Chương 3:
Sang ngày thứ sáu ở trong rừng. Theo tính toán của anh Sơn, chúng tôi vẫn đang đi trên đất Lào. Trước khi lên đường, anh Đằng nhắc từ hôm nay phải tranh thủ kiếm thêm thức ăn để hạn chế dùng số lương thực mang theo.
Hôm qua anh Hùng đã chỉ cho tôi biết cây củ mài. Theo anh, ở rừng củ mài là loại lương thực tốt nhất vì nó nhiều tinh bột lại lành, ăn thay cơm được mà không sợ say như ăn sắn. Có điều củ mài thường đâm sâu dưới đất, đào rất khó, chúng tôi đang còn gạo ăn nên chưa đào lần nào. Còn chim, thú trong rừng không thiếu. Ban ngày, xung quanh chúng tôi lúc nào cũng nghe tiếng chim. Riêng sóc thì ở đâu cũng gặp, chúng chuyền thoăn thoắt khi ẩn khi hiện trên cành cây.
Hôm đi qua cánh rừng thưa, chúng tôi gặp cả một đàn lợn rừng hơn chục con đang dũi đất kiếm ăn. Con lợn đầu đàn to gần bằng con bò, có hai răng nanh cong vút bên khóe miệng, những túm lông trên sống lưng dày rậm như bờm. Nghe động, nó choãi chân đứng thủ thế, cặp mắt gườm gườm, lông gáy dựng ngược lên. Lát sau nó hộc mấy tiếng rồi quay lại dẫn bầy đàn thong thả bước đi.
Hầu hết những đoạn suối chúng tôi qua đều có dấu chân của những con thú lớn xuống uống nước. Tôi đang mong có dịp bắn được một con nai, con mang nào đó. Thịt mang ngon lắm, mềm và ngọt hơn thịt bò. Nhưng lúc này chưa được, chúng tôi đang vội. Chặng đường phía trước còn rất dài.
Chừng giữa buổi, cả tổ đi vào một hẻm núi, hai bên là hai ngọn núi cao sừng sững. Những thân cây mọc trên vách núi nghiêng cành xòe tán lá rậm rạp che kín trên dầu. Hẻm núi tồi mờ. Mấy cây dây leo to tướng như đàn rắn kì dị ngoắc đuôi vào nhánh cây thòng xuống đong đưa.
Đang đi, bỗng nghe rào rào, rồi những vật gì rơi lộp độp xung quanh. Tôi vội ngước nhìn lên, suýt trượt chân trên tảng đá trơn tuột. Những cái bóng chuyền thoăn thoắt trên cành cây và tiếng lẹc khẹc vọng xuống. Thì ra là lũ khỉ. Chúng đang hái trái cây, bẻ cành khô ném xuống đầu chúng tôi có vẻ như không chấp nhận sự đột nhập của những kẻ lạ mặt. Chúng tôi vẫn cắm cúi bước, mong thoát nhanh ra khỏi cái hẻm núi tối tăm khó chịu này. Nhưng rồi không hiểu từ đâu, bọn khỉ kéo tới đàn đàn lũ lũ có đến hàng trăm con, chuyền cành ào ào như gió cuốn và ném xuống tất cả những gì chúng vớ được, làm chúng tôi tối tăm mặt mũi.
Tôi bực mình tuột súng cầm ở tay, nói với anh Đằng:
- Để em cho tụi nó mấy phát cho chừa đi?
- Ấy đừng, bắn làm gì! - Anh Đằng vội giơ tay ngăn lại - Chịu khó một lúc, ném chán là chúng thôi. Chẳng nguy hiểm gì đâu.
Anh Hùng nói thêm:
- Cậu mà bắn một con là chúng càng kéo tới đông hơn và đuổi mình đến cùng đấy?
- Chẳng lẽ mình chịu à? - Tôi vẫn chưa hết cáu.
