Thẩm Lan một đường đổi qua nhiều thuyền nhỏ, vì những người lái thuyền nhỏ đa số đều không biết chữ, không ai đề cập tới giấy thông hành cả.
Thẩm Lan vừa đi hỏi thăm, vừa đổi thuyền, đi ba ngày ba đêm không ngừng, cuối cùng nàng đã tới được trạm Càn Ninh.
Càn Ninh là trạm lớn tọa lạc tại Thương Châu, cách điểm dừng chân Tô Châu chỉ mới một phần tư quãng đường.
Nếu lại tiếp tục ngồi thuyền nhỏ, không tính tới việc phải lo lắng đề phòng, cũng chẳng biết ngày tháng năm nào mới tới được Tô Châu.
Huống hồ tới được Tô Châu rồi, mà vấn đề giấy tờ vẫn chưa giải quyết, sẽ bị liệt vào loại hộ tịch ẩn (1).
Người mang hộ tịch ẩn mà không nương nhờ thế gia đại tộc, lại không có thân bằng quyến thuộc ở địa phương, nhỡ may bị đánh chết ở đầu đường cũng chẳng ai đi báo quan cho.
Thẩm Lan nhanh chóng quyết định, nhân lúc Tô Châu cách Thương Châu khá xa, thuộc địa phận hai tỉnh khác nhau, nàng phải nắm được giấy thông hành của Thương Châu.
Chỉ có như vậy, sau này tới được Tô Châu, hai nơi khoảng cách xa xôi, quan phủ rà soát khó khăn, mới khó bị lộ tẩy hơn.
“Xin hỏi huynh đài, ở đây có tiệm quần áo cũ nào không?” Thẩm Lan đứng trên phố, hỏi ngẫu nhiên một người.
“À, đi tới hai dặm, chỗ tiệm vàng có một tiệm quần áo cũ đó, giá cả cũng phải chăng.”
Thẩm Lan lại hỏi thêm vài người, nhận được những câu trả lời không giống nhau.
Cuối cùng nàng đành chọn cái gần nhất, đi vào mua một cái áo trực chuyết màu xanh sẫm.
Lan sam đa phần là sĩ tử, học trò mặc, mà trực chuyết thì cả con đường ai cũng mặc.
Thẩm Lan mặc cái áo trực chuyết thường thường này lên, ra cửa hỏi thăm một đường, nàng cuối cùng hỏi được tới một gia đình nghèo khó, trong nhà chỉ có người già trẻ nhỏ, không có người trong độ tuổi lao động.
Nhà tranh bên bờ sông, lau sậy mọc dại hai bờ, bầu trời mưa dột, mặt đất gió lùa, Thẩm Lan nhón chân nhảy qua mấy vũng bùn, theo chân người phụ nữ lớn tuổi dẫn đường cho nàng, cuối cùng cũng tìm được một nơi đúng yêu cầu.
“Triệu Tam ca, mau ra đây!” Giọng Vương đại nương vang lên lảnh lót, chưa tới gần đã hô lên: “Việc vui đấy! Họ hàng nhà ông tới tìm!” Người này ăn mặc gọn gàng ngăn nắp, nhìn không giống tới tống tiền, nhất định là việc vui rồi.
“Ca ca là ai?” Đứa nhóc mới nhặt củi về để mông trần, mang đôi giày rơm đã mòn rách, hai cánh tay gầy như chỉ bằng que trúc, tay nó ôm một bó cây khô, đứng ngẩng đầu nhìn nàng.
Thẩm Lan sờ sờ đầu đứa nhóc, cười nói: “Ta là họ hàng của em, tới để nương nhờ.”
“Ông ơi ——” đứa nhóc gọi một tiếng, rồi chạy vào phía trong.
Thẩm Lan quay người nhìn Vương đại nương, cười nói: “Vương nương tử, ta đã tìm được người, phiền bà quá.” Dứt lời, lấy ra hai văn tiền đưa cho bà.
