Đội Đặc Nhiệm TK1

Chương 22:

Chương 22:
Trong khi tôi tưởng thời gian ngừng trôi thì thực ra trái đất vẫn quay. Góc trời phía đông nam đang chuyển từ màu xám đen sang màu trắng rồi xanh dần. Những tia nắng đầu ngày nhuộm màu hồng rực rỡ lên các dải mây mỏng như muốn báo rằng hôm nay trời đẹp.

Dù rất sốt ruột, tôi vẫn đợi đến khi nắng nhuộm vàng ngọn cây mới rời khỏi ụ súng.

Lần theo đường chạy tối qua, ít phút sau tôi tìm được khẩu tiểu liên bị kẹt trong bụi rậm, băng đạn còn hơn nửa. Hay lắm! Vẫn còn khẩu AR15 giấu trong hốc cây đa, nhưng ngay lúc này cần có vũ khí cầm tay. Tôi linh cảm bọn địch không bỏ cuộc một cách đơn giản như thế. Có thể chúng còn cài lại một toán để phục. Lúc đêm không đếm được có bao nhiêu đứa bước lên chiếc quan tài bay.

Trên lối mòn ướt đẫm sương đêm, bầy kiến cần cù đang xúm đen xúm đỏ quanh mấy vũng máu tím bầm, bu đặc cả trên những chiếc lá cây vấy máu. Vỏ đạn vàng chóe vương vãi khắp nơi.

Vòng qua một lùm cây, tôi mừng rơn khi nhìn thấy chiếc ba lô của mình ngay bên lối mòn. Cả con báo đá cũng nằm đó. Bọn này ghê thật, định ăn cắp cả "tác phẩm nghệ thuật"! Tuy vậy, tôi không vội nhặt ba lô mà tách khỏi lối mòn luồn qua bụi rậm đi về hướng nhà. Xung quanh vẫn nghe chim hót, con báo đi sát bên vẫn bình thản, nhưng sao cảm giác bất an cứ nặng trĩu trong đầu?

Tới sát bãi cỏ, tôi nhẹ nhàng chuồi người nằm dán xuống đất, vạch lá nhìn ra. Điều trông thấy trước mắt làm tôi nhẹ người: lũ khỉ đang ngơ ngác chạy tới chạy lui dưới chân cầu thang. Vậy là không có địch phục lại, và nhà khỉ vẫn yên lành. Quay lại chỗ chiếc ba lô, tôi ngồi xuống cách nó chừng hai mét, nhíu mày suy nghĩ. Không có địch, sao mình vẫn có linh cảm nặng nề đến thế! Tụi lính này đâu phải loại xoàng? Chúng lành nghề và xảo quyệt, chẳng lẽ chịu bó tay dễ dàng vậy sao?

Sương tan dần. Những tia nắng le lói qua ngọn cây làm lối mòn sáng rõ hơn. Tôi chăm chú quan sát và bật kêu mừng rỡ: "Đây rồi..." Một sợi dây nhỏ từ chiếc ba lô luồn xuống lớp lá rụng cạnh gốc cây. Không phải dây rừng. Sợi dây này căng và trơn đều: lựu đạn gài. Chuyện vặt! Trò này chỉ bẫy được những kẻ láu táu, mà tôi không ở trong số đó. Chỉ lát sau, tôi túm được quả lựu đạn nằm dưới lớp lá khô, bẻ quẹo chốt cho khỏi tuột rồi nhẹ nhàng cắt dây. Quanh ba lô không còn gì khác nhưng tôi vẫn đứng yên, lòng đầy lo lắng. Cái chết đang lảng vảng đâu đó trong khoảng không gian nhỏ hẹp giữa mấy lùm cây này. Mối nguy hiểm dường như sờ thấy được.

Tôi nhìn kỹ xung quanh, nhìn lên cả ngọn cây. Vẫn không thấy gì? Nhưng đúng là có chuyện khác thường. Hình như... Phải rồi! Vẫn chiếc ba lô. Nó được đặt dựng đứng bên lối mòn. Chẳng ai trong lúc vội vã mà vứt chiếc ba lô nặng được ngay ngắn như vậy.

Nhè nhẹ bước tới gần, tôi đặt tay trái lên ba lô giữ cho nó khỏi đổ, nghiêng người luồn tay phải mò trong lớp lá bên dưới. Một phút sau, mấy đầu ngón tay đã chạm vào lớp vỏ trơn và lạnh đến rợn người của quả lựu đạn. Tôi mò mẫm bóp chặt mỏ vịt, từ từ lôi nó ra. Lựu đạn đã rút chốt. Đây mới là nội dung chính của cái bẫy, quả bên ngoài chỉ nghi binh. Tự dưng tôi thấy hài lòng về tụi lính, ít ra cũng phải như thế mới đáng mặt thiện chiến! Chúng đâu chịu để tôi thắng một cách ngon lành. Có lẽ trò này là của thằng thượng sĩ hắn vốn có "tư thù” với tôi mà! Giờ này dưới âm phủ, hẳn hắn đang sốt ruột giương mắt tìm tôi và cáu kỉnh tự hỏi: "Sao lâu thế..."

Sau khi kiểm tra bên dưới ba lô một lần nữa và mở cả nắp thọc tay vào bên trong xem xét, thấy chắc ăn, tôi mới khoác nó lên vai. Còn con báo đá? Thôi, tạm để ở đây. Tôi đẩy nó vào sát gốc cây, lấy lá vùi lại.
Thấy tôi xuất hiện, lũ khỉ nhào tới mừng rối rít. Khỉ già đứng trên hai chân sau, ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi xem chuyện gì đã xẩy ra. Những con kia chạy lăng xăng, vò đầu bứt lông nhảy nhót. Có con lăn lộn trên bãi cỏ, con khác lại trèo vùn vụt lên cây rồi thoăn thoắt tụt xuống, miệng kêu léc chéc như hóa rồ. Chúng thể hiện sự mừng rỡ theo đúng phong cách nhà khỉ.

Tôi nhìn cảnh nhà mà ngán ngẩm. Đúng là vừa qua trận giặc! Xoong nồi bát đĩa bừa bãi dưới chân cầu thang. Đống củi dưới gầm sàn cũng bị chúng bới tung lên lục lọi. Trên nhà còn tệ hại hơn: cánh cửa bị giật ra vứt dưới đất, vách nhà bị đạp thủng nhiều chỗ. Bên trong quần áo ném lung tung, cỏ lót nệm bay đầy nhà, gạo muối đổ tung tóe vương vãi trong khe gỗ sàn và lọt cả xuống đống củi phía dưới. Mấy cặp đường bánh, những gói mì cua và xâu cá khô cũng bị chúng giật xuống vứt dỏng chỏng trên sàn.

Tôi nhặt nhạnh các thứ nhét vào ba lô, tiếc quay quắt khi nhìn những hạt gạo hạt muối đổ vương vãi. Lúc này không có thời gian để nhặt. Rất may là còn có số dự trữ giấu trên chiếc trực thăng. Thôi, chẳng tiếc! Nếu tính chi li thì ngoài số gạo muối bị đổ, mình không bị thiệt hại gì nhiều. Mọi thứ chúng định lấy đi đều để trong ba lô và đã thu lại được, kể cả bản đồ, địa bàn, bật lửa..., cả túi thuốc nữa. Chúng lấy mất khẩu tiểu liên, nhưng mình đã giật được khẩu khác cùng loại, lại còn mới hơn. Vậy đâu có mất gì? Mấy soong thịt không tính, coi như chi phí. Nhờ nó mà kéo dài được chút thời gian và làm cho bọn lính phần nào lơ là cảnh giác. Vả lại, đến lúc này nó còn có ý nghĩa như bữa ăn cuối cùng dành cho kẻ từ tội trước lúc ra pháp trường. Kể ra, còn những vết rách xước trên người và chỗ bị đánh bên sườn đang đau ê ẩm, nhưng vẫn đi được có nghĩa là không nặng lắm. Lúc nãy tôi đã tự tiêm cho mình một mũi kháng sinh.
Xuống dưới nhà, tôi lấy một bánh đường chặt ra làm sáu chia cho mỗi con thú một phần, lại còn cho hẳn lũ khỉ hai gói mì cua bị rách bao. Những lúc như thế này chẳng nên ki bo làm gì? Sau hoạn nạn mà còn gặp nhau đầy đủ nguyên lành là quý rồi...

Trong lúc lũ khỉ vui vẻ nhận quà rồi mỗi con ngồi một góc hăm hở gặm đường, thì báo Aga nằm dài trên cỏ đưa hai chân trước giữ miếng đường và thè lưỡi liếm. Cứ như vì nể quá mà ăn, chứ bộ dạng nó không mấy hào hứng. Báo và khỉ là hai "trường phái ẩm thực" khác nhau. Tôi cảm thấy áy náy bởi sau tất cả những gì con báo đã làm, đúng ra nó phải được đền đáp xứng đáng hơn. Nhưng tôi đang vội, địch có thể lên bất cứ lúc nào. Thôi, để khi khác mình sẽ đãi nó món cá nướng ăn bằng thích. Mà thực ra con báo làm mọi việc đâu phải vì miếng ăn!

