Chương NHỮNG MIỀN LINH DỊ TẬP 2 : NHẬT BẢN
1
“Anh Takahashi, anh có biết hôm ấy tôi sợ thế nào không?” Y tá Tonomi vừa giúp Takahashi thay băng xong. “Thấy anh bê bết máu me xông vào, tôi lại cứ tưởng là gặp ma giữa ban ngày cơ đấy.”
“Làm phiền cô quá.” Takahashi gắng gượng cúi rạp người xuống, bỗng thấy đầu óc choáng váng.
“Anh cứ nằm yên đừng cử động.” Tonomi vội vàng đỡ lấy Takahashi. “Mà anh Takahashi, anh làm thế nào mà đầu anh lại thành ra nông nỗi này?”
Takahashi gượng cười lắc đầu, thầm nghĩ: “Việc này sao có thể nói với cô được!”
Ba ngày trước...
Tuy đầu thu còn nóng, nhưng trên sân thượng tầng 27, gió thổi vù vù lạnh ngắt. Takahashi di chân dụi tắt đầu mẩu thuốc lá cuối cùng, lập cập đúng dựa lan can.
Đứng đây nhìn xuống, xe cộ trên đường chẳng khác gì đàn kiến dày đặc di chuyển thành dòng. Một cơn gió mạnh ập đến khiến Takahashi loạng choạng.
Nhưng anh không hề thấy sợ, bởi vì, từ lâu rồi anh đã không còn muốn sống.
Khủng hoảng tài chính, áp lực công việc, mồ côi cha mẹ, bị bạn gái đá, không trả được nợ, dường như tất cả mọi chuyện xui xẻo trên đời đều đổ cả lên đầu anh.
Sống không hy vọng, chết quách cho xong.
Hơn một tháng nay, suy nghĩ đó cứ trở đi trở lại trong đầu anh, và anh cũng đã nhiều lần tìm đến cái chết.
Lần này, chắc là sẽ thành công. Takahashi gượng cười, nhắm mắt lại, dang tay từ từ ngả người về phía trước, thả cơ thể vào trong không trung.
Cảm giác rơi tự do thình lình dừng lại, dường như có người chụp lấy chân anh, ngay sau đó là cảm giác đau choáng váng vì cú va đập. Khi mở mắt ra, anh thấy mình đang treo ngược giữa không trung, mép quần Jeans móc vào một cái móc sắt chìa ra ngoài lan can.
Trèo trở lên trên, Takahashi chán chường ngồi phịch xuống nền xi măng, hét ầm lên như thằng điên. Dường như chỉ có vậy mới giải tỏa được Cơn uất ức trong lòng.
Tại sao?
Tại sao lại xui xẻo tới mức tự sát cũng thất bại?
Từ lâu, Takahashi đã mất đi lòng tin với cuộc sống, anh đã thử đủ mọi cách thức để tự sát. Nhưng lần nào cũng vậy, cứ vào thời khắc cuối cùng lại xảy ra sự cố bất ngờ, kiểu gì anh cũng không thể chết được.
Đang chuẩn bị thọc tay vào ổ điện, cầu dao đột nhiên đứt phựt. Cầm nắm thuốc ngủ trong tay, sờ đến bình nước thì không còn một giọt, vòi nước máy cũng không tài nào vặn mở được. Treo cổ thì đứt dây thừng. Cắt cổ tay thì sờ mãi chẳng thấy dao đâu, muốn đập lấy miếng kính thì kính chỗ nào cũng như kính cường lực, đập hết hơi cũng không cái nào vỡ. Nhảy cầu thì vừa uống mấy ngụm nước lịm đi, mở mắt ra đã thấy nằm thẳng cẳng trên bờ, mặc dù anh chẳng hề biết bơi...
Giờ tới nhảy lầu cũng bị cái móc câu giữ lại!
Tất cả các biện pháp có thể nghĩ ra được, anh đã thử suốt lượt, vẫn cứ không chết nổi. Trong cõi u minh như thể có ai đang bỡn cợt anh, bất kỳ việc gì anh muốn làm cũng đều thất bại, kể cả tự sát.
Takahashi đấm ngực thình thịch, đôi mắt trợn trừng chợt liếc thấy đường ống dẫn nước chạy dọc tháp nước ban công thì nhảy bật dậy, cắm đầu lao thẳng vào đó.
Trong cơn choáng váng, anh mơ hồ nghe có tiếng con gái kêu thét lên.
Lúc tỉnh lại, trước mắt anh trắng lòa như tuyết. Cơn đau tại mũi kim truyền cắm trên tay khiến anh biết rằng mình chưa chết.
Không biết kẻ rỗi hơi nào lại mò lên sân thượng vào đúng giờ làm việc để cứu anh.
Cứ để anh chảy máu đến chết có hơn không! Takahashi đấm mạnh xuống giường bệnh.
2
“Ồ? Anh Takahashi, trên cổ anh có nốt ruồi này!” Tonomi tò mò chớp chớp mắt. “Ở Edo quê tôi có một truyền thuyết nói về nốt ruồi mọc trên cổ đấy, anh có muốn nghe không?”
Takahashi ngẩng đầu nhìn đồng hồ, đã là mười hai giờ đêm. Nếu Tonomi quay về phòng trực, vậy thì ở đây chỉ còn lại một mình anh. Anh luôn mang một nỗi sợ hãi khó hiểu với bệnh viện, nên khẽ gật đầu đồng ý.
Tonomi kéo ghế lại gần, nhấc hai chân lên ghế, hai tay ôm gối ngồi thu lu như con mèo: “Nghe nói những người có nốt ruồi trên cổ là mang theo oán khí từ kiếp trước đầu thai đến kiếp này đấy.”
Takahashi bất ngờ khi Tonomi bắt đầu bằng một câu chuyện rùng rợn đến vậy, anh vô thức sờ lên cổ, trong lòng dấy lên một nỗi thấp thỏm.
Dưới đây là lời kể của Tonomi...
Iwashima là võ sĩ nổi tiếng nhất thời Edo, chém đầu vô số địch thủ, đến năm mươi tuổi, được Thiên hoàng phong danh hiệu “Trảm vạn người”. Theo lý mà nói, lẽ ra Iwashima phải cảm thấy vui mừng mới đúng, nhưng ông ta càng ngày càng rầu rĩ.
Là một võ sĩ lừng lẫy một phương, không có con nối dõi quả thực là một nỗi sỉ nhục to lớn.
Tiếc thay thế thiếp đã sắp nhiều hơn cả nô bộc, nhưng lại chẳng ai có thể mang thai. Iwashima tìm suốt lượt danh y khắp cả nước, thậm chí mời cả tăng nhân, thầy âm dương làm phép, nhưng chẳng bà vợ nào có động tĩnh gì.
Mọi người đều xì xào rằng do Iwashima sát nghiệp quá nặng nên gặp quả báo, tuyệt tử tuyệt tôn. Những lời này đến tại Iwashima, ông ta đùng đùng nổi giận, xách thanh kiếm võ sĩ do Thiên hoàng ngự ban giết sạch tất cả những kẻ phao tin đồn nhảm, chặt đầu treo trên tường quanh phủ võ sĩ cho đến khi bị gió hong khô thành một đống thủ cấp quắt queo.
Từ đó, không ai còn dám nói ra nói vào nữa. Càng đáng ngạc nhiên hơn là chúng một năm sau, phủ Iwashima bỗng giăng đèn kết hoa chuẩn bị ăn mừng con trai Iwashima đầy trăm ngày.
Tin này khiến cả thành Edo chấn động. Sao trước đó chưa bao giờ nghe thấy mảy may động tĩnh mà giờ Iwashima lại đã có con trai rồi?
Có người nhiều chuyện tình lúc người nô bộc nhà Iwashima là Kenjiro ra phố mua đồ liền kéo anh ta vào uống rượu, đến khi ngà ngà liền tìm cách dò hỏi. Kenjiro đang ngất ngưỡng lập tức tỉnh như sáo, xua tay rối rít hoảng loạn bỏ đi ngay.
Điều này càng khiến mọi người đoán già đoán non. Thế là tin đồn lan khắp, nói rằng Iwashima bị thương trong chiến trận không thể sinh con, đứa trẻ, Hideo, chắc chắn là do tiểu thiếp của Iwashima dan díu với người khác sinh ra.
Tin đồn truyền tới tại Iwashima, Iwashima chỉ cười, chẳng buồn đếm xỉa. Nhưng mấy hôm sau đã thấy thêm một cái thủ cấp nữa trên tường, là đầu của Kenjiro. Máu nhỏ xuống tường, khô đặc lại như một đạo bùa kỳ dị.
Tiệc đầy trăm ngày của con trai Iwashima cuối cùng cũng tới, hầu hết các võ sĩ trong thành Edo đều tới chúc mừng, đương nhiên cũng có nhiều người tìm đến để hóng tin. Iwashima chẳng quan tâm, ai tới cũng vui vẻ đón tiếp. Rượu quá ba tuần, người thiếp mới cưới năm ngoái là Koyomi liền bế con ra.
Trên khuôn mặt bụ bẫm xinh xẻo của đứa bé loáng thoáng mấy phần giống Iwashima. Sự nghi ngờ liền tiêu tan, mọi người nhiệt tình chúc mừng Iwashima, Iwashima cũng uống tới tuý luý.
Nhưng không ai chú ý tới vẻ ai oán thể thiết trong nụ cười của Koyomi.
3
Thời gian vùn vụt trôi qua, Hideo đã sắp bảy tuổi, càng lớn càng tuấn tú và giống Iwashima. Những đứa con ra đời vẫn không hề giảm bớt tính hiếu sát của cha nó. Cứ cách một khoảng thời gian, trên tường nhà lại có thêm cái đầu người mới. Người qua kẻ lại ai thấy cũng khiếp sợ, nhưng vì trí tò mò cố hữu, nên thường kéo nhau đến xem bức tường như một “kỳ quan”.
Tuy nhiên cũng có người tinh ý phát hiện ra, từ sau tiệc trăm ngày, không ai còn nhìn thấy Koyomi - mẹ của Hideo nữa.
Nô bộc trong nhà Iwashima đều nhớ kỹ một mệnh lệnh: tuyệt đối không được bén mảng tới hậu viện, bằng không lập tức chém đầu. Nhưng vẫn có gã nô bộc gan lì lên tới gần hậu viện nghe ngóng, ngay hôm sau liền bị Iwashima lột da sống. Từ đó trở đi, khu hậu viện giống như một Iwashima thứ hai, vừa nhắc tới đã khiến mọi người tái mặt.
Không ai biết bên trong khoá nhốt thứ gì.
Nhưng sợ thì sợ, trong phủ võ sĩ vẫn xì xầm đồn đại, trước khi chết, người nô bộc bị lột da không ngừng làm nhảm: “Ma, ma...” Và cứ tới đêm khuya ngày đầu tháng và cuối tháng, bầu trời không trăng, trong hậu viện lại vọng ra những tiếng “thịch... thịch...” kỳ quái, giống như có ai đang đi lại, bước chân rất nặng nề.
Một hôm, Hideo ra phố chơi trong vòng vây kín mít của rất nhiều nô bộc. Ngẫu nhiên gặp một thầy âm dương vấn du bốn phương, vừa nhìn thấy Hideo, ông ta đã chỉ vào nốt ruồi trên cổ cậu bé nói: “Người có nốt ruồi này mang theo oán niệm và ký ức của kiếp trước, không biết là ai mà gây ra sát nghiệp nặng nề đến thế?”
Tuy thầy âm dương ở Nhật Bản rất được trọng vọng, nhưng đám nô bộc vẫn bắt lấy ông ta đánh cho một trận thậm tệ.
Thầy âm dương thì không được gây thù kết oán với người bình thường. Sau khi lau sạch máu me, ông ta dò hỏi được đứa trẻ là con trai của Iwashima “Trảm vạn người”, liền hỏi han tìm tới tận phủ của ông ta. Khi nhìn thấy hàng dãy đầu người quắt queo treo lủng lẳng trên tường, thầy âm dương liền bật cười vang: “Ha ha! Quả báo sắp tới rồi!” Nói xong, ung dung bỏ đi.
Sự việc nhanh chóng đến tai Iwashima, ông ta chau mày, cầm thanh kiếm katana trong tay, lẩm nhẩm tính toán: “Còn một tháng nữa là đến sinh nhật của Hideo, còn một tháng nữa!”
Nhưng quả báo mãi chưa thấy đến như lời thầy âm dương dự báo, phủ võ sĩ sóng yên gió lặng thêm một tháng nữa, sinh nhật bảy tuổi của Hideo đã tới.
4
Yến tiệc hết sức linh đình. Trong tiệc, Hideo cầm kiếm múa một bài, rồi chém chết một người nô bộc như sự tuyên bố trưởng thành, toàn bộ yến tiệc tưng bừng hoan hỉ. Mọi người lũ lượt chúc mừng Hideo có một người con trai tuổi nhỏ tài cao.
Hôm đó, Iwashima uống rất nhiều, khi về phòng nghỉ đã là nửa đêm. Mọi người ai cũng ngủ say sưa, nhưng Iwashima vẫn tỉnh táo, cầm thanh kiếm võ sĩ lên, kéo từ gầm giường ra một cái bao, âm thầm đi tới trước cổng hậu viện, móc ra một chùm chìa khoá.
Trong sân, lại vang ra những tiếng “thịch... thịch...” Iwashima nhếch mép cười, trong mắt lóe lên một tia hung ác. Ông ta mở khoá, chầm chậm gõ sợi xích gì sét quấn quanh cửa.
“Két...” Cánh cửa bị đẩy mở. Trong sân hậu viện rợp bóng cây, có một người đang chậm chạp bước xung quanh một gốc đại thụ. Cứ đi mấy bước, bóng người lại vung chiếc dùi gỗ trong tay gõ vào thân cây.
Chân hắn bị cùm khoá nặng trịch, áo quần rách nát gần như không che nổi cơ thể da bọc xương, từ xa nhìn lại, chẳng khác gì một bộ xương biết đi đang lòng vòng dưới ánh trăng trắng bệch.
“Đại nhân, xác người và da người hôm nay đâu?” Bộ xương lắng tai nghe rồi ngẩng đầu “nhìn” sang Iwashima. Đằng sau bộ tóc dài rối bù dính bết là hai hốc mắt đen ngòm không còn ánh sáng. “Một lần cuối cùng này nữa thôi, con trai đại nhân sẽ biến thành người... Koyomi, Koyomi vẫn khoẻ chứ?”
“Tất nhiên là khoẻ.” Iwashima lạnh lùng đáp, tiện tay ném cái bao xuống trước mặt con người da xương đó.
Từ trong bao lăn ra một người đàn bà béo tròn nhưng bẩn thỉu cáu ghét, cơ thể trần truồng sặc mùi phân và nước tiểu. Vừa nhìn thấy bộ xương, người đàn bà há miệng định hét lên, nhưng không thể phát ra thành tiếng. Trong cái miệng há hốc không còn thấy lưỡi, và trên cổ có một vết thương ở ngay thanh đới. Hai tay hai chân bà ta mềm nhũn không thể cử động, gân tay gân chân đã đứt từ lâu.
Bộ xương sờ vào người đàn bà béo tròn, hỏi: “Đại nhân, lần này là sống à?”
5
“Tạm thời không tìm ra người, đành phải dùng tạm con lợn người nuôi trong nhà vậy.” Iwashima rút dao ra khỏi bao.
Con người da bọc xương kia lần sờ tỉ mẩn trên cơ thể người đàn bà với bàn tay run rẩy, rồi nói: “Đại nhân, thời gian không còn nhiều nữa, động thủ thôi!”
“Không, lần này ta muốn người động thủ.” Iwashima ném tới một con dao sắc lẹm. Con dao cắm phập vào bụng người đàn bà. Bà ta ú ớ một tiếng rồi nằm bất động. Vết thương không thấy máu chảy, chỉ thấy mỡ úa vàng quạch.
Bộ xương biết đi do dự một lát, lần theo âm thanh mò được con dao nhổ ra, rồi lại sờ lên trán người đàn bà. Mũi dao bắt đầu khía một đường trên trán.
“Đại nhân, giờ tôi thế này, liệu Koyomi có còn yêu tôi không?” Bộ xương vừa lóc da người đàn bà vừa hỏi.
Dưới ánh trăng, trong khoảng sân loang lổ bóng đại thụ, một người đàn ông mù gây khô như một bộ xương biết đi đang cẩn trọng lóc da một người đàn bà đã bị cắt lưỡi, cắt gân tay gân chân, béo tròn như một con lợn, thật là một cảnh tượng ghê sợ khác nào địa ngục!
Iwashima lẳng lặng tiến lại gần, thanh kiếm đã rút ra một nửa: “Kenji, làm xong việc hôm nay, ta sẽ cho người tắm rửa tử tế, nghỉ ngơi dưỡng sức một thời gian. Vả lại, ngươi là thợ đẽo người có tiếng, tự đẽo lấy đôi mắt bỏ vào trong hốc mắt, sẽ lại sáng mắt như xưa thôi.
“Đại nhân nói phải.” Kenji càng lóc da cẩn thận hơn. Mỡ rỉ ra theo từng nhát cắt, chảy nhầy nhụa xuống cỏ như sáp nến. Hơn nữa canh giờ sau, một tấm da người hoàn chỉnh bóng mỡ đã nằm thông thướt trên tay Kenji. Dưới đất chỉ còn một cơ thể máu thịt nát bấy.
“Bắt đầu đi.” Iwashima xoay lưng lại. Tuy đã chứng kiến cảnh tượng này rất nhiều lần, nhưng ông ta vẫn không dám nhìn thêm.
Kenji chật vật kéo cái thân xác tơi tả đến bên một khúc gỗ đã để sẵn. Rồi nghiến răng, hắn cầm chuỳ gỗ đập mạnh xuống thân xác người đàn bà. Từ trong hốc mắt trống rỗng của Iwashima ứa ra hai hàng lệ.
Sau đó, hắn bôi máu thịt của người đàn bà lên khúc gỗ, rồi rút ra một con dao khắc, thành thục chạm đẽo.
Cây cối trong sân bỗng rung lắc, vặn vẹo như một bầy người tóc tai rũ rượi đang than khóc...
“Đại nhân, tượng sắp xong rồi.” Kenji cầm tấm da người phủ lên pho tượng, vóc dáng, mặt mũi trông giống hệt Hideo. “Đại nhân nhớ treo đầu người lên tường cho quạ rỉa, mang sát khí đi. Còn nữa...”
Iwashima lạnh lùng ngắt lời: “Những lời này ngươi đã lặp đi lặp lại suốt bảy năm rồi, hẳn đây sẽ là lần cuối cùng ta nghe thấy.”
“Hẳn rồi, vì đây là lần cuối cùng. Ngài sẽ thả tôi ra và cho tôi gặp Koyomi, đúng không?” Kenji thấp thỏm hỏi. “Phải!” Thanh kiếm trong tay
Iwashima vung lên như ánh chớp. Cái đầu rơi xuống đất, máu phun thành vòi.
Thân thể của Kenji đổ vật về phía thân thể nát nhừ của người đàn bà, hai cánh tay co quắp ôm cứng lấy bà ta, cùng lăn về phía pho tượng gỗ. Hai dòng máu trộn lẫn vào nhau, thấm vào chân tượng.
Lại một nhát kiếm nữa, Iwashima xách cái đầu người không còn da lên: “Ta đã giữ đúng lời hứa, người và Koyomi sẽ vĩnh viễn ở bên nhau!”
Cổng đóng lại, trong sân gió âm gào thét, đầu Kenji lăn lóc trong cỏ dại, bỗng mấp máy miệng thều thào: “Koyomi, đợi anh!”
Cái xác không đầu của Kenji bắt đầu nhúc nhích, hai cánh tay gầy quắt như củi khô lần sờ trên cỏ, bò từng chút một tới chỗ cái đầu.
6
Iwashima đẩy mở cửa phòng của Hideo, cậu bé đang nằm ngủ trên chiếu tatami. Trong tay Iwashima là pho tượng gỗ mà Kenji vừa chạm đẽo xong, bộ mặt đằng đằng sát khí đã dịu lại đôi chút: “Hideo, thay da của con lên tượng gỗ, con sẽ trở thành người thực, từ giờ về sau, chúng ta không còn cần đến thợ đẽo người nữa.”
Hắn thở dài: “Họ cứ nghĩ ta giết chết những kẻ tung tin đồn là để trút giận, kỳ thực, đó chỉ là cái cớ cho ta giết người mà thôi. Nếu ta không bắt Koyomi, vợ hắn, thì tay thợ đẽo người kia đâu có chịu dùng chiêu thổi hồn vào gỗ để chế tạo cho ta một đứa con trai.” Iwashima lắc đầu, đặt hai bàn tay lên đỉnh đầu Hideo rồi giật mạnh sang hai bên. Một tấm da người hoàn chỉnh rơi xuống, bên trong Cơ thể của Hideo là bức tượng gỗ.
Iwashima phủ bộ da của Hideo lên trên pho tượng mới tạc, vuốt mồ hôi trên trán, thở dốc: “Sắp sáu mươi rồi, ta cần có người thừa kế”. Ông ta nhìn về phía Hideo, trong mắt lộ ra ánh nhìn trìu mến.
“Cha!” Hideo ngẩng đầu gọi.
Vẫn là cậu con trai anh tuấn ấy. Iwashima thở phào yên tâm. Sau bảy năm đều đặn thay da, cuối cùng thì tượng gỗ đã biến thành người thật!
“Cha!” Hideo lặp lại tiếng gọi đơn điệu. Iwashima bỗng thấy bất thường, bèn mở to mắt nhìn kỹ Hideo dưới ánh trăng.
Đâu còn là Hideo nữa!
Khuôn mặt anh tuấn giờ đã trắng bệch, trên môi nứt ra một cái miệng thẳng đứng, mũi tẹt sát mặt, chóp mũi đó lừ, đôi mắt đỏ sẫm, hai tại mọc ra dài ngoẵng, dựng đứng trên đầu, mái tóc đen chốc đã trắng xóa như tuyết. Trước mắt ông ta rành rành là một bộ mặt thỏ!
Iwashima rú lên thất thanh, kinh hãi đến mất cả lý trí, vung kiếm lên chém thẳng xuống đầu Hideo.
“Phập!” Lưỡi kiếm chém ngập vào trong sọ, kẹt cứng bên trong không rút ra được, cứ giật một cái, mạt gỗ lại bắn ra rào rào. Hideo chẳng hề có cảm giác đau đớn, ngước cái đầu thỏ lên hỏi: “Cha, sao cha lại chém con?”
“Á!” Iwashima rú lên xé họng, vận hết sức bình sinh rút được lưỡi kiếm ra, rồi lại chém xuống thật lực.
Tiếng chí chát vang lên khắp nhà như chẻ củi...
Cuối cùng, Iwashima ngồi nhũn dưới đất, không tài nào nhấc nổi thanh kiếm lên nữa. Trợn trừng hai con mắt đỏ ngầu, ông ta liếc nhìn thi thể trên mặt đất.
