Chương 104: Vinh diệu của Tiền Thiểu Thiểu. (1)
Đợt lúa mạch đầu tiên trồng trên thảo nguyên rốt cuộc cũng chín rồi.
Chỉ là cây lúa mọc thưa thớt, lẫn trong đồng ruộng là vô số cỏ dại, đám cỏ đuôi chó kiêu ngạo vênh váo nhổng cao cái đuôi lông lá lên chế giếu đám lúa mạch thấp còi.
Thế nhưng khuôn mặt già nua gầy quắt của Lưu Ngọc Hòa thì tràn ngập nụ cười, dùng tay lướt qua bông lúa mạch thấp lè tè, vùng tây bắc hạn hán, lúa chưa tới lúc thu hoạch đã chết khô cả, ông ta đã lâu lắm rồi mới được sờ vào bông lúa thế này, si mê nói:” Có thu hoạch rồi.”
Trương Quốc Trụ chẳng vui như thế:” Thu hoạch một hồ lô được hai nửa quả bầu thì ý nghĩ gì chứ ạ?”
Lưu Ngọc Hòa vẫn cười:” Đất lạ mà có thể mọc lên được đợt lương thực đầu tiên là tốt rồi, hạt lúa sinh ra sẽ ghi nhớ đất nơi này, năm sau sẽ tốt hơn, năm nay một mẫu đất vẫn có thể hi vọng thu được một trăm cân lúa mạch, tuy có lép, mạch vẫn là mạch, ăn cả vỏ cũng là thứ tốt.”
Trương Quốc Trụ rõ ràng bi quan hơn nhiều lắm, nhìn đồng ruộng mênh mông, hắn càng nản:” Gia gia nên nhớ, lương thực mọc ra trên mảnh đất này, chúng ta chỉ có thể lấy đi ba thành.”
Lý Ngọc Hòa không bận tâm tới tỉ lệ đó, đi trong ruộng lúa mạch vui vẻ nói:” Ba thành lương thực là có thể ăn tới khai xuân sang năm rồi.|
“ Thế lúc giáp hạt thì ngươi định sống thế nào?”
“ Chỉ đói có nửa năm thôi, ngươi còn muốn gì nữa nào? Người trẻ tuổi chưa gặp nhiều gian khổ, chẳng biết quý trọng gì cả. Lúa mạch đã vàng rồi, không thể phơi nắng thêm nữa, nhân lúc mạch còn ẩm, giao cho người Mông Cổ sẽ được nhiều hơn một chút.”
Trương Quốc Trụ không hiểu:” Gia gia định đưa mạch còn ướt cho người Mông Cổ à?”
Lưu Ngọc Hòa ngồi xuống bờ ruộng, cái khuôn mặt đen đúa lại có nếp nhăn cười như một lão nông chất phác mà xảo trà:” Từ khi lúa trổ bông thì người Mông Cổ đã bắt đầu cưỡi ngựa tuần tra đồng ruộng rồi, ngươi nói xem, sau khi chúng ta thu hoạch lúa mạch, ngươi Mông Cổ có đợi được tới lúc chúng ta phơi khô rồi mới đến lấy không?”
“ Năm nay lúa mạch mọc không tốt, hạt lép lắm, lúa mạch còn ướt chẳng phải trông sẽ mẩy hơn lúa mạch đã phơi khô à? Nếu chúng ta đem mạch đã phơi khô giao cho người Mông Cổ thì chúng ta còn lại được bao nhiêu chứ? Giao mạch ướt thì chúng ta mới có nhiều hơn được một chút.”
“ Đám người đó chăn thả gia súc thì đúng là giỏi thật đấy, nhưng mà luận tới trồng cấy thì chỉ là bọn ngốc mà thôi.”
“ Ngươi xem, lão hán mấy ngày trước thu hoạch mảnh ruộng kia đã tuốt những bông lúa tốt nhất cho vào túi chôn dưới đất rồi, đợi người Mông Cổ bỏ đi, chúng ta lấy ra, sáu ngày thôi chúng ta kiếm được gần 20 cân lúa mạch. Cách này mọi người đều đang làm, cho dù người Mông Cổ hà khắc, cuối cùng nói không chừng chúng ta có thể lấy được 5 thành đấy.”
Trương Quốc Trụ nghe nói không chỉ một người làm thế thì lo lắng lắm:” Gia gia phải dặn họ, đừng quá tham lam, nếu chẳng may Kiến Nô mà biết là khó giữ được cái đầu.”
“ Kiến Nô làm sao mà biết được, đây là chuyện trong nhà, ai lại đem chuyện trong nhà nói với người ngoài?”
“ Lưu Bỉnh Hương sẽ làm thế.”
Lưu Ngọc Hòa nhổ phì một bãi nước bọt: “ Thứ chó má đó cũng xứng làm người à, lão bà bị người ta chà đạp tới chết mà chẳng dám đánh một phát rắm, ba thằng nhi tử của hắn cũng là thứ hèn nhát, chỉ biết khóc lóc, còn bị người Mông Cổ đánh cho vì làm ồn, xác mẹ chúng bị người Mông Cổ dùng ngựa kéo ra vứt ở đồng hoang nuôi sói cũng không dám nói.”
“ Thật không biết cái thằng súc sinh Lưu Bỉnh Hương đó dạy còn thế nào, hôm qua còn mặt mũi khoe với ta người Mông Cổ cho hắn miếng sườn ... Phì, đúng là con chó má”
Trương Quốc Trụ cẩn thận nói lại lần nữa: “ Gia gia, nhất định bảo mọi người làm cho kín, đừng có nhất thời đắc ý đem khoe ra với hắn, như thế không chỉ hại một người mà cả trại đấy.”