Tuy không nhiều lắm, nhưng chỉ là dẫn đường thôi mà cũng nhận được hai văn tiền, phải vui chứ: “Ai da, ai lại lấy tiền.” Vương đại nương hơi đẩy, cuối cùng cũng nhận lấy, lại nhiệt tình nói: “Có cần ta giúp gì thêm không?” Nói rồi, còn nghiêng người nhìn vào bên trong.
Thẩm Lan cười nói: “Ta cùng ông lâu ngày không gặp, muốn trò chuyện vài câu.”
Vương đại nương thấy không nghe ngóng được gì, uể oải đi về.
Thẩm Lan thấy bà đi rồi, chuẩn bị lại gõ cửa thì đứa nhóc kia lại chạy ra đứng trước cửa, căng thẳng nói: “Ông nội nói không có họ hàng.”
Thẩm Lan nghĩ thầm, bây giờ không phải đã có rồi sao? Nàng cười rộ lên, móc ra năm văn tiền đưa cho đứa nhóc: “Cho em, mua kẹo ăn.”
Đứa nhóc hân hoan phấn khởi: “Cảm ơn ân công thưởng cho!” Nhà nghèo khó, lớn lên bằng tình thương của mọi người nên mồm mép cũng ngọt như mía lùi.
“Mời ân công vào nhà.” Dứt lời, nó lấy tay quệt nước mũi, dẫn Thẩm Lan đi vào.
Thẩm Lan dọc đường dù đã thấy nhiều những cảnh khốn cùng, lòng nàng rốt cuộc vẫn khó chịu như cũ.
Nàng thở dài một tiếng, theo chân đứa nhóc đẩy cánh cửa cũ nát ra.
Nhà nhỏ mới tụ nhiệt được, vì vậy mà gian nhà này nhỏ đến độ chỉ có một tấm ván cũ nát, chất đầy những rơm rạ bụi bặm, bên cạnh còn có vài cái vại nứt, mấy mảnh ngói bể, góc tường có mấy tấm chiếu sậy nằm cuộn tròn.
Thẩm Lan cúi đầu, thấy trên đống rơm rạ có một ông lão khô gầy đen đét, đôi tay sưng tấy nứt nẻ, có vẻ là do nứt da lâu ngày không lành.
Ông mặc bộ đồ vải dệt tay vừa cũ vừa bẩn, hai tay thoăn thoắt không ngừng đan chiếu cỏ.
Thảo nào lại chọn sống cạnh bờ sông mọc đầy cỏ lau.
“Ngươi làm gì?” Ông lão kia rõ là vốn định quát nàng vô cớ xông vào, nhưng thấy nàng áo quần là lượt, sợ chọc phải quý nhân, thế nên câu chất vấn bỗng trở nên hụt hơi, chột dạ.
“Lão bá, ta có một giao dịch muốn nói với ngài.” Thẩm Lan cười nói: “Có thể bảo đứa nhỏ ra ngoài một lát được không.”
Ông lão vội ôm chầm lấy đứa cháu, phun ngụm nước bọt về phía nàng: “Lão đây không bán cháu.”
Thẩm Lan lắc đầu: “Ta không phải bọn buôn người, ta là đến mua chiếu cỏ này đây.”
Ông lão sửng sốt, đẩy đứa cháu ra, bảo nó đi ra ngoài.
Thấy cháu đi hẳn, ông mới cảnh giác nói: “Một tấm chiếu năm văn tiền, không bán chịu.”
Ngày ngày vất vả, mỗi ngày cũng chỉ đan được hai tấm chiếu, kiếm mười văn tiền.
Thẩm Lan thầm thở dài, lấy ra năm mười văn, trải xuống mép giường.
Ông lão giật mình, vội hỏi: “Ngài cần mười tấm chiếu?”