Và chết sững.
Nằm vụn nát ở đó không phải là đống gỗ, mà là máu thịt hỗn độn, vẫn là Hideo.
Ông ta há hốc miệng, không thốt nổi một lời. Cứ ngồi chết trân như vậy hồi lâu, cuối cùng, ông ta sờ soạng cầm lấy thanh kiếm, đâm thẳng vào bụng, rạch ngang...
7
Trong hậu viện, Kenji đang tỉ mỉ chạm đẽo. Trong hốc mắt trũng sâu giờ đã có thêm một cặp nhãn cầu tinh anh. Mạt gỗ bay như mưa, một người đàn bà xinh đẹp dần dần hiện hình.
Bên cạnh ông ta là một thầy âm dương ăn mặc lôi thôi đang chăm chú gấp giấy. Đợi Kenji chạm đẽo xong người đàn bà, thầy âm dương liền dán người giấy đã gấp xong lên tượng gỗ, châm lửa. “Phụt” một tiếng, ngọn lửa xanh lét bùng lên một chốc rồi tắt ngấm, một người đàn bà lõa thể xinh đẹp đứng dậy khỏi đám tàn tro.
“Đa tạ sư phụ!” Kenji và Koyomi cúi gập người trước thầy âm dương.
“Người có tình nên ở bên nhau.” Thầy âm dương mỉm cười rồi trèo qua tường bỏ đi.
Tin Iwashima “Trảm vạn người” tự tay chém chết con trai mình rồi mổ bụng tự sát nhanh chóng lan truyền khắp thành Edo, không ai hiểu được nguyên nhân tại sao, và đó đã trở thành sự kiện ầm ĩ một thời.
Và còn một chuyện lạ nữa là đúng lúc này, có một cặp vợ chồng xinh đẹp tìm tới Edo. Ngày ngày, anh chồng ngồi dưới gốc anh đào, tạc tượng tặng cho những người yêu nhau, cô vợ ngồi bên chồng, chốc chốc lại giúp chồng lau mồ hôi trên trán, mỉm cười âu yếm.
8
Tonomi đã đi một lúc rồi, nhưng Takahashi vẫn ngồi thẫn thờ trên giường, đắm chìm trong những tình tiết ma quái của câu chuyện. Đã sắp ba giờ rồi mà hai mắt vẫn chong chong. Takahashi bèn xỏ dép đẩy của định ra ngoài thì thấy hai cô y tá đứng đó không xa.
Trong hành lang trống trải, đèn sáng lờ mờ, phản chiếu trên những bức tường hành lang trắng toát. Hành lang dài hun hút không một bóng người, chỉ có Tonomi và một y tá khác đang thì thào với nhau.
“Tonomi, chị lại kể cho bệnh nhân nghe cái câu chuyện nốt ruồi trên cổ ấy à?”
“Đúng vậy, Anko. Tại tôi nhìn thấy trên cổ anh Takahashi có nốt ruồi.”
“Thế chị không sợ làm bệnh nhân phát khiếp à?”
Takahashi rón rén lại gần, thấy hai cô y tá đứng sau quầy trực ban nghịch điện thoại và tán gẫu. Nhưng quái lạ là bên cạnh họ còn có một người nữa, vừa nhìn đã khiến anh dựng tóc gáy.
Đó là một người phụ nữ mặc áo bệnh nhân, đứng giữa hai cô y tá, mái tóc xõa dài phủ kín mặt, đang khom lưng nhìn xuống màn hình điện thoại trong tay cô y tá.
Hai cô kia hình như không nhìn thấy người phụ nữ, vẫn tán chuyện như thường, còn đưa điện thoại cho nhau xem, những bàn tay xuyên qua cơ thể người phụ nữ như xuyên qua không khí.
“Tonomi, có phải là điều hoà hôm nay lạnh quá không nhỉ, lạnh hơn bình thường nhiều.” Cô y tá nhuộm tóc vàng so vai hỏi.
Ma!
Takahashi toàn thân lạnh toát, vội vã chạy ào về phòng bệnh, đóng sầm cửa lại, thở hồng hộc muốn đứt hơi. Bệnh viện này có ma, không thể ở được nữa. Anh vội kéo tủ quần áo định vơ đồ bỏ về, nhưng lại nhìn thấy một thằng bé sáu, bảy tuổi đang nằm ngủ trong đó.
Takahashi bật ngửa ra phía sau, ngã ngồi xuống sàn. “Cậu không thể chết được, cậu chết rồi sẽ biến thành ma như chúng tôi đấy.” Một giọng đàn ông trung niên vang lên sau lưng. Takahashi không dám quay đầu lại nhìn, hai chân nhũn ra như cọng mì. Nhìn vào mặt gương trên cánh cửa tủ, anh thấy một người đàn ông trung niên nằm trên giường bệnh của mình, đang từ từ ngồi dậy...
“Á!” Takahashi rú lên một tiếng kinh hoàng, ngồi bật dậy khỏi giường, khắp người đẫm mồ hôi lạnh.
“Anh Takahashi, anh sao thế?” Có người vỗ vai anh, là cô y tá tóc vàng.
Rèm cửa của phòng bệnh đã kéo mở, ánh nắng tràn vào phòng rực rỡ khiến Takahashi loá mắt, một lúc sau mới từ từ nhìn thấy rõ.
Là một cơn ác mộng?
Takahashi lắc đầu, cười ngần ngại.
Cô y tá khẽ gật đầu: “Bác sĩ nói vết thương của anh không có gì đáng ngại, có thể xuất viện bất cứ lúc nào.” “Cảm ơn cô, Anko. Làm phiền cô quá.” Takahashi ngồi trên giường bệnh khó nhọc cúi gập người.
Sau khi cô y tá đi khỏi, Takahashi bắt đầu thu dọn đồ đạc. Khi mở ngăn tủ, anh vẫn nơm nớp sợ hãi, may sao bên trong chẳng có đứa bé nào. Đang sắp xếp đồ đạc, anh bỗng ngẩn người: cái cô y tá tóc vàng ấy sáng nay anh mới gặp lần đầu, sao anh lại biết cô ta, lại còn biết tên nữa.
Lẽ nào chuyện tối qua...
Chuông điện thoại vang lên, kéo Takahashi ra khỏi cơn sợ hãi, trở về với hiện thực. Phòng nhân sự của công ty gọi điện tới.
Lẽ nào vì việc này mà công ty muốn đuổi việc anh sao? Vậy cũng tốt, đỡ phải cả ngày sống trong thấp thỏm.
“Anh Takahashi, anh khỏe hơn chưa? Công ty thông báo, lễ hội Săn lá đỏ phải có mặt đúng giờ đấy nhé.”
Săn lá đỏ tức là vào rừng ngắm lá phong mùa thu. Giờ đã sang thu, rừng cây trùng điệp lá phong đỏ thẫm như máu. Theo truyền thuyết, lá phong đó là do máu tươi của nàng tiên cây phong nhuộm thành, nên khi ngắm lá không nên nhìn lâu, và chỉ nên đứng từ xa thưởng thức.
Ngày nay, tham gia lễ hội Săn lá đỏ còn có thêm một ý nghĩa bất thành văn, chứng tỏ công ty hài lòng với biểu hiện công tác của anh trong năm vừa qua, chí ít trước lễ hội Săn lá đỏ năm sau, anh sẽ không bị sa thải.
Đối với Takahashi, có thể coi đây là tin tốt lành duy nhất trong cuộc đời đen đủi của anh, cũng khiến anh tạm quên đi cơn ác mộng tối qua.
Thu dọn đồ đạc xong, bắt taxi về nhà, khi đi ngang qua siêu thị, Takahashi mới nhớ ra trong nhà đã chẳng còn gì để ăn nữa.
10
Chắc chỉ có đàn ông độc thân và vô công rồi nghề mới đi lượn siêu thị. Takahashi tự giễu mình khi nhìn những bà nội trợ thong thả đẩy xe hàng đi mua sắm.
Khi vòng qua một giá để hàng, bất chợt, anh trông thấy một người phụ nữ đang khóc.
“Xin hỏi, cô có cần giúp gì không?” Tuy Takahashi là kẻ bất hạnh chán đời, nhưng lại khá tốt bụng.
Người phụ nữ vẫn gục đầu khóc nức nở, tóc dài rũ rượi che kín mặt. Nhưng Takahashi cảm thấy chị ta trông rất quen, trong lòng anh bất giác gợn lên một cảm giác khó chịu.
“Con trai tôi không thích ăn đồ tôi nấu.” Chị ta nấc nghẹn. “Sau khi lớn lên, nó không thích ăn cá mực viên nữa, trong khi hồi bé nó rất thích. Anh có thích ăn không?”
Takahashi khẽ chau mày, anh chẳng ăn cá mực viên bao giờ, nhưng thấy chị ta khóc lóc thảm thiết quá thì cũng đáp lại: “Tôi thích chứ, mực viên là món tôi thích ăn nhất đấy.”
“Thế thì anh hứa với tôi hôm nay phải ăn đấy nhé.” Nói rồi chị ta bỏ một túi mực viên vào xe hàng của anh.
Lúc thanh toán, Takahashi vốn định bỏ lại túi mực viên, nhưng bỗng thấy xót xa. Có những người còn cha còn mẹ sao lại không biết trân trọng tình mẫu tử kia chứ!
“Anh ơi, anh ơi!” Một thằng nhóc từ đầu chạy lại kéo cánh tay anh, nhét mấy cây kẹo mút vào trong tay anh. “Tặng cho anh này!” Nói xong chạy biến.
Hôm nay là ngày gì thế nhỉ? Trên đường về, Takahashi ngậm cây kẹo mút vốn chả bao giờ anh cầm đến mà dở khóc dở cười.
Ánh đèn flash lóe lên. Takahashi sững lại, loáng thoáng nhìn thấy ở góc phố có người hạ máy ảnh xuống rồi bỏ đi luôn.
“Một ngày khó hiểu”. Takahashi lẩm bẩm.
Mùi thơm của mực viên toả ra từ nhà bếp, Takahashi hít một hơi thật sâu. Thực ra cũng không đến nỗi! Hồi nhỏ anh khá là thích ăn.
11
Có lẽ do biết tin được tham gia ngày hội Săn lá đỏ, áp lực về kinh tế tan biến, lại có động lực làm việc, nên công việc mấy ngày nay rất thuận lợi, được cấp trên khen ngợi, tâm trạng Takahashi cũng nhẹ nhõm hơn rất nhiều.
Xuống khỏi xe bus của công ty, bước vào rừng phong ngoại ô, các đồng nghiệp ríu rít chụp ảnh một hồi rồi bắt đầu chuẩn bị tiệc dã ngoại ở ven hồ.
Takahashi mắc chứng sợ nước nghiêm trọng, không thể khắc phục được chướng ngại tâm lý, nên đành phải đúng thật xa nhìn.
“Này anh bạn trẻ, có thể giúp tôi mang cần câu cá và xô nước ra bờ hồ được không?” Một ông cụ không biết từ đầu bước tới bên cạnh anh, đội cái mũ lưỡi trai từ thập niên 80 sùm sụp nửa mặt, mặc cái áo sơ mi hoa hoè hoa sói. “Già rồi, tay chân kém quá.”
“Nhưng mà...” Takahashi do dự nhìn ra hồ nước. Ông cụ bỗng họ lên một tràng dữ dội.
Takahashi không từ chối nữa, xách xô nước và cần câu lên.
“Anh đúng là người tử tế, cháu nội tôi cũng lớn bằng anh đấy.” Ông cụ lom khom theo sau, bắt đầu cà kê.
Mặt hồ gợn sóng lăn tăn, phản chiếu ánh nắng vàng lấp lánh. Vừa trông thấy, Takahashi bỗng hoa mắt chóng mặt, đang định chạy đi ngay thì thấy đám đồng nghiệp vẫn đang bận rộn bày biện, cần câu cá và xô nước ở ngay bên cạnh chân, còn ông cụ đã biến đâu mất tiêu. Anh đã nhớ ra!
Người phụ nữ, đứa bé, ông lão.
Cơn ác mộng nửa thực nửa hư.
Con ma mà anh gặp trong bệnh viện.
Ý thức thình lình trỗi dậy khiến anh hoảng sợ tột cùng, vô thức lùi ra sau, chân bỗng hẫng một cái, ngã ùm xuống hồ nước.
Nước hồ tràn vào mũi, cơn ngạt thở khiến anh vô thức há miệng, nước liền ùng ục đổ vào, cơ thể hoàn toàn mất kiểm soát. Anh ra sức giãy giụa, trước mắt nước văng tung toé, lờ mờ nhìn thấy trong nước có mấy người đang bơi về phía anh.
Ông lão, người phụ nữ, đứa bé...
12
Cảnh tượng cực kỳ quen thuộc! Hình như đã từng nhìn thấy ở đâu rồi!
Takahashi dường như đã nhớ ra gì đó, đầu anh đau muốn vỡ, như có tia chớp vụt lóe, phá vỡ ký ức đã bị phong toả quá lâu. Một chuỗi hình ảnh liên hoàn chạy qua trước mắt.
Một ngôi nhà nhỏ, một chiếc taxi lau chùi sáng bóng, một người đàn ông trung niên đang chất đồ dùng cho bữa ăn dã ngoại vào trong cốp xe.
“Mẹ ơi, hôm nay con muốn ăn mực viên!” Một đứa bé từ trong nhà vui vẻ chạy ra. “Con chỉ ăn mực viên mẹ làm thôi, không phải mẹ làm thì con không ăn!”
“Takahashi, khi nào con lớn sẽ có vợ làm mực viên cho con.” Người mẹ xách hộp đồ ăn từ trong nhà đi ra.
“Takahashi, đừng bướng bỉnh thế, anh cho kẹo mút này.” Lại thêm một cậu bé nữa chạy ra với mấy cây kẹo mút trong tay. “Cho em đấy. Em thích ăn gì anh sẽ cho em hết.”
Takahashi cầm lấy cây kẹo mút: “Anh ơi, chúng mình đoán xem con cá đầu tiên ông nội câu trong hội Săn lá đỏ năm nay là cá trích hay là cá chép nhé.”
“Hai thằng cu kia, lại xách xô với cần câu cho ông nào!” Ông nội tay chống nạnh đứng trước cửa nhà gọi.
Đây không phải là một gia đình giàu sang, nhưng họ rất giàu có.
Cả nhà năm người vui vẻ cùng hát những khúc dân ca. Phong cảnh đầu thu đẹp tới say lòng, thật là một kỳ nghỉ vui vẻ.
“Bố đúng là nhân tài không gặp thời, chứ tay nghề lái xe của bố mà được huấn luyện viên khai quật, bố đã trở thành tay đua số một Nhật Bản lâu rồi!” Người bố vui vẻ khoe khoang.
Thình lình, trước mặt họ xuất hiện một chiếc xe BMW phóng bạt mạng, lạng lách như say rượu, đâm sầm vào chiếc taxi.
Tiếng va chạm chói tai. Cú va đập choáng váng. Cảm giác bay không trọng lượng. Mùi xăng sặc sụa. Nước ùa vào ồng ộc. Chiếc xe đã văng xuống hồ nước bên đường.
Takahashi được bố cố gắng hết sức đẩy ra qua khe cửa sổ, chới với bơi tới ven bờ.
Ký ức còn sót lại: cửa xe móp méo, nước ộc vào ồ ạt, bong bóng sủi ra từ mũi ông nội, bố, mẹ, anh trai nhuộm màu đỏ máu.
“Takahashi, hãy tìm một cô vợ biết làm mực viên. “Takahashi, nhớ ăn kẹo mút nhé.” [yeukindlevietnam]
“Takahashi, ông không đưa cháu đi câu cá được nữa!” Chiếc BMW đã bỏ đi, mặt đường trống trơn, gió thổi ù ù, và một thằng bé Takahashi ngây độn.
“Á!” Takahashi rú lên xé họng, giơ tay ôm chặt lấy đầu, điên cuồng đuổi theo chiếc BMW đang bỏ chạy. Ngã sấp, bò dậy, lại ngã sấp, lại bò dậy.
Đầu gối trầy trụa, bàn tay trầy xước, mũi giập nát, cuối cùng, ngất lịm.
Khi một người phải chịu đựng cú sốc quá dữ dội, bộ não sẽ khởi động cơ chế tự vệ, chủ động phong tỏa đoạn ký ức ấy...
Hoá ra, anh biết bơi; hoá ra, anh thích ăn mực viên; hoá ra, anh trai cho anh kẹo mút; hoá ra, anh đã hoàn tất tâm nguyện của bố.
Bố đâu? Takahashi nằm sấp bên bờ hồ. Các đồng nghiệp không ai nhận ra anh ngã xuống nước, nhưng anh không hề cảm thấy cô đơn.
“Takahashi, bố con đã hoàn thành tâm nguyện, chúng ta cũng vậy, chúng ta phải đi đây! Con hãy chăm sóc bản thân cho tốt! Đừng tự sát nữa. Ngày nào chúng ta cũng phải trông chừng con, vất vả lắm.” Là giọng của mẹ anh. Ánh nắng rực rỡ, mây trời lộng lẫy bảy màu với rìa mép viền vàng lấp lánh, đang từ từ dịch về phía tây.
“Ngày hội Săn lá đỏ hôm nay, chủ tịch hội đồng quản trị không tham gia, tôi thay mặt ông ấy xin lỗi mọi người.” Tổng giám đốc bước xuống khỏi xe, cúi rạp người. “Con gái của chủ tịch hội đồng quản trị gặp tai nạn giao thông, đã thiệt mạng...”
13
Trong rừng phong, một nam một nữ trốn sau gốc cây. Cô gái: “Bóng của quỷ súc chỉ bắt được những thứ này thôi, nhưng không thể nhận biết được”.
“Hùm!”
“Làm thế nào đây?”
Anh chàng ngẩng đầu nhìn lá phong: “Lá đỏ đầu thu đẹp thật. Đôi khi, linh hồn cũng rất đẹp.”
Cô gái: “Về thôi!”
Chẳng ai chú ý tới hai người này, cũng chẳng có ai nhận ra Takahashi đang đứng bên bờ hồ, đờ đẫn ngửa mặt nhìn bầu trời.
“Ồ? Anh Takahashi, anh cũng ở đây à?”
“Tonomi, sao khéo thế. Cô cũng đi ngắm lá đỏ à?”
“Vâng. Bệnh viện cũng tổ chức đi Săn lá đỏ, tôi không thích chỗ đông người nên một mình đi dạo đến đây.”
Mặt Tonomi đỏ hồng giống như ráng mây chiều.
1
Kiếp này không gặp, xin chờ kiếp sau. Nhật Bản, thời Edo...
“Kuwabara, sắp tới lễ Vu Lan rồi, mua ít rượu về cúng Shizuka nhé.” Ông chủ hàng tạp hoá cất mớ cá tươi mà Kuwabara vừa mang tới, đếm mấy đồng tiền xu.
Kuwabara xoè tay đón lấy mớ tiền xu, đón lấy mớ tiền xu, cẩn thận đếm lại như sợ ông chủ trả thiếu.
Ông chủ tỏ ra không vui: “Có mấy xu lẻ mà anh làm vậy ngay trước mặt tôi, có quá đáng không?”
Kuwabara đặt một đồng tiền xu lên mặt quầy: “Muối.”
“Thế không mua rượu cúng Shizuka thật à?” Ông chủ tiệm cận muối, nhân lúc Kuwabara không để ý, đổ lại một ít vào trong vại. “Cân tươi nhé.”
Nhìn theo Kuwabara đi xa dần, ông chủ tặc lưỡi: “Cô gái xinh đẹp như thế, lúc sống đối xử với anh tốt như thế, chết đi rồi lại chẳng buồn cúng bái, thật đáng thương.”
Mấy võ sĩ uống say ngất ngưởng gõ guốc mộc lóc cóc trên phố. Kuwabara đang cắm đầu đi, chẳng biết mải nghĩ gì mà đâm sầm vào họ.
“Khốn kiếp!” Một võ sĩ vung thanh kiếm sắc lẹm lên, bổ xuống đầu Kuwabara.
2
“Á!” Shizuka kinh hãi choàng tỉnh khỏi cơn ác mộng, ngồi bật dậy, hoảng hốt lần sờ công tắc đèn đầu giường. Không hiểu tại sao, mỗi khi lần sờ công tắc trong bóng tối, cô luôn cảm thấy một nỗi sợ hãi khó hiểu.
Nếu đột nhiên không sờ thấy công tắc thì sao? Nếu sờ được công tắc nhưng đèn không sáng thì sao? Nếu đèn sáng lên thấy có người đứng lù lù trong nhà thì sao?
Mỗi lần như vậy, cô đều cảm thấy có một bóng người đang đứng ngay trong bóng tối đầu giường, chằm chằm nhìn mình.
Vẫn may, chưa bao giờ xảy ra chuyện bất thường. Đèn sáng trưng. Trong nhà bừa bộn. Shizuka nghịch điện thoại ngủ thiếp đi lúc nào không biết, cửa sổ quên đóng, gió hất tung rèm cửa, căng phồng như hai cái bao, trông như có thứ gì vừa lao vào trong đó.
Tấm chăn phơi ban ngày vẫn chưa khô hẳn, nằm bên trong thấy ẩm xì xì, cứ như đang nằm dưới đất.
Vuốt mồ hôi lạnh trên trán, Shizuka nghĩ lại vẫn chưa hết sợ. Cơn ác mộng vừa rồi quá chân thực, cảm giác thanh kiếm võ sĩ đã bổ thẳng xuống đầu, đau đớn và lạnh lẽo chết chóc.
“Vẫn may là tỉnh dậy kịp.” Shizuka vuốt ngực, uống ngụm nước, chuẩn bị ngủ tiếp. Trằn trọc hồi lâu vẫn không ngủ được, tấm chăn ẩm lạnh rất khó chịu. Cô bèn trở dậy, vào nhà tắm vặn nước. Dòng nước vòi sen toả hơi nóng nghi ngút, xối trên da hơi ran rát, cảm giác ấm sục khiến Shizuka vô cùng dễ chịu. Cô bèn tháo mũ trùm tóc gội đầu luôn thể cho sảng khoái.
Đang tắm gội, cô bỗng nghĩ đến điều cấm kỵ không soi gương chải đầu vào nửa đêm. “Nhưng gội đầu thì chắc không sao.” Shizuka nhủ thầm. “Sắp tới lễ Vu Lan rồi, cẩn thận một chút vẫn hơn.”
Nghĩ tới lễ Vu Lan, cô lại nhớ tới cơn ác mộng vừa nãy, thấy người gai gai, vội vàng tắm ào cho xong. Đưa tay sờ khăn lau tóc không thấy đâu, mới nhớ lúc giặt quần áo đã tiện thể giặt luôn rồi.
Shizuka mở mắt ra, tấm gương trong nhà tắm đã phủ một tầng hơi nước. Cô đưa tay quệt trên mặt gương, trong những vết nước nhoe nhoẹt là cơ thể khoả thân méo mó của cô.