- Không phải chịu, mà là không cần thiết phải khiêu khích chúng. Thực ra, lũ khỉ cũng chỉ hiểu lầm thôi. Đây là lãnh địa của chúng mà.
Quả nhiên sau một hồi ném chán tay, lũ khỉ chí choé gọi nhau tản đi.
Đến gần trưa, vách núi hai bên thấp dần. May quá, sắp ra khỏi hẻm núi rồi. Đi thêm một quãng qua khỏi khúc quanh, mắt chúng tôi bỗng lóa lên bởi ánh nắng vàng rực chan hòa khắp cánh rừng trước mặt. Đúng là như vừa chui ra khỏi lỗ cống, ai cũng thở phào nhẹ nhõm.
Mặt trời lên gần tới đỉnh đầu. Phía trước nghe có tiếng suối chảy. Mọi người bước hối hả để mau đến chỗ có thể nghỉ lại nấu cơm.
Đang đi vội, anh Đằng bỗng nhảy bật lùi một bước. Tôi tuột súng nhào tới nhưng anh gạt lui: "Đừng, rắn đấy!" Khi nhìn ra trước, tôi chợt thót tim, người sởn gai ốc: một con rắn hổ mang to tướng chắn ngang lối đi, chỉ cách năm mét. Nó đang ngóc cái đầu dẹp lép phồng mang phun phun phì phì, lưỡi thụt ra thụt vào như tia chớp. Tiếng anh Sơn nói nhanh sau lưng tôi:
- Đứng yên đừng cử động, để đó cho tôi?
Anh bước chệch sang một bên, đứng dạng chân nâng súng bằng cả hai tay bắn liền bốn phát không cần ngắm, tiếng nổ liền liền như loạt tiểu liên.
Con rắn như bị dao phạt ngang cổ, lăn lộn cuộn cái thân dài thượt đen mốc, kéo theo cả cái đầu toé máu chỉ còn dính với thân bằng một mẩu da. Phải đến mấy phút sau nó mới chịu nằm im. Hú vía! Mấy hôm trước chúng tôi vẫn gặp rắn, nhưng thường thấy động là chúng trườn đi ngay. Còn con này hình như đang định tấn công. Tôi kinh hãi nhìn con rắn: nó dài gần ba mét, to gần bằng cổ chân, vảy lởm chởm trên cái thân đen mốc, khúc đuôi dài ngoằng đến giờ vẫn còn giật giật.
Anh Hùng nói với anh Sơn lúc này vẫn đang cầm khẩu K54 nòng còn bốc khói:
- Cậu xử trí đúng đấy! Khi đó nếu mình di chuyển là nó lao tới mổ ngay.
Anh Đằng hể hả:
- Không ngờ đồng hương bắn giỏi đến vậy! Cứ như trong phim ấy!
Anh Sơn nhét khẩu súng vào bao, cười hiền lành:
- Ở ngoài kia đi rừng tôi cũng mang K54. Thỉnh thoảng xin được đạn bên bộ đội, vẫn vào rừng tập bắn. Lâu rồi quen tay thôi!
Tôi nhìn anh thán phục. Vốn là tay súng giỏi, tôi biết để bắn được như thế không chỉ cần quá trình tập luyện công phu, mà đòi hỏi có năng khiếu và thần kinh phải vững như thép.
Chúng tôi lại đi. Tôi thận trọng bước dài tránh xác con rắn, nó chết rồi mà trông vẫn thật đáng sợ. Con này đã cắn ai thì chẳng thuốc nào cứu được.
Đến chiều, khi vừa chui ra khỏi quãng rừng rậm, chúng tôi gặp một con đường của voi đi. Tôi dễ dàng nhận ra điều ấy bởi suốt dọc lối chi chít dấu chân voi. Có dấu đã cũ, có dấu trông còn mới, chắc chúng vừa đi qua đây không lâu. Có lẽ bầy voi thường qua lại trên lối này, vì chúng làm những cây con gãy rạp, tạo thành một làn đường rộng hơn chục mét.