Tôi ra suối tắm qua loa rồi mở lọ cồn bôi lên nhưng vết xước dày đặc trên người. Buốt nhon nhót, nhưng đỡ lo nhiễm trùng. Cũng còn may, cặp mắt không sao. Đấy! Trong bất cứ việc gì cũng đều có thể tìm ra điều may. Có phải đó là cách con người thường dùng để tự an ủi chính bản thân mình mỗi khi gặp chuyện... không may?
- Mặc vào người bộ quần áo rằn ri còn mới, tôi dầm bộ đồ rách xuống suối, lấy đá chặn lên cho khỏi trôi. Để sau giặt sạch làm giẻ sau súng, ở đây không có thứ gì bỏ đi cả.

Lúc đêm ngồi chờ trời sáng, tôi đã suy tính kỹ: bọn địch còn lên lại, ít nhất cũng để thu nhặt xác chết. Cho đến lúc này, mọi chiếc máy bay và nhưng con người tìm tới đây, dù ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp, đều có liên quan đến số vàng tôi đang giữ. Có thể bọn lính đêm qua không biết chúng cần bắt sống tôi để làm gì, nhưng chỉ huy của chúng biết. Ông Tùng có dính vào đây? Tất nhiên rồi! Tên trung sĩ an ninh thuộc không đoàn Sáu, lại còn thằng đại úy xếp của hắn. Rồi lời cô gái nói hôm nào: "...Trực thăng của không đoàn đảm trách tất cả các phi vụ tác chiến chiến thuật trên khắp Vùng Một chiến thuật..." Thực lòng tôi không hề ảo tưởng về kẻ thù, nhưng đã quá tin vào phần con người trong ông ta, nên bây giờ mới thấm thía vị chua chát. Thật ngây ngô dại dột khi tưởng rằng ai cũng nghĩ như mình. Dù sao, đòn trừng trị đích đáng giáng xuống cuộc tập kích đêm qua cũng giúp tôi phần nào sửa chữa được lỗi lầm, và sẽ làm cho mắt ông ta sáng hơn. Nhưng hình như trong chuyện này còn có điều gì vương vướng, khó hiểu. Ông ta không phải là kẻ bẻm mép như thằng đại úy...

Việc trước mắt là phải di chuyển chỗ ở, nhưng hôm nay chưa được. Chỗ mạng sườn vẫn đau âm ỉ, làm việc nặng sợ trầm trọng thêm. Vả lại, lúc này mà chui sâu vào rừng để rồi sống trong thấp thỏm lo âu: "Không biết địch đã lên chưa? Chúng đang làm gì?...", thì còn hơn cực hình. Tốt nhất cứ nằm lại trên ụ súng, ở đó kín đáo và bất ngờ, lại là điểm quan sát thuận lợi. Nếu địch đổ quân, chúng sẽ không ngờ tới chuyện tôi đang ở ngay bên cạnh.

Tôi xếp vào ba lô những thứ cần thiết, bỏ thêm chục lựu đạn và mười bốn băng đạn thu được của bọn lính lần trước. Tất cả đồ dùng còn lại, tôi nhét vào chiếc ba lô của anh Hùng, rồi mang nó cùng khẩu AR15 vào giấu trong rừng.

Mọi việc xong xuôi, tôi khoác ba lô xách súng và xách theo can nước đi lên ụ súng. Lũ khỉ ngơ ngác đứng nhìn theo. Tội nghiệp! Không có cách nào bảo chúng đi kiếm nơi khác để sống, ở đây giờ đã trở nên nguy hiểm. Vì quyến luyến với tôi mà lâu nay chúng vẫn sống trên cây đa, chứ loài khỉ có bản năng tìm chỗ ở rất tốt.

Đến ụ súng, tôi chuồi can nước và ba lô vào bên trong rồi đi ngược trở lại xóa vết chân. Tôi vuốt từng ngọn cỏ bị rạp, ngắt mấy nhánh cây gãy, bứt hết những chiếc lá héo trên giàn dây leo do lửa đầu nòng súng táp vào. Khi thấy tất cả đều ổn, tôi mới chui vào bên trong hạ giàn ngụy trang xuống, trải tấm pôngsô nằm nghỉ. Toàn thân đau nhừ, từng khớp xương như đang rời ra.

Bên ngoài mặt trời đã lên cao, ánh nắng bắt đầu sưởi ấm vạn vật, nhưng trong ụ súng vẫn lạnh ngắt. Tôi lấy tấm chăn len đắp lên người, nằm lơ mơ một lúc rồi ngủ thiếp đi.
Gần trưa thì máy bay lên. Bị đánh thức bởi tiếng động cơ ù ù từ xa vẳng lại, tôi vùng dậy nhìn đồng hồ: hơn mười một giờ.

Trong ụ súng có những đốm vàng của nắng lọt qua kẽ lá. Khi hé giàn dây neo nhìn ra ngoài, mắt tôi bị lóa nắng, phải ít phút sau mới nhìn thấy hai chiếc trực thăng bay vòng vòng ở phía đông vùng đồi cỏ. Đưa ống nhòm lên mắt quan sát một lúc, tôi hiểu rằng chúng đang bay tìm kiếm, và vòng lượn ngày càng tiến lại gần.
Tôi kiểm tra súng đạn, bày những quả lựu đạn lên bờ ụ súng, rồi bóc một gói mì cua bẻ từng miếng cho vào miệng nhai. Nhờ ngủ được một lúc nên tôi thấy tỉnh táo và bình thản. Chỗ nấp kín đáo, người đứng ngay bên cạnh cũng khó phát hiện được. Còn nếu chúng dùng chó lần ra, tôi sẽ cho chúng biết thế nào là bão lửa, nhưng đó cũng là trận đánh cuối đời…

Chừng mười phút sau, hai chiếc trực thăng bay qua chỗ tôi. Khi phát hiện ra đống xác máy bay, chúng lượn vòng trở lại, mấy đầu lính đội mũ chống đạn nghiêng ngó bên cửa. Chúng bay ngoài tầm súng tiểu liên, nhưng đại liên dư sức với tới. Như vậy chúng không biết tôi có khẩu súng này. Cô gái không nói, còn những đứa biết thì chẳng bao giờ nói được nữa. Tôi buông ống nhòm xuống, sợ mặt kính phản chiếu ánh nắng làm lộ mục tiêu.

Tiếng động cơ ầm ầm xói vào tai khiến đầu óc căng lên. Như bị thôi miên, hai tay tôi tự động xoay khẩu đại liên chứa nòng lên trời, ngón trỏ lần tìm cò súng, mắt nheo trên đường ngắm. Còn trên ba trăm viên đạn, ít nhất cũng "chơi” được một chiếc...
"Không! Không được bắn! Mình còn phải trở về..." Tôi hít mấy hơi thở sâu và buông khẩu súng ra. Hai chiếc trực thăng mở những vòng lượn rộng hơn, chắc để xem xét tình hình xung quanh. Lát sau chúng bay về hướng đồi cỏ, hạ thấp dần rồi khuất sau bờ ụ súng. Tiếng động cơ lặng đi. Chúng đáp xuống ngoài đó. Vậy là sao? Đổ quân ư? Tôi sốt ruột quá, nhưng lúc này không thể trèo lên nhìn.

Dăm phút sau, có tiếng phành phạch tử xa vẳng lại và rõ dần lên. Nghe tiếng, tôi biết chỉ có một chiếc. Phải một trong hai chiếc lúc nãy, hay bây giờ chúng mới chở quân tới?

Chiếc trực thăng bay đến gần. Không phải HU1A, loại này lạ. Nó bay chầm chậm nhằm hướng tràng cát và giảm dần độ cao. Lúc còn cách chỗ tôi chừng trăm mét, bên cửa hông máy bay chợt xuất hiện lá cờ trắng có dấu chữ thập đỏ ở giữa. À, máy bay lấy xác! Tôi vừa ngạc nhiên vừa thích thú. Bọn này "lịch sự" ghê. Lại biết điều nữa! Nhưng chúng cẩn thận quá, tôi đâu ham bắn giết! Không những thế, tôi đang mong chúng xuống dọn hộ đống xác ngoài kia, sáng tới giờ cứ lo ngay ngáy về nó. Chôn thì không đủ sức, mà để vậy cũng áy náy, lại thối hoắc cả vùng. Toi còn sợ con cọp rừng dưới mò lên nếm thử đâm quen mùi, tuy không chắc là nó có thèm ăn thứ xác chết khét mùi xăng và mùi thuốc nổ kia không.

Tôi lấy chiếc máy truyền tin hí hoáy chỉnh tìm tần số của bọn trên máy bay, nhưng không được. Có thể trên mấy chiếc trực thăng này không lắp cùng hệ máy tương ứng, hoặc chúng dùng một dải tần nào đó mà tôi không dò ra. Tiếc quá! Nếu nghe được bọn địch nói gì với nhau, sẽ biết thêm nhiều điều.