Bật máy sấy lên, tiếng gió ù ù vang vọng khác thường trong đêm. Chốc sau, trên lược đã kẹt lại một nắm tóc bù xù. Shizuka hơi lo lắng, nhưng lại tự an ủi, có lẽ gần đây áp lực lớn quá nên tóc rụng nhiều. Nhưng cứ rụng mãi thế này thì đến hỏi mất.
Tóc chưa khô hẳn, nhưng Shizuka chẳng muốn chải tiếp nữa. Cô cất máy sấy, lại liếc nhìn mình trong gương. Đột nhiên, cô giật mình kinh ngạc.
Trên cổ cô có thêm một nốt ruồi son bé xíu. Shizuka đưa tay sờ lên mặt gương, cô nghĩ là có vật gì đó dính vào. Nhưng dưới đầu ngón tay cô chỉ có mặt gương lạnh băng. Đúng là nó mọc trên cổ cô.
Cô sực nhớ tới một truyền thuyết đáng sợ về việc nốt ruồi trên cổ mà mấy cụ già ở quê từng kể. Liên tưởng tới cơn ác mộng vừa nãy, cô bỗng lạnh người, kỳ thật mạnh lên cổ. Nhưng chà tới đỏ ửng mà cái nốt ruồi ấy vẫn trơ trơ, lại càng đỏ lên như máu.
Lao về phòng ngủ, cái lạnh buổi đêm khiến cô run lập cập. Cô đóng cửa sổ, lấy khăn lau tóc xuống cuốn tóc lại, chui vào trong tấm chăn ẩm lạnh, không dám tắt đèn, chìm trong nỗi sợ hãi khó hiểu.
Chắc phải kiếm một anh bạn trai ở cùng thôi. Shizuka nghĩ vậy. Cuối cùng, do mệt mỏi quá, cô mơ màng ngủ thiếp đi.
3
Thời Edo là thời đại của võ sĩ, họ có thể rút kiếm chém người tuỳ ý mà không lo bị trừng phạt, và họ thường xuyên giết người để bổ sung sát khí cho thanh kiếm võ sĩ. Tất cả mọi người trên phố đều dừng lại, kinh hãi nhìn thanh kiếm chém xuống đầu Kuwabara.
Kuwabara vẫn cúi đầu, chẳng hề sợ hãi, còn nhắm mắt lại, mỉm cười như sẵn sàng đón nhận.
Lưỡi kiếm chém trúng búi tóc của Kuwabara, những sợi tóc đút rơi tung toé. Người đi đường chạy ùa cả lại.
Nhưng không hề có cảnh tượng đầu rơi máu chảy man rợ. Thanh kiếm đã dừng lại, lóe lên ánh thép lạnh lẽo, thu về trong bao. Võ sĩ lạnh lùng nói: “Lưỡi kiếm tôn quý không bao giờ chém một cái xác.”
Người đi đường đã tản đi từ lâu. Kuwabara vẫn quỳ sụp trên đường, hai tay bấm vào trong đất rắn, khóe miệng nhếch lên một nụ cười quái dị.
Trở về nhà, Kuwabara ném gói muối lên bàn thờ, cầm vợt khoắng vào cái nồi đang sôi ùng ục, vớt ra hai khúc xương đã hầm đến rơi sạch thịt, mang ra ngoài, ném xuống cái hố đất đã đào sẵn rồi vùi kín lại. Quay vào trong bếp, Kuwabara múc một bát canh thịt rồi ngồi trong sân, vừa ăn vừa nhìn ngắm cây nho đang cuốn quanh một thân cây nhỏ.
Nho vốn không phải là giống cây của Nhật Bản, mà là do sứ thần mang về từ một miền đất xa xôi, nhưng hạt nho trồng kiểu gì cũng không sống được. Không biết là ai đã nghĩ ra một cách, nói rằng thân nho giống như gân mạch, phải nuôi bằng máu mỡ mới tươi tốt được. Thế là họ thử chôn xương của gà, cá, lợn, bò dưới gốc cây nho. Không ngờ lại có tác dụng thật, cây nho không những sống được mà còn ra quả tròn căng tím thẫm, nước ngọt thịt thơm, ngon đến lạ lùng.
Thế nhưng cũng có người nói trồng nho kiểu này là cho cây nho hút tinh huyết của động vật, là tà thuật, ăn loại nho này sẽ bị ma nhập, âm khí tích tụ, lâu dần sẽ biến thành ma lúc nào không biết. Nhưng vì quý tộc quá yêu chuộng thứ cây này nên người ta vẫn cứ trồng nho theo cách ấy, thời gian lâu dần, cũng không ai cảm thấy bất thường nữa.
Vài con quạ bay tới, lượn mấy vòng rồi đậu xuống giàn nho định mổ ăn. Kuwabara vội quát tháo đuổi lũ qua đi. Uống xong bát canh, anh ta vào bếp, ném thêm mấy khúc củi nữa vào lò rồi nằm lên cái chõng trúc ngoài sân ngủ.
Ngón tay sờ lần trên cái nốt ruồi đỏ ở cổ, anh ta mơ thấy một giấc mơ kỳ quặc...
4
Ánh nắng chói chang xuyên qua rèm cửa. Shizuka mở mắt, uể oải không muốn dậy. Lần sờ điện thoại di động xem giờ, mới nhớ mai là lễ Vu Lan thì vội vàng trở dậy, vội vã đánh răng rửa mặt thay đồ rồi hấp tấp chạy tới tiệm hoa nhỏ của mình.
Trong dịp lễ Vu Lan có rất nhiều phong tục. Người Nhật Bản thường mua hoa cúng tế người đã khuất, còn được nghỉ lễ từ ba tới bảy ngày. Buổi tối, người ta thường kiêng cữ nên ít ra khỏi nhà.
Trên đường, Shizuka lại hồi tưởng lại giấc mơ tối qua. Sau khi thiếp đi, cô lại mơ tiếp cơn ác mộng trước đó, rất nhiều tình tiết đã không nhớ rõ, chỉ nhớ hình ảnh một người đàn ông thời xưa ngồi trong sân nhìn giàn nho.
Đã tới tiệm hoa, cô mở cửa cuốn, tiếng kim loại cọ vào nhau chói tai, hương hoa cỏ phá ra nồng nàn.
Tiệm hoa này là tài sản bố mẹ cô để lại, trông thật lạc lõng trên con phố chen chúc những tòa nhà cao tầng. Tập đoàn tài chính Orient từ lâu đã nhắm tới mảnh đất này, ra giá cao muốn mua lại tiệm hoa để nối liền hai toà nhà lớn thuộc sở hữu của Orient ở hai bên trái, phải lại với nhau. Thế nhưng Shizuka dứt khoát không bán.
Không phải cô quá trân trọng tài sản cha mẹ để lại. Đây là con phố cực kỳ sầm uất, tấc đất tấc vàng, sở hữu được một căn nhà ở đây, không tiền nào có thể mua nổi.
Giá nhà đất ngày càng lên cao, trong khi tiền mặt ngày càng trượt giá, điều đơn giản này thì Shizuka hiểu rõ. Huống hồ đây là tiệm hoa duy nhất trên cả con phố, đương nhiên kinh doanh rất tốt, thu nhập một năm khá là khả quan, Shizuka sẽ không vì đồng tiền trước mắt mà từ bỏ thu nhập lâu dài.
Bận rộn tới tận chiều, bầu trời lóe lên ánh chớp, Shizuka nhìn chiếc quần Jeans dài mà ngán ngẩm. Trời mưa thì gấu quần sẽ dính đất bùn, về nhà lại phải mất công giặt nữa.
Nghĩ tới tấm chăn vừa phơi lại buổi sáng, Shizuka vốn định đóng cửa về cất kéo ướt, nhưng tiệm hoa đông khách quá, cô chẳng có thời gian nghỉ tay.
Đến chiều, cô còn gặp một chuyện lạ lùng. Một anh chàng xưng tên là Takahashi đầu cúi gằm buồn bã tới mua một bó hoa cúc. Một chốc sau, bó hoa cúc bị ném từ trên tầng xuống, rồi lại mười mấy phút sau, Takahashi đầu bê bết máu chạy ào xuống đường, lao thẳng về phía bệnh viện.
Chắc lại là một anh chàng áp lực cao quá nên tâm lý bất thường. Shizuka đang bận tối mắt tối mũi nên cũng nhanh chóng quên bẵng.
Cho tới tận hơn tám giờ tối, khách mới vãn dần. Shizuka đang thu dọn chuẩn bị đóng cửa thì lại có người tới mua hoa.
“Vô cùng xin lỗi, cửa hàng đã nghỉ rồi ạ.” Shizuka lịch sự đáp. Người khách đứng ngoài cửa, nơi ánh đèn không chiếu tới nên cô không nhìn rõ mặt mũi.
“Phiền cô quá, tôi chỉ mua một bông cúc trắng thôi.” Giọng nói rất lịch sự nhưng cũng rất lạ lùng, giống hệt như tiếng đàn accordion hở phím.
Shizuka ngẩng nhìn, thấy đó là một người phụ nữ mặc áo gió màu đen, tay cầm ô, mái tóc ướt sũng xõa xuống thẳng đuột, che khuất nửa khuôn mặt trắng bệch, mắt cụp xuống, ngự trên mặt là chiếc khẩu trang trắng toát rộng bản.
Trời đã tạnh mưa lâu rồi, sao vẫn còn giương ô?
Shizuka thấy hơi lạ nhưng cũng chẳng hơi đâu mà nghĩ, chỉ mua một bông hoa cúc trắng thì nhanh thôi.
Đưa hoa vào trong tay người đàn bà, tay chị ta cũng trắng toát không một chút huyết sắc, ngón tay cô vô tình chạm phải, cảm giác lạnh buốt đến thấu xương.
“Quá mười hai giờ đêm rồi, đã sang tiết Vu Lan, là thời gian ma quỷ đi lại, cô không buộc dây đỏ à? Nhớ buộc dây đỏ vào cổ chân bên phải đấy nhé.” Người đàn bà cất giọng lãnh đạm. “Tôi phải đi Miyajima đây, tạm biệt.”
Shizuka cúi gập người tiễn khách. Những câu nói của người đàn bà khiến cô rờn rợn, Miyajima nổi tiếng là hòn đảo ma, có rất nhiều điều cấm kỵ và truyền thuyết kỳ quái, đi tới đây trong ngày Vu Lan thật là đáng sợ. Shizuka nhìn xuống dưới chân. Hôm nay cô mặc quần dài, sợi dây vướng víu nên đã tháo đi rồi. Nhưng cô chưa kịp thắc mắc tại sao người đàn bà áo đen kia lại biết được cô không buộc dây đỏ.
“Phụt!” Chiếc vòng tay mã não tự dưng đút tung, hạt mã não rơi tung toé, nhảy loạn xạ trên nền nhà, tiếng lanh canh vang lên không dứt.
Shizuka sững sờ. Người già dưới quê từng nói, đồ trang sức đeo trên người tự dưng bị đứt là đã giúp chủ nhân ngăn chặn một vụ ma nhập hồn, nhất định phải nhặt lại toàn bộ số hạt, gói kỹ trong vải đỏ, lấy dây thép buộc lại, mang về nhà đặt trên bệ cửa sổ thông gió để gió đêm cuốn đi âm khí và ánh nắng mặt trời soi rọi, sau đó mới có thể đeo lại được.
Cô ngồi xuống nhặt các hạt mã não, vừa nhặt vừa đếm. Mười lăm hạt rồi, còn một hạt nữa mãi không tìm thấy. Shizuka lau mồ hôi trên trán, đúng lúc đó, cô nhìn thấy hạt mã não cuối cùng dưới gầm quầy thu ngân.
Cô khom lưng, thò tay vào khua khoắng, ngón tay đã mấy lần chạm tới hạt mã não nhưng lại đẩy nó ra xa hơn, Cô nằm bò toài dưới đất, thò hẳn cánh tay vào bên trong. Cuối cùng, ngón giữa của cô đã khều được hạt mã não, kéo vào trong lòng bàn tay, nắm chặt. Đúng lúc cô định đứng lên, chợt cảm thấy bị vuốt một cái từ mông xuống gót chân phải, rồi một bàn tay túm lấy cổ chân cô.
Cảm giác lạnh buốt thấu xương, giống hệt như người đàn bà ma quái vừa nãy.
“Á!” Shizuka rú lên, người giật lên theo phản xạ, đầu đập thẳng vào quầy thu ngân, đau đến choáng váng.
Một tờ giấy trắng hình tròn từ trên quầy thu ngân bay vèo xuống trước mặt Shizuka. Nhìn thấy tờ giấy, mắt cô trợn trùng, mặt méo xệch vì kinh hãi, vội vàng bò đến bên tường, quay đầu nhìn lại.
Trong nhà không một bóng người, điều đó càng khiến cô hãi hùng hơn nữa. Cô chỉ ước sao mình nhìn thấy một người đứng đó, cho dù là một tên dê cụ lẻn vào sờ trộm cũng được.
Tờ giấy trắng trên mặt đất chính là tiền mua hoa người phụ nữ áo đen vừa trả, Shizuka tiện tay đặt lên trên quầy. Đó là một tờ tiền giấy trắng tinh.
Hệt như khuôn mặt trắng bệch của người đàn bà đó. Chẳng lẽ bà ta là... Shizuka không dám nghĩ tiếp, tay nắm chặt hạt mã não, cuống quýt khoá cửa lại chạy về nhà.
Kuwabara bỗng thấy hẫng một cái, suýt nữa ngã nhào khỏi chõng trúc. Lau mồ hôi trên trán, mới nhận ra đã nửa đêm, không ngờ anh ta lại ngủ lâu đến vậy.
Anh ta vừa mơ một giấc mơ quái lạ, thấy mình lạc vào một nơi kỳ dị, nhà cửa cao lùng lũng như núi, mặt đất rắn đanh như thép, còn anh ta lại hoá thành một cô gái, trong một gian nhà nhỏ đầy hoa tươi, bán cho những khách hàng ăn vận cổ quái. Ký ức cuối cùng là anh ta nằm bò rạp trên mặt đất, bị ai đó vuốt một cái vào mông.
5
Kuwabara nhớ lại mà rùng mình, vội vàng đứng dậy, vào bếp vớt ra một khúc xương chôn xuống gốc nho, ném thêm củi mới vào lò, rồi mới quay về phòng ngủ.
“Shizuka, sắp sửa tới lễ Vu Lan rồi, xin hãy tha thứ cho anh không có thời gian cúng lễ cho em.” Kuwabara gối đầu lên cánh tay, nhìn mặt trăng bên ngoài cửa sổ, hồi tưởng lại cảnh tượng đáng sợ ngày hôm ấy.
Một năm trước, Shizuka, cô gái xinh đẹp nhất đã lấy Kuwabara, anh ngư dân nghèo nhất. Đây đúng là một sự việc chấn động, tới cả lãnh chúa trong vùng cũng tới tham dự hôn lễ của hai người họ.
Nhìn nhan sắc lộng lẫy của Shizuka, rất nhiều gã đàn ông vừa ngưỡng mộ lại vừa ghen tức, không ai không nghĩ: “Một thằng đánh cá sao lại có phúc lớn đến thế...”
Sau khi kết hôn, hai người sống cuộc đời bình dị, hạnh phúc, Kuwabara đánh cá, Shizuka chăm lo việc nhà. Hơn nửa năm, bụng Shizuka tròn dần, cô đã mang thai. Kuwabara càng chăm chỉ đánh cá, ngày nào cũng thức khuya dậy sớm, do lao lực quá độ nên gầy đến trơ xương.
Đủ ngày đủ tháng, Shizuka lâm bồn, Kuwabara chờ bên ngoài thấp thỏm lo lắng, đi đi lại lại nghe ngóng, nhìn vào trong nhà. Tiếng gào thét thảm thiết của Shizuka khiến anh chỉ muốn xông thẳng vào trong, nhưng rồi vẫn cố kìm lại được.
“Kuwabara... Kuwabara...” Bà đỡ hai tay đầy máu loạng choạng chạy ra khỏi nhà. “Mau... mau đi mời hồ tiên đến giúp! Không thì...”
Hai tại Kuwabara ù đặc. Bà đỡ đã nói như vậy, nghĩa là hai mẹ con lành ít dữ nhiều, đang trong thời khắc thập tử nhất sinh.
“Còn ngây ra đấy làm gì!” Bà đỡ ném ra một tấm khăn đẫm máu. “Mau lên!”
Nói rồi hớt hải chạy vào trong nhà. Shizuka càng kêu la thảm thiết. Qua lớp giấy dán cửa sổ, thấy Shizuka thình lình ngồi bật dậy, đầu tóc rũ rượi, giãy giụa đau đớn như đang phải chịu cực hình khủng khiếp.
Kuwabara nhặt tấm khăn lên, xách theo cái túi vải cắm đầu chạy vào khu rừng cách đó không xa. Đến khi trở ra, anh đi giật lùi, vừa đi vừa lấy đồ trong túi ném xuống đất, cứ thế ném cho tới khi về đến bên cửa sổ, rồi đặt tấm khăn đẫm máu lên bệ cửa sổ, ngồi thu lu ở đó, mắt ngong ngóng nhìn hút vào trong rừng.
Một vệt máu tươi nhỏ giọt từ trong rừng tới bên dưới cửa sổ, là máu con gà sống đã bị chặt làm nhiều mảnh rải khắp dọc đường. Ngay dưới cửa sổ là cái đầu gà, màng mắt xám trắng che kín đôi mắt đầy tử khí, mỏ gà vàng quạch hơi hé mở, để lộ cái lưỡi cứng đờ.
Đột nhiên, từ trong rừng vang lên tiếng sột soạt, cây có lắc lư, những miếng thịt gà sống lần lượt biến mất, nghe loáng thoáng như có tiếng “chít chít”.
Tuy Kuwabara đang hết sức trông đợi thứ đó xuất hiện, nhưng cảnh tượng trước mắt vẫn cứ khiến anh sơn gai ốc. Khi một dãy thịt gà chỉ còn sót lại cái đầu gà, anh cảm giác rõ ràng là có thứ gì đó đang tiến đến bên cạnh, nhưng chẳng nhìn thấy gì cả.
“Hồ tiên, hồ tiên, xin hãy phù hộ cho vợ và con của con bình an.” Kuwabara dập đầu lia lịa khẩn cầu.
“Chít chít... chít chít...”
Lần này anh đã nghe thấy rõ ràng, là tiếng kêu của Con cáo.
Cái đầu gà trên mặt đất đột nhiên bay vọt lên, nảy nảy mấy cái rồi biến mất tăm. Mảnh khăn đẫm máu trên bệ cửa sổ bỗng cháy bùng, ngọn lửa xanh lét lờ mờ có hình con cáo, “soạt” một tiếng chui tọt vào trong nhà.
6
Shizuka một lần nữa kinh hãi bật dậy khỏi giường. Tấm chăn ẩm ướt khiến người cô lạnh buốt, lập cập lần sờ công tắc đèn, mở mắt nhìn, rõ ràng vẫn là căn phòng quen thuộc.
Chuyện quái dị xảy ra trong tiệm hoa khiến cô càng nghĩ càng sợ hãi, về đến nhà không cả dám tắm, chỉ kịp vơ vội lấy tấm chăn trên bệ cửa sổ trùm kín đầu, dường như làm vậy có thể khiến cô an tâm hơn một chút. Cảm giác ngột ngạt trong chăn khiến cô hít thở khó khăn, đầu óc mụ mị rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Trong giấc mơ, cô lại một lần nữa mơ tiếp giấc mơ tối qua. Trong mơ cô biến thành một ngư phủ, đang thấp thỏm đợi người vợ yêu sinh nở.
Chuyện gì thế này?
Nghe nói có một triệu chứng tâm thần phân liệt là lúc ngủ liên tục mơ cùng một giấc mơ giống nhau, nhưng cô lại mơ một giấc mơ nối liền, cứ thiếp đi là biến thành anh ngư dân Kuwabara, mơ một giấc mơ thời Edo.
Đột nhiên, cô sực nhớ ra một chuyện, lập tức chạy lao vào nhà tắm soi gương. Nốt ruồi màu đỏ trên cổ đã to hơn tối qua một chút, còn mọc ra mấy sợi lông cực mạnh, càng nhìn càng thấy giống một bộ mặt đàn ông.
Cô ở trong gương, khuôn mặt trắng bệch, mắt vằn vện tia máu, hai hốc mắt thâm quầng, đôi môi tím tái, run rẩy. Đột nhiên, mặt gương cứ như thể mặt hồ bị ném đá, gợn lên từng vòng sóng. Sau những lằn sóng gợn dập dềnh, cô thấy bộ mặt mình trong gương đang nhanh chóng biến đổi.
Mái tóc dần rụng trụi, lộ ra cái trán trọc bóng, xương gò má từ từ nhô cao, lông mày rậm dần, trên cằm mọc ra chân râu dày đặc, tóc sau đầu tự động nhấc lên, cuốn thành một búi.
Trong gương là một người đàn ông!
Người đàn ông trong giấc mơ - Kuwabara!
Shizuka gần như chết lặng, hai mắt trùng trùng nhìn vào mặt gương. Cô không tin nổi vào mắt mình, vội đưa tay sờ lên mặt. Làn da cô vẫn nhẵn nhụi không hề có cảm giác của chân râu. Thế nhưng, người đàn ông trong gương cũng đang sờ tay lên cái cằm chân râu lởm chởm.
Nốt ruồi đỏ dưới cổ đã lan rộng bằng quả táo tàu.
“Á!” Shizuka rú lên một tiếng kinh hoàng, vớ ngay con dao cạo lông, thẳng tay cạo vào nốt ruồi. Cô không còn biết đâu là gì, cứ thế cạo lấy cạo để.
“Sốt”, một mạch máu bị cứa đứt, máu tươi phụt lên mặt gương tung toé, rồi chảy xuống nhễ nhại, giọt nọ rối vào giọt kia, dày đặc như một chùm nho.
Hình ảnh trong gương lại nảy sinh biến hoá. Hàng loạt hình ảnh vùn vụt chạy qua như bộ phim tua nhanh. Ánh mắt Shizuka bắt đầu mờ mịt, hơi thở hổn hển, cuối cùng ngã vật xuống nền nhà tắm lạnh ngắt, máu đọng thành vũng dưới cơ thể.
“Kiếp này không gặp, xin chờ kiếp sau.” Shizuka thì thào trong cơn mê sảng. Cổ cô ngoẹo sang một bên, hai mắt trợn trừng nhìn về phía bệ cửa sổ. Ở đó có một gốc nho tươi tốt.
7
Kuwabara giật mình choàng tỉnh. Anh lại mơ thấy mình biến thành một cô gái, ở trong một ngôi nhà lạ lùng khám đầy ngọc trắng, nhìn vào một vật kỳ quái có thể phản chiếu rõ ràng hình ảnh của chính mình, sau đó cầm lên một con dao nhỏ, tự cứa vào cổ mình đến đứt mạch máu.