Thẩm Lan thở dài một tiếng: “Không phải chiếu, lão bá, không giấu gì ông, ta là từ nơi khác tới buôn bán, ai ngờ trên đường gặp phải nhà đò gian ác, định giết ta cướp tiền, cũng may ta cảnh giác, bỏ hết hàng hóa mà nhảy thuyền trốn đi.
Còn thừa lại chút tiền phòng thân giấu trong áo lót, nếu không lúc này cả bộ quần áo cũng mua không nổi.”
“Ngày đó ta bám vào mảnh gỗ trên sông trôi dạt tới nơi này, tai qua nạn khỏi, vốn định đi báo quan, rồi lại cảm thấy cổng nha môn đi dễ về khó, bây giờ chỉ muốn tìm người bảo lãnh cho ta đi làm giấy thông hành, để ta có thể sớm ngày trở về quê cũ.”
Ông lão nghe xong, hơi trù trừ.
Thẩm Lan thấy vậy, lại lấy ra năm lượng bạc vụn: “Lão bá, năm mươi văn kia là tiền trả trước, đợi làm xong việc, năm lượng bạc này sẽ về tay ông.”
Biểu cảm trên khuôn mặt khô gầy quắt queo của ông lão bỗng dại ra, giống như chưa kịp phản ứng với những gì vừa nghe được.
Một lúc sau, ông mới run run đáp: “Được được! Năm lượng! Năm lượng! Ta sẽ ra bảo lãnh.”
Thẩm Lan mỉm cười: “Nếu vậy, lúc ngài đi gặp trưởng thôn để làm giấy, có thể miêu tả đặc điểm của ta là người cao sáu thước, trên mặt không có vết rỗ, cổ tay trái có nốt ruồi son.”
Khai khống chiều cao lên, lại thêm một nốt ruồi son để ngụy trang, Bùi Thận lần này dù tra được giấy thông hành, cũng không thể chỉ nhìn vào đó mà nhận ra nàng được.
Ông lão nhìn năm lượng bạc, cố bình tĩnh đáp: “Được.” Là năm lượng đấy! Cho dù bảo ông đi ăn cướp, ông cũng sẽ đồng ý.
Thẩm Lan cười nói: “Đã thế, chạng vạng ta sẽ quay lại lấy giấy thông hành, được chứ?”
Ông lão gật đầu, lập tức gọi cháu trai vào, bảo nó trông chừng nhà, còn mình thì vội vàng đi tìm trưởng thôn.
Thẩm Lan dặn dò: “Lão bá, tiền bạc chớ đừng lộ ra, mong ngài đừng đề cập ta với ai, chỉ nói ta là họ hàng xa tới cậy nhờ, bây giờ muốn ra ngoài buôn bán, mới cần một tấm giấy thông hành.” Dứt lời, thấy ông lão đồng ý, nàng mới quay người rời đi.
Đợi đến chạng vạng, Thẩm Lan cuối cùng lấy được giấy thông hành.
Không chỉ thế, trên đây còn chính thức ghi rằng, “Vương Lãm, người vùng Thương Châu, trấn Càn Ninh, ngõ Hà Pha, mười chín tuổi, cao sáu thước, mặt không có vết rỗ, cổ tay trái có nốt ruồi son.”
Hiện giờ, hộ khẩu của nàng là ở ngõ Hà Pha, trấn Càn Ninh của Thương Châu.
Giấy thông hành tới tay, Thẩm Lan lập tức chùi sạch bột nghệ trên mặt, lại đi tiệm quần áo cũ khác, mặc bộ trực chuyết tầm thường, vào mua một bộ lan sam mới màu xanh ngọc.
Chiều cao của Thẩm Lan chừng một mét sáu lăm, mang giày vải vào, lại đội khăn vuông lên, nhìn sơ ước chừng tầm mét bảy, ở phương nam, đàn ông có chiều cao này rất phổ biến.