Chiếc trực thăng cứu thương đỗ xuống tràng cát. Từ của máy bay túa ra sáu tên lính tay xách băng ca. Bọn chúng hì hục moi trong đống kim loại cong queo ra những mảnh thi thể cháy đen, bỏ vào túi nhựa có dây kéo, khiêng lên máy bay. Từ ngoài đổi cỏ, hai chiếc kia thỉnh thoảng thay phiên nhau bay lên lượn vòng phía trên để cảnh giới. Chúng không dám bay cả hai vì sợ hết nhiên liệu.

Phải hơn hai tiếng đồng hồ, bọn lấy xác mới rút lên máy bay. Chẳng nên kể tỉ mỉ về công việc của chúng, bởi đó là một cảnh tượng rùng rợn chứ không có gì hấp dẫn.

Khi những chiếc trực thăng bay đi, núi rừng yên ắng trở lại. Trời đã về chiều, nắng thu đang nhuộm vàng óng cánh rừng bên kia suối và lấp loáng trên dòng nước len lách qua những tảng đá, những lùm cỏ xang mượt mà. Cảnh chiều vẫn đằm thắm như vốn có từ bao đời, chỉ những mảnh vỡ và cái đống kim loại nám đen dưới kia là lạc lõng đến trơ trẽn giữa thiên nhiên hoang dã.

Tôi chống giàn dây leo lên cho nắng tràn vào ụ súng rồi leo ra ngoài, đan tay bó gồi ngồi thẫn thờ. Trước mặt là khe cỏ lau bông trắng muốt rung rung trong gió. Ngoài kia triền đồi cỏ nhuốm nắng vàng hoe. Xa xa ngọn thủy tùng như cái tháp xanh đang đung đưa. Đằng sau nó, bầu trời trắng bạc xa đến vô cùng. Phía ấy là đồng bằng, là biển.

Tôi ngồi lặng lẽ hơi lâu, không còn nhớ tới những gì vừa xây ra. Cảnh đẹp mà buồn quá! Có lẽ sau này về dưới kia tôi sẽ nhớ những buổi chiều ở đây. Còn bây giờ... Nắng đẹp thế này ở quê hoa cúc đang nở rộ. Hoa vạn thọ nữa! Nhà ai gieo cải sớm nếu không nhanh tay ngắt ngồng, những luống cải sẽ trổ hoa vàng lốm đốm. Trong vườn vàng rực lên như nắng đọng thành hoa. Cả những quả bưởi trên cành cũng được nắng nhuộm vàng lớp vỏ rồi thấm dần vào từng tép. Và lúc chập choạng tối, những bông hoa mướp sẽ lập lòe trong đám lá xanh như những đốm nắng sót lại...

Con báo vừa đi đâu về, im lặng nằm xuống bên tôi. "Mày bao giờ cũng đến đúng lúc, Aga! Chứ chỉ mình tao buồn quá..." Nhưng nó đi đâu cả ngày nay nhỉ? Bụng lép kẹp thế kia, chắc chưa ăn uống gì. Tôi vuốt bộ lông mượt của nó, thầm cám ơn con thú đã nhiều lần cứu mình thoát chết. Chẳng ai biết được đêm hôm đó con báo tình cờ có mặt đúng lúc hay phục sẵn từ trước. Còn vì sao nó tấn công vào chính con chó, mấu chốt cơ bản của việc giải thoát, tôi đoán rằng trước đó con báo từng thấy những người mặc áo lính như vậy có mùi như vậy đi với tôi, nên nó chỉ nhảy xổ vào con vật cao ngạo dám xâm phạm lãnh địa đã được đánh dấu của nó. Hoặc do bản năng tinh khôn của loài dã thú mà nó biết mối nguy hiểm nhất tập trung ở đâu...

Nói gì thì nói, báo Aga đã ra đòn thật tuyệt. Tên đại úy trước khi chết hẳn đã hài lòng vì có trận quyết đấu đúng như sự chuẩn bị, có điều kết quả ấy buộc hắn phải ôm mối hận xuống mồ. Công bằng mà xét, bọn địch không hề chủ quan khi dẫn giải tôi, chúng chỉ không ngờ được tài nghệ cao cường của con báo. Ngay cả tôi cũng bất ngờ nữa là! Con bẹcgiê tuy cao to hơn, nhưng làm sao đọ nổi móng vuốt cùng hàm răng sắc nhọn của con báo! Sức mạnh dẻo dai bền bỉ và phản xạ cực kỳ lanh lẹ thừa hưởng từ mẹ nó, khả năng tấn công bất ngờ được tập dượt thường xuyên qua việc săn mồi hàng ngày và lòng trung thành với người chăm bữm nó từ khi mới mồ côi mẹ, đã giúp con báo vượt lên và chiến thắng trong cuộc đọ sức không tính trước. Bọn địch tưởng rằng con bẹcgiê tinh khôn được "học hành" cẩn thận sẽ phát hiện ra con báo, nhưng trong mấy ngày nắng quãng rừng non đó có hàng chục con thú qua lại, mà con chó thì chưa ngửi thấy mùi con báo lần nào. Tôi cảm thấy hài lòng vì mình đã tạc tượng con báo. Nó xứng đáng được như vậy.

Mặt trời xuống thấp dần. Trong bóng chiều thấp thoáng cánh chim lạc đàn, vài tiếng chim kêu thảng thốt tan loãng vào không trung bao la. Tôi quay lại nhà xách một bao than củi lên đốt lửa để ngủ trên ụ súng. Hy vọng đêm nay yên tĩnh.
Sáng dậy, tôi về nhà định nhặt số gạo đổ nhưng chẳng còn gì. Lũ kiến đã tha hết về tổ của chúng. Cả những hạt muối cũng ngấm sương tan thành nước. Tôi đành lên chỗ chiếc trực thăng lấy ít gạo muối, chuẩn bị đi tìm nơi ở mới. Đã đến lúc từ bỏ khúc suối tuyệt đẹp này. Chính vì quyến luyến với nó mà tôi hai lần suýt mất mạng. Sắp tới kẻ địch còn làm gì nữa, chưa biết! Nhưng không thể chần chừ mãi. Đợt nắng kéo dài gần mười ngày rồi, trời sắp mưa trở lại, lúc đó không thể ngủ trên ụ súng được.

Tôi men theo con suối đi ngược lên, định tìm xem nơi nào thuận tiện dựng tạm cái chòi trú cho qua mùa đông. Lúc tới đoạn suối chảy qua bãi đá, tôi đặt ba lô xuống, lội sang bên kia để kiểm tra lại chỗ giấu vàng. Đến nơi thấy cỏ và dây leo mọc um tùm trùm kín miệng hang. Chẳng có gì phải lo nhưng cần nhớ kỹ vật chuẩn, nếu không sau này trở lại khó tìm ra ngay được.

Đang loay hoay đo khoảng cách từ tảng đá to cạnh suối lên tới hang, tôi chợt nghe trong tiếng nước chảy có tiếng ì ì. Máy bay Đúng không? Hay mình nghe nhầm? Tiếng động cơ rõ dần. Chết rồi, chúng lại lên.
Tôi vội vã xóa dấu chân, lội ào qua suối tới nơi đặt ba lô. Một âm thanh khác lọt vào tai càng làm tôi sửng sốt: tiếng tín hiệu "tít tít" vang từ chiếc máy truyền tin. Hay là cô ấy? Kẻ khác cũng có thể dùng tần số này... Tôi hồi hộp kéo cần ăng ten và bật nút nghe: "...Anh Hải đâu trả lời đi! Đây Thủy gọi..." Đúng tiếng cô ấy rồi! Nhưng sao lạ lùng vậy? Phải chăng địch đang lợi dụng cô? Nếu không, đời nào ông đại tá kia lại để cô bay?... Tiếng mạch đập ù ù trong tai át cả tiếng gọi hối hả vang ra từ máy. Dù sao cũng phải trả lời, có hỏi mới biết được. Tôi nói vào máy:
- Tôi nghe đây?
- Anh... anh Hải? - Tiếng cô reo mừng rỡ - Anh có sao không?
- Tôi không sao! Cô lên... - Tôi định hỏi "Cô lên đây làm gì", nhưng chợt nhớ ra nên nói khác đi - Cô lên với ai?
- Em lên một mình. Anh Hải, xin anh tin ở em, - Cô nói như khóc - chuyện hệ trọng lắm!
Tiếng động cơ nghe gần lắm rồi. Hình như trực thăng đang lượn vòng ngoài tràng cát. Tôi nói nhanh:
- Cô hạ xuống đi! Nhưng cứ ngồi yên trên đó đợi tôi... Không phải, hiện giờ tôi đang ở xa, khoảng hai chục phút nữa mới ra tới.
- Em đáp xuống bãi cỏ trước nhà được không?
- Hạ được không? - Tôi hỏi lại.
- Dễ ợt! - Cô reo lên - Hôm trước em coi kỹ rồi!
Mừng khấp khởi, tôi khoác ba lô nhào chạy. Mới được mấy bước, chỗ đau bên sườn lại nhói lên. Tôi cắn môi cố bước nhanh. Nhìn qua khoảng trống trước mặt, thấy chiếc trực thăng lướt trên dải rừng non, chững lại một chút rồi hạ xuống khuất sau ngọn cây.