Kuwabara run lẩy bẩy. Vốn là một người đầu óc đơn giản, anh ta không suy nghĩ được quá nhiều, chỉ vô thức sờ lên nốt ruồi đỏ trên cổ, dường như thấy hơi nhói đau. Ngoài cửa sổ, trời xanh ngắt, hôm nay là lễ Vu Lan.
Kuwabara siết chặt nắm tay, trong ánh mắt vụt lóe lên một tia thù hận. Anh cầm làn ra sân, đưa tay hái nho. Mỗi khi một chùm nho bị ngắt đứt, dây nho khẽ run lên như đau đớn, từ chỗ đứt chảy ra dòng nhựa xanh thẫm, giống như máu của cây nho.
Các võ sĩ trung thu nho đã hùng hổ xuất hiện trên đường phố. Cơn mê thích của lãnh chúa với quả nho đã đến mức phi lý. Ngày nào hắn cũng ăn nho, ăn rất nhiều, tới mức hàm răng lúc nào cũng dính đỏ nước nho, đỏ lừ như máu.
Kuwabara phủ phục dưới đất, nhìn đám võ sĩ khiêng làn nho đi, trên mặt lướt qua một nét cười khó đoán.
“Kuwabara, nho nhà người trồng năm nay đẹp lắm! Chắc chắn lãnh chúa sẽ thưởng hậu cho ngươi.” Một võ sĩ gõ bao kiếm lên đầu Kuwabara.
Kuwabara vội dập đầu: “Đây đều là công lao của các đại nhân, nếu tiểu nhân được ban thưởng, tuyệt đối không dám quên ơn cất nhắc của đại nhân.”
“Hoá ra ngươi cũng thông minh đấy chứ.” Đám võ sĩ cười rộ lên. “Mà Shizuka chết cũng một năm rồi, mau tìm một cô vợ khác đi.”
“Vâng... vâng...” Kuwabara đáp.
8
Đối với quý tộc, bất cứ ngày lễ nào cũng sẽ trở thành buổi tiệc linh đình, cho dù là lễ cô hồn - lễ Vu Lan.
Yến tiệc trong phủ lãnh chúa tưng bừng náo nhiệt, rất nhiều võ sĩ đều đến tham dự. Đương nhiên không thể thiếu được nho, món hoa quả quý hiếm được lãnh chúa ưa chuộng nhất. Được các võ sĩ tiến cử, đương nhiên là nho nhà Kuwabara đã có được cơ hội này.
Từng quả nho lớn mọng nước, thơm ngọt, vừa bỏ vào miệng, tất cả mọi người đều tấm tắc khen ngợi, nháy mắt đã ăn sạch sành sanh. Yến tiệc tiếp tục kéo dài tới tận đêm khuya, đám quý tộc, võ sĩ uống tới say mèm, lảo đảo về nhà.
“Fujima, yến tiệc hôm nay thực tuyệt!”Hanagata miệng đầy hơi rượu.
Fujima cười hềnh hệch: “Tiếc quá Shizuka chết mất rồi, nếu không thì sáng mai ta sẽ...”
“Ha ha, thế mà lại đi lấy cái thằng Kuwabara khố rách áo ôm, ha ha...” Hanagata phá lên cười lớn, nhưng rồi đột nhiên lại gập lưng nôn thốc nôn tháo.
Fujima lên giọng: “Này, tửu lượng của ông sao hôm nay kém thế!”
Hanagata nôn oẹ mỗi lúc một dữ, đồ ăn trộn lẫn rượu tuôn ra ồng ộc, bốc mùi lợm giọng.
Fujima bịt mũi, nhưng không chịu nổi cũng nên theo. Hanagata nên đến mật xanh mật vàng, tới khi dạ dày rỗng tuếch rồi mới thấy dễ chịu chút đỉnh. Đang định đúng thẳng dậy, bỗng cảm thấy có thứ gì đó từ trong dạ dày bò lên thực quản, khiến hắn lại tiếp tục phải nôn oẹ.
Hắn oẹ ra một cục máu, rồi lại một cục nữa. Hanagata trợn trùng cặp mắt say rượu, sợ đến chết điếng.
Những cục máu vừa nôn ra, trông giống hệt như gan và thận.
Hắn đã nôn ra cả nội tạng? Bụng vẫn đau quặn dữ dội, hắn lại tiếp tục bẹ ra từng đống máu me.
Những cục máu rơi trên nền đất, run rẩy, vặn vẹo, biến hoá một hồi, trong hệt như những bộ mặt người.
Là khuôn mặt của Shizuka, thiếu phụ xinh đẹp đã chết một năm về trước!
“Á!” Hanagata rú lên kinh hoàng, cơ thể mềm nhũn, đầu đau như búa bổ, cảm giác như hộp sọ đang phồng lên mỗi lúc một to như quả bóng thổi căng sắp vỡ đến nơi.
Thứ cuối cùng hắn nhìn thấy được là Fujima cũng đang nôn ra từng đống nội tạng, cái đầu căng lên, tròn xoe, bóng loáng, mắt mũi mồm miệng đã thật sâu vào trong lớp da căng phồng, giống như đội một quả nho khổng lồ trên cổ.
Bụp!
Bụp!
Hai tiếng nổ trầm trầm vang lên, đầu của hai võ sĩ đã nổ tung. Hai cái xác không đầu lảo đảo mấy cái rồi đổ vật xuống. Xung quanh vung vãi những nội tạng đẫm máu, đều mang khuôn mặt căm thù của Shizuka.
Hôm sau, khắp huyện bàn tán sôi nổi, nghe nói rất nhiều võ sĩ đã trúng lời nguyền ác quỷ trong lễ Vu Lan, nôn ra nội tạng, đầu vỡ tung mà chết. Trong đó, có cả tướng quân lãnh chúa mê thích ăn nho!
Các võ sĩ còn sống sót sợ hãi truy tìm nguyên nhân, và nghĩ tới Kuwabara. Khi họ xông vào nhà Kuwabara, thấy anh ta đã tự trói mình vào gốc nho, tay cầm một ngọn đuốc, mỉm cười châm vào thân nho.
Tiếng mỡ cháy xèo xèo vang lên, cây nho cứ như đã được tưới mỡ nóng, nhanh chóng bén lửa, bốc cháy ngùn ngụt. Đám lửa dữ dội trùm lấy Kuwabara, chẳng mấy chốc, anh ta đã biến thành cái xác cháy đen.
Cây nho cũng cháy thành than. Trong đống tro tàn, đám võ sĩ giật mình trông thấy những gốc nho đang quấn quanh một cái đầu lâu.
Sau khi lục soát khắp nhà, thấy trong bếp có một cái nồi to đang sôi ùng ục, trong nồi đang hầm canh thịt. Một võ sĩ cầm vợt múc lên được một khúc xương, vừa nhìn đã rú lên kinh hãi ném vội đi. Hoá ra là một khúc xương sườn của người.
9
Một năm trước đó, trong lúc Kuwabara đang lạy lục cầu xin hồ tiên phù hộ cho vợ và con, bỗng thấy bà đỡ từ trong nhà đi ra, nước mắt đầm đìa: “Kuwabara, Shizuka và đứa bé... đều đã chết rồi.”
Kuwabara giống như sét đánh ngang tai, ngã khuỵu xuống đất.
“Kuwabara, có lẽ anh đã cầu xin không đúng cách rồi. Vừa nãy tôi nghe anh cầu khấn hồ tiên phù hộ cho vợ và con anh bình an. Có lẽ đứa bé không phải là con anh, nên hồ tiên mới không cứu!”
Nghe vậy, Kuwabara lại chết điếng thêm lần nữa! Anh nhớ đến những ngày đi đánh cá miệt mài, khi quay về nhà, Shizuka tuy vui vẻ đón anh, nhưng khóe mắt đỏ hoe như khóc.
Ngôi làng anh nghèo xơ nghèo xác, vốn dĩ chẳng có quý tộc nào lui tới. Nhưng sau khi anh cưới Shizuka, tướng quân lãnh chúa lại đi lại dập dìu.
Anh đã hiểu ra!
“Kuwabara, tôi có một cách này giúp anh báo thù!” Bà đỡ lau bàn tay đẫm máu vào tấm khăn, nghiến răng nói. “Anh hãy trồng một cây nho...”
10
Một người đàn ông điển trai đứng trước thi thể lạnh ngắt của Shizuka, lặng lẽ nhìn cảnh tượng trong gương. Sắc mặt anh ta vô cùng lạnh lẽo, nhưng người phụ nữ đứng cạnh lại bật khóc.
“Kuroba, thế này có tàn nhẫn quá không?” Người phụ nữ nghẹn ngào.
“Tsukino, đây là chức trách của thầy âm dương chúng ta.” Người đàn ông đi ra ban công, túm lấy cây nho nhỏ lên. Chùm rễ xùm xòa như bộ tóc rối đang quấn quanh một cái đầu lâu. “Mong cho hai người kiếp sau gặp lại!”Anh ta lấy ra một tờ giấy trắng, dính lên hộp sọ của cái đầu lâu.
Cái đầu đột nhiên chuyển động, nhảy lên tưng tưng, nhưng không thể giật khỏi đám dây nho, đất ẩm rơi xuống rào rào. Cuối cùng, cái sọ co lại thành một cục đen sì, treo lủng lẳng trên rễ nho.
“Liệu có phải do tập đoàn Orient yểm bùa không?” Cô gái lau nước mắt. “Vì cửa hiệu của Shizuka?”
“Cũng có khả năng. Một thời gian trước, không biết là ai đặt cây nho này trước của nhà Shizuka, nên Shizuka mang vào nhà trồng. Chúng ta tới muộn quá.” Kuroba đặt lại cây nho vào trong chậu, đi đi lại lại ngoài ban công. “Không được phơi quần áo ban đêm, chăn phơi ban ngày cũng không nên phơi đến tận tối, dễ khiến ma quỷ lầm tưởng là phướn chiêu hồn mà nhập vào. Đắp chăn ấy đi ngủ, rất dễ bị bóng đè, mơ thấy kiếp trước; mặc thứ quần áo này, ban ngày sẽ thấy lạnh lẽo, nhìn thấy nhiều thứ không nên nhìn thấy.”
“Không ngờ tập đoàn Orient lại dùng thủ đoạn tàn độc như vậy chỉ vì một mảnh đất!” Tsukino cắn môi. “Tôi sẽ không tha cho họ!”
“Không còn thời gian nữa đâu. Người đàn bà bị rạch miệng Kuchisake-onna đã tới Miyajima, Jack đã xuất hiện ở Kanagawa, còn rất nhiều việc cần chúng ta làm.” Kuroba trầm lặng nói. “Trách nhiệm của thầy âm dương là bảo vệ con người chứ không phải là làm hại con người, cái quy tắc chết tiệt này thật đúng là trói chân trói tay người ta.”
1
Khu Ginza, Tokyo.
Trên khu vực đắt đỏ có tiếng “một dấu chân tương đương một tháng tiền lương của quan chức chính phủ cấp cao” này, Ito-ya, một trong các thành viên của câu lạc bộ các cửa hiệu trăm năm tuổi, trông hết sức nghiêm trang. Logo hình chiếc ghim kẹp tài liệu đỏ rực bắt mắt trông rất nổi bật trên con phố rực rỡ ánh đèn, tăng thêm vài phần yên tĩnh cho khu phố ăn chơi đốt tiền này.
Cửa hiệu cao chín tầng, có hơn trăm ngàn chủng loại văn phòng phẩm, không thiếu thứ gì. Quy mô đồ sộ khiến cho Ito-ya được mệnh danh là “viện bảo tàng giấy”, thậm chí các fan truyện tranh Nhật Bản cũng phải công nhận, “không có dụng cụ vẽ của Ito-ya thì không có Manga”.
Ogawa Seiko hài lòng xách túi dụng cụ vẽ mới mua đi vào thang máy, bấm nút xuống bãi đỗ xe. Là tác giả truyện tranh mới vào nghề, vừa giành được giải thưởng tác giả mới xuất sắc nhất trong giải thưởng văn hoá Osamu Tezuka, nên cô cũng đủ tư cách và vốn liếng để tới đây mua những dụng cụ vẽ cao cấp giá đắt khủng khiếp.
Sự thành công khiến cô hân hoan, nên cô không để ý rằng cửa hàng tuy tấp nập người mua nhưng lại chỉ có một mình cô đi thang máy.
Cho tới khi thang máy bắt đầu chạy, phát ra tiếng ken két do dây cáp cọ vào trục, Seiko vốn mắc hội chứng sợ hãi không gian hẹp mức độ nhẹ mới phát hiện ra sự việc bất thường.
Rõ ràng vừa nãy có rất nhiều người đi về phía thang máy, sao lại chẳng có ai? Seiko băn khoăn ngẩng đầu nhìn cánh của kim loại sáng bóng như gương, phản chiếu hình bóng gầy gầy của cô, mớ dụng cụ vẽ ôm khư khư trước ngực như đang thủ thế trước cú tấn công của thứ gì đó.
Bảng hiệu hiển thị tầng tám, cánh của âm thầm trượt về hai phía, bên ngoài trống trơn không một bóng người. Càng lạ hơn nữa là rõ ràng chưa tới giờ đóng cửa, nhưng tầng tám đã tắt điện tối om. Hơi lạnh ập thẳng vào khiến Seiko rùng mình ớn lạnh, cảm giác từng sợi chân lông đều dựng đứng lên. Ánh sáng yếu ớt trong thang máy chiếu ra chênh chếch, khiến cho bên ngoài trông càng đen ngòm đáng sợ.
“Chẳng lẽ gặp ma?” Là tác giả truyện tranh, Seiko đã từng dùng trí tưởng tượng phong phú để khắc hoạ ra rất nhiều tình tiết ma mãnh. Giờ cả tầng nhà rộng lớn tĩnh mịch chỉ có một mình cô, trong đầu cô lập tức tưởng tượng ra đủ thứ đáng sợ. Cô vội vàng ấn nút đóng cửa, nhưng thang máy cứ như đã hỏng hóc ở đâu, nhất quyết không chịu khép vào.
Đúng lúc cô đang định bấm nút sự cố, thì toàn bộ đèn tầng 8 đồng loạt bật sáng. Ánh sáng mạnh khiến cô chói mắt, nước mắt ứa ra. Cô loáng thoáng nhìn thấy mọi người vẫn đang nhộn nhịp chọn mua văn phòng phẩm, còn nghe cả tiếng người ta bàn bạc sôi nổi với nhau...
“Chẳng lẽ vừa rồi là ảo giác? Chắc tại gần đây mệt mỏi quá! Giao xong bản thảo lần này, sẽ phải dành ra vài ngày để nghỉ ngơi cho tử tế mới được!” Seiko vuốt ngực, vẫn còn chưa hết sợ.
Cửa thang máy cũng đã đóng lại bình thường, Seiko lùi lại mấy bước, dựa sát vào vách trong thang máy. Qua khe cửa hẹp dần, cô bỗng cảm thấy những người đang mua sắm trông hơi bất thường, nhưng bất thường ở chỗ nào, cô lại không nói ra được. Đến khi chỉ còn sót lại một khe hở bé xíu, một bàn tay gầy đét và trắng bệch bỗng thọc vào.
Cửa thang máy lại mở ra.
Sự thể đột ngột khiến cho thần kinh căng thẳng của Seiko không chịu đựng thêm được nữa, cô buột miệng hét toáng lên.
Một phụ nữ bế con đúng ngày ra trước của thang máy, đứa bé khóc ầm lên vì sợ. Seiko trấn tĩnh lại, xấu hổ cúi rạp người xin lỗi: “Xin lỗi chị! Bởi vì tôi mắc hội chứng sợ thang máy.”
Người mẹ mỉm cười gật đầu tỏ ý thông cảm. Chị ta khẽ hát một khúc dân ca, đứa trẻ nhanh chóng nín khóc. Hình ảnh này khiến Seiko cảm thấy ấm lòng, nghĩ lại phản ứng của mình hồi nãy, thật là thất thố.
Người mẹ khẽ hỏi: “Trông cô quen lắm, hình như tôi đã gặp cô ở đâu rồi thì phải. Cô là hoạ sĩ truyện tranh phải không?”
Seiko nghe vậy thì có chút tự hào, bèn kể ra những tác phẩm của mình. Người mẹ mắt vụt sáng: “Con trai tôi thích truyện của cô lắm, cô có thể ký tặng tôi một chữ được không?” Nói rồi đặt ngay đứa bé xuống đất, lấy từ trong túi ra một cuốn sổ tay.
Hành động này khiến Seiko hơi khó chịu, cô miễn cưỡng ký tên lên cuốn sổ người mẹ chìa ra.
“Cuốn sổ tay cũ rích thế này, cứ như từ thế kỷ trước ấy, chắc gia cảnh cũng chẳng ra sao”. Seiko thầm nghĩ, trên mặt mỉm một nụ cười xã giao.
Người mẹ cẩn thận cất cuốn sổ đi rồi lại bế đứa bé lên. Mắt đứa bé mở to, đôi mắt đen như than nhìn Seiko không chớp.
Seiko thấy nó đáng yêu liền đưa tay vuốt khẽ lên khuôn mặt nhỏ, trắng trẻo của đứa bé.
Cảm giác ở đầu ngón tay lạnh ngắt, cứng đờ, hoàn toàn không thấy hơi ấm, cứ như cô vừa sờ vào một miếng nhựa. Seiko ngạc nhiên nhìn kỹ lại, phát hiện thứ chị kia đang bế trong tay là một con búp bê hình người.
Nước da bằng silicon giống y như thật, nhưng con người bằng nhựa cứng thì hoàn toàn không có sức sống, hai bên khoé miệng có hai rãnh thẳng rất nhỏ, có thể khiến cái miệng há ra ngậm vào.
Con búp bê lại khóc lên oe oe. Người mẹ vội dỗ dành: “Taro ngoan, về nhà mẹ làm bánh nếp ngon cho con ăn.” Seiko kinh hãi. Chẳng lẽ chị ta bị tâm thần, hay con trai chết rồi nên tưởng lầm con búp bê là con mình?
Những búp bê thì làm sao biết khóc?
Nỗi sợ hãi khiến máu cô như đông cứng, dạ dày có thắt lại đau quặn.
Rất nhanh, thang máy đã xuống tới tầng một, cánh của trượt mở, người mẹ đi ra khỏi thang máy, đột nhiên lại quay người lại, cúi rạp người cảm ơn Seiko, lúc này đang mặt mũi tái nhợt tựa sát vào vách trong thang máy: “Cảm ơn, làm phiền mọi người quá!”
Một khúc cánh tay đen gầy như than củi thò ra khỏi tã, vẫy tay tạm biệt cô.
Tình cảnh này khiến cô suýt chút nữa chết ngất vì khiếp sợ.
Người mẹ bế con búp bê đã biến mất trong tầm mắt của Seiko. Cô lúc này hai chân mềm nhũn, ngã ngồi xuống sàn thang máy. Cô không còn dám đi tiếp xuống tầng hầm lấy xe nữa. Khoảng không gian nhỏ hẹp vẫn khiến cô sợ hãi, giờ đây lại là nơi khiến cô cảm thấy an toàn nhất.
Lúc này cô đã hiểu ra, những người trên tầng tám vừa nãy bất thường ở chỗ nào.
Khi bọn họ đi lại, hai chân không hề bước, mà giống như trôi bồng bềnh trên mặt đất...
Bài dân ca người mẹ vừa hát, giờ cô cũng đã nhớ ra, đây là khúc hát đưa tang mà người nhà quê thường hát trong đám ma. Và nhớ đến câu cuối cùng của người mẹ, cô lại càng mất hồn mất vía:
“Cảm ơn, làm phiền mọi người quá.”
Trong thang máy rõ ràng chỉ có một mình cô, tại sao chị ta lại nói là “mọi người”?
Lẽ nào, còn có ai khác mà cô không nhìn thấy?
Đèn thang máy bỗng tắt phụt, hai cánh cửa sập lại, từ bên trong vọng ra một tiếng thét yếu ớt.
2
“Nakamata, muộn thế này còn tới đây, không sợ gặp ma à?” Morikawa làu bàu hỏi, nhưng vẫn hăng hái đi vào cửa hàng Ito-ya.
“Morikawa, nghe nói là tới đêm khuya, các tác giá truyện tranh nổi tiếng sẽ đeo khẩu trang tới cửa hàng Ito-ya mua dụng cụ vẽ tranh. Khéo lại gặp được Aoyama Gosho ở đây đấy! Tớ rất muốn biết kết cục của truyện Conan thế nào. Với lại ở nông thôn mới có ma, chỗ này thì ma ở đâu ra?”
“Tớ thì chỉ mong gặp được Miyazaki Hayao, ước gì ông ấy tặng cho tớ một cô bạn xinh đẹp như Chihiro thì tốt biết mấy.
“Đợi chúng ta lớn hơn chút nữa, chúng ta sẽ có thể thu thập ngọc rồng, gọi rồng thần ban điều ước cho chúng ta!”
Hai đứa trẻ vừa trò chuyện vừa bấm nút thang máy.
Cửa thang máy mở ra. Một cô gái xinh đẹp nhỏ nhắn ôm khư khư mớ dụng cụ vẽ đắt tiền trong lòng, tựa vào tận góc thang máy, mái tóc xõa dài che khuất mặt, lờ mờ nhìn thấy cô ta đeo khẩu trang hình thuỷ thủ mặt trăng.
Nakamata và Morikawa nhìn nhau, thầm nghĩ khéo đây lại là một tác giả truyện tranh nổi tiếng nào đó cũng nên, bởi vậy đều mở to mắt nhìn kỹ.
Đột nhiên, cô gái ngẩng đầu lên, đôi mắt đẹp nheo tít lại trong một nụ cười, cất giọng dịu dàng hỏi: “Cô có đẹp không?”
“Đẹp...” Nakamata cảm giác đôi mắt cô ta giống như hai cơn lốc xoáy, hút linh hồn cậu vào trong.
“Cô có đẹp không?” Cô gái thấy Morikawa không trả lời, thì lại hỏi.
Morikawa bất giác run rẩy, cảm thấy cô ta có gì đó rất quái dị, nên miệng lưỡi cứng lại không thốt lên nổi một lời.
“Cô có đẹp không?” Cô ta giận dữ gầm lên, ánh mắt lóe lên những tia hung hãn.
“Đẹp... đẹp...” Morikawa lắp bắp, tay níu chặt lấy áo Nakamata. Nhưng Nakamata cứ đứng đờ ra như mất hồn.
“Các cháu ngoan lắm.” Cô gái phá lên cười khanh khách, tiếng cười từ sau lớp khẩu trang nghe thật ma mị.
Morikawa thở phào, thầm nghĩ cô kia chắc chẳng phải tác giả truyện tranh, khéo là người thần kinh cũng nên.
Cô gái đưa bàn tay lên tai, chầm chậm tháo quai đeo khẩu trang xuống: “Vậy thế này có đẹp không?”
