. Tôi chỉ nói cho cô hiểu vì sao lại hỏi vậy thôi. Nhưng... anh cô lái một trong hai chiếc hôm đó?
- Vâng! Hôm đó ông Cođy dẫn hai máy bay đi thử nghiệm rốc két lần đầu. Khi về thấy máy bay đã phóng hết đạn và có một người Mỹ chết. Ông ta là chuyên viên vũ khí, Bộ tư lệnh mượn từ hạm đội Bảy về giúp cho không đoàn.
- Tôi thấy hắn ta bắn đại liên?
- Việc đó em không hay. Trên trực thăng có xạ thủ súng máy. Có thể lúc đánh nhau ông ta thích làm vậy! - Cô gái kể tiếp - Sau đó phía Mỹ ngưng toàn bộ chương trình trang bị thứ rốc két mới. Họ nói thế hệ trực thăng HU không thích hợp. Em nghĩ, vụ ông chuyên viên vũ khí chết cũng cản trở một phần...
- Một chuyến bay như thế phải có bản đồ bay, chương trình bay... Nếu cô tìm hiểu kỹ, sẽ biết ngay chứ đâu có khó?
- Em có kiểm tra. Theo kế hoạch, điểm thử nghiệm hôm đó ở điểm cao 697, cách đây cả trăm cây số. Ông Cođy nói là đã đánh chặn một cuộc hành quân của Việt... của bên Giải phóng, và bị bắn trả nên ông chuyên viên vũ khí chết. Sau này em có bay tới đó, cũng thấy những hố đạn nhưng không rõ đạn cối, pháo hay rốc két. Em không rành...
- Thế anh cô nói sao?
- Anh Trà cũng nói như ông Cody vậy? Và cả anh Hoạt, người lái chiếc trực thăng kia. Nhưng em không tin, dù trên trực thăng ảnh lái hôm đó có dấu đạn. Từ lâu cả em và ba em đều cảm thấy anh Trà bị cuốn hút vào một công việc gì đó… Ông Cođy đã kéo ảnh đi theo một hướng mà gia đình em không hề muốn. Em nghĩ anh Trà và vài phi công khác nhiều lần tiến hành những phi vụ kết hợp kiểu như vậy, nghĩa là lợi dụng các phi vụ đã được hoạch định để thực hiện một công việc nào đó... Chuyện dài lắm, có kể ra chắc chi anh đã hiểu. Em cũng nói để anh Hải biết, em lái trực thăng nhưng không phải phi công chiến đấu. Chỉ sau khi anh Trà mất tích, em mới xin ra đơn vị bay...
- Để bay đi trả thù phải không?
Cô gái bàng hoàng đứng lặng nhìn tôi, đôi mắt đen ngân ngấn nước.
Sao thế nhỉ? Còn oan nỗi gì nửa? Hay cô ta đóng kịch? Không, chẳng ai "kịch" được như vậy... Tôi lúng túng bứt ngọn dương xỉ vò nát trong tay.
Một lúc sau cô gái mới nói:
- Anh nghĩ sao cũng được? Có lẽ trường hợp này ai cũng nghĩ như vậy thôi. - Cô lưỡng lự rồi nói tiếp - Lúc máy bay anh Trà mất tích, em nghĩ là ảnh đã chết. Ra trận bom đạn khắp nơi, mọi sự phó thác vào may rủi, chuyện sống chết biết thế nào mà nói... Nhưng sau khi tìm kiếm nhiều lần trên đường bay hôm ấy mà không thấy vết tích gì, em nghĩ rằng ảnh lại thực hiện một phi vụ kết hợp, và đã chết cho ý đồ của một kẻ nào đó. Bây giờ biết được cuộc thử nghiệm diễn ra ở đây, em càng tin như vậy. Em xin ra bay là mong có cơ hội tìm xác anh em và để biết vì sao ảnh chết...
"Nếu cô ta biết người anh bị mình bắn...". Bất ngờ cô gái nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi:
- Anh đã bắn chết ảnh, phải không?
Cô này ghê thật! Cứ như đọc được ý nghĩ của người khác. Biết cô ta dễ dàng đoán ra điều đó khi nhìn thấy vết đạn trên mặt kính cửa bên ghế lái, nhưng tôi không ngờ cô dám hỏi thẳng như thế.
- Đúng, tôi bắn!
Tôi trả lời bình thản. Đó là sự thật, một sự thật đáng tự hào. Tôi không muốn và không cần che dấu điều đó. Còn cô ta và những người khác nghĩ gì, cái đó tùy!