Mấy phút sau, tôi dừng bên gốc cây cạnh thác nước, đưa ống nhòm lên mắt. Máy bay đỗ trên đám cỏ cạnh vũng suối. Chỉ thấy mình cô ngồi trên ghế lái, đôi mắt mở to ngóng ra ngoài bồn chồn. Tim đập rộn trong ngực, tôi luồn vội qua những gốc cây, hai chân cứ ríu lại.

Vừa thấy tôi, cô gái bật cửa nhảy xuống chạy ào tới. Khi còn cách mấy bước, cô khứng lại nhìn tôi chăm chăm rồi bỗng ngồi thụp xuống ôm mặt khóc. Tôi ngơ ngác đứng sừng như bị chôn chân, cảm thấy hai mắt cay cay.
Lát sau tôi bước tới, bối rồi lay nhẹ bờ vai đang rung rung, vụng về hỏi:
- Cô Thủy... sao vậy?
Cô từ từ đúng dậy, khuôn mặt giàn dụa nước mắt, miệng nói như mếu:
- Anh còn sống..
- Không phải đâu, ma đấy! - Tôi cố đùa.
Cô nhào tới đấm vào vai tôi thùm thụp:
- Anh quỷ nè! Em lo muốn chết mà anh còn giỡn... ủa, sao vậy?
- À không... không sao!..
- Đừng giấu em. Anh bị thương phải không?
Tôi đành nói thật:
- Chúng đánh báng súng vào sườn...
- Anh ngồi xuống đây. Đưa em coi? - Cô nói như ra lệnh.
Tôi phải ngồi xuống cỏ, ngượng ngùng kéo vạt áo lên.
- Trời! Thế này mà anh biểu không sao? Tím bầm hết cả nè! Ở đây đau không? - Ngón tay cô lần trên từng dẻ xương sườn khiến người tôi nóng ran - Đây? Đây nữa? - Rồi cô thở ra, nói chắc chắn - Bị ở hai xương sườn. Chỉ lún thôi, không phải gãy rời ra đâu. Anh thấy đau lắm không?
- Cũng... hơi hơi thôi. Nhưng sợ chảy máu bên trong.
- Không, nếu xuất huyết nội, giờ này anh đâu còn đi được! Đưa tay em coi! - Cô với tay tôi bắt mạch.
“Trời đất! Bắt mạch lúc này chắc mình bị quy đau tim..."
- Cô làm như bác sĩ không bằng? - Tôi càu nhàu.
- Em có biết sơ sơ. - Cô cười, nói tiếp - Mạch đập gấp, chắc tại anh mới chạy... Thôi, để về dưới em kêu bác sĩ!
Tôi bật cười:
- Cô định chở bác sĩ lên tận đây sao?
- Bí mật! Chuyện đó nói sau! - Cô tủm tỉm.
Chúng tôi đi lên nhà. Cô ngơ ngác đứng nhìn quanh:
- Sao lại thế này?
- Bọn nó lục soát ấy mà!
- Vậy làm sao anh thoát được?
- À… chuyện dài lắm, để sau tôi kể!
- Thế Aga với mấy con khỉ?
- Chúng vẫn yên lành cả!
- Ôi! - Cô đưa hay tay bưng mặt, lát sau mới ngẩng lên nhìn tôi, mắt ngấn nước - Vậy mà em sợ... em tưởng...
- Cô nghĩ gì vậy?
- Em... Giờ thì không sợ xui xẻo nữa. Lúc bay đi, em cứ nghĩ nếu lên đây mà... không còn anh... không biết rồi em có bay về nổi không...
- Nhưng... cô lên đây làm gì?
- Biết ngay mà! Anh lại hỏi như lần trước…
- Không phải! Lúc này ở đây nguy hiểm lắm! Cô lên một mình, lại không mang vũ khí, không sợ sao?
- Em sợ lắm! Nhưng lo là lo vậy thôi, chớ em tin... anh vẫn còn sống.
- Thế lỡ tôi nổ súng?
- Việc đó em không sợ. Nếu muốn giết em, anh đã bắn hôm em chở toán lính lên đây. Khi đó em... là kẻ thù của anh mà!
Tôi ngẩn người. Cô có cách nghĩ thật hay. Nhưng cô không biết được tôi đã nghĩ gì trước khi nổ súng vào chiếc trực thăng kia.
- Nhưng làm sao cô lên đây được?
- Thì em bay! Bộ anh tưởng em quên đường sao? Bay trên trời không dễ lạc như đi trong rừng đâu? Mà anh hỏi chi hỏi hoài như phỏng vấn vậy?
- Tại lâu nay đâu có ai để hỏi? - Tôi cười, hỏi tiếp - Cô bay trộm ư?
- Sao lại bay trộm? Ôi, em hiểu rồi? - Cô nhìn tôi, nét mặt chợt buồn - Không phải vậy đâu anh? Vụ tập kích vừa, rồi bác Tùng không biết.
Tôi cười gằn:
- Tôi không tin! Có thể cô chưa rõ, nhưng cô còn nhớ thằng trung sĩ đặt máy ghi âm hôm lên bốc mộ không Trung sĩ Hưng?
- Đúng? Và cả thằng xếp của hắn nữa. Cái thằng nói giọng the thé như đàn bà ấy?
- À, đại úy Quắc, trưởng ban Hai. Chả thân với Cođy lắm đó!
- Cả hai đứa nó đều có mặt trong toán lính tới đây đêm hôm trước.
Cô ngẫm nghĩ một lúc, mới nói: Việc đó em chưa hay? Nhưng em cam đoan là... bác Tùng không dính. Chính bác sắp xếp cho em bay mà!
- Cô nói rõ hơn được không?
- Chiếc trực thăng hôm đó do người Mỹ lái, loại này không lực không có. Và em được biết nó bay từ Nha Trang, chở toán thám báo từ trong đó ra. Còn làm sao có hai người của ban Hai thì em không biết.
- Nhưng ba chiếc lên lấy xác hôm qua là của không đoàn Sáu?
- Đúng vậy! Sáng qua bác Tùng nhận điện từ trong kia yêu cầu tổ chức một phi vụ cấp cứu. Khi nghe thông báo tọa độ, bác ấy mới hoảng, chạy tới nói em biết. Anh có thấy máy bay cứu hộ thả cờ hồng thập tự không?
- Có?
- Bác ấy lịnh cho phi công lên đây phải làm vậy, anh sẽ không bắn. Ấy là nói... nếu anh còn sống. Mãi tới khi toán cứu hộ trở về, bác ấy mới chắc chắn anh không sao.
Tôi thừ người. Mọi việc rõ dần lên từng nét, nhưng chính vì vậy lại càng khó hiểu. Dường như cả con người, cả sự việc trong chuyện này đều vượt quá tìm hiểu biết của tôi… Thôi, đành gác lại. Tôi nói:
- Dù sao cô cũng liều lắm! Bọn chúng có thể tới đây bất cứ lúc nào. Tôi không muốn cô bị vạ lây.
- Thế anh không lo cho anh sao?
- Có chứ! Nhưng tôi tự xoay xở được. Còn nếu có chết cũng coi như vì nhiệm vụ, chẳng có gì phải áy náy.
- Em cũng vì nhiệm vụ chớ bộ! - Cô nói một cách hãnh diện.
- Nhiệm vụ? - Tôi kêu lên, trong đầu thầm nghĩ: "Cô này... đúng là chẳng biết thế nào mà nghĩ? Lúc thì già dặn tinh khôn như quỷ, lúc lại như trẻ con..."
- Chớ anh nghĩ sao?
- Tôi nghĩ là... tôi chẳng nghĩ gì cả. Có điều nếu vì lên đây mà cô bị làm sao, chắc tôi... sẽ ân hận suất đời.
Cô lườm:
- Em không dễ chết vậy đâu! Và đừng tưởng em lên để thăm anh đâu nghen!
- Vậy cô lên làm gì?
- Anh đoán coi?
Tôi lại thừ người ngẫm nghĩ. Đơn giản nhất là cho rằng bọn địch cử cô lên đây xem tôi còn sống không, và để dò xét. Nhưng tôi không tin chuyện đó. Còn gì khác thì chưa nghĩ ra.
- Tôi chịu! Nếu không muốn nói, cô cứ giữ kín. Tôi không nài nỉ đâu.
- Đừng tự ái thế, anh giải phóng? - Cô xoay lưng về phía tôi, co tay rút tử trong ngực ra một mảnh giấy gấp nhỏ, quay lại mặt nhanh vào tay tôi - Đây nè!
Chưa kịp hiểu ra chuyện gì, nhưng hơi ấm từ mảnh giấy truyền qua tay một luồng nhiệt kỳ lạ làm người tôi nóng bừng.
Một chút bối rối, rồi tôi mở tờ giấy. Không phải một, mà hai tờ. Và điều nhìn thấy trên tờ giấy thứ nhất khiến tôi nẩy người như bị điện giật: nét chữ của tôi!
Ngẩn ngơ nhìn những dòng chữ do chính tay mình viết tôi không còn tin ở mắt mình. Sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy? Nhưng đúng là những dòng chữ này, bốn câu đầu trong bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu.
Sau phút bàng hoàng, bộ óc nhanh chóng hoạt động trở lại: tờ giấy này là trang đầu trong cuốn sổ tay của tôi.
Lật xem tờ giấy thứ hai, tôi càng sửng sốt: một bức thư ngắn! Nét chữ của anh Hai Nguyên! Không thể lầm được! Cố giữ cho tay khỏi run, tôi lướt nhanh nội dung thư:
"Mày bận gì thì bận, cũng phải lên thăm chú thím chứ! Cứ hẹn lui hẹn tới, vài bữa vô mùa màng lại không đi được. Lên chơi ít ngày đi cháu! Nhân tiện có thằng cháu họ bên thím mày đi chở hàng gần đó, chú nói nó ghé qua đón cháu luôn thể. Còn mấy cây mai cử để dưới, ra giêng về chạp mộ chú lấy. Mà nhớ giữ cẩn thận cho chú nghe, đừng để hư rễ chết uổng. Giông mai đó quý lắm!
Chú thím chờ cháu."