3
Dòng người mua sắm, dạo phố, chụp ảnh trên con phố trung tâm khu Ginza ngạc nhiên phát hiện ra, Ginza vốn được mệnh danh là thành phố không bao giờ ngủ, lại có một toà nhà đột nhiên mất điện.
Và cái logo hình ghim kẹp tài liệu khổng lồ màu đỏ trở nên bắt mắt đến lạ lùng trong bóng tối, tấm biển “Ito-ya” giống như ngọn lửa ma trơi mỗi lúc một tối dần, cuối cùng mất đi khí thế, chớp nháy hấp hối thêm vài cái nữa rồi tắt phụt.
Còi xe cảnh sát rú lên chói tai trong khu phố, xé toạc ra một con đường từ trong đám đông, tiếp đó tiếng lốp xe ma sát với mặt đường ken két nghe mà rợn tóc gáy. Bốn chiếc xe cảnh sát bít bùng đỗ xịch trước cửa Ito-ya. Cảnh sát rào rào nhảy xuống, chăng dây cảnh giới, chia ra xung quanh bảo vệ hiện trường nghiêm ngặt.
Mất điện mà cũng kinh động đến cảnh sát sao?
Phóng viên săn ảnh trên phố lập tức đánh hơi được nơi này đã xảy ra chuyện lớn, đua nhau xách máy ảnh chạy lại, đèn flash chớp loé không ngừng. Chiếc xe cảnh sát cuối cùng mở cửa, từ bên trong bước ra một ông già tuổi chừng năm mươi, vóc dáng thấp lùn quắc thước, sắc mặt giận dữ. Nhưng lạ là ở chỗ ông ta không mặc đồng phục cảnh sát mà mặc tấm áo kimono kiểu cũ, vạt trước dính một mảng màu đỏ loà trong vô cùng rùng rợn.
Bước xuống sau ông là một nam một nữ, lại càng khiến người ta kinh ngạc hơn nữa.
Người thanh niên cao khoảng mét tám, thân hình gầy gò bọc kín trong bộ quần áo đen. Nếu không phải là cái mũi hơi khoằm thì trông chẳng khác nào diễn viên nổi tiếng Takuya Kimura thời trẻ, tóc mái để dài hớt chéo che khuất hẳn mắt trái, sắc mặt trắng bệch lạnh lẽo như bằng, khiến người ta nhìn vào cảm thấy rất khó chịu. Cô gái đeo kính không gọng, mái tóc gợn sóng màu nâu nhạt hờ hững rủ xuống trước ngực, khuôn mặt đẹp đến hoàn hảo, cặp chân thon dài thẳng tắp.
Ba con người lạ lùng này đúng cùng một chỗ càng khiến cho đám đông thêm tò mò. Ông già khinh khỉnh liếc nhìn những ánh mắt hiếu kỳ, “hùm” một tiếng rồi nói: “Anh Kuroba, xử lý việc này đi.” Nói xong, quay đầu đi thẳng vào Ito-ya.
Người thanh niên áo đen dừng lại, nghiêm trang đưa mắt nhìn những người đứng ở bên ngoài vòng dây cảnh giới một lượt, rồi mới cùng cô gái chân dài đi vào trong.
4
“Khốn kiếp!” Okawa Yuji giận dữ đập bàn. “Hôm nay ai trực ban? Tại sao lại để xảy ra chuyện thế này? Thật là nhục nhã!”
Hai nhân viên bán hàng của Ito-ya đúng cúi gằm mặt trước cửa, liên tục khom lưng nói: “Xảy ra chuyện này là lỗi của chúng tôi. Xin ngài cứ trách phạt chúng tôi!”
Okawa Yuji lau vết bẩn trên ngực: “Đây là rượu Lafite từ năm 1974 đấy, ta thèm lâu lắm rồi! Thế mà đổ tung toé thế này đây!”
Cô gái được phì cười thành tiếng, thấy Okawa Yuji giận dữ trừng mắt nhìn, cô liền le lưỡi nói: “Thưa sếp, cháu đi khám nghiệm tử thi ngay đây.”
“Ừm!” Okawa Yuji có vẻ cũng bó tay trước cô gái chân dài. “Anh Kuroba đi cùng với Tsukino. Đảm bảo an toàn đấy.”
Tsukino Kiyoe bĩu môi: “Cháu không thích làm việc cùng một kẻ vô cảm đâu!”
Kuroba mặt lạnh bằng đi trước, Tsukino đành phải miễn cưỡng xách túi khám nghiệm tử thi lên, huỳnh huỵch đi ra khỏi phòng.
“Báo cáo đi!” Okawa Yuji thở hắt ra, chán nản ngồi phịch xuống ghế. “Tại sao hôm nay nơi này lại trở thành chỗ trú ngụ của ác quỷ thế: Chiếc ghim màu đỏ đã mất hiệu lực rồi sao? Đó chính là tác phẩm kiệt xuất nhất từ hậu duệ của đại sư phong thuỷ Abe Seimei đấy!”
“Chiếc ghim màu đỏ đã mất hiệu lực rồi.” Người vệ sĩ cải trang làm nhân viên bán hàng cầm điều khiển lên, bật chiếc ti vi cỡ lớn treo trên tường. “Đây là dữ liệu trích xuất từ camera giám sát. Phát hiện ra chiếc ghim mất hiệu lực, chúng tôi lập tức thông báo ngừng kinh doanh để sửa chữa, nhưng do sơ tán người mua hàng quá vội vàng, vẫn để cho hai cậu bé lọt vào, gây ra hậu quả nghiêm trọng.”
Okawa Yuji không quan tâm tới lời giải thích của vệ sĩ, chăm chú nhìn vào dữ liệu camera giám sát.
Trên màn hình, trong đám đông ồn ào huyên náo, lờ mờ thấy mấy bóng người nước da trắng bệch, môi đỏ chót, mắt vàng ệch lắc lư đi xuyên qua cơ thể khách hàng tiến ra phía cửa. Những khách hàng bị chúng xuyên qua đều rùng mình ớn lạnh, dừng lại ngơ ngác.
Đương nhiên, để thấy được những hình ảnh này, camera của họ không phải là loại bình thường. Nhật Bản sở hữu những công nghệ vượt bậc, chế tạo được loại máy quay phát hiện linh hồn cũng chẳng phải chuyện quá ngạc nhiên. Mười tấm ảnh linh hồn nổi tiếng thế giới đều được chụp bởi những thiết bị quay phim chụp ảnh sản xuất từ Nhật Bản.
Số lượng các bóng trắng trong khung hình mỗi lúc một nhiều, có người mẹ ôm đứa con búp bê, có bạch cốt tinh trơ khung xương trắng, tất cả đều đổ dồn về phía cửa. Okawa Yuji đột nhiên nhảy dựng dậy, giằng lấy điều khiển, bấm nút tạm dừng.
Ở sát khung hình, một người đàn ông ngoại quốc với mái tóc vàng kim, vóc dáng cao lớn ngửa đầu nhìn về phía camera giấu kín, mim một nụ cười ma quái, đưa tay làm từ thế bắn súng, miệng “pằng” một tiếng, làm bộ bắn vào camera, rồi lại đặt ngón trỏ lên môi thổi khẽ...
Hình ảnh lập tức trở nên nhiễu loạn.
“Chính vào thời điểm này, vật trấn đã bị vô hiệu.” Vệ sĩ khẽ nói.
Okawa Yuji tua lại đoạn video, xem đi xem lại mấy lần, sắc mặt càng lúc càng tái xanh tái mét.
Rắc! Chiếc điều khiển đã bị bóp nát trong tay
Okawa Yuji. “Jack, nghi phạm của vụ án hút xác ở trung tâm thẩm mỹ Kami tại Kanagawa!” Okawa Yuji gầm lên. “Ta nhất định phải bắt được hắn!”
Hai vệ sĩ đưa mắt nhìn nhau. Đúng lúc đó, trong phòng chúa xác ngay bên cạnh vọng lại tiếng kêu rú kinh hoàng của Tsukino Kiyoe.
5
Okawa Yuji xông vào phòng chứa xác tạm thời. Nằm trên bàn giải phẫu tử thi là một thi thể phụ nữ đã đượC giải phẫu, vết mổ chạy thẳng tắp từ cổ xuống bụng, hai mép thịt banh sang hai bên, phơi ra hai mảng xương sườn máu me. Hai khoé miệng của nạn nhân bị rạch tới tận mang tai, vết rách máu thịt bầy nhầy, gân cơ lẫn lộn.
Tsukino Kiyoe tay cầm dao mổ, ngồi thu lu trong góc tường run rẩy, còn Kuroba đứng đấy, mặt mũi tỉnh queo.
Okawa Yuji tiến lại gần thi thể, mùi hôi thối bốc lên khủng khiếp khiến ông phải bịt mũi lại. Ông cúi xuống sát vết mổ, quan sát nội tạng. Vệ sĩ cũng theo ông vào, vừa nhìn thấy cảnh này đã hồn vía lên mây, cắm đầu chạy vội ra ngoài nôn oẹ.
Nội tạng của người phụ nữ rất hoàn chỉnh, không bị tổn thương, nhưng Okawa Yuji phát hiện ra bề mặt tim và phối xuất hiện hai khuôn mặt kinh hãi của trẻ con. Ông thận trọng đưa tay vạch miệng thi thể, kéo lưỡi ra, trên mặt lưỡi quả nhiên cũng có một bộ mặt, trông thanh tú như của một cô gái.
“Đâu có gì đáng kinh hãi, chỉ là dấu hiệu cho thấy người đàn bà bị rạch miệng vừa nuốt chửng người ta thôi mà!” Okawa Yuji nói. “Tsukino, sao cô phải hoảng hốt đến thế?”
Tsukino Kiyoe chỉ vào cái xác, lắp bắp không nên lời. “Đây không phải là khuôn mặt của thi thể, mà là sau gáy.” Kuroba bình thản đáp.
Okawa Yuji ngây ra một thoáng, rồi nhanh chóng lật ngược cái xác lại. Bên dưới mái tóc dài rối bù, lờ mờ nhìn thấy còn một khuôn mặt nữa.
Bàn tay Okawa Yuji khựng lại một thoáng, rồi mới do dự vạch tóc ra. Khuôn mặt này méo xệch vì kinh hãi cực độ, hai con mắt trợn trừng như muốn bật khỏi hốc mắt, miệng há hốc như vẫn đang gào rú tuyệt vọng.
“Ogawa Seiko, tác giả truyện tranh mới nổi.” Kuroba giải thích.
“Khốn nạn!” Okawa Yuji giận dữ kêu lên. “Ta còn đang đợi tác phẩm tiếp theo của cô ấy!”
Kuroba rút từ trong túi ra chiếc máy tính bảng, trượt vuốt nhoay nhoáy: “Nhưng tôi cảm thấy sự việc không đơn giản như vậy. Theo thông tin mới nhận được, chiều hôm qua, Ogawa Seiko đã cùng một người đàn ông ngoại quốc có ngoại hình rất giống Jack cùng thuê phòng ba tiếng đồng hồ ở một khách sạn trong khu Ginza.”
“Nói tiếp đi!” Okawa Yuji chắp tay sau lưng giục.
Tsukino Kiyoe chợt nói chen vào: “Theo như nguồn tin đã biết, trước đây Jack từng làm chuyên viên tư vấn tâm lý cho đại học Chiang Mai, Thái Lan, hắn có khả năng thôi miên cực mạnh. Cho nên... cho nên...”
“Đừng có lãng phí thời gian vào việc lắp bắp nữa!”
Tsukino Kiyoe đằng hắng: “Cháu suy đoán rằng, Jack đã lợi dụng thuật thôi miên để tác động lên Ogawa Seiko, khiến cô ấy ngộ nhận về bản ngã, lầm tưởng rằng mình chính là người đàn bà bị rạch miệng, trong nỗi sợ hãi cực độ, tinh thần mất kiểm soát, đã hành xử giống như người đàn bà bị rạch miệng trong truyền thuyết!”
“Khi Ogawa Seiko đi vào Ito-ya, những hồn ma chưa hề xuất hiện. Qua quan sát dữ liệu camera trong thang máy, có vẻ như cô ấy đã lạc vào một thế giới khác. Nhìn vào một chuỗi những cử chỉ và phản ứng kỳ quặc của cô, và cả hành động lảm nhảm một mình như đang trò chuyện với ai, chứng tỏ cô ấy đã ở trong trạng thái bị thôi miên hoàn toàn. Chỉ có một điểm cháu chưa hiểu lắm...”
“Điểm gì?” Okawa Yuji dường như đã sực nhớ ra, vội nhìn ngày tháng trên đồng hồ đeo tay.
“Jack làm như vậy có mục đích gì?”
“Có lẽ...” Kuroba thọc hai tay vào túi áo, “hắn chỉ chơi cho vui thôi.”
“Giống như anh hồi tôi mới quen sao? Kuroba Desu.” Okawa Yuji khẽ cười.
“Tôi là vì tìm anh trai,” trong mắt Kuroba Desu loé lên một tia đau khổ, “nên mới phải làm vậy để thu hút sự chú ý của các ông.”
Đoạn đối thoại lạ lùng của hai người khiến Tsukino Kiyoe ngơ ngác, mở to đôi mắt xinh đẹp nhìn họ.
Okawa Yuji lại hỏi: “Jack đã làm gì ở Thái Lan? Có điều tra ra được không? Có tư liệu gì không?”
“Việc này thì cháu không rõ lắm, nhưng cháu có quen một người bạn trên facebook, hình như đang ở Thái Lan thì phải.” Mặt Tsukino Kiyoe đỏ bừng.
“Ồ?” Okawa Yuji không chú ý tới thái độ của Tsukino. “Thầy âm dương giờ cũng chơi facebook cơ à?”
Tsukino nghiêm túc cúi rạp người: “Xin lỗi, lúc rảnh rỗi cháu hay lên facebook, thấy anh ta post một tấm ảnh khá là ma quái, cháu thấy hứng thú nên vào kết bạn. Anh ấy tên là Nguyệt Bính, am hiểu cổ thuật, rất rành phong thuỷ, ngũ hành, bát quái, cũng biết đôi chút về nhân tướng học...”
Okawa Yuji nhìn sang Kuroba, ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Liên hệ với người này, gửi tư liệu cho anh ta.” Okawa Yuji lắc đầu rầu rĩ, chỉ vào thi thể của Ogawa Seiko. “Đêm nay là đêm linh hồn trở về. Tuy ta không biết gã ngoại quốc kia định làm gì, nhưng dám hành động phô trương như thế, tuyệt đối không thể xem thường.”
“Nguyệt Bính còn có một người bạn thân,” Tsukino lại chen ngang, “có nên mời luôn tới không? Nhưng anh ta chẳng biết gì cả, sợ sẽ hơi phiền.”
“Ồ! Kuroba, anh ra ngoài trước, tôi có chuyện muốn nói riêng với Kiyoe.” Okawa Yuji vội xua xua tay. Kuroba mặt lạnh như tiền đi ra khỏi phòng, Okawa Yuji nhìn theo, mắt bỗng đỏ sọng...
1
Khi cùng Nguyệt Bính đứng trước mặt Tsukino Kiyoe, tôi bỗng thấy tay chân thừa thãi, hai con mắt phản chủ không tài nào dứt ra được khỏi khuôn mặt kiều diễm ấy. Tuy lúc đó đã hơn mười giờ đêm, nhưng tôi thấy trước mắt sáng trưng như mặt trời mùa hạ, chói lọi không sao kể xiết.
Lúc này, chúng tôi đang đứng trên bến tàu. Trước một sắc đẹp kinh động đến vậy, Nguyệt Bính kia vẫn lạnh te như bị mù, đúng là cái thằng vô cảm.
“Tôi là Tsukino Kiyoe.” Cô gái Nhật Bản chìa tay, lịch thiệp giới thiệu. “Lần đầu gặp mặt, trông anh còn đẹp trai hơn cả trong ảnh đấy.”
Nguyệt Bính hờ hững chia tay bắt lấy lệ: “Cô cũng vậy!” Tôi nghe mà tức chết, thầm chửi cái thằng Nguyệt Bính này EQ quá lẹt đẹt, ngày thường mồm mép như tép nhảy, sao hôm nay ăn nói lại tệ đến vậy. Cho dù chỉ là bạn quen trên mạng, gặp mặt nhau cũng phải hỏi han mấy câu chứ.
Tôi thì chỉ ngong ngóng tới khi Tsukino Kiyoe chìa tay về phía mình, chưa kịp đợi cô lên tiếng, tôi đã vội vã nắm luôn lấy tay cô. Vừa chạm vào bàn tay người đẹp, tay tôi đã muốn run lên, tim đập thình thành như trong làng.
“Xin anh nghiêm túc cho!” Sau lưng Tsukino có người tiến lên, áo choàng đen thùng thình, tóc dài khuất cả mắt trái. “Lần đầu tiên gặp mặt, nên lịch sự một chút.”
Nguyệt Bính ngượng nghịu e hèm mấy tiếng, tôi mới nhận ra mình quá thất thố, vội vã rút tay lại, gãi đầu gãi tai cười biết lỗi.
Tsukino bèn chia tay mời chúng tôi lên tàu. Con tàu đã hú còi rền rĩ, trên bến chỉ còn lại mấy người chúng tôi.
Nguyệt Bính chẳng hề để mắt tới Tsukino Kiyoe, nhưng có vẻ rất hứng thú với Kuroba mặt lạnh, ánh mắt cứ nhìn chăm chú vào anh ta. Kuroba tỏ ra khó chịu, quay ngoắt người đi thẳng lên tàu.
Một cơn gió thổi tới hất bay những lọn tóc trước trán Kuroba, tôi lờ mờ nhìn thấy nơi mắt trái anh ta hình như có một vật gì nằm vắt qua. Tôi chột dạ, đang định nhìn kỹ thì anh ta đã đi mất.
“Người kia rất lạ.” Nguyệt Bính xách đồ đi lên cầu thang. “Với lại tao đang nghĩ, chuyện đang nước sôi lửa bỏng, sao không đi máy bay cho nhanh mà lại đi tàu?”
Được Nguyệt Bính nhắc nhở, tôi mới thấy lạ lùng. Jack đang phá phách tưng bừng ở Nhật Bản, sự việc đã cấp bách lắm rồi, sao lại phải rề rề đi tàu thuỷ kia chứ? Tính thêm thời gian Tsukino Kiyoe và Kuroba từ Nhật Bản qua đây, giờ đã chậm trễ ít nhất một tuần lễ rồi.
Hay là có ẩn tình gì mà chúng tôi chưa biết?
Nhìn về phía con tàu với từng dãy cửa sổ chạy san sát, tôi cảm thấy chúng giống hệt như tủ bảo quản thi hài, với những thi thể xếp ngay ngắn trong từng ngăn...
“Sau khi lên tàu, mọi việc phải cẩn thận đấy.” Nguyệt Bính thì thào dặn tôi.
2
Tsukino Kiyoe dẫn chúng tôi tới trước một phòng, căn dặn mấy câu xã giao đại loại như “Việc ăn ở trên tàu hoàn toàn miễn phí”, “Có việc gì tới phòng kế bên tìm rồi quay trở về phòng.
Kuroba đã đi về phòng từ trước. Tôi đoán hẳn là họ cùng nhau, trong lòng tự dưng gợn lên cảm giác ghen tuông. Còn Nguyệt Bính lại cứ chăm chú nhìn về phía phòng của Kuroba, không biết đang nghĩ gì. Chẳng lẽ nó cũng nghĩ như tôi?
Tàu đã nổ máy, lắc khẽ mấy cái, tôi đúng không vững, suýt chút nữa ngã nhào, vội vàng bám vào cửa phòng. Cửa phòng đang khép hờ, tôi vừa bám vào đã mở ra. Nhìn thấy bố cục bên trong, tôi không khỏi ngạc nhiên: thẳng từ cửa vào là ba chiếc giường đơn trải vải trắng toát.
Bố cục nhà cửa thế này là đại kỵ!
Trong nghi lễ tang ma truyền thống, người ta thường đặt quan tài quay chân ra cửa, với nghĩa “ngẩng đầu ba thước có thần linh, linh hồn thoát xác liền đi thẳng”, tức là khi linh hồn rời khỏi thể xác từ cung Nê hoàn trên đỉnh đầu, ngẩng đầu có thể nhìn thấy bài vị của mình, nhớ tới chuyện khi còn sống, sẽ không quấy nhiễu người thân mà đi thẳng ra khỏi cửa.
Cách sắp xếp giường nằm bên trong phòng rõ ràng là cách bài trí dành cho người chết.
“Bí Ngô, ra ngay!” Nguyệt Bính vừa nhìn thấy bố cục giường nằm, đã gọi toáng lên.
Tôi đang căng thẳng nghĩ ngợi, nghe Nguyệt Bính gọi thì giật nảy mình, gần như nhảy vọt ra ra hành lang.
“Mày làm gì mà căng thẳng thế?” Nguyệt Bính trọn mắt nhìn tôi. “Nhảy cứ như cương thi ấy. Tối mà mày nhảy nhót thế này ra ngoài, kiểu gì cũng doạ chết người Nhật Bản đấy.”
Tôi nghe nó nói vậy thì điên người chỉ muốn đạp cho nó một cái. Nhưng Nguyệt Bính đã ngồi thụp xuống, sờ soạng khắp trên dưới khung của một hồi, thò một chân vào bên trong thăm dò rồi lại rụt về, bốc từ trong túi ra một nắm gạo nếp rải xuống đất, nhìn không chớp mắt.
Tôi thò đầu sang nhìn, đám gạo nếp cứ như bị thứ gì hút, cứ lăn lóc trên sàn. Cho tới khi tất cả dừng lại, tôi mới nhìn rõ chúng tụ lại chỗ này một đám chỗ kia một đám thành những hình thù kỳ dị.
“Nhìn xem cái gì đây?” Nguyệt Bính chỉ vào những đám gạo nếp, hỏi.
Tôi nhìn kỹ, thấy những đám gạo nếp sắp xếp thành những hình bầu dục hơi vuông hoặc hình hồ lô, còn có vài đám dính rối vào nhau, chẳng nhìn rõ hình gì.
“Có giống dấu chân không?” Nguyệt Bính nói.
Tôi bật cười: “Mày theo trường phái trừu tượng đấy à? Thế này mà cũng nhận ra là dấu chân? Chân mày có hình hồ lô bao giờ thế?”
Vừa nói tới đây, tôi mới nghĩ ra, giật thót một cái. Nhìn kỹ lại, cái hình hồ lô kia là hai dấu chân một trước một sau chồng lên nhau, và hình bầu dục hơi vuông vuông là dùng gót chân xóa đi dấu chân trước đó.
Tôi nhìn lại những hình dạng hỗn loạn rối rắm kia, là rất nhiều dấu chân chồng chéo lên nhau.