“ Không có đâu, giờ chó trong trại chúng ta còn không thèm để ý tới hắn.”
Cùng Lưu Ngọc Hòa rời ruộng lúa, dọc đường Trương Quốc Trụ gặp được bảy tám người Mông Cổ cưỡi ngựa, tuy không hiểu được bọn họ đang nói cái gì, nhưng mà ai nấy nhìn đều rất phấn khởi, có lẽ rất hài lòng với sản lượng này.
Người Mông Cổ đôi khi cũng trồng thanh khoa, nhưng cách trồng trọt của họ hoàn toàn là phó mặc cho ông trời.
Khi mùa xuân đến, bọn họ dùng gậy gỗ chọc lỗ trên mặt đất, ném thanh khoa vào đó, sau đó lấp đất, thế coi như là đã trồng trọt xong rồi. Sau đó bỏ mặc ở đó, đợi tới mùa thu sắp chuyển mục trường mới đến xem, có thu hoạch thì họ cắt bông lúa mang theo, nếu không có thì hoạch thì thôi, bọn họ không thất vọng.
Bởi thế bây giờ nhìn thấy lúa mạch mọc mênh mông như đồng cỏ làm sao không vui mừng cho được.
“ Trương Quốc Trụ chó má, ngươi đứng lại cho lão tử.”
Trương Quốc Trụ nghe thấy cái giọng đáng ghét của Lưu Bình Hương liền dừng bước nhìn cái tên để mình trần khóc lên người tấm áo da dê cũ, cái mặt bẩn thỉu gần như không nhận ra được nữa.
“ Đừng cho rằng ta không biết chuyện các ngươi làm nhé.” Lưu Bình Hương đi vòng quanh Trương Quốc Trụ như con chó đang đánh hơi:
“ Bọn ta làm cái gì?”
“ Ta không quan tâm các ngươi làm gì, tóm lại, các ngươi mà lấy trộm lúa mạch của Mông Cổ lão gia, ta sẽ nói với Mông Cổ lão gia, buộc các ngươi vào sau ngựa kéo cho tới chết.”
Trương Quốc Trụ lạnh nhạt hỏi:” Tìm thấy xác lão bà của ngươi chưa?”
Lưu Bỉnh Hương nghe câu này không khác gì con chó già bị người ta dâm vào đuôi, lập tức nhảy dựng lên, chỉ mặt Trương Quốc Trụ, hùng hùng hổ hổ nói:” Đó là chuyện nhà của lão tử, không cần ngươi quản, ta sẽ đi nói với Mông Cổ lão gia là ngươi trộm lúa mạch.” Nói xong đi chân đất chạy về lều người Mông Cổ.
“ Con người sao có thể sống thành cái loại như thế!” Lưu Ngọc Hòa vỗ đùi ngồi xuống đất, đau lòng vì Lưu thị sinh ra thứ con cháu khốn kiếp như thế:
Trương Quốc Trụ thì chẳng mấy ghét bỏ Lưu Bình Hương, loại người đó chẳng đáng bận tâm, nếu như không phải muốn giữ hắn lại làm ví dụ phản diện thì hắn đã chết vô số lần rồi.
Giờ tốt rồi, không một người Đại Minh nào thèm để ý tới hắn, thế nên hắn càng thêm đên cuồng, không quan tâm bản thân sống thành dạng gì nữa, hắn chỉ muốn phá hoại hết cuộc sống tốt đẹp của người khác.
Hắn càng hung hăng, những lưu dân Đại Minh vốn mang tâm lý cầu may càng thêm cảnh giác với người Mông Cổ, càng đoàn kết với nhau.
Do đang vụ mùa, thống chế Bảo Thừa Tiên mà người Kiến Châu để lại thành Quy Hóa cuối cùng cũng thở pháo, để lượng lớn trai tráng xây dựng thành quay về chỗ ở thu hoạch lúa mạch.
500 kỵ binh trong tay Trác La Giáp Lạt trải qua hơn nửa năm chinh chiến liên miên, còn lại chưa tới 300 người.
Còn Bảo Thừa Tiên vì thu nạp được quân đội Mông Cổ của Ba Đặc Nhĩ Mai Lâm, lúc này chỉ huy hơn 3000 kỵ binh Mông Cổ.
Chính vì có 3000 kỵ binh Mông Cổ này, Bảo Thừa Tiên được Mãn Thanh hoàng đế Hoàng Thai Cát ra sức tán dương, kỵ binh dưới quyền cũng được biên vào Bát kỳ Mông Cổ mới thành lập, Bảo Thừa Tiên cũng thành hàng tướng đầu tiên của Đại Minh được đứng hàng Giáp Lạt.
Về địa vị quân sư, Bảo Thừa Tiên rốt cuộc đã có thể ngang hàng với Trác La Giáp Lạt.
Trác La Giáp Lạt từng vô số lần yêu cầu Thịnh Kinh cung cấp thêm quân cho hắn, ít nhất phải có 1500 quân, để khống chế vùng đất 500 dặm quanh thành Quy Hóa.
Còn Hoàng Thai Cát cho rằng, mỗi một dũng sĩ Kiến Châu phải có tác dụng quan trọng hơn, mà thảo nguyên Mông Cổ mênh mông nếu như có thể dùng lượng nhỏ dũng sĩ Kiến Châu giám sát, sử dụng lượng lớn nhất người Mông Cổ mới là lựa chọn hàng đầu.
Bởi thế Hoàng Thai Cát bác tấu chương vu miệt của Trác La Giáp Lạt với Bảo Thừa Tiên, thậm chí lệnh trong việc kiến thiết thành Quy Hóa, phải lấy Bảo Thừa Tiên làm chủ.