Tôi đọc lại bức thư, lần này chậm hơn. Dần dần mọi việc trở nên rõ ràng. Như vậy lá thư tôi nhờ ông Thành gửi đã tới được tay anh Hai Nguyên và anh nói một đường dây liên lạc trở lại, mà chặng cuối cùng là cô cháu gái. Nhờ đó, thư anh đến được tay tôi. Để làm tin, anh đã tới hậu cứ Ty an ninh Quảng Trị, lấy cuốn sổ tay của tôi xé một trang gửi theo. Trong trường hợp này, không có mật hiệu nào chắc chắn hơn thế. Và theo thư anh viết, tôi phải nhảy lên chuyến "xe hàng” của "thằng cháu họ bên thím mày”, tức là lên trực thăng của cô gái hiện dang đứng trước mặt tôi, để về dưới đó. Còn việc gì tiếp theo nữa, phải hỏi “thằng cháu” mới biết được.

Muốn hỏi mà không mở miệng nổi. Tôi cảm thấy choáng váng, ngực nghẹn thở, người rạo rực như say. Mọi thứ xung quanh nhòa đi. Vòm cây trên đầu bồng bềnh xoay tròn cùng mảng trời xanh. Cả người tôi lâng lâng như đang lơ lửng trong không gian bao la huyền ảo... ở đó tôi gặp lại những gương mặt thân thiết của người thân và bạn bè, những người còn sống và cả người đã chết... Rồi từ nơi nào đó xa vời trong ký ức chợt hiện về những khung cảnh quen thuộc: khu rừng nhỏ bé của tuổi thơ, mái nhà tranh và lũy tre ven làng, tiếng chim tu hú và những chùm vải chín đỏ, đồng lúa vàng và tiếng gà cục tác giấc trưa, biển xanh và bờ cát trắng, những chớp bom và ánh lửa phụt đầu nòng súng... Tất cả chập chờn lúc gần lúc xa như ảo ảnh...
Một bàn tay lay vai tôi và giọng nói thanh thanh gấp gáp: "…Anh có sao không? Anh Hải..." Những hình ảnh chợt biến mất, chỉ còn lại trước mặt'tôi đôi mắt đen mở to đầy lo lắng.
- Anh Hải, anh tỉnh lại chưa?
- Tôi có mê đâu mà phải tỉnh? - Tôi đáp tỉnh bơ.
- Anh không sao thiệt chớ? - Cô thở phào - Làm em hết hồn. Bộ dạng anh như người lên đồng vậy đó! Tưởng ai bắt mất hồn vía anh rồi chớ!
- Ở đây chỉ có mình cô, cô không bắt thì ai bắt?
- Còn chọc quê em nữa! Biết vậy chẳng đưa thư cho anh làm chi!
- Thì cô cứ giữ lấy, rồi bay về một mình!
- Em không về một mình. Về dưới ba em hỏi, em biết nói sao?
- Vậy cô làm gì?
- Em đợi! Khi nào anh chịu về em mới về. Anh đừng tưởng, em đã tính làm chi là phải làm bằng được mới chịu.
Tôi cười:
- Tôi có nghe bác kể rồi?
- Vậy nên em vừa được ba khen vừa bị mắng đó!
- Sao lạ vậy?
- Ông khen em giống tính chú, lại bảo: "Liệu con có biết việc gì đúng mà làm không?"
- Bác dạo này khỏe không cô? - Tôi hỏi, thấy ngượng vì sự vô tình của mình.
- Ba em khỏe, nhưng mấy bữa nay ông mất ăn mất ngủ vì lo.
- Sao vậy?
- Cách đây hơn tuần, anh Nghĩa, là con già Lý đó, ảnh nhắn ba em vô trỏng. Lúc trở ra, ông bảo em vô tiếp bàn công chuyện. Ba con em mới nhận được thư chú hôm kia. Bác Tùng sắp xếp cho em bay sáng qua, nhưng đụng vụ tập kích, bác ngưng lại. Vì vậy ba em lo lắm...
Tôi nín thở ngồi nghe, chuyện vừa hấp dẫn vừa lạ lùng.
- …đến chiều qua lúc toán cứu hộ về tới, em đòi lên mà bác Tùng không chịu, nói để dò coi tụi nó có phản ứng chi không. Sáng nay bác ấy mới cho em bay. Nhưng vầy cũng hên rồi! Bên khí tượng báo từ mai trời lại mưa, bay lên đây không được.
Tôi chậc lưỡi:
- Nói gì thì nói, cô cũng liều lĩnh lắm!
- Anh lại nói vậy rồi! Đừng tưởng em bay một mình đâu nghẹn!
- Cô có một mình đó thôi?
- Không phải! Cả ngày nay bác Tùng sẽ trực ở đài kiểm soát không lưu. Bác dặn em có chuyện chi cố bay lên và liên lạc với bác ấy, sẽ có người tiếp cứu.
- Tiếp cứu bằng cách nào? - Tôi lại càng ngạc nhiên.
- Em cũng không hay, lúc sáng đi gấp không kịp hỏi. Nhưng bác ấy cũng có những phi công thân tín chớ!
Mọi việc trở nên rối rắm quá. Vừa qua mấy ngày căng thẳng, lại đang trong tâm trạng xúc động, nên tôi không kịp suy nghĩ, phân tích những điều vừa được nghe. Và hình như cũng chưa có đủ thông tin để có thể hiểu hết mọi chuyện... Nhớ tới nội dung thư, tôi hỏi tiếp:
- Về dưới đó, tôi phải làm gì?
- Chút nữa quên! Để em nói hết cho anh hay. Ở đây ta bay lúc năm giờ, về dưới chập choạng tối là vừa. Máy bay sẽ đáp xuống một quả đồi cách Đà Nàng mười cây số. Nơi đó là bãi tập của trực thăng nên sẽ không bị để ý. Bác Tùng đón anh ở đó và đưa về nhà em lúc trời tối. Anh ở lại một đêm cho biết nhà, sáng mai ba em chở anh vô chỗ già Lý. Còn khúc sau nữa... em không biết!
- Chà! Nghe ly kỳ như... trong phim tình báo. Cô sắp xếp chuyện này phải không?
- Đâu có! Anh làm như em là "Việt Cộng thứ thiệt” không bằng! Mọi chuyện ở nơi anh Nghĩa. Hôm vô đó em gặp ảnh với một anh nữa. Mấy ảnh chỉ hỏi em về vụ máy bay. Lấy máy bay lúc này hơi khó, nhưng có bác Tùng. Dĩ nhiên cũng phải lo lót cho mấy người mặt đất để khỏi ồn chuyện.
Tôi băn khoăn:
- Tiền đâu mà bác với cô... Anh đừng lo! - Cô cười rộ, ngắt lời tôi - Số trầm kỳ hôm trước anh đưa, em nhờ người bán được bộn tiền, đủ thuê cả năm chuyến bay như thế này. Anh Nghĩa biểu vụ tiền để ảnh lo, mà em đâu có chịu!
- Như vậy là ở lại tới chiều?
- Vâng! Để anh có thời gian chuẩn bị. Em cũng muốn vậy. Được ở trong rừng, thích lắm!
- Tôi chẳng có gì chuẩn bị lâu. Chỉ sợ chúng nó ập đến bất ngờ.
- Em cũng lo. Nhưng không hiểu sao bác Tùng đoán chắc là hôm nay sẽ không có việc gì xây ra. Giờ vầy nghen! Anh sắp sẵn mọi thứ, nếu thấy động ta bay liền. Em đi nấu ăn, sau đó sẽ... cắt tóc cho anh. Để mái tóc này về dưới, thiên hạ sẽ bu tới coi, mà em biết tính anh hay mắc cỡ. - Cô nhìn tôi lém lỉnh.
Tôi đỏ mặt:
- Làm gì có! Ai bảo cô vậy? Bộ cô biết xem tướng chắc?
- Đâu cần ai biểu! Con gái chúng em tinh lắm! - Cô nghiêng mặt cười rúc rích.
Lúc ở dưới suối lên, tôi chọn củi khô nhóm lửa cho cô nấu ăn rồi đi dọn dẹp lại nhà cửa. Căn nhà, nói đúng hơn là cái chòi này đã che chở mưa nắng cho tôi hơn hai năm trời, giờ sắp phải từ biệt, không nên để nó hoang tàn quá.