Nhà cũ dưỡng âm, rải gạo nếp dưới nền nhà là để tìm kiếm những dấu chân không sạch sẽ. Nếu tới một nơi xa lạ, tìm thuê nhà thấy giá rẻ bất ngờ, chớ nên mừng vội, có thể dùng biện pháp này để thử xem căn nhà ấy có nên hay không.
Lẽ nào căn phòng này cũng...
Vừa nãy, tôi chỉ thấy ba chiếc giường kê rất vô lý nên không để ý đến những thứ khác, giờ tôi mới ngẩn ra, tại sao lại là ba chiếc giường? Chúng tôi chỉ có hai người thôi mà. Nhìn về phía những chiếc giường, tôi lại càng thêm kinh ngạc.
Trên bề mặt bức tường ngay trước đầu giường treo một tấm gương cỡ bự, phản chiếu mồn một hình thù của hai thằng tôi.
Gương vốn dĩ là vật mang sát khí, nên hạn chế sử dụng, đặc biệt là trong phòng ngủ. Gương ngoài dương trong âm, có thể thu hút khí của âm gian. Vào lúc nửa đêm khi con người ngủ say, dương khí trong cơ thể yếu nhất, âm khí mạnh nhất, những thứ âm tà trong gương dễ bị âm khí dẫn dụ ra ngoài, hút lấy dương khí trong cơ thể. Bởi vậy nếu gương đối diện với giường, dễ khiến người ta ngủ không ngon giấc, dễ bị bóng đè, mệt nhọc, uể oải. Có một số người dương khí mạnh sẽ sinh ra phản xạ phản kháng, sau khi ngủ say cảm thấy toàn thân thình lình cử động, đây chính là dương khí đang giằng thoát khỏi những thứ âm tà đó.
“Tạm thời đừng đi vào vội.” Nguyệt Bính rút bật lửa ra bật trên tay, đi vào trong phòng.
Tôi vẫn nhìn chằm chằm vào mặt gương. Mặt gương không phẳng lặng mà bập bềnh như gợn sóng. Mép dưới khung gương hình như có đám gì đó đen đen như tóc. Cái đám đó nhô dần lên cao, rồi một cái đầu người trồi lên. Mái tóc dài rợp che kín con mắt phải, miệng cười lạnh lẽo.
Tôi kinh hãi rú toáng lên. Là Kuroba chứ còn ai!
“Mày làm cái trò gì đấy!” Nguyệt Bính quát lên cáu kinh. “Mày định dọa ai thế hả?”
Nghe nó quát, tôi bỗng như choàng tỉnh khỏi giấc mộng, ngạc nhiên khi thấy tôi đã đúng chính giữa phòng, mà vừa mới rồi rõ ràng tôi còn ở ngoài cửa. Trong tay tôi là một điếu thuốc đã cháy một nửa, đang tỏa khói.
Nhìn lại bức tường đối diện, làm gì có tấm gương nào!
3
“Bí Ngô.” Nguyệt Bính cầm bật lửa đi vòng quanh phòng. “Mày nghiêm túc một tí cho tao nhờ, đừng có dọa tao nữa nhé!”
“Tao... tao...” Tôi nhìn sung vào bức tường trống trơn, không hiểu tại sao vừa nãy lại nhìn thấy khuôn mặt Kuroba trong đó, một khuôn mặt giống hệt như ác quỷ. Bỗng dưng, tôi lại liên tưởng tới cái thứ nằm vắt qua con mắt bên trái bị tóc dài che phủ của Kuroba.
“Lửa không bị tắt, khói thuốc không tụ thành hình thù gì khác thường.” Nguyệt Bính tắt bật lửa, khói trắng nghi ngút trong không khí, căn phòng trông như sắp bùng cháy đến nơi. “Trong phòng không có tà ma gì hết.”
Tôi chỉ vào đám gạo nếp dưới sàn đã bị Nguyệt Bính giẫm tung toé: “Thế mớ gạo nếp này thì sao?”
“Chỉ chứng tỏ rằng căn phòng này đã từng có vấn đề, để lại những dấu chân ma quỷ.” Nguyệt Bính chăm chú quan sát bức tường tôi vừa nảy sinh ảo giác, tôi nhìn theo và phát hiện ra có một mảng hình vuông hơi trắng hơn xung quanh chút ít, có vẻ như đã từng treo vật gì.
Lẽ nào là chiếc gương?
“Vừa nãy mày cứ gào rú nhảy nhót lên là làm sao thế?” Nguyệt Bính nhìn tôi dò xét.
Ký ức của tôi chỉ dừng lại ở trước khi đi vào phòng, còn sau khi vào phòng tôi làm những gì, tôi hoàn toàn không biết. Chẳng lẽ tôi đã bị ảo giác thật?
Tôi ấp a ấp úng kể lại mọi việc, Nguyệt Bính chau mày SỜ Soạng trên tường: “Gương ma? Sao Tsukino lại sắp xếp cho chúng ta vào căn phòng này nhỉ?”
Tôi vuốt mồ hôi trên trán: “Hai người đó có đáng tin không? Sao mày lại quen cái cô Tsukino kia thế: Khéo là đồng đảng của Jack thì đi đứt đấy.”
“Họ đều là thầy âm dương nổi tiếng đấy.” Nguyệt Bính khẽ cười. “Chúng ta quen gọi là thuật sĩ, tuy là quen biết trên mạng nhưng mày cứ yên chí nhớn đi. Nước nào cũng có những con người đặc biệt thế này, đương nhiên là thân phận của họ không thể công khai, họ phải ẩn mình trong những thân thế khác. Họ chuyên tìm kiếm, săn lùng chuyện ma quái linh dị để tìm ra sự tồn tại của tà ma. Tao đăng một bức ảnh lên mạng, bị Tsukino Kiyoe nhận ra. Hai người họ là cảnh sát đấy. Bất ngờ phải không?”
Nghe Nguyệt Bình nói vậy, tôi ít nhiều đã vững tâm hơn. Nguyệt Bính tiến lại gần bức tường, đưa tay sờ soạng: “Tao thấy chỗ này âm khí cực mạnh.”
Nguyệt Bính đưa bật lửa lại gần, rồi lại bật lên. Kỳ quái là chỉ thấy tia lửa bắn toé nhưng không làm sao cháy lên được.
“Lửa của dương gian ở nơi âm khí quá nặng sẽ không thể cháy sáng được. Bí Ngô, mày đi đến chỗ nào cũng có thể dùng cách này để kiểm tra xem trong nhà có âm khí hay không, biết chưa? - Nguyệt Bính cất bật lửa đi. “Nguồn gốc của gương ma có rất nhiều, loại hung ác nhất là trong phòng từng xảy ra vụ án giết người, oan hồn sát khí quá nặng, quanh quẩn trong nhà không tan. Và chiếc gương cùng soi chiếu toàn bộ quá trình của vụ giết người sẽ trở thành nơi gửi gắm ký ức trước khi chết của bạn hồn. Thời gian lâu dần, oan hồn và gương hợp thành một thể, trở thành gương ma. Chỉ có người âm khí nặng hoặc bát tự bẩm sinh dễ bị ma nhập mới nhìn thấy nó được.”
Tôi nghe mà thót tim: “Tao có biết tao sinh vào ngày tháng nào đâu mà biết bát tự ngày sinh.”
Sắc mặt Nguyệt Bính bỗng trở nên phức tạp, nó hé miệng như định nói gì, nhưng cuối cùng vẫn im lặng, rất lâu sau mới nói: “Tao cũng chẳng biết bát tự của tao. ”
Bỗng chốc, hai đứa tôi chẳng thiết nói năng gì. Tới bản thân sinh vào ngày nào cũng không biết, thật là chuyện đáng buồn.
Tôi chuyển đề tài: “Thế sao tao lại nhìn thấy Kuroba trong gương ma. Chẳng lẽ...”
“Mày quên rồi à?” Nguyệt Bính lấy ra miếng vải đỏ phủ lên mảng tường khác màu, rồi dùng định gỗ đào găm chặt mảnh vải đỏ lên đó. “Mày thấy một người tóc che mất mắt phải, còn Kuroba là tóc che mất mắt trái. Nhưng mà tao cũng thấy thằng cha ấy kỳ quặc thật.”
Nói tới đây, Nguyệt Bính nhắm mắt lại, trán nhăn tít như đang bóp óc nhớ lại chuyện gì. Tôi nhìn mảng tường đã bị vải đỏ phủ kín, cũng thấy vững tâm hơn.
Nguyệt Bính thình lình mở choàng mắt, cắm đầu lao thẳng ra khỏi phòng!
4
Tôi ngỡ ngàng, nhưng cũng lật đật theo Nguyệt Bính chạy ra. Khoang hạng nhất không có nhiều phòng, chỉ có sáu gian. Để cho chúng tôi được thoải mái, lúc lên tàu, Tsukino Kiyoe có nói với chúng tôi, cô ấy đã bao trọn khoang hạng nhất. Cũng có nghĩa là, cả khu này chỉ có năm người chúng tôi.
Hành lang thênh thang trải thảm đỏ thẫm, đèn hành lang đã tắt. Cửa sổ trổ trên mạn tàu hắt vào ánh sáng lờ mờ, in thành một hàng những ô vuông trắng nhạt trên thảm. Cuối hành lang là bức tranh thiếu nữ Nhật Bản cỡ lớn, búi tóc đen nhánh cài nơ lụa đỏ tươi, mặt thoa phấn trắng bệch, lông mày là hai chấm tròn màu đen, môi là một đốm son đỏ rực như máu, trong ánh sáng nhờ nhợ, trông rùng rợn vô cùng.
Nguyệt Bính mặt tối sầm đứng trước cửa phòng bên cạnh, cửa đã mở toang. Tôi xông lại nhìn, lập tức rú lên một tiếng.
Trong phòng chỉ có một cỗ quan tài.
Trên mặt quan tài là hai hàng nến thắp, đã cháy quá nửa, nước nến chảy xuống chồng chất lên nhau như mỡ chảy, trông vô cùng gớm ghiếc. Có lẽ cửa mở cuốn vào lượng lớn dưỡng khí nên dãy nến “phụt” một tiếng bốc cháy thật cao, ngọn lửa đang vàng vọt ngả sang xanh lét. Tôi chợt cảm thấy trong cơ thể tụ lại một làn khí nóng, theo huyệt Chiên trung bốc ra ngoài.
Càng không thể lý giải được là quan tài lại quay đầu ra cửa, quay chân vào trong. Cách đặt đầu đuôi trái ngược, nến xếp hai hàng thế này, rõ ràng là đã cắt đứt đường thoát của oan hồn. Trừ phi là có người cố tình sắp đặt như vậy để giam giữ oan hồn trong quan tài, không cho phép siêu sinh. Tôi biết, bố cục phong thuỷ thế này được gọi là “âm chúc phong hồn” (nến âm khoá hồn).
Trên mảng tường đối diện treo một mảnh vải trắng, không có gió mà cứ bay phần phật, giống như bị cánh tay vô hình nào đó rung lắc, lộ ra thứ bị che phủ bên trong.
Tấm gương!
Chính là tấm gương ma mà tôi vừa nhìn thấy trong ảo giác.
Tôi đã lờ mờ đoán ra người trong quan tài là ai? Đột nhiên, từ trong quan tài vọng ra những tiếng sồn sột như mèo cào, lại giống như chuột gặm gỗ. Dù có Nguyệt Bính ở ngay cạnh, tôi vẫn sợ tới chân nhũn ra, khắp người lạnh toát. Ngay sau đó, nắp quan tài rung lên lịch kịch, từ bên trong vang ra tiếng thăm thùm như có thứ gì đó muốn chui ra.
Nguyệt Bính đanh mặt lại: “Bí Ngô, khoá kỹ của lại mau lên.”
Tôi chỉ chờ có thế, lập tức bấm chốt sập kín cửa lại. Còn Nguyệt Bính vội vã bốc từ trong túi ra một nắm vôi bột, tung lên không trung. Mùi vôi cay nồng khiến nước mắt tôi chảy ra giàn giụa. Nắp quan tài va đập lại càng kinh hơn nữa. Tôi mất vía, co cẳng chạy thẳng về phòng. Nguyệt Bính nhìn tôi bất mãn, rồi lại giận dữ quắc mắt nhìn về phía phòng của Tsukino Kiyoe.
Rầm rĩ từ nãy đến giờ mà Tsukino Kiyoe và Kuroba vẫn đóng cửa im im như chẳng hề hay biết, rất bất thường.
Vôi bột mù mịt trong không trung. Hành lang không có gió, đáng lẽ vôi bột phải từ từ rơi xuống mới phải. Nhưng hình như có một thứ không thể nhìn thấy đang băng qua, nên chúng hoặc là vẫn lơ lửng giữa không trung, hoặc là bị thổi bật đi...
Hai đám bụi vôi lờ mờ hình người từ từ xuất hiện, chao đảo trong không khí. Vôi bột bị hút lại mỗi lúc một nhiều, hình người mỗi lúc một rõ. Hai đám vôi bột từ từ trôi về cuối hành lang, va vào bức tranh thiếu nữ Nhật Bản, vỡ tung như một cơ thể rách nát, trông càng thêm rùng rợn.
Nguyệt Bính giục rối lên: “Chạy vào phòng mau lên!”
Tôi cắm cổ phi thẳng vào phòng đóng cửa lại. Nguyệt Bính dốc một gói gì đó vào cốc, đưa cho tôi: “Uống mau lên. Muội than đáy nồi đun gỗ hoè đấy, dưới Hoả trên Kim, ép âm khí trong gỗ hoà vào tro than, uống vào để chặn giữ dương khí trong cơ thể, sẽ không bị phát hiện.”
Nhìn nó căng thẳng, tôi không dám hỏi han thêm, vội cầm lấy cái cốc uống ừng ực. Nguyệt Bính cũng dốc cả cốc vào miệng rồi mới phì phò nói: “Không ngờ truyền thuyết ấy là thật! Đó là cỗ quan tài ma để hút dương khí.”
5
Nghe nó nói vậy, tôi mới thấy toàn thân lạnh ngắt, nhìn lại thấy từ khuỷu tay đến ngón tay không biết từ bao giờ đã hiện ra một vệt màu đen. Cỗ quan tài ma đã hút dương khí vào lúc nào? Chẳng lẽ là lúc nến vụt sáng lên khi cửa mới mở ra? Đây là con tàu thế nào mà lại chở theo một thứ ghê rợn đến thế? Và hai bóng người kia là ai? Tsukino Kiyoe và Kuroba muốn làm gì?
Bao nhiêu nghi vấn quay cuồng khiến đầu óc tôi váng vất. “Nguyệt... Nguyệt Bính...” tôi lắp bắp, “hai người kia có đáng tin không? Mày vừa bảo truyền thuyết gì?”
Nguyệt Bính nhìn về phía cánh cửa đóng chặt: “Giờ không có thời gian giải thích, tiếp khách đi đã.”
“Cộc cộc cộc...” Ngay sau đó, tiếng gõ cửa vang lên, rất nhẹ, nghe như tiếng mèo cào vào cửa.
“Buộc cái này vào cổ tay trái, quả chuông đồng hướng vào huyệt Thần môn.” Nguyệt Bính tái mặt, ném cho tôi hai sợi dây đỏ gắn quả chuông đồng nhỏ xíu, nút buộc kết hình hoa sen. “Lùi vào góc đông nam úp mặt vào tường, có chuyện gì xảy ra cũng không được phép quay đầu lại!”
Tôi đón lấy sợi dây đỏ, thoáng ngập ngừng, đoán ra Nguyệt Bính định đơn thương độc mã giải quyết thì lo lắng hỏi: “Nguyệt Bính, tạo có giúp được gì không?”
Nguyệt Bính thoáng cười: “Tao còn chưa đến được Kanagawa, sao có thể nửa đường băng hà được? Mày cứ yên chí đi. Mau lên!”
Tôi vội đeo sợi dây đỏ vào cổ tay, xoay quả chuông áp vào huyệt Thần môn, chạy tới góc đông nam căn phòng úp mặt vào tường đứng im, cứ y như đứa trẻ phạm lỗi bị phạt, thật chẳng ăn nhập gì với tình hình.
“Két...” Có tiếng của mở.
“Hả?” Tôi nghe Nguyệt Bính kêu lên kinh ngạc, hiển nhiên là bất ngờ khi nhìn thấy người ngoài cửa, sau đó là tiếng nói chuyện rủ rỉ như muỗi kêu.
Có vẻ như chẳng có màn kịch kinh dị nào xuất hiện, cũng chẳng có màn giao chiến căng thẳng như tưởng tượng, mà cứ như là bạn cũ hàn huyên. Tôi dòng tai lên như tai lừa mà vẫn chẳng nghe thấy gì sất.
Cảm giác thật là khó chịu, khiến một gã tò mò đại hạng như tôi ngứa ngáy khắp người. Tôi không nhịn được, chỉ muốn liếc về sau xem đang có chuyện gì xảy ra. Tôi tự thuyết phục mình, nhìn một cái xem Nguyệt Bính có an toàn không thôi mà, lỡ nó gặp chuyện bất lợi thì còn kịp thời tiếp ứng. Nghĩ là vậy, tôi ngoắt đầu lại thật nhanh.
Tôi nghĩ dù có nhìn thấy thứ gì cũng sẽ không kinh hãi bằng tình huống này: tôi chẳng nhìn thấy gì cả!
Cửa mở toang, hắt ánh đèn chảy dài ra tận hành lang, nhưng Nguyệt Bính đã biến mất!
Rõ ràng tôi không hề nghe thấy nó bước chân ra khỏi cửa, tại sao lại biến mất?
Tôi chết sững.
Đúng lúc ấy, ngoài của vọng lại tiếng bước chân dồn dập, khẽ khàng nhưng gấp gáp, rồi một cái bóng tóc tai bù xù hiện ra phía sau khung cửa. Tôi vội kêu lên: “Nguyệt Bính... Mày phải không?”
Không có tiếng trả lời.
Tôi tưởng đã chết cứng vì sợ hãi, miệng há hốc mà không hét lên được tiếng nào. Bóng “người” ngoài của từ từ lộ ra chỗ ánh sáng. Thân hình to béo, dáng đi lắc lư, tấm áo choàng dài phất phơ theo bước chân.
Tôi vô thức lùi lại, lưng và đánh sầm vào vách tường sau lung
“Khương Nam...” “Người” kia đứng ngoài cửa gọi tên tội.
Một kiến thức phổ thông nhất là ở những nơi âm khí nặng (linh đường, mộ, ngã tư đường lúc nửa đêm), khi đang đi một mình, chợt nghe thấy ai gọi tên mình, nhất thiết không được trả lời, nếu không sẽ bị bắt hồn. Nếu lỡ trả lời, nhẹ thì ốm thập tử nhất sinh, nặng thì hồn phách tiêu tán mà đi đời nhà ma.
Tuy tôi đang bàng hoàng tột độ, nhưng vẫn cắn chặt môi không dám trả lời. Vài giây sau, “người” kia đi hẳn vào cửa, áo trắng dài lượt thượt, tóc buông rũ rượi, nhưng vẫn nhìn thấy bộ mặt trắng bệch dưới ánh đèn.
“Người” đó đưa hai tay lên, từ từ rẽ đôi mớ tóc rối bù trước mặt.
6
“Khương Nam?” Giọng “người” kia gấp gáp. “Sao chỉ có mình anh ở đây?”
Tôi đang hồn vía lên mây, chuẩn bị khuỵu xuống đến nơi, giờ nhìn rõ khuôn mặt của người đó thì mới thở hắt ra, nhưng hai đầu gối bủn rủn lại không chịu nghe theo mệnh lệnh của tôi, khiến tôi ngồi một cú phịch mông xuống sàn.
Tsukino Kiyoe!
Nhìn thấy cô ấy lúc này, đúng là còn thân thiết hơn cả gặp người thân. Nhưng hai cái đầu gối làm tôi mất mặt quá. Tôi gắng gượng nhấc mình ngồi dậy, cố giữ giọng thật bình tĩnh: Nguyệt Bính mất tích rồi.”
“Mất tích?” Tsukino Kiyoe cứ như đã đoán trước được, thái độ không mấy thay đổi, nhưng đến khi liếc mắt qua ba chiếc giường thì sắc mặt cô ta lại đầy kinh ngạc. “Các anh kể lại giường à? Sao lại kê kiểu này, đây là cách bố trí dành cho người chết cơ mà? Là tập tục của quê các anh à?”
Tôi gần như nhảy dựng lên: “Cô không biết thật à? Chẳng phải các người tự bày ra sao? Lúc chúng tôi vào đã thế này rồi! Tôi còn muốn hỏi cô, cái quan tài ở phòng bên cạnh là thế nào? Có phải là chỗ ngủ của cái gã Kuroba kia không? Giờ Nguyệt Bính mất tích rồi, cô giải thích sao đây?”
Tsukino Kiyoe tròn mắt ngơ ngác nhìn tôi: “Anh làm gì mà gào thét kinh thế: Trông chả giống đàn ông gì cả.”
“Vậy thì cô cứ coi tôi là đàn bà đi!” Câu nói của Tsukino Kiyoe càng khiến tôi giận dữ. “Là đàn bà thì không cần lo lắng khi bạn bè mất tích phải không?”
“Kuroba cũng mất tích rồi.” Tsukino lạnh lùng nhìn tôi, giọng nói như phả ra từ tủ đá.
Tôi há hốc miệng, ngắc ngứ hồi lâu không nói nổi câu nào.
“Tôi đang tắm, bỗng nghe thấy có người gọi tên Kuroba.” Mặt Tsukino đỏ ửng như xấu hổ. “Tôi cứ nghĩ là các anh gọi có việc gì cần. Đến khi tôi tắm xong, Kuroba vẫn chưa về, gọi điện thoại di động thì tắt máy, nên mới chạy sang phòng anh xem thử.”
Tôi ngờ vực nhìn cô ta: “Vậy lúc đi trong hành lang cô có nhìn thấy hai hình người trăng trắng không?”
Tsukino lại mở to đôi mắt đẹp, rồi thò đầu nhìn ra hành lang: “Ở đâu?”
Trông cô ta hoàn toàn không giống như đóng kịch. Tôi lại hỏi nốt nghi ngờ cuối cùng: “Thế còn cái quan tài phòng kế bên, cô định giải thích thế nào?”
“Phòng kế bên? Quan tài?” Mắt Tsukino càng trợn tròn xoe. “Khương Nam, anh đang đùa tôi đấy phải không? Để đề phòng Jack giở trò ám muội, trước khi lên tàu, chúng tôi đã kiểm tra kỹ lưỡng khoang tàu, phòng kế bên trống không làm gì có quan tài nào?”
Tôi đứng đực mặt, không hiểu thực giả thế nào. Rồi không nói không rằng, tôi lao vọt ra ngoài, chạy tới căn phòng quan tài, xuống tấn rồi tung ra một cú đá thần sầu.
Rầm! Cánh cửa bật tung, đập vào tường chát chúa. Trong phòng tối đen như mực, nhờ vào ánh đèn hành lang hắt vào, tôi lờ mờ nhìn thấy bố cục bên trong.