Nãy giờ anh Hùng vẫn quan sát dấu chân voi nhưng chưa nói gì. Tôi tranh thủ nêu ra phán đoán theo kiểu anh đã dạy. Nghe xong, anh cười bảo:
- Cậu nói có phần đúng, như vậy là tiếp thu bài tốt đấy? Nhưng... - Anh xốc lại ba lô trên lưng, suy nghĩ một lúc rồi nói tiếp - Muốn phán đoán đúng phải kết hợp nhiều yếu tố khác nhau, nhất là phải biết đặc tính của con vật. Mình ví dụ thế này nhé: Con voi nặng nên dấu chân nó hằn rõ. Bây giờ đang mùa khô, vì vậy có khi đã vài tháng mà dấu chân trông vẫn còn như mới do cỏ không mọc lên được, cũng không có mưa nên không bị xói mòn hoặc đất cát tràn vào.
- Vậy làm sao để biết nó đi qua khi nào?
- Phải nhìn cây chứ! Con voi dùng vòi cuốn lá ăn. Nó lại giẫm chân lên những bụi cây thấp hoặc ngọn cỏ. Nhìn cây lá là xác định được. Đấy, cậu nhìn xem có dấu cây gãy nào còn mới không? Với những dấu vết này, bầy voi đi qua gần đây nhất cũng phải non một tháng rồi.
Tôi ngẩn người nghe anh nói. Đúng là không thể một lúc mà học hết mọi thứ được.
- Thế anh bảo bầy voi này có đông không? - Tôi hỏi.
Anh Hùng chưa kịp trả lời thì anh Sơn đã lên tiếng:
- Hải cứ nói trước đi, xem có đúng không?
Tôi cười:
- Em nghĩ là rất đông. Dấu chân chi chít thế kia, phải ba bơn chục con là ít.
Anh Đằng nghe tôi nói liền bật cười:
- Lần này cậu chỉ được hai điểm là cùng! Sao vậy anh!
- Cứ hỏi Hùng thì biết!
Anh Hùng không đợi tôi hỏi, nói ngay:
- Bầy voi đi qua lần vừa rồi chỉ bốn hoặc năm con. Muốn biết, phải tìm trong những dấu chân kia, chọn ra những dấu còn mới như nhau. Nhưng có điều... Anh chưa nói hết câu thì anh Đằng đưa tay ra hiệu im lặng. Theo hướng anh chỉ, chúng tôi nhìn thấy trên ngọn cây khô trước mặt có hai chấm đen: hai con chim đang đậu. Anh Hùng nói khẽ: "Các anh đứng lại đã nhé!”, rồi cầm súng lủi qua những lùm cây. Ít phút sau, tiếng súng nổ vang lên, một con chim rơi xuống, con còn lại hốt hoảng bay mất. Chúng tôi bước nhanh tới. Anh Hùng đang đứng dưới gốc cây nhìn lên. Con chim trúng đạn rơi vướng trên nhánh cây, cao đến hai chục mét là ít. "Phí của! Thế là mất bữa thịt chim...", tôi tặc lưỡi tiếc rẻ. Anh Hùng giúi khẩu súng vào tay tôi, bỏ ba lô xuống đất bám thân cây thoăn thoắt leo lên, loáng cái đã đến nơi. Anh ôm nhánh cây bò ra một đoạn rồi dùng cả thân người nhún. Con chim bật khỏi đám lá rơi thẳng xuống. Tôi chạy đến nhặt lên. Không biết loài chim gì nhưng rất to, nặng đến ba kí là ít. Nó có bộ lông màu nâu nhạt, đầu cánh điểm những chấm trắng làm tôi nghĩ đến loài đại bàng, nhưng chắc không phải vì con này mỏ ngắn và thẳng, chân lại không có vuốt cong nhọn.
Anh Hùng vừa xuống đến nơi, tôi hỏi ngay:
- Chim gì vậy anh?
- Cậu làm như tớ biết hết mọi thứ không bằng! - Anh cười.