Những thứ còn lại tôi gói kỹ, ôm vào giấu trong rừng. Về theo cách này, ngoài súng đạn không thể mang theo gì được, kể cả khẩu AK hết đạn, cả những kỷ vật hai anh để lại.

Khi quay ra, thấy cô đang ngồi bên bếp cắt thịt bò, thỉnh thoảng lại cầm nhánh lá quạt quạt cho khói bay bớt. Mặt cô ửng đỏ hơi lửa, mấy sợi tóc dính bết vào trán, những giọt nắng nhảy nhót trên tóc, trên lưng áo. Cô nói với tôi:
- Em đem thịt bò lên cho con báo, nhưng giờ đành bớt phần nó vậy. Anh đang đau, ăn cháo khỏe hơn. Mà Aga đâu anh?
- Tôi cũng không rõ. Dạo này nó đi vắng luôn. Hình như...
- Nó làm sao, anh? - Cô vội hỏi.
- Hình như nó... - Tôi lúng túng tìm từ để nói - nó... có bạn gái.
- Thiệt không?
- Tôi đoán vậy thôi. Nó chẳng kể gì cá!
- Ối… - Cô cười ngất, đôi vai tròn rung lên - Anh coi vậy mà... nghịch ngầm à nghen!
Ăn xong bữa trưa, chúng tôi ra suối rửa bát rồi đen vào nhà úp lại cẩn thận. Để cô ngồi chải tóc, tôi lấy gạo xuống dưới bắc tiếp nồi cơm.
Trưa yên tĩnh quá! Nắng vàng và gió nhẹ. Bầu trời hơi buồn, không xanh như mọi hôm, còn rừng thì trầm tư như đang nghĩ về giờ phút chia tay với tôi. Ừ! Đừng tưởng rừng vô tri. Rừng nghe hết, biết hết. Rừng hiểu tôi nghĩ gì về nó và nhớ những việc tôi đã làm khi ở trong rừng. Chính vì vậy mà rừng đã nuôi sống tôi, đùm bọc che chở tôi thoát khỏi nanh vuốt kẻ thù, giúp tôi vượt lên để trừng trị và chiến thắng chúng. Khắc nghiệt mà bao dung, cứng rắn mà độ lượng, rừng biết trừng phạt và biết tha thứ, biết rèn luyện và biết thử thách con người. Rừng giúp ta phân biệt bạn thù, khơi dậy trong ta tình người trong sáng và chân thật, vun đắp những tình cảm đẹp đẽ... Nếu như tôi và cô ấy gặp nhau không phải ở trong rừng, hẳn mọi chuyện đã khác và chắc gì chúng tôi hiểu được nhau?