Tsukino Kiyoe đã đi theo tới, đứng sau lưng tôi hỏi: “Bên trong có gì?”
Tôi hít ngược một hơi, những gì trước mắt khiến tôi không thể nào chấp nhận, tôi run rẩy lùi lại, đâm sầm vào người Tsukino.
Không quan tài! Không nến! Càng không có gương! Chỉ là một gian phòng khách sang trọng.
Giường, bàn, ghế, sofa, quầy bar, thảm trải sàn, đèn chùm.
Tôi bỗng nảy ra một ý nghĩ khủng khiếp, hay là Jack đã ở trên tàu và âm thầm thôi miên chúng tôi? Tất cả những gì tôi nhìn thấy, căn bản không phải là sự thực, mà đều là do Jack điều khiển?
Quay người lại, tôi nhìn xoáy vào Tsukino Kiyoe, nghiến răng gằn từng chữ: “Cô là thật, hay là giả?”
7
“Cô là thật, hay là giả?” Tôi giận dữ nhắc lại. Nếu Tsukino Kiyoe trước mặt tôi là giả, thì bây giờ, tôi cần phải tập trung tinh thần, xoá bỏ tâm ma, kéo bản thân ra khỏi ảo ảnh thôi miên.
Thôi miên là đưa ý thức chủ quan của bản thân vào trong tư tưởng của người bị thôi miên một cách cưỡng chế, để thay thế ý thức bằng ảo giác. Tuy nhiên, dù là người thôi miên siêu việt nhất cũng không thể hoàn hiện tới từng tiểu tiết của ý thức ngụy tạo, nên thôi miên càng phức tạp càng dễ xuất hiện sơ hở, giống như giấc mơ có chân thực đến đâu cũng sẽ có những chi tiết bất hợp lý. Do ngón nghề thôi miên của Jack quá giỏi, nên chúng tôi đã tìm hiểu sẵn một vài tuyệt chiêu phá giải thôi miên.
Nhưng trước ánh mắt chòng chọc của tôi, Tsukino Kiyoe chỉ đỏ bừng mặt, bàn tay vô thức kéo kín cổ áo ngủ hơi thấp. Chắc cô đang nghĩ tôi muốn giở trò dê cụ đây. Không hề có dấu hiệu cho thấy cô ta là một hình ảnh thôi miên.
Tôi gắng trấn tĩnh lại, hít sâu một hơi. Tôi thầm nghĩ, bên cạnh tôi bây giờ chỉ còn lại Tsukino, một con người thực sự chứ không phải là ảo ảnh. Tôi bèn quyết định kể lại đầu đuôi sự việc cho Tsukino nghe.
Lắng nghe tôi kể xong, Tsukino khẽ cúi đầu, cặp lông mày xinh đẹp chau lại, răng cắn khẽ môi dưới. Lúc này tôi mới nhận ra môi trên của cô mỏng hơn môi dưới rất nhiều, trông rất không cân đối. Trong sách viết rằng, đây là tướng mặt của người bẩm sinh không có bát tự.
Không biết cô gái điềm tĩnh mà quyến rũ này có quá khứ ra sao...
“Anh nói trong căn phòng này có quan tài, nến, và cả một tấm gương ma? Anh đã nhìn thấy Kuroba trong gương? Trong hành lang còn có hai cái bóng hình người?” Tsukino Kiyoe quay đầu nhìn về phía hành lang im lìm, ngoài cái bóng của hai chúng tôi ra, chẳng còn thứ gì khác. “Anh khẳng định không phải là ảo giác chứ?”
Sự nghi ngờ của Tsukino khiến tôi hơi bực bội: “Giờ thì Nguyệt Bính và Kuroba đều đã mất tích. Dù cô không tin tôi, cô cũng phải tin sự thật này.”
Tsukino nở nụ cười biết lỗi, lộ ra hàm răng trắng đều tăm tắp, nhưng có một chiếc răng khểnh hơi dài và hơi nhọn, trông hơi lộ có nhưng lại tăng thêm vài phần duyên dáng tinh nghịch: “Anh hiểu lầm rồi! Ai trong tình cảnh của tôi cũng phải loại trừ yếu tố ảo giác trước tiên. Có lẽ vấn đề xuất hiện ngay trong căn phòng này.” Tsukino đi vào bên trong quan sát kỹ lưỡng, thậm chí còn ngồi thụp xuống nhìn vào gầm giường. Khi cô đứng dậy, tôi nhận ra vẻ thất vọng trên nét mặt cô.
Tôi đang định lên tiếng, Tsukino đã đặt ngón trỏ lên môi “suyt” một tiếng, rồi với lấy một tờ giấy nhớ trên bàn, gấp nhoay nhoáy một chốc, một con hạc giấy tinh xảo đã xuất hiện trong lòng bàn tay cô.
Hai tay cô cầm con hạc giấy, khẽ thổi một hơi, con hạc giấy liền vỗ đôi cánh bay lên. Nó lượn quanh phòng một vòng, rồi dùng lại ở vị trí treo tấm gương trong ảo giác của tôi, chấp chới lên xuống...
Tôi nhìn thấy mà trợn mắt há miệng, tưởng mình đang xem phim thần thoại.
“Thầy âm dương đều biết cả.” Tsukino bình thản giải thích, rồi cuốn tạm mớ tóc dài lên, nhặt cây bút trên bàn cài vào. “Đệ tử của phái Abe Seimei, chỉ một con hạc giấy có đáng kể gì?”
Tôi ngưỡng mộ không sao kể xiết. Mấy ngón nghề của Nguyệt Bính đã khiến tôi lác mắt, nhưng cô gái xinh đẹp này còn thần kỳ hơn nhiều. Cái tay Kuroba tuy mặt mũi đáng ghét tướng tá hợm hĩnh, nhưng có lẽ cũng là một tên cứng cựa. Càng nghĩ, tôi lại càng tự ti vì bản thân kém cỏi quá.
Tsukino sờ lên mảng tường đó. Tôi cũng sán lại xem. Một mùi hương như có như không toả ra từ cô khiến tôi hồn vía lâng lâng.
“Chỗ này có vấn đề!”
Tôi gõ lên bức tường, nghe bộp bộp, nó rỗng.
“Khương Nam, lùi lại!” Tsukino đột nhiên túm tôi giật phắt lại khiến tôi suýt ngã ngửa.
“Bức tường rỗng đấy!” Tôi cố khoe khoang phát hiện với người đẹp.
“Đây là gương ma!” Tsukino thì thầm, giọng cô hơi run rẩy.
Tôi không nghe rõ: “Gì cơ?”
Tsukino chỉ vào con hạc giấy vẫn đang chấp chới: “Trong căn phòng này có gương ma!”
Vừa dứt lời, con hạc giấy thình lình bốc cháy, ngọn lửa xanh lét như ma trơi, tôi chưa kịp phản ứng, nó đã biến thành một vệt tro.
Lửa âm đốt dương?
Là âm khí không tan, gặp phải vật của dương gian, âm dương đối kháng, sẽ bốc cháy thành lửa, giống như lửa ma trơi ngoài nghĩa địa.
Chẳng lẽ cảnh tượng quan tài trong căn phòng vừa nãy là thế giới ảo ảnh do âm khí tạo thành?
“Ở Nhật Bản có một truyền thuyết liên quan tới gương ma.” Tsukino lại thì thầm. “Anh đã nghe chưa?”
8
Vào thời Edo, người ta vẫn tin rằng tại Nhật Bản đã xuất hiện một truyền thuyết liên quan tới gương ma. Cũng từ sự việc này, các thầy âm dương mới coi ma là kẻ địch không đội trời chung. Thuật âm dương của Nhật Bản học được từ ma quỷ, sau đó lại trở thành phương pháp truy sát ma quỷ, thật mâu thuẫn phải không?” Trong giọng nói của Tsukino có vài phần bất lực.
Tôi rất lấy làm lạ khi vào đúng lúc nước sôi lửa bỏng này mà Tsukino vẫn có tâm trạng để kể chuyện cho tôi nghe, nhưng lại không nỡ ngắt lời người đẹp, nên cố dặn lòng lắng nghe, thuyết phục bản thân rằng biết đâu sẽ tìm ra được manh mối hữu ích nào đó. Nhưng lòng ruột tôi vẫn cứ rối như tơ vò. Thời kỳ Edo của Nhật Bản bắt đầu vào năm 1603, kể xong bốn trăm năm này, đừng nói là cứu người, có lẽ tôi cũng chết vì sốt ruột mất.
Tsukino có vẻ bất mãn: “Hình như anh không muốn nghe thì phải. Nếu không biết nguồn gốc của gương ma, anh làm thế nào đánh bại nó được? Hơn nữa, Nguyệt Bính thế nào thì tôi không biết, nhưng Kuroba là thầy âm dương, tôi rất yên tâm về anh ấy.”
“Thế nhưng...” Vừa nhắc đến Kuroba, mặt Tsukino lại đỏ bừng, tôi nhận ra cô ấy rất hay đỏ mặt. “Thế nhưng nếu người mất tích là anh, chúng tôi chắc chắn sẽ lập tức lo liệu cứu anh ngay. Bởi Nguyệt Bính từng nói, anh chẳng biết gì cả, vốn dĩ chúng tôi không muốn để anh tới Nhật Bản đầu, nhưng Nguyệt Bính nói để anh ở lại Thái Lan một mình, anh ấy cũng không yên tâm. Cho nên...”
“Cô...” Lòng tự trọng của tôi bị tổn thương ghê gớm, chỉ muốn vặn cổ thằng Nguyệt Bính ngay tắp lự. Nhưng nghĩ lại, nó nói có sai đâu, tôi chỉ biết mỗi một ngón cắm kim vào huyệt. Cô gái này chỉ cần tiện tay gấp một con hổ giấy là đủ tiễn tôi về trời, nên đành cắn răng nhẫn nhịn.
Nhìn vẻ điềm đạm bình tĩnh của Tsukino, tôi lại càng khó lòng yên tâm nổi. Trong tình cảnh này mà còn thản nhiên kể chuyện? Nhưng tôi cũng chẳng còn cách nào khác ngoài việc bấm bụng ngồi nghe.
“Vào thời Edo, có một đôi vợ chồng.” Tsukino hắng giọng, tiếp tục kể câu chuyện ma tẻ ngắt. “Họ rất yêu thương nhau...”
Tôi thầm nghĩ, mở đầu nhạt nhẽo thế này, đến bao giờ mới hết đây? Lòng dạ tôi đều để ở chỗ Nguyệt Bính cả, nhưng vẫn không thể không nghe.
Dưới đây là câu chuyện của Tsukino...
9
Người vợ tên là Saeko.
Người vợ rất xinh đẹp, nên rất thích soi gương chải tóc. Người chồng yêu thương chiều chuộng vì rất mực, không bao giờ để vợ đặt chân xuống ruộng. Tuy ngày ngày làm việc vất vả, nhưng chỉ cần nhìn thấy dung nhan xinh đẹp của người vợ, anh liền quên hết mọi mệt mỏi.
Dân làng đều khen anh chồng Koji có phúc, cưới được người vợ xinh đẹp hiền thục như Saeko. Mỗi lần như vậy, Koji đều sung sướng nở một nụ cười chất phác.
Bỗng nhiên một hôm, Saeko mắc một chứng bệnh quái lạ, nằm bẹp trên giường không dậy được, sốt li bì, thể gầy rộc đi nhanh chóng, mới nửa tháng mà đã chỉ còn da bọc xương, tóc rụng từng mảng, đôi mắt đã từng xinh đẹp giờ trũng sâu vào trong hốc mắt.
Saeko nằm trên giường, không còn giống con người, mà chẳng khác nào một cái xác khô.
Koji đã mời khắp lượt toàn bộ thầy thuốc trong vòng mấy chục dặm vuông quanh nhà, nhưng ai cũng bó tay, khuyên anh sớm chuẩn bị hậu sự.
Koji vô cùng tuyệt vọng. Anh phủ phục bên giường, nhìn Saeko thoi thóp thở, bật khóc nức nở. Saeko nghe thấy tiếng khóc thì mở mắt ra, khó nhọc đưa tay lau nước mắt cho anh.
Koji càng không kiềm lòng được, gào khóc thảm thiết. Hàng xóm nghe thấy cũng rơi nước mắt theo anh...
Bỗng nhiên, ngoài cửa có tiếng người vọng vào: “Cô ấy bị ma nhập đấy, ta có cách chữa khỏi bệnh cho cô ấy.”
Nói rồi đẩy cửa bước vào, là một thầy âm dương y phục áo trắng toát.
Koji vội ngẩng đầu nhìn, thấy thầy âm dương khí phách hiên ngang, hai mắt sáng rực, đang mỉm cười đầy tự tin.
Thầy âm dương không nhiều lời, đưa mắt quan sát đồ đạc trong ngôi nhà, rồi bảo Koji dùng vải bố dày che toàn bộ cửa nẻo lại, không được phép để lọt một tia sáng vào phòng.
Chuẩn bị xong xuôi, thầy âm dương lại nói khi làm phép đuổi ma, người ngoài không được có mặt, rồi đuổi Koji ra ngoài.
Bồn chồn đợi đến hơn hai canh giờ, mặt trời đã chếch về tây, Koji ngồi ngoài cửa sốt ruột không sao kể xiết, mấy lần muốn xông vào, nhưng lại sợ phá hỏng phép thuật nên đành cố nhịn. Lúc này, thầy âm dương đẩy của đi ra, y phục ướt sũng, trên trán đầm đìa mồ hôi, sắc mặt phờ phạc, quầng mắt tím thâm, trông cứ như đã biến thành một con người khác. Ông ta không nói năng gì, chui luôn vào phòng chứa củi ngủ mê mệt.
Koji xông vào trong nhà, nhìn thấy Saeko nằm trên giường, sắc mặt đã hơi hồng hào, nước da tuy vẫn khô nẻ vàng ệch như sáp, nhưng đã lờ mờ chút sinh khí.
Koji vui mừng khôn xiết, vội vàng xuống bếp, làm một bữa cơm thật ngon, ngồi chờ ở bên ngoài phòng chúa củi. Cứ thế hâm nóng không biết bao nhiêu lần, tới tận nửa đêm, thầy âm dương mới tỉnh lại, xua tay từ chối ý tốt của Koji, nói với anh rằng, trong khi trừ ma, không được ăn đồ ăn của thế gian, chỉ được uống nước trắng.
Koji rối rít cảm tạ, thầy âm dương khẽ cười, hai mắt sáng rực.
Cứ thế bảy bảy bốn mươi chín ngày trôi qua, Saeko không những lại xinh đẹp như xưa mà mái tóc rụng trại còn mọc dài ra như kỳ tích, đen nhánh tựa gỗ mun. Nụ cười của cô lại càng thêm ngọt ngào, pha lẫn một vẻ quyến rũ say lòng trước đây không hề có.
Trong khi đó, thầy âm dương lai gầy rộc đi từng ngày, mới mấy chục hôm mà như đã già khọm đi mấy chục tuổi, ánh mắt cũng đờ đẫn tối tăm.
Thấy ông ta lao lực quá, Koji trong lòng áy náy, không biết nên cảm tạ thế nào. Đến ngày đuổi ma cuối cùng, Koji lặn lội ra sông lớn bắt con cá thật to, mua rượu lâu năm, hồ hởi về nhà định nấu một bữa cơm thật thịnh soạn cảm tạ thầy âm dương.
Anh bước vào sân, đang vui vẻ làm cá, bỗng nghe thấy từ trong nhà vọng ra tiếng động lạ.
Đó là những tiếng rên rỉ đầy khoái lạc.
Nụ cười cứng đờ trên khuôn mặt anh, bàn tay cầm dao khẽ run rẩy.
Anh đứng dậy, đạp cửa xông vào, thấy Saeko và thầy âm dương cơ thể lõa lồ đang nằm trên giường. Cơn giận dữ choáng váng khiến anh hoá điên, con dao làm cá trong tay thọc thẳng vào ngực thầy âm dương.
Kỳ lạ là thầy âm dương dường như không hề thấy đau đớn, vết thương cũng không chảy máu, chỉ nở một nụ cười đau đớn với Saeko rồi từ từ khép mắt lại...
Saeko loã lồ nhảy xuống giường, quỳ sụp dưới đất cầu xin Koji tha thứ. Nhìn Saeko phủ phục dưới đất, Koji mấy lần vung dao lên định chém xuống mái tóc đen nhánh kia, nhưng lại không nỡ. Anh thở dài, ném dao xuống đất, chảy nước mắt mà bỏ đi.
Anh không nhìn thấy, khóe miệng Saeko nhếch một nụ cười lạnh lẽo, đưa tay nhặt lấy con dao dưới đất.
10
Vì Saeko vốn là một người hiền thục dịu dàng, nên tất cả mọi người đều tin lời cô ta nói:
Vào ngày đuổi ma cuối cùng, con ma cuối cùng đã bị ép ra khỏi người Saeko, nhưng nào ngờ nó lại nhập ngay vào người Koji. Koji đẩy cửa đi vào, vung dao chém thầy âm dương.
Do làm phép đuổi ma nhiều ngày, tinh lực tiêu hao cạn kiệt nên thầy âm dương không đủ sức chống trả, bị Koji đâm một dao trúng ngực. Thầy âm dương dốc hết sức tàn nhổ bật con dao ra khỏi cơ thể, giết chết Koji.
Người làng thương xót, bỏ tiền ra làm đám ma cho thầy âm dương và Koji. Saeko khóc đến chết đi sống lại, ai thấy cũng thương xót.
Sự việc quái lạ nhanh chóng một đồn mười, mười đồn trăm, lan khắp Nhật Bản. Các thầy âm dương đều nổi giận, thề không đội trời chung cùng ma quỷ.
Saeko chết chồng, lại từng bị ma nhập hồn nên cho dù xinh đẹp, chẳng ai dám lấy. Do chưa phải động tay vào việc nhà nông bao giờ, lại là một quả phụ, cô liền khoá trái cửa nhốt mình trong nhà. Người dân thương tình, mỗi khi đi qua lại bỏ ít rau, gạo, cá, thịt trước cổng cho cô ta.
Cứ thế mấy tháng liền, Saeko tuy rất ít bước ra khỏi của, nhưng chẳng lo bị đói.
Chỉ là thi thoảng có người đi ngang qua nhà cô ta lúc nửa đêm, nghe thấy có tiếng khóc não nề vẳng ra. Dân làng đều cho rằng là Saeko khóc nhớ thương chồng.
Thế nhưng một lần, Saeko ra ngoài mua muối, bị tên vô lại Shikawa Shiro làng kế bên nhìn thấy. Về nhà, Shiro ngày nhớ đêm mong nhan sắc hớp hồn của Saeko, khăng khăng đòi cha mẹ phải cưới cô cho mình, thề rằng cả đời này không lấy ai khác ngoài Saeko.
Cha mẹ không còn cách nào khác, bèn bán đồ đạc sắm sửa sính lễ, đưa tới chỗ bà mai xin giúp.
Bà mai nhận lời, tự tin tìm tới nhà Saeko. Bà ta miệng lưỡi dẻo quẹo thuyết phục hồi lâu, Saeko không đồng ý cũng chẳng từ chối, cứ ngồi ngây ngô trước gương chải tóc. Bà mai tẽn tò, đặt sính lễ xuống rồi đi, thấy Saeko không từ chối, nghĩ rằng chắc quả phụ hay xấu hổ, thế là đã nhận sính lễ rồi, cũng coi như đồng ý.
Bà mai quay về nhà Shiro báo tin mừng, được nhà họ mời cơm rượu thịnh soạn. Khi bà mai ngà ngà ra về, trời tối nhìn không rõ, vấp phải một đống gì trước cổng ngã nhào. Khi nhìn rõ là thứ gì, bà ta sợ hãi tỉnh hẳn rượu. Chính là tiền sính lễ đã đưa cho Saeko!
Nhà Shiro và nhà Saeko cách nhau hai quả núi, cho dù trai tráng cũng phải đi bộ hơn hai canh giờ, Saeko là một người đàn bà yếu ớt, làm thế nào mà mang trả được?
Bà mai càng nghĩ càng kinh ngạc, nhìn kỹ lại thì phát hiện ra trên đống sính lễ có thêm một thứ. Một chiếc gương đồng cũ kỹ!
Vào thời ấy, gương đồng là đồ vật rất đáng tiền, đủ cho một nhà nông dân ăn tiêu nửa năm. Bà mai nổi lòng tham, quên cả sợ hãi, giấu ngay tấm gương vào người, xách mớ sính lễ quay vào nhà Shiro, nói dối rằng Saeko nhờ dân làng mang trả sính lễ, từ chối hỗn sự.
Shiro đang sung sướng ngất ngây, nghe thấy tin này lập tức tỉnh rượu, lẳng lặng quay trở trong phòng, mặc cho cha mẹ đập của thế nào cũng không chịu mở.
Anh ta nghiến răng quyết chí.
Giờ Dần, trăng lưỡi liềm lạnh lẽo treo trên bầu trời đêm rải đầy sao vụn mây tàn. Trong núi côn trùng rả rích, cỏ dại xào xạc, sương rơi oằn đầu lá, run rẩy ánh trăng bàng bạc thê lương.
Dân làng đều đã chìm vào giấc ngủ, không ai phát hiện ra có một bóng đèn treo tường lẻn vào trong sân nhà Saeko.
Shiro thở phì phò, mắt lộ hung quang, rón rén bò tới dưới cửa sổ phòng Saeko. Gió đêm lạnh lẽo thổi vào cơ thể đầm đìa mồ hôi khiến hắn rùng mình tỉnh lại từ trong cơn mụ mị của dục niệm.
Nếu bị bắt, hắn sẽ bị trói trên đỉnh núi cho đến khi thành xác khô.
Đang do dự, hắn bỗng nghe thấy có tiếng hổn hển vọng ra từ phòng của Saeko.
Shiro sững sờ, Cơn ghen tuông dấy lên ngùn ngụt, thầm nghĩ quả nhiên quả phụ chẳng có ai tiết tháo, không biết đã dan díu với tên chó má nào, chẳng trách từ chối hôn sự với mình.
Hắn đưa ngón trỏ lên thấm nước bọt, chọc thủng song cửa dán giấy, ghé một con mắt nhìn vào bên trong, và trông thấy một gã đàn ông trần truồng đang nhấp nhổm trên người Saeko.
Đột nhiên, cứ như đã phát giác ra bị nhìn trộm, gã đàn ông ngẩng phắt đầu nhìn ra ngoài cửa sổ.
Vừa nhìn thấy mặt gã, Shiro buột miệng rú lên một tiếng kinh động khắp ngôi làng.
11
Kể tới đây, Tsukino ngừng lại: “Có thuốc lá không?”
Có lẽ do câu chuyện quá đỗi ly kỳ, lại thêm chất giọng khàn khàn của Tsukino đặc biệt thu hút nên tôi nhanh chóng bị cuốn vào câu chuyện, nhất thời quên bẵng cả chuyện Nguyệt Bính. Nghe cô hỏi, tôi mới như choàng tỉnh, vội vã đưa cả thuốc lẫn bật lửa cho cô.