Tưởng cô gái sẽ trừng trừng nhìn tôi bằng ánh mắt thù hận, nhưng không phải. Cô cúi đầu tư lự, nói như trong cơn mê: "Biết mà! Mọi sự như đã định trước...".Có lẽ cô đang nói với chính mình.
Tôi hỏi sang chuyện khác:
- Lúc nãy cô nói tới ông Cođy nào đó?
- Vâng! Trung tá Hay Cođy, cố vấn của không đoàn. Ông ta là người đỡ đầu cho anh Trà và anh Hoạt, hai phi công trực thăng giỏi nhất của không đoàn đi tu nghiệp khóa đặc biệt ở Okinawa. Từ đó về sau ảnh như bị ông ta hớp mất hồn.
- Sao cô không hỏi thẳng...
- Em không hỏi! - Cô gái ngắt lời tôi, tức tối - ông ta không bao giờ nói sự thật. Đó là một người Mỹ thâm trầm nham hiểm, khác với những cố vấn quân sự khác. Ông Cođy có bạn bè ở tòa lãnh sự Mỹ. Ngay cả bác Tùng cũng không biết nhiều về con người ấy. Hôm đó đích thân ông ta gọi điện từ trung tâm chỉ huy lệnh cho trực thăng quay về. Em nghi anh Trà đang làm việc gì đó cho ông Cođy, như vậy chính ông ta đẩy anh em vào chỗ chết. Và nếu đúng như lời anh kể thì… thật kinh khủng. Không bao giờ em nghĩ ảnh lại có thể tàn nhẫn đến thế. - Cô ôm mặt khóc.
Tôi định nói đôi câu an ủi, nhưng lại thôi. Tôi chưa hiểu gì nhiều về cô gái này, chỉ thấy cô có cá tính mạnh mẽ, rất nhạy cảm và... khá thẳng thắn. Điều không thể quên là cô ta đang đứng trong hàng ngũ địch, như người ta thường nói là "ở bên kia chiến tuyến", lại làm một cái nghề đặc biệt trong binh chủng con cưng của quân ngụy. Cả hai anh em đều là phi công, sao trông ông Thành cũng bình dị, không có dáng vẻ của người giàu có hay có thế lực. Mà thôi, chuyện đó chẳng cần biết thêm làm gì! Từ nãy giờ, những điều cô gái kể đang rối tung lên ở góc khác trong đầu tôi. Và tôi muốn túm lấy ruột đầu sợi chỉ, gỡ rối để rút ra nguyên vẹn cả sợi. Nhưng hình như chưa đủ các tình tiết để kết nối tất cả lại thành chuỗi theo trình tự... Nếu những gì cô gái nói là chính xác, thì trong câu chuyện đã xuất hiện một tên Mỹ điều khiển một nhóm phi công người Việt thực hiện ý đồ gì đó nằm ngoài chương trình hoạt động của lực lượng không quân ngụy tại đây. Điều này có vẻ không phù hợp với cách thức hoạt động của một đơn vị quân đội hay tình báo Mỹ vốn được tổ chức chặt chẽ và có đủ phương tiện. Vẫn chưa thể trả lời câu hỏi: kẻ địch đang có âm mưu gì ở vùng này.
Mặt trời lên gần tới đỉnh đầu. Ngàn cây đằm trong nắng chói chang. Trên vòm lá có con chim nào đang hót, từng chuỗi dài tiếng hót trong veo nghe bồn chồn như lời nhắn gọi. Chắc nó đang gọi bạn...
Có tiếng chân bước sột soạt trên cỏ. Tôi quay lại, thấy ông Thành đi tới. Ông nói:
- Anh Hải à? Việc ở đây xong rồi, có lẽ ta xuống...
- Dạ!
- Chúng tôi có bàn nhau xuống dưới đó cúng bát cơm quả trứng như lần đầu mai táng cho mấy đứa nó. Không biết ý anh thế nào?
- Dạ, cháu cũng không rành tập tục, các bác thấy gì cần xin cứ làm.
Quay lại chỗ ngôi mộ, thấy mấy người lính ôm nhữrlg gói hài cốt đang đứng đợi cùng với già Lý và ông Hồng, ông Thành xin mang theo hòn đá ám khói, tôi hơi ngạc nhiên nhưng không tiện hỏi. Đoàn người nối thành hàng một theo con báo đi xuống.