Đây cũng là một trong những lý do vì sao Thẩm Lan chọn xuôi nam chứ không lên bắc.
Người phương bắc cao to, Thẩm Lan lẫn vào đó sẽ dễ thấy sự chênh lệch.
Làn da nàng tuy trắng nõn, khuôn mặt hài hòa, nhưng lúc này mặc lan sam của giới học trò, văn nhân hay mặc, thư sinh tay trói gà không chặt, da trắng cũng bình thường.
Hơn nữa dùng cổ áo che khuất yết hầu, mặc lan sam to rộng thùng thình để che đi vòng eo liễu, cạo chút vôi tường để bôi vào lỗ tai, cố ý trầm giọng lúc nói chuyện, đi đường ưỡn ngực ngẩng đầu, Thẩm Lan lúc này nhìn chỉ giống một thư sinh dung mạo có phần xinh đẹp, nữ tính mà thôi.
Thay bộ lan sam mới, hơi chải chuốt sơ qua, Thẩm Lan đi thẳng về phía bến tàu, chọn thuyền lớn chở khách đến Tô Châu, kiểm tra lại giấy thông hành, rồi lên thuyền hướng về phía Tô Châu.
Đêm nay, Thẩm Lan ngủ trong khoang thuyền chật hẹp, nhìn xuyên ô cửa sổ nhỏ trông ra, thấy bên ngoài trăng sáng treo cao, những vì sao như đang rơi xuống, khói sóng trên sông tản ra, nước gợn mênh mông sóng sánh.
Nhìn một lúc, Thẩm Lan bật cười khe khẽ, nằm xuống giường, thả lỏng tinh thần rồi chìm vào mộng đẹp.
Ngày hôm sau, gà trống gáy báo hiệu trời đã sáng, Thẩm Lan ăn màn thầu xong thì định dạo quanh trên thuyền một chút.
Hôm qua lúc lựa thuyền để đi nàng có hỏi người lái, nghe bảo rằng thuyền này có chở mấy sĩ tử.
Mới ra khoang thuyền, Thẩm Lan đã trông thấy nhóm sĩ tử mặc lan sam đang tụ tập tán gẫu trên boong thuyền.
Trong đó có hai người tuy mặc áo lụa Hồ Châu, nhưng lại chỉ mang giày vải xanh thường thường.
Hai người khác thì mặc áo gấm, đeo dây bạc, túi thơm ngọc bội, vừa nhìn đã biết xuất thân từ gia đình giàu có.
Thẩm Lan nhìn nhìn, cũng không nói gì, chỉ đứng lặng yên ngắm cảnh.
Nàng đứng đấy một lát, trong đám sĩ tử chợt có người cất lời hỏi: “Vị huynh đài này, có phải cũng đi phủ Tô Châu tham gia thi hương?”
Thẩm Lan cười khẽ, nàng đã nhiều ngày mặc áo lan sam riêng của giới đọc sách, lại để lộ dung mạo thanh lệ, ngụy trang thành một thư sinh hơi gầy yếu nhưng dáng vẻ đường hoàng, khí chất nổi bật, rốt cuộc quý nhân mà nàng đang đợi cũng xuất hiện.
Thẩm Lan quay người lại, mỉm cười đón người tới, chắp tay nói: “Các vị huynh đài, tiểu đệ không phải đi tham gia thi hương, chỉ là nhà nghèo, muốn đi về phủ Tô Châu tìm kế sinh nhai mà thôi.”
Lời này chính ra không giả, phủ Tô Châu là một trong những trung tâm kinh tế lớn, vô cùng phồn hoa và trù phú, số lượng nhà nghề thủ công lên đến hàng vạn hộ, nhà nhà đều có thể nghe thấy tiếng máy dệt, tức là nơi đây sẽ có một lượng lớn lao động là nữ.
Phàm là những nơi có lực lượng lao động nữ giới đông đúc, nếp sống nơi đó có lẽ sẽ không quá bảo thủ, địa vị nữ giới cũng không quá mức thấp kém.