Tsukino rít một hơi thuốc, ho dữ dội, rõ ràng là cô nàng không biết hút thuốc. Tôi chỉ muốn vuốt lưng giúp cô nhưng lại không dám, đành phải xua xua tay cho khói tan bớt: “Shiro đã nhìn thấy gì?”
“Một tấm gương!” Tsukino có vẻ chẳng thích gì thuốc lá, chỉ kẹp hờ hững trong tay mặc cho nó tỏa khói. “Gương?”
“Đúng! Là một tấm gương! Trên cổ gã đàn ông ấy là một mặt gương phẳng lì!”
Tôi lập tức mường tượng ra cảnh tượng kinh dị ấy mà rùng mình. Nếu tôi là Shiro, khéo mà chết ngất tại trận chứ đừng nói đến gào với rú.
“Saeko quá thích ngắm mình trong gương, ngày nào cũng ngồi trước gương chải tóc, ngắm nghía từ sáng đến tối. Lâu dần, tấm gương đã hút lấy tinh khí trong cơ thể cô, khiến cô ta suy kiệt. Tấm gương hút đủ linh khí, dần dần có linh giác, biến hoá thành gương ma. Gương ma ngày ngày nhìn thấy dung mạo xinh đẹp của Saeko, đã si mê cô ta, do bản thân đã có sinh mệnh nên tìm cách báo ân. Gương ma biến thành thầy âm dương, dùng cách giao hợp để trả lại linh khí cho cô ta. Cho nên Saeko không những hồi phục, mà còn thu được linh khí của bản thân gương ma, càng trở nên quyến rũ. Thế nhưng, ma quỷ rốt cuộc vẫn là ma quỷ, tà khí của gương ma đã khơi dậy tâm ma trong Saeko, kích động cô ta giết chết người chồng Koji đã phát hiện ra chân tướng.”
“Sau khi gương ma và Koji chết đi, Saeko ngày ngày chỉ ngồi lì trong nhà soi gương chải tóc, càng yêu đắm đuối bản thân mình. Sự si mê đó kết hợp với yêu khí của gương ma đã giúp cô ta biến tấm gương trở thành một yêu quái mang cơ thể đàn ông.”
“Nghe thấy tiếng kêu rú kinh hãi của Shiro, dân làng vội vàng chạy tới, phát hiện ra Shiro đã chết ở dưới cửa sổ nhà Saeko. Cơ thể vẫn lành lặn nguyên vẹn, duy chỉ có đôi mắt cứ như pháo nổ, đã vỡ tung thành một đống thịt nát. Lại thêm nhiều ngày nữa trôi qua, người ta ngửi thấy mùi hôi thối từ trong nhà bà mai bốc ra bèn phá của xông vào, thấy bà mai đã chết từ bao giờ. Nghe nói bà ta bị một tấm gương dính chặt vào mặt như liền với da thịt, người ta cố gắng giật ra, kết quả là cả bộ da mặt cũng bị lột xuống theo. Anh có tưởng tượng được cảnh đó rùng rợn đến mức nào không?”
Nghĩ tới hình ảnh đó, tôi càng ớn lạnh trong lòng mà không nhận ra giọng nói của Tsukino đã khàn đặc: “Dân làng xông vào phòng ngủ của Saeko, chỉ nhìn thấy quần áo xếp ngay ngắn gọn gàng trên giường, cả tấm gương trên tường và Saeko đều đã biến mất. Nghe nói tấm gương đó tới bây giờ vẫn lang thang trên thế gian. Tương truyền phụ nữ nào quá yêu thích ngoại hình của bản thân, ngày nào cũng soi gương cả tiếng đồng hồ, liên tiếp bốn mươi chín ngày như vậy, dương khí trong cơ thể sẽ bị hút cạn, sức khoẻ kiệt quệ, và lại có thêm một tấm gương ma nữa xuất hiện...”
“Cho nên, anh hãy nhìn về phía sau mà xem!” Tsukino đột nhiên cao giọng, đôi mắt loé sáng, chỉ về phía sau tôi. Tôi giật nảy mình, vội quay phắt lại theo phản xạ. Sau lưng tôi chẳng có gì hết.
Tôi quay lại, Tsukino đã biến mất!
12
Tôi không còn đủ sức để sợ hãi. Cả khoang tàu rộng lớn chỉ còn lại một mình tôi, không gian yên lặng khủng khiếp, chỉ còn nghe thấy tiếng tim tôi đập thình thịch. Mọi người đều đã biến đi đâu rồi?
Tôi chỉ muốn bỏ chạy ngay ra ngoài, xông bùa vào một khoang nào khác, tìm kiếm hơi người để bút ra khỏi nỗi sợ hãi ghê gớm này.
Tôi nhao ra cửa, định làm như vậy thật.
“Bí Ngô, nếu gặp nguy hiểm, đừng quan tâm tới tao, cứ chạy trước đi đã!” Lời nói của Nguyệt Bính đột nhiên vang lên bên tai tôi. Tôi liền tự cho mình mấy cái bạt tai thật lực. Nguyệt Bính, Tsukino, Kuroba sống chết không rõ, nếu tôi cứ thế chạy trốn thoát thân thì có khác gì thằng hèn, tôi sẽ phải sống cả đời trong dằn vặt.
Cho dù chỉ còn lại một mình tôi, cũng phải đối mặt!
Tôi hít vào một hơi thật sâu, nặng nề quay trở vào trong phòng, đi tới trước bức tường đã từng treo tấm gương ma, đưa tay gõ nhẹ. Vẫn là tiếng bồm bộp rỗng tuếch. Chắc chắn phía sau bức tường này có gì bí ẩn. Tôi bắt đầu cố gắng nhớ lại từng tiểu tiết sau khi bước chân vào khoang tàu. Nhớ đến đoạn Tsukino bước tới cửa phòng gọi tên tôi, tôi bỗng chết sững.
Tại sao Tsukino lại gọi tên tôi?
Lúc đó, cô ấy chưa hề biết Nguyệt Bính đã mất tích, cho nên đáng lẽ cô ấy phải gọi tên Nguyệt Bính mới phải! Trừ phi có một khả năng, cô ta đã biết trong phòng chỉ còn lại mình tôi!
Tsukino... Gương ma...
Lẽ nào Tsukino chính là gương ma đã bắt tay với Jack từ trước, dụ chúng tôi lên tàu rồi bắt? Thế thì tại sao tôi không mất tích? Hay là tôi chẳng đáng để cho Jack phải bận tâm?
Tôi thở hắt ra, bóp óc suy nghĩ. Đột nhiên, tôi sực nhớ ra một chi tiết, vội vàng cắm đầu chạy vụt ra ngoài, quay về phòng của chúng tôi. Tôi gõ vào bức tường mà tôi đã úp mặt vào khi Nguyệt Bính biến mất, quả nhiên cũng phát ra tiếng bồm bộp rỗng tuếch.
Bức tường của hai gian phòng này đều rỗng ruột.
Nếu đúng như Tsukino nói, là gương ma tác quái, thế thì tới giờ tôi vẫn chưa tận mắt nhìn thấy cái thứ ấy. Nếu Tsukino chính là gương ma, cô ta đã không tha cho tôi.
Không chừng, gương mà chỉ là vật tung hoả mù, chứ nó chẳng hề có thật.
Tôi lại chạy sang căn phòng chính giữa, châm thuốc cho khói bay mù mịt. Tôi đóng cửa lại, cầm điếu thuốc lá đi vòng quanh phòng, quan sát hướng bay của khói thuốc. Khói thuốc giống như mạt sắt bị nam châm hút, chầm chậm bay về góc tây nam, chạy vào trong khe tường.
Và góc tây nam của căn phòng này cũng chính là góc đông nam của phòng chúng tôi.
Tôi tiến lại gần quan sát bức tường này. Trên tường chạm khắc hoa văn cổ quái, trông vô cùng hỗn loạn. Tôi đưa tay sờ lên những hoa văn ấy, cảm giác dưới những ngón tay hết sức lạ lùng, dường như có một đường vân quen thuộc đang dẫn ngón tay tối trượt đi.
Tôi móc gói vôi bột trong túi áo ra, rắc từ trên xuống dưới, một hình thù từ từ hiện lên trước mắt tôi.
Đồ hình quẻ Khôn trong Bát quái đồ!
Khôn, tây nam, nhị nhuế, cửa tử!
Phương vị đối diện với cửa tử trong Bát quái đồ là cửa sinh, chính là chỗ tấm gương từng treo. Nếu tôi không đoán lầm, mỗi một phương vị của gian phòng này đều có hình vẽ phương vị quẻ Bát quái.
Hai cái đồn hình tròn trong phòng, lúc đầu tôi không nhận ra, giờ nhìn lại, vừa khéo là vị trí mắt cá Âm, Dương
trong Bát quái. Tồi rải vôi bột lên trên bức tường đã từng xuất hiện tấm gương, hình vẽ của quẻ Cấn liền xuất hiện.
Cấn, đông bắc, bát nhâm, của sinh.
Hai tay tôi đặt trên hai đòn ngang của của sinh, đẩy mạnh vào trong, bức tường lõm vào nửa tấc. Toàn bộ bức tường bỗng rung lên khe khẽ, giống như sóng nước lan truyền sang hai bên, các hình quẻ Khảm, Càn, Đoài, Tốn, Chấn, Ly trên tường lần lượt rung động, lần lượt tỏa sáng, cuối cùng lan truyền tới phương vị Khôn ở cửa tử.
Bức tường chỗ tấm gương rung lắc một hồi rồi từ chính giữa nứt ra một khe hở, âm thầm trượt sang hai bên, từ bên trong chiếu ra một luồng sáng trắng chói mắt, kéo theo một làn khí lạnh lẽo âm u. Tôi nãy giờ căng thẳng chạy tới chạy lui, toàn thân mồ hôi ướt đẫm, bị khí lạnh phả thẳng vào người, sởn hết gai ốc.
Bức tường cứ mở rộng mãi sang hai bên. Hiện ra trước mắt tôi lúc này chính là cỗ quan tài quái dị với hai dãy nến xếp song song, một tấm gương treo trên tường.
Đây chính là trận Bát môn kim tỏa, không biết là ai bố trí, khi cỗ quan tài ma quái một lần nữa xuất hiện trước mắt, tôi bỗng toàn thân bủn rủn, hồn vía lên mây.
Khi hai bên vách tường hoàn toàn biến mất, căn phòng bên trong lộ ra toàn bộ, góc trong cùng bên phải xuất hiện một cái bàn nhỏ xíu, thù lù bốn con người quỳ thẳng đứng dưới đất, vây xung quanh bàn, giữa mặt bàn bốc khói trắng nghi ngút. Người quay lưng lại với tôi y phục trắng toát, tóc dài kín lưng ướt rượt, chầm chậm quay đầu lại, trong tay cầm một vật dẹp lép màu đen.
13
“15 phút 27 giây.”
Cô ta đặt đồng hồ đeo tay xuống, ghi vào cuốn sổ. Tsukino Kiyoe!
Đang trong trạng thái căng thẳng tột độ, vừa nhìn rõ bốn người này, tôi đã đờ ra như hoá đá.
Nguyệt Bính năng tách trà lên, chìa về phía người Nhật Bản vóc dáng ngũ đoản ngồi đối diện rồi đưa lên miệng nhấp.
Chẳng ai thèm quan tâm đến sự tồn tại của tôi, vẫn ung dung ngồi uống trà bên cỗ quan tài, trò chuyện rôm rả về trà đạo.
Tôi đã đoán ra, chắc chắn là tôi bị ăn quả lừa rồi. Tôi không nhẫn nhịn nổi quát lên: “Các người đang làm gì thế hả?”
“Anh đã vượt qua bài kiểm tra.” Tsukino chìa tay ra với tôi. “Nhật Bản chào đón anh!”
“Tôi chẳng hề muốn tham gia vào chuyện này chút chưa?” Tôi bực dọc kêu lên.
nào hết, các người nghe thấy “Khương Nam, sinh năm 1987, bát tự không rõ, thân thế không rõ.” Tsukino không đếm xỉa đến thái độ bất bình của tôi, cầm bản lý lịch trích ngang lên đọc, khi đọc tới câu “thân thế không rõ” thì dừng lại, như có điều suy ngẫm. “Người mắt đỏ do bị gieo cổ độc, sau khi đến Thái Lan đã cùng với Nguyệt Bính trải qua nhiều sự kiện quái dị. Cống hiến: không. Sở trường: không. Tính cách:
lạc quan, xốc nổi, nhát gan, không có chí tiến thủ. Triển vọng: đáng quan ngại.”
14
Tôi ngượng tới mức mặt mũi đỏ rần. Trước mặt bao nhiêu người mà bị người đẹp đánh giá chẳng ra sao, hiển nhiên chẳng phải chuyện vui vẻ, muốn nổi quạu nhưng chẳng có cớ gì.
“Bí Ngô, đừng cáu vội!” Nguyệt Bính thấy mặt tôi hầm hố quá thì vội dàn hoà. “Tsukino vừa nãy đã nói rồi, lần này tới Nhật Bản quá nguy hiểm, họ vốn không đồng ý cho mày tới. Nhưng tao nghĩ mày ở lại Thái Lan càng nguy hiểm hơn, không có tao bên cạnh, lỡ bị người khác hãm hại thì lấy ai bảo vệ mày? Thôi thì hai anh em chúng ta cứ sống chết có nhau vậy. Nhưng Tsukino vẫn đưa ra một điều kiện, chính là mày phải thông qua một bài kiểm tra.” Nguyệt Bính gãi mũi, nói tiếp. “Biểu hiện của mày đúng là ngoài sức tưởng tượng của tao đấy. Có vẻ như tao lo lắng cho mày là thừa thãi rồi. Mày yên tâm, sau này cho dù mày tới Nicaragua thăm bộ tộc ăn thịt người, tao vẫn sẽ yên chí về mày.”
Tôi nghe mấy câu cũng thấy nguôi nguôi, nhưng nghĩ lại thì càng bốc hoả: “Nguyệt Bính! Từ đầu mày đã biết được việc này rồi?”
Nguyệt Bính gật đầu, cười ngượng nghịu: “Bí Ngô, mày đừng trách tạo. Nếu mày không thể vượt qua bài sát hạch, mày sẽ không thể tới Nhật Bản. Nói cách khác, đây không phải là làm khó mày, mà là để bảo vệ mày.”
“Thôi đi, thằng chó!” Tôi hậm hực. “Mày cứ để tạo về nước luôn cho xong, lỡ mày có bề gì ở Nhật Bản, ít ra còn có tao ghi chép lại sự tích anh hùng của mày.”
Tsukino Kiyoe vẫn đang ghi chép vào cuốn sổ: “Trong lần sát hạch này, anh đã vượt qua hàng loạt các thử thách như sự sợ hãi về thị giác, sự quyến rũ của sắc đẹp, suy luận điểm sơ hở, khắc phục ngộ nhận thị giác, tinh thần chính nghĩa, kiến thức về trận pháp, Ngũ hành Bát quái. Hơn nữa, nhân thể cũng thông báo với anh, tính cho tới ngày nay, tổng cộng đã có bảy mươi bảy người tham gia bài sát hạch gương ma, trong đó chỉ có hai người vượt qua, bảy mươi lăm người bị đào thải, và anh tiêu tốn ít thời gian hơn người phía trước những 2,577 giây cơ đấy.”
Nguyệt Bính hơi vênh mặt lên: “Chuyện, anh em của tôi mà!” Và dựng ngón tay cái lên với tôi. Tôi hơi ngượng nghịu, cơn giận cũng nguôi ngoai ít nhiều, nhưng trong lòng vẫn tràn đầy nghi vấn.
“Chỉ là ăn may thôi!” Người đàn ông tướng ngũ đoản khinh khỉnh nói, khiến tôi nghe mà tức đỏ mắt.
“Sếp, xin đừng kỳ thị như thế. Khách quan mà nói, anh ta là người mới, trong lúc sợ hãi tột cùng, vẫn quyết định ở lại dũng cảm đối mặt với hoàn cảnh. Một người bình thường làm được như vậy là đáng nể lắm rồi.” Tsukino lên tiếng nói đỡ cho tôi, khiến cơn giận của tôi cũng nguôi ngoai đôi chút.
“Tôi muốn hỏi một vài vấn đề.” Tôi giơ tay lên giống như học sinh phát biểu trên lớp học. “Tại sao mọi người lại đột nhiên mất tích: Bóng ma bay trong hành lang vừa rồi là gì? Và cả dấu chân ma trước cửa phòng? Cái quan tài ở đây nữa?”
“Đột nhiên mất tích chính là kỹ xảo Độn thân lưu trong thuật ninja Nhật Bản.” Kuroba lên tiếng, không giấu nổi vẻ kiêu ngạo. “Người như anh làm sao có thể hiểu được.”
Tôi chỉ muốn táng cho hắn một đấm.
“Hai bóng ma ấy là có thực.” Nguyệt Bính chỉ vào cỗ quan tài. “Chính là hai cái xác dương nằm ở trong đây.”
“Xác dương?” Tôi ngơ ngác.
“Xác dương là chỉ những người chết rồi mà oán khí quá nặng, hồn ma không chịu bỏ đi, vẫn ở nguyên trong thi thể, không thể đầu thai chuyển kiếp. Họ không phải là ác ma, vì họ không thể nhập vào con người, chỉ nhập được vào thi thể của chính mình. Và thi thể sẽ không phân huỷ cho tới tận khi hồn ma đi đầu thai.”
“Sở dĩ có thể bố trí một căn phòng như thế này trên tàu, là bởi vì xác dương thích đất, nếu đặt ở chỗ khác hoặc hoả thiêu, hồn ma sẽ thực sự biến thành ác ma, làm hại nhân gian. Hơn nữa Nhật Bản còn có một phong tục rất lạ lùng, đó là mỗi một con tàu đều sẽ để trống một căn phòng, bên trong đặt quan tài và thi thể, sắp đặt bố cục quỷ trấn, nghe nói là để giữ bình an cho mỗi chuyến tàu. Đó chính là căn phòng mang số 1. Đó là bố cục Nhất Mục quỷ trấn để tưởng niệm thần rắn Yamata no Orochi của dân tộc Đại Hoà chúng ta, sẽ giúp con tàu bình yên trên biển cả.” Người đàn ông mang tướng ngũ đoản cao ngạo đáp.
“Yamata no Orochi? Thần linh của chúng tôi là rồng, còn của các ông là rắn. Hê hê...” Nguyệt Bính tưng tửng quăng ra một câu.
“Anh...” Ông ta đập bàn đứng dậy. “Tuy anh đã từng giao đấu chính diện với Jack ở Thái Lan, chúng tôi cần anh giúp đỡ, nhưng anh tuyệt đối không được lăng nhục dân tộc chúng tôi!”
“Không còn sớm nữa, tôi về đi ngủ đây!” Nguyệt Bính đứng dậy, vươn vai ngáp.
Tôi thấy ông người Nhật kia mặt mũi đỏ rần, chắc đang giận lắm, liền vội vàng theo Nguyệt Bính ra khỏi phòng, quay về phòng chúng tôi.
Lúc đi ngang qua Tsukino, tôi nghe thấy cô ta nghiêm túc nói: “Anh giỏi lắm.”
Tôi từ nhỏ tới lớn mấy khi được ai khen ngợi, nghe người đẹp nói vậy, cả người tôi lâng lâng như trôi trên mây, cảm động không để đâu cho hết.
15
“Nguyệt Bính này!” Tôi nằm trên giường, mắt thao láo. “Dương khí của chúng ta đã bị hút mất thật rồi phải không?”
Nguyệt Bính giận dữ đáp: “Có biết vừa rồi tại sao tao cứ tìm cách châm chọc lão già kia không? Lão già chết tiệt, lợi dụng vụ sát hạch dẫn hai chúng ta vào phòng quý trấn, rồi hút mất quá nửa dương khí của chúng ta, đảm bảo đủ cho cái bùa quỷ trấn này bảo vệ cho con tàu đến bảy năm nữa.”
“Bên trong Tôi lúc này mới bừng hiểu ra, nhớ lại tình hình vừa nãy, tuy đã biết được chân tướng nhưng vẫn chưa hết sợ: cổ quan tài có hai cái xác? Không thì tại sao lại có những hai hồn ma?”
“Một người, hai nhân cách.” Nguyệt Bính ngáp dài. “Mày không biết con tàu này tên là gì à? Hồi con tàu mới hạ thuỷ, đã xảy ra sự kiện tác giả truyện tranh tự sát, chết rất thê thảm, sự kiện chấn động một thời đấy. Thực chất, những người mang hai nhân cách chính là vẫn lưu giữ một phần ý niệm còn sót lại từ kiếp trước, thường là những ý niệm oán hận sâu sắc sau khi chết thảm, cho nên rất dễ mắc bệnh tâm thần phân liệt, biến thái. Sau khi chết đi, tự dưng cũng có hai phần hồn ma.”
Nghe nó nói vậy, tôi lập tức nhớ tới sự kiện tác giả truyện tranh tự sát nổi tiếng năm 1998, cũng đã nhớ ra tên của cô ta. Thảo nào lúc vừa lên tàu, tôi cứ cảm thấy tên tàu rất quen, nhưng không nhớ nổi vì sao.
“Tao vẫn còn một câu hỏi nữa.” Thực ra thì câu hỏi này chẳng liên quan gì tới sự việc tối nay, nhưng tôi tò mò muốn biết.
“Mười vạn câu hỏi vì sao.” Giọng Nguyệt Bính nhựa nhựa, chắc ngủ đến nơi rồi. “Hỏi gì thì hỏi mau lên.”
“Người vượt qua bài sát hạch trước đây là ai?”
“Ồ, ai ấy à? Một nhà ảo thuật người Đài Loan, rất nổi tiếng.” Nguyệt Bính thở hắt ra. “Tao cũng không ngờ đấy, cứ ngỡ những trò ảo thuật ấy chỉ là lừa người, hoá ra ông ta là có bản lĩnh thực sự.”
“Phải rồi, còn một chuyện nữa!” Nguyệt Bính đột nhiên cao giọng. “Gian phòng này từng có người chết, sát khí quá vượng, tối ngủ khó tránh mơ thấy ác mộng. Nếu giật mình tỉnh giấc, tuyệt đối không được lau mồ hôi lạnh trên trán, đó là sát khí được dương khí trong cơ thể ép ra, nhất thiết không được động vào. Lập tức thổi ba lần lên gối, rồi đưa tay vuốt ba lần, sau đó lật ngược mặt gối lại ngủ tiếp. Cũng không được kể với ai về giấc mơ. Đừng hỏi tại sao, có một vài việc tao cũng không nói nhiều được.”
Tôi nghe Nguyệt Bính nói vậy thì cũng không dám hỏi nữa, trên trán rịn ra từng giọt mồ hôi lạnh toát to bằng hạt đỗ tương.