- Chim gì cũng được. Thịt chim chỉ có ngon hay dở chứ ăn không ngộ độc đâu mà sợ! - Anh Đằng nói vui.
Tối đó chúng tôi ăn cơm với thịt chim kho muối. Món thịt khá ngon nhưng có mùi hơi khét.
Lúc chui vào lều ngủ, tôi nhắc anh Hùng:
- Hồi chiều anh đang nói về đàn voi...
- À, mình cũng đang nghĩ. Theo mình thì bầy voi đã đi lại nhiều lần trên đường này, nhưng có lẽ không phải đi kiếm ăn. Vì nếu thế, chúng phải tản ra trong rừng, đằng này lại chỉ đi theo một lối nhất định. Đây có thể là con đường đi tới nghĩa địa voi.
- Nghĩa địa voi? - Tôi sủng sốt kêu lên.
- Đúng vậy? Mình chưa nhìn thấy lần nào, nhưng đã nghe kể. - Anh quay sang nói với anh Đằng - Này, anh Đằng có nhớ hồi ở bản Nầm không? Ở ngoài Thà Khẹt ấy?
- À, cái bản nuôi voi chứ gì?
- Ấy đấy! - Anh Hùng kể tiếp - Bọn mình đi công tác, trú lại bản đó có đến nửa tháng. Dân bản sống chủ yếu bằng nghề săn voi. Họ bẫy voi rừng về thuần dưỡng rồi đem bán sang Thái Lan. Mình đã xem cách họ dạy voi, hay lắm! Thế nhưng không phải ai cũng dạy được voi đâu nhé! Cả bản hơn trăm đàn ông, chỉ có mươi người chuyên nghề dạy, còn những người khác chỉ đi bẫy và làm các việc phụ giúp.
Ở đó mình được các cụ già kể nhiều chuyện về loài voi. Theo các cụ thì những đàn voi đông đúc thường có nghĩa địa riêng của chúng ở trên núi cao. Khi trong đàn có con nào già yếu gần đến ngày chết, nó liền được mấy con khác khỏe mạnh kèm đi đến nghĩa địa để chờ chết. Lúc voi già chưa chết, những con đưa đi vẫn kiếm ăn quanh quẩn gần đấy và đem thức ăn về cho nó. Đến khi voi già chết, bầy voi bẻ lá phủ kín xác bạn rồi mới quay về.
Biết đâu lối đi lúc chiều mình gặp là lối bầy voi đến nghĩa địa, nơi những con voi già đến để chờ chết...
Nằm lắng nghe câu chuyện lạ lùng về loài voi, tôi thầm mong được nhìn thấy nghĩa địa voi một lần cho biết. Trong rừng núi còn biết bao những chuyện kỳ lạ về các loài cỏ cây muông thú mà con người chưa thể hiểu hết được. Chính sự bí ẩn đó đã làm cho rừng già - cái nôi của sự sống từ ngàn xưa - trở nên hấp dẫn lạ thường.
Chúng tôi vẫn may mắn trong suốt buổi sáng hôm nay, khi con đường của voi vẫn trùng với hướng đi. Nói "may mắn” là vì, đi theo lối voi vẫn dễ hơn nhiều, và tôi còn hy vọng gặp được nghĩa địa voi.
Trưa hôm đó cả tổ nghỉ lại bên một con suối cạn. Đành phải ăn lương khô vì nước trong bi đông dành để uống, không thể nấu cơm được. Tôi ngồi tựa lưng vào gốc cây, tay bẻ từng mẩu lương khô cho vào miệng nhai, mắt nhìn theo đàn bướm đang bay dập dờn ở đoạn suối khô dưới chân vách đá. Không hiểu sao mùa này mà ở đây vẫn còn sót lại đàn bướm đông đến thế. Vô vàn con bướm trắng bướm màu kết thành đám dày đặc, trông xa như dải mây mỏng vướng dùng dằng nơi chân núi.