Ngộ nhỡ có ngày thân phận nữ của Thẩm Lan bại lộ, nàng cũng không đến mức cùng đường.
Thẩm Lan nói rồi lại cười khổ một chút: “Ta vốn là người Thương Châu, cha mẹ đều mất cả, cũng không muốn tiếp tục tiêu phí thời gian vào con đường khoa cử.
Nam nhi chí ở bốn phương, nghe nói phủ Tô Châu hội tụ cảnh sắc các nơi, thế nên định tới lang bạt một phen.
Mai đây nếu có ngày công thành danh toại, cũng coi như an ủi anh linh cha mẹ nơi chín suối.”
Lời nói có thứ có tự, rõ ràng đã từng đọc sách, lại thêm vài phần âm điệu hào hùng, khiến bốn sĩ tử đi cùng tin tưởng không hề hoài nghi.
Bốn người bọn họ học cùng trường, tuy trẻ tuổi đã ra ngoài đi học, nhưng cha mẹ ở nhà vẫn còn khỏe mạnh đầy đủ, nghe thế bỗng sinh lòng thương hại.
Trong đó có một người trông rất tuấn tủ mở miệng nói: “Không biết huynh đài họ gì?”
Thẩm Lan trao đổi tên tuổi ngày tháng với bọn họ, mới biết nàng lớn thứ ba, người nhỏ nhất trong đám mới mười sáu tuổi.
Cũng đúng, văn học vùng Giang Nam phát triển phồn thịnh, sĩ tử trẻ tầm mười bốn mười lăm đã ra thi cử nhân rồi.
Người nhỏ nhất kia vốn tưởng bộ dạng Thẩm Lan như vậy, có lẽ tuổi cũng không bao lớn, đang hy vọng đối phương nhỏ tuổi hơn, ai ngờ cuối cũng vẫn lớn hơn hắn tận ba tuổi, khiến hắn hơi chán chường.
Thẩm Lan thấy hắn hắn rầu rĩ không vui thì cười nói: “Cảnh đệ, đệ có lẽ chưa đủ hiểu được cái tốt của việc còn trẻ tuổi.”
Lý Cảnh buồn bực đáp: “Trẻ tuổi thì có gì tốt?”
Thẩm Lan cười: “Tuổi trẻ chạy nhanh, có thể trước tiên nắm được nhành quế chứ sao.”
Mọi người sửng sốt, rồi thoáng chốc cười vang lên.
Câu này nghe như câu bông đùa, lại mang hàm ý chúc hắn “thiềm cung chiết quế” (2), chính Lý Cảnh cũng không nhịn được mà bật cười.
Bầu không khí lúc này tràn ngập niềm vui thoải mái.
Cả đám đều là người trẻ tầm mười bảy mười tám, có người tuấn tú bỡn cợt nói: “Cảnh đệ tuổi trẻ chạy nhanh, huynh đây già nua chắc không hái kịp, mong Cảnh đệ nghỉ chân chờ một chốc, để nhành quế có thể rơi vào lòng huynh.”
Nghe vậy Thẩm Lan cũng nhịn không được cười rộ lên.
Lý Cảnh bị trêu đến xấu hổ, “Duy Học huynh, huynh năm nay mới mười chín, già đâu mà già!”
Dương Duy Học vội vàng xua tay, nghiêm mặt: “Dù sao cũng không trẻ bằng Cảnh đệ.”
Mọi người lại cười ầm lên.
Vương Chí Toàn lớn tuổi nhất cười chỉ vào Dương Duy Học, lại chỉ vào Thẩm Lan nói: “Dương Duy Học ơi là Dương Duy Học, sợ là đệ cũng không đoán được có ngày lại gặp kỳ phùng địch thủ, tương ngộ lương tài thế này!”