Những tháng ngày sống ở đây, tôi đã hiểu vì sao anh Hùng lại bảo rừng biết nói. Rừng có tiếng nói riêng của nó. Như lúc này, rừng đang thì thầm. Tiếng của rừng lạ lắm, chỉ ai sống lâu trong rừng, yêu mến và gắn bó với rừng mới hiểu được. Trong tiếng rừng có tiếng của suối của gió của cây, tiếng của những con vật sống trong rừng, có cả tiếng lá vàng rơi, tiếng chồi non nứt khỏi lớp vỏ, tiếng rễ cây cựa mình trong đất... Chẳng ai bắt chước được tiếng rừng, không đo được, cũng không ghi lại được bằng nốt nhạc. Chỉ khi ngồi một mình giữa rừng và lắng nghe bằng cả tâm hồn mình, ta mới hiểu được rừng đang nói gì, cảm nhận được âm thanh của cuộc đấu tranh sinh tồn khốc liệt, của sự sống và cái chết, phát triển và lụi tàn, đau đớn và hạnh phúc, cay đắng và ngọt ngào, chia lìa và gặp gỡ… Ở trong rừng có tất cả, và rừng kể tất cả cho những ai biết nghe và hiểu nó...
- Anh Hải nghĩ chi mà coi bộ mơ màng dữ ha! - Cô gái đến bên tôi từ lúc nào, cất tiếng hỏi nhẹ nhàng.
- À, ờ… - Tôi đúng túng trả lời - Tự dưng thấy buồn. Lúc ở đây thì cứ trông về, giờ sắp về lại thấy... nhớ quá!
Cô nói lảng sang chuyện khác:
- Bộ anh còn đói sao nấu cơm vậy?
- Không, nấu cho lũ khỉ. - Tôi trả lởi, và buột miệng - Tiếc quá! Còn bao nhiêu là gạo với muối
Cô che miệng cười:
- Hay anh với em ở lại đây, khi nào ăn hết rồi về?
Tôi cũng cười, hỏi lại:
- Thế cô không sợ sao?
- Em sợ chi?
- Sợ… bác mắng?
- Em chỉ sợ ông lo chứ không sợ mắng. Ba em quý và tin anh làm mới để em đi. Nếu không, đời nào ông chịu cho con gái rượu lên đây một mình! - Cô liếc nhìn tôi tinh nghịch - Mà thôi, anh ra ngồi đây em cắt tóc cho.
Tôi đỏ mặt: "Hay để tôi tự cắt..."
Cô ngắt lời:
- Anh lại mắc cỡ rồi! Lúc này cắt tóc cũng là nhiệm vụ. Đừng tưởng em nghĩ ra vụ cắt tóc đâu nghen! Anh Nghĩa dặn đó!
Tôi chịu thua, xách súng ra ngồi trên hòn đá, cúi đầu đợi. Cô mở túi xách lấy chiếc kéo, nói như ra lệnh:
- Anh ngồi yên nghen!
Cô dùng kéo cắt ngang mái tóc phía sau gáy, rồi kẹp rưỡi lam vào lược chải. Từng lớp tóc dày rụng lả tả xuống cỏ. Những sợi tóc trên đầu tôi chắc đang dựng dừng lên run rẩy dưới mấy ngón tay mềm mại của cô.
Tôi hỏi cho có chuyện nói để đỡ ngượng:
- Cô biết nghề cắt tóc từ khi nào?
- Em đâu có biết! Ý anh ngồi yên đừng cựa quậy chớ. Nếu xấu về dưới em đưa tới tiệm sửa lại. Mà anh gội bồ kết phải không? Tóc anh còn dài hơn tóc con gái nữa đó!
- Tại ở đây không có gì cắt, chứ tôi có muốn để thế đâu! - Tôi lầu bầu.
Mãi rồi công việc cũng kết thúc. Cô bấm kéo lách tách sửa lại chút ít và đứng lui ra ngắm nghía:
- Xong rồi! Gương đây nè, anh coi có đẹp không? - Cô đưa tôi chiếc gương nhỏ.
Tôi bỡ ngỡ nhìn mặt mình trong gương. Một khuôn mặt vừa quen vừa lạ, da đen sạm, những vết gai cào rớm máu đã khô lại, đôi môi bị giập vẫn còn cộm lên. "Chết thật! Mặt mũi thế này chắc khó coi lắm! Nhưng... lâu nay chẳng khi nào mình quan tâm tới "dung nhan" cả, sao hôm nay lạ thế không biết! Hay tại chiếc gương? Có nó mới biết mình già hơn trước nhiều, chứ soi xuống suối chỉ thấy nhòa nhòa..."
- Đẹp không anh? - Cô sốt ruột hỏi.
- À… đẹp lắm! Hơn xa thợ ở tiệm.
Quả thực mái tóc được gọt bằng dao nên mởn đều, còn đẹp hay không tôi không biết vì chẳng mấy khi chú ý tới. Chỉ thấy giờ đây trên đầu nhẹ hẳn đi và sau gáy cứ lành lạnh.
- Vậy là yên tâm rồi! Để về dưới em mở tiệm hớt tóc...
- Cô không bay nữa sao?
- Quên chưa kể với anh, em "giải nghệ" rồi. Hôm trước ở đây về là em nghỉ hẳn, không làm ở chỗ bác Tùng nữa. Vì vậy bữa nay bác phải kiếm cớ cho em bay. Chắc đây là lần bay cuối cùng... - Cô thở dài - Ba em đang biểu em vô Sài Gòn học văn khoa, nhưng em chưa biết tính sao. Thời buổi này học làm chi nữa anh! - Giọng cô nghe rầu rầu.
- Giờ cô lên nhà ngồi, tôi ra suối tắm qua một cái. Cầm lấy cái này, - tôi rút khẩu ru lô đưa cho cô - lỡ cọp tha mất tôi không đền được đâu.
Cô lật lui lật tới khẩu súng, hỏi tôi:
- Anh có cả cây này nữa, sao mấy lần trước lên đây em không thấy?
- Ồi, có gì đâu mà đưa ra khoe... - Tôi trả lời qua quít, bước vội đi. Lúc từ dưới suối lên, thấy cô ngồi thõng chân trước sàn, tay vẫn cầm hờ khẩu súng, mắt nhìn đi đâu đâu. "Mình vô ý quá! Khi không lại gợi ra chuyện cũ. Chẳng cần suy nghĩ gì nhiều cô ấy cũng biết đó là khẩu súng của anh cô..." Đang tự trách mình, tôi bỗng nghe cô nói:
- Giờ này dưới kìa phắc ba em đang nóng ruột lắm! Cả ngày hôm nay ông không chịu ăn uống chi cho coi.
Tôi nhìn gương mặt buồn thiu mà thấy nao cả lòng. Vì tôi nên cô phải một mình “lặn lội" lên đây...
- Cô Thủy xuống đây, tôi đưa đi xem cái này! - Tôi gọi to
- Chi vậy anh?
- Chưa nói được! Có đi mới biết!
- Cô nhanh nhẹn nhạy xuống cầu thang. Chúng tôi đi qua bãi cỏ, bước vào dải rừng non. Tới lùm cây giấu con báo đá tôi gạt lá đem nó ra, hồi hộp đặt trước mặt cô.
- Ôi, con báo! - Cô reo lên.
- Cô thấy có giống không?
- Giống! Giống lắm! Lại đẹp nữa! Nhứt là cái dáng của nó. Rồi cái đầu nè, cái mõm nè... Anh làm phải không?
- Nếu cô thích, tôi tặng cô để... kỷ niệm!
- Thiệt không anh? Ôi, vậy là nhứt em rồi! Anh giỏi quá việc chi cũng làm được...
Tiếng cô ríu rít như tiếng chim, gương mặt cô tươi hơn hớn, trong đôi mắt lung linh ngời ngợi những giọt nắng. Quãng rừng non vắng vẻ giờ rộn rã hẳn lên. Lòng tôi ấm lại, trái tim rung nhè nhẹ theo một nhịp đập khác lạ. Những đau thương mất mát dịu đi, mọi gian khổ nhọc nhằn cùng nội cô đơn hiu quạnh biến mất, sự hồi hộp lo âu cũng lắng xuống, chỉ còn lại trước mắt tôi khuôn mặt ửng hồng đang rạng rỡ mềm vui tràn trề. Cô đâu biết rằng lúc này tôi mới là người vui sướng nhất. Khi đem lại niềm vui cho người mình quý mến, thì chính mình đã hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc ngọt ngào. Tôi như nhìn thấy lại màu hoa sim tím man mác bên quãng đường đồi đất đỏ, gặp lại nỗi xốn xang tưởng đã bị đạn bom vùi lấp... Tôi nói khẽ, giọng nghẹt thông hơi thở tự dưng trở nên gấp gấp: "Để đem ra máy bay..."
Tôi ôm con báo đá đi trước, cô níu nhẹ bên tay tôi líu ríu bước theo. Những bước chân bồng bềnh trên lối mòn ngập lá vàng rơi.
Thấy trời còn sớm, tôi rủ cô ra ngồi bên suối. Nắng chiều nghiêng dần. Con suối vẫn róc rách như tiếng thời gian trôi. Nhớ hôm nào mới đến đây, tôi ngồi một mình bên con suối này và nghĩ về những người đồng đội vừa hy sinh... Tôi đã sống ở đây những ngày dài dằng dặc tưởng như vô tận, vậy mà ngoảnh lại mới thấy thời gian trôi nhanh quá. Dường như trong từng ấy ngày tháng các anh vẫn ở quanh tôi, âm thầm cùng tôi chia sẻ mọi vui buồn... Dường như lúc này đây, anh Đằng và anh Sơn đang nhìn tôi và tủm tỉm cười, còn anh Hùng thì băn khoăn hỏi: "Cậu đọc sách nhiều, thấy những lúc như thế này, các nhà văn họ viết thế nào..." Tôi nhìn cô gái đang ngồi bên cạnh và tự hỏi: "Ừ nhỉ! Rồi sẽ thế nào?..." Nhưng tôi không nghĩ tiếp được vì chợt bắt gặp một mùi hương rất lạ, mùi hương tỏa ra từ da thịt người con gái. Qua khứu giác, mùi hương mới mẻ và quyến rũ dó thấm nhanh vào người làm tôi bàng hoàng, ngây ngất... Cố nhìn chăm chăm xuống vũng suối để mắt khỏi bị hút về phía cô, nhưng từ nơi nào đó sâu thẳm trong trí não, tôi vẫn cảm nhận được hơi ấm đang toát ra tử những đường cong mềm mại trên thân hình thon thả của cô gái ngồi sát bên. Người tôi nóng lên, nhịp tim đập gấp, dòng máu trai trẻ rạo rực chảy trong huyết quản. Rất gần bên là bờ vai tròn nóng ấm. Gần lắm Chỉ khẽ nghiêng là chạm tới... Tôi bỗng muốn được quàng tay qua đôi bờ vai tròn trìa ấy, và... ước muốn trào lên thôi thúc mãnh liệt khiến tôi phải hết sức kìm nén để chế ngự. "Ba em quý và tin anh lắm...", lý trí nhắc lại lời cô nói lúc sáng. Bên cạnh, cô vẫn đang mãi ngắm con suối, không hề biết có ngọn lửa vừa cháy lên trong tôi. "Cô ấy tin mình chứ không phải vô tình..." Ý nghĩ rụt rè ấy thoáng qua trong đầu làm tôi xấu hổ.
Chừng thấy tôi ngồi im lặng, cô quay sang hỏi:
- Sắp xa nơi này, anh Hải buồn phải không? Đứng buồn anh à! Sau rồi sẽ quên thôi!
- Ừ! Lâu dần cũng nguôi đi, nhưng quên thì không quên được. - Tôi đáp, người mềm lại trong cảm giác tiếc nuối mơ hồ.
- Anh Hải biết sao không? - Giọng cô chợt vui lên một cách cố ý - Từ hôm nhìn thấy con suối này, em chỉ ước ao được tắm ở đây một lần... Thiệt con nít, phải không anh? Có đêm em còn nằm mơ thấy mình lội ra đứng dưới con thác kia cho nước chảy ào ào trên người...
Lại đỏ bừng mặt! Lại nghiêng đầu để cười một mình sau mái tóc dày!
Tôi bối rối. Ước ao nhỏ nhoi của cô thật dễ thương. Chúng tôi đang ngồi bên suối và thời gian còn nhiều. Vậy mà... Tôi không dám để cô tắm một mình, cũng không thể ngồi trông chừng...
Cô ngẩng lên nhìn tôi, và bật cười. Tiếng cười trong trẻo giòn tan, lúng liếng như những gợn sóng nhỏ lan trên mặt vũng suối. Tôi nói vội sang chuyện khác:
- Cô Thủy biết con suối này tên gì không?
- Tên chi, anh?
- Suối Tiên! - Tôi trả lời chắc chắn.
- Suối Tiên? Sao anh biết?
- Có sự tích cả đấy!
Cô nhìn tôi nghi ngờ:
- Bộ anh tính gạt em phải không?
- Sao lại gạt? Phàm dịa danh nào có từ lâu đời đều gắn liền với một câu chuyện lưu truyền trong dân gian...
- Vậy sự tích con suối này là sao?
- Cô có muốn nghe không?
- Có, có! Anh kể đi! - Đôi hàng mi cong hớn hở chớp chớp.
- Ngày xửa ngày xưa... - Tôi bắt đầu kể - Nghĩa là... cách đây đã lâu lắm rồi, tại một khu rừng hoang vắng nọ có con suối nhỏ đẹp tuyệt vời. Một nàng tiên ở trên trời hàng ngày không có việc gì làm nên thường ra đứng trên đám mây nhìn vẩn vơ xuống hạ giới. Một hôm, nàng vô tình nhìn thấy con suối. "Ôi, đẹp quá! Đẹp hơn tất cả mọi con suối có trên cõi tiên. Ở dưới trần lại có cảnh đẹp vậy sao?..." Nàng tiên thốt lên. Và từ đó nàng mất ăn mất ngủ, lén lút tìm cách bay xuống để tắm một lần cho biết.
Nhưng thuở ấy trời, đất xung khắc với nhau, luật lệ mỗi nơi một khác. Luật trời không cho phép người trên đó xuống tắm ở cõi trần tục, và dưới này cũng thế. Vậy nên nàng tiên nọ mấy lần xuống mà vẫn không sao tắm được. Cuối cùng nàng thất vọng, bèn giở phép màu bắt một người rừng ở đó, bỏ lên... máy bay trực thăng chở về...
- Ối! - Cô kêu ré lên, tay đấm vào lưng tôi thùm thụp - Em không chịu đâu! Đánh cho anh đau luôn nè...
- Thì... chuyện cổ tích mà! - Tôi oằn lưng chịu đấm, trả lời.
- Anh thiệt... khôn hết biết! Em... đã ngờ ngợ, vậy mà... Lần sau không thèm... hỏi anh... chuyện chi nữa...
Cô nói đứt quãng trong tiếng cười, khuôn ngực đầy đặn dâng lên hạ xuống dồn dập theo nhịp thở gấp. Lúc này trong cô thật đẹp. Tôi quay mặt đi, cố làm dịu cảm giác khô se trong cổ. Không để ý tới thái độ của tôi, cô đưa tay vén tóc, ngần ngừ một lúc, lại hỏi:
- Rồi sau... sao nữa anh?
- Sao là sao?
- Thì... cái chuyện cổ tích đó?
- À! Câu chuyện đến đây là hết!
- Ủa, sao kỳ vậy?
- Thường nhưng chuyện như thế người ta bỏ lửng đoạn cuối.
- Để cho hấp dẫn, phải không anh?
- Cũng có, nhưng không hoàn toàn như vậy! Người kể bao giờ cũng dành một khoảng cho người nghe thỏa sức tưởng tượng theo ý thích của mình. Người nhân hậu thường tưởng tới một kết cục có hậu. Hơn nữa, lời kể hoặc trang viết đều có hạn, mà cuộc sống lại vô cùng, ai nói ai viết hết được?
- Ờ ha! Chẳng ai biết được những điều đang còn ở phía trước... - Cô tư lự - Nhưng... con người còn có niềm tin, có ước mơ nữa chớ!
- Vậy cô Thủy đang tin đang ước điều gì?
- Em tin là, - Cô láu lỉnh nhìn tôi - Chiều nay sẽ đưa anh về tới nhà em. Còn sau này... - Tôi thoáng hồi hộp - ... em sẽ được gặp chú.
- Chỉ vậy thôi sao? - Tôi lại hỏi, cảm thấy tiếng tiếc.
- Vâng! Chừng đó đã! Ham quá đâu có được? Còn những điều cao hơn, xa hơn mà chỉ mới nghĩ tới chứ chưa dám chắc thì em đâu dám kể, sợ thành chuyện cổ tích mất à! - Cô cười thật tươi.
Nhìn đồng hồ thấy hơn bốn giờ, tôi nói:
- Cô Thủy này, ta đi sớm một chút, ghé thăm mộ.
- Vâng! Em cũng muốn xuống chào các anh ấy. Ta lên thôi anh! - Cô vội vã cặp lại mái tóc, cùng tôi đi lên nhà.
Lũ khỉ và con báo vẫn chưa về. Chúng mải chơi đâu vậy không biết? Nhưng có khi như thế lại hay, tránh được cảnh chia tay bịn rịn. Tôi không muốn nhìn thấy ánh mắt buồn bã của những con thú đáng yêu ấy.
Tôi bưng soong cơm đặt trên bàn đá, xách chiếc túi đựng mấy bánh đường và hơn chục gói mì còn lại ra treo ở gốc cây đa. Lũ khỉ lúc trở về sẽ tìm thấy những thứ tôi để lại cho chúng. Còn xâu cá khô và tảng thịt bò mà cô gái mang lên cho con báo, tôi treo lên vách nhà, phía trên chỗ nó thường nằm. Tội cho con báo quá! Nó đã từng quyến luyến với tôi từ khi mới vài tháng tuổi và chưa bao giờ xa tôi quá một ngày. Không biết rồi nó sẽ ra sao khi không còn tìm thấy tôi trong khu rừng này? Lũ khỉ chắc không buồn lâu vì chúng có bầy đàn và sống vô tư hơn. Báo Aga vốn lầm lì kín đáo, chẳng mấy khi bộc lộ tình cảm ra ngoài. Những "người" như vậy thường đau đớn nhiều hơn trước mỗi mất mát chia ly.