Mải nhìn đàn bướm, đến khi nghe tiếng động lục cục tôi mới ngoái đầu nhìn lại. Anh Hùng đã ăn xong, đang lấy dao đào đất ở chỗ lòng suối khô. Chắc anh tìm nước. "Đào làm gì nhỉ, lát nữa đã đi rồi? Mà làm sao có nước ở đây được?” Tôi chạy xuống chỗ anh, thắc mắc tự hỏi.
- Đào gì vậy anh Hùng? - Tôi hỏi.
- Cậu cứ lấy dao đào giúp đi, tí sẽ biết. - Anh cười trả lời.
Tôi rút dao hì hục cạy những tảng đất nứt nẻ. Lát sau, chúng tôi đào được một khoảng rộng bằng nửa chiếc chiếu. Anh Hùng lại đào tiếp lớp thứ hai. Khi cạy lên tảng đất to bằng cái mũ, anh bảo: "Cậu bóp vụn ra xem?" Tôi làm theo lời anh. Đang bóp cho đất vỡ ra, tôi chợt giật nẩy người khi chạm phải một vật gì trơn trơn lành lạnh. Nhìn xuống thấy một con vật đang trườn ra.
- Ôi lươn! Ở đây có lươn à? - Tôi reo lên.
- Không phải lươn đâu, chạch núi đấy. Nó cũng như cá chạch dưới ta thôi!
Đúng là con chạch thật! Cũng có đuôi, có vây, thân mình nhơn nhớt, chỉ khác ở cái đầu nhọn hơn.
- Ăn được không anh?
- Được chứ! Còn ngon nữa là khác!
Tôi đưa mắt nhìn dọc khe suối cạn:
- Thế đào ở đâu cũng có hả anh?
- Đừng tưởng bở! Phải chọn vũng suối nào nước đọng lâu nhất, và tất nhiên là lòng suối không có đá. Con chạch theo nước về đến đây thì nước khô, nó phải chui xuống đất ẩm chờ trời mưa. Mà những vũng suối đã khô lâu ngày thì đừng đào mất công.
- Nó chết hết phải không anh?
- Không hẳn thế! Con chạch rất khó chết. Nhưng khi ấy nó chui xuống sâu hơn. Mình đào bằng dao, biết bao giờ mới bắt được?
Một lúc sau, chúng tôi đào được hơn chục con cỡ ngón tay, con to nhất bằng ngón chân cái.
- Thôi đến lúc phải đi rồi - Anh Hùng bỏ những con chạch vào gô, đậy nắp lại - Cốt kiếm nồi canh chua thôi. Đến chiều cậu sẽ biết nó ngon như thế nào. - Anh nhìn tôi cười.
Con đường của voi vẫn kéo dài và ngày càng lên cao. Chúng tôi đạp lên những dấu chân voi, cắm cúi bước trong nắng chiều rát bỏng sau lưng.
Leo hết đoạn dốc cao, tôi dừng lại lấy mũ lau mồ hôi đầm đìa trên mặt, chợt ngửi thấy trong gió thoảng mùi thối khăn khẳn. Chắc có con vật nào chết quanh đây. Đi thêm một quãng nữa, mùi thối càng nặng hơn. Anh Đằng giục mọi người rảo bước, vượt nhanh ra khỏi vùng này. Gần tới đỉnh dốc, anh Sơn dừng lại lấy bản đồ trải trên đất, dùng địa bàn ngắm hướng rồi gọi:
- Anh Đằng ơi, đứng lại đã!
- Gì thế Sơn?
Anh Sơn chưa đáp mà xem lại bản đồ lần nữa, suy nghĩ một lát và ngẩng đầu lên nói với chúng tôi:
- Phải đi cắt rừng thôi! Con đường này bây giờ đang chệch với hướng của mình tới mười bảy độ.
Tôi ngoái đầu nhìn: đúng là lối voi đi đến đây thì quành lại, đâm thẳng lên đỉnh dốc.
- Thôi được, ta rẽ luôn. Gắng đến đoạn nào có nước để nghỉ.
Chúng tôi xốc ba lô, rẽ cây bước tới. Được mấy bước, anh Hùng chợt ngập ngừng:
- Hay là... - Chúng tôi cùng quay lại nhìn anh - Mình đi lên đoạn nữa. Theo tôi, mùi hôi thối lúc nãy là của một con voi chết. Có thể nghĩa địa voi ở gần đây. Ta tới thẳng đấy xem sao rồi đi tiếp. - Anh vội vã giải thích.
Anh Đằng đang ngần ngừ, tôi nói luôn:
- Phải đó anh ạ! Chắc không xa đâu, chỉ sau đỉnh dốc kia thôi. Lên tới đó nếu không có, ta nhắm hướng đi càng tiện.
Anh Đằng bật cười:
- Đúng lý quá, không ai cãi vào đâu được.
Chúng tôi quay lại đi tiếp theo dấu chân voi, mặc cho mùi thối vẫn theo ngọn gió tây nam phả tới. Đến đỉnh dốc, tôi hăm hở bươn lên dẫn đầu. Chẳng thấy gì cả, chỉ có dấu chân voi đi qua dưới những gốc cây cổ thụ sừng sững lúc này đang nhuốm nắng vàng hượm trên ngọn. Anh Đằng giục:
- Cứ đi nữa đi! Tớ cảm thấy như gần đâu đây thôi.
Thêm một quãng vài trăm mét, khi vòng qua hết mấy tảng đá lớn, chúng tôi cùng đứng sững lại bởi cảnh tượng trước mắt thật lạ lùng: trên một vùng đất rộng và tương đối bằng phẳng, vô số những bộ xương voi nằm la liệt xen với những tảng đá bạc trắng lô nhô. Thỉnh thoảng mới có một bóng cây mọc giữa đám cỏ, trên ngọn có mấy con chim đậu im lìm.
Anh Đằng kéo chúng tôi đi lên mé trên, tránh mùi hôi thối nồng nặc đang bốc lên từ xác con voi nằm gần đó. Tôi mượn anh chiếc ống nhòm đưa lên mắt nhìn. Nhiều bộ xương dầu dãi mưa nắng lâu ngày đã trắng hếu, giữa đống nổi lên tảng xương đầu to tướng và những cánh xương sườn cong cong. Có vài bộ xương lổn nhổn còn dính những mảnh da đen mốc rách tả tơi. Trên cái xác voi đang bốc mùi, mấy con chìm ăn thịt đủng đỉnh đi lại, chốc chốc lại chúi đầu dưới lớp da voi rúc thật thối. Con vật to lớn giờ đây trở thành một đống lùng nhùng, chỉ còn đôi ngà dài cong vút đang ánh lên dưới nắng chiều như muốn chứng minh rằng nó đã từng kiêu hãnh tồn tại trên cõi đời này.
Trong bóng chiều đã xế, cả vùng nghĩa địa tĩnh mịch vắng lặng. Cảnh vật trở nên thê lương, buồn bã. Những tảng đá trắng lô nhô trên cỏ như những tấm bia mộ xếp lớp lớp trải dài đến hút tầm nhìn.
Chúng tôi lặng lẽ quay lại tìm hướng băng rừng tiếp tục cuộc hành trình. Trong đầu tôi vẫn miên man suy nghĩ về nghĩa địa voi. Những con vật chung thủy từng sống bầy đàn quấn quít, đã tìm về trên đỉnh núi cao quanh năm tràn đầy nắng gió này để chết cùng một chỗ. Cả đến khi phải từ giã cuộc sống, chúng cũng không muốn xa nhau và không muốn rời xa rừng già. Lại còn những con voi dìu bạn mình đi suốt chặng đường dài giữa rừng hoang để đến nơi yên nghỉ cuối đời như ý muốn... Con vật chỉ hành động theo bản năng mà sống với nhau có tình có nghĩa như thế, huống chi con người.