Tôi mở hé cánh cửa cho con báo có thể vào trú mưa, rồi chậm chạp bước xuống năm bậc cầu thang đã mòn vẹt. Cô gái nãy giờ vẫn xách hộ khẩu tiểu liên đứng đợi trước nhà. Nỗi buồn thường hay lây nên trông cô buồn thiu.

Chúng tôi im lặng đến bên chiếc trục thăng. Cô leo lên ghế lái và nhoài người đẩy cánh cửa phía bên kia. Tôi tần ngần đứng nhìn ìần cuối cùng góc rừng thân yêu. Hơn chín trăm ngày sống ở đây, đến lúc rời xa mới thấy mọi thứ đều thân thuộc, gắn bó biết nhường nào. Từng gốc cây, từng hòn đá, bãi cỏ, cánh rừng non, dòng suối Tiên và con thác nhỏ... Cả tiếng gió rì rào trên cành lá, tiếng chim kêu khắc khoải trong rừng, cả tia nắng nhạt của tiết trời sắp chuyển... Chỉ lát nữa thôi lúc hoàng hôn xuống, góc rừng này sẽ tối lại và quạnh hiu. Từ nay những con thú chẳng bao giờ còn được thấy đống lửa đốt lên mỗi chiều... "Nhất định sẽ có ngày mình trở lại...", tôi thầm nhủ, xách chiếc túi đựng máy truyền tin và hơn chục băng đạn bỏ lên máy bay, nhún người leo lên. Cô đưa trả tôi cây súng, với tay cài hộ dây an toàn, vẫn không nói lời nào.
Liếc nhìn thấy tôi ngồi ổn định, cô mới nổ máy. Lên khỏi ngọn cây, chiếc trực thăng đổi hướng bay về phía cây thủy tùng. Vài phút sau, nó đáp xuống gần ngôi mộ đá.

Cô gái ôm theo bó hương to, cùng tôi tới bên mộ. Tôi đốt trầm rồi quỳ một chân trước tấm bia. Cô lặng lẽ thắp nguyên cả bó hương cắm vào kẽ đá, quỳ xuống bên tôi. “Hai anh ơi, đây là Thủy, cháu của anh Hai Nguyên đó! Cô ấy đến chào các anh để về. Em cũng về đây? Từ nay không còn ai hương khói cho các anh nữa... Ở đây lạnh lắm! Cô quạnh lắm. Những chiều nắng vàng hiu hắt trên đồi, những ngày mưa dầm sụt sùi ngọn cỏ, những đêm đông gió rít từng cơn, mây lạnh sà thấp trên mộ... chắc các anh sẽ buồn... Em không thể đưa các anh về, nhưng sẽ có ngày em trở lại để làm tròn công việc mà vì nó, các anh phải nằm lại nơi này..." Tôi rưng rưng nước mắt thầm nói lời tạm biệt. Khói hương trầm nghi ngút quấn quanh ngôi mộ đá như không muốn chia xa.

Một ngọn gió thổi tới làm bó hương trên mộ cháy lên rừng rực. “Đấy là các anh ấy bảo mình về đi..." Tôi nói khẽ và đứng dậy, dìu cô đứng lên theo. Trong tiếng gió vi vu trên ngọn thủy tùng nghe có tiếng nói: "Gắng sống mà trở về Hải nhé... đứng lo gì cho bọn mình..."

Trước lúc lên máy bay, tôi đưa cô đến bên gốc thủy tùng. Trên lớp vỏ sù sì nứt rạn, những dấu đạn đại liên đã bị lấp kín, chỉ còn vết rốc két nổ toác nơi lưng chừng thân cây trải mưa nắng lâu ngày đen sạm, càng làm cho cây cổ thụ khổng lồ thêm vẻ dạn dày từng trải.

Với giọng nói khô khan đứt quãng, tôi kể cho cô nghe những gì xảy ra lúc đó, bên tai như còn vang tiếng ùng oang của những quả rốc két, tiếng viu víu của đạn đại liên. Có thể câu chuyện gợi lại chuyện cũ đau lòng, nhưng tôi tin cô chịu được. Chính cô đã tự vượt qua những đau đớn như thế để đến với chúng tôi, những đau đớn éo le chỉ có trong chiến tranh tàn khốc.

Truyện Cùng Thể Loại

Các Đại Năng Đã Để Lại Thần Thức


Lưu ý: Vui lòng tải app để có thể lưu lại thần thức trên truyện này
Tải app để đọc truyện sớm nhất