Dương Duy Học cảm thấy tiểu huynh đệ Vương Lãm này rất là dí dỏm, đáp: “Đúng đấy đúng đấy! Có điều trước mắt ta và Lãm đệ vẫn chưa phân cao thấp thế nào.”
Nói rồi, ánh mắt hắn đảo qua những người xung quanh một lượt: “Chờ mai đây tới dịp, lại tìm đối tượng khác để trêu đùa, quyết phân thắng bại.”
“Đừng đừng đừng!” Những người khác lập tức xin tha.
Thẩm Lan nghiêm mặt tiếp lời: “Tiểu đệ nhận thua, Duy Học huynh chắc chắn xứng danh kẻ thích đùa nhất vùng Giang Nam này.”
Mọi người lại cười vang lên, chính Dương Duy Học cũng cười nghiêng ngả.
Chuyện trò một lúc, khoảng cách của Thẩm Lan cùng đám người đã sát gần lại, nàng muốn nhân cơ hội hỏi thăm nơi nghỉ trọ an toàn ở Tô Châu, ở đâu có người môi giới uy tín, đáng tin, vân vân…
Dương Duy Học tự xưng là bạn cố tri với Thẩm Lan, mới nói: “Lãm đệ đừng lo, nhà huynh ở Tô Châu cũng coi như là có mấy phần tiếng tăm, đến lúc đó huynh khiến lão bộc dẫn đệ đi là được.”
Thẩm Lan mừng trộm, đây chính là ưu điểm của việc quen biết quý tộc.
Tháng tám mùa thi, các sĩ tử trở về nguyên quán để tham dự kỳ thi hương, đặc biệt là những người quần là áo lượt, quý giá đẹp đẽ, đều xuất thân là con cháu quý tộc ở địa phương.
Có những người này săn sóc, sẽ không sợ bị nha dịch ức hiếp, lằng nhằng, muốn làm việc gì cũng có người dẫn đường cho.
Thẩm Lan hớn hở, vội nói: “Hôm nay cậy nhờ ơn nghĩa của Dương huynh, ngày sau nếu có thể giúp được gì cho huynh, Dương huynh cứ việc sai phái.”
Dương Duy Học thấy nàng biết nhớ ơn, lòng cũng vui sướng: “Lãm đệ ngàn dặm xa xôi tới Tô Châu, vi huynh sao có thể không bày ra đủ lễ đãi? Chờ đến Tô Châu rồi, vi huynh dẫn đệ tới Tùng Hạc Lâu, cẩn thận tế bái miếu Ngũ Tạng (3) một phen.”
Thẩm Lan chắp tay: “Nếu Tùng Hạc Lâu mà đắt đỏ quá, ta chỉ đành ở lại rửa chén gán nợ cho người ta.”
Mọi người cười ha hả, Vương Chí Toàn chỉ chỉ Dương Duy Học: “Tùng Hạc Lâu đó là nhà hắn mở, Lãm đệ cứ việc ăn uống no say đi!”
Đoàn người vừa nói vừa cười lại bàn đến phong cảnh Tô Châu, cả thuyền đều tràn ngập tiếng cười vui rộn rã.
Giờ này phút này, đặt mình giữa đám người, tận tình trò chuyện, không có gò bó trói buộc, Thẩm Lan mới có cảm giác được sống sót sau tai nạn.
Nàng thầm cảm thấy may mắn, dõi mắt nhìn ra bầu trời xanh mênh mang, mặt sông mênh mông cuồn cuộn vô bờ, thuyền lớn giong buồm, rẽ sóng lướt đi.
Trời cao sông dài, tâm sự tiêu tán.
Dương Duy Học thấy cảnh này, chớp mắt nhìn Thẩm Lan cười: “Lãm đệ nhìn cảnh sắc này, phải chăng nổi hứng làm thơ?”
Thẩm Lan biết hắn lại định trêu chọc nàng, bật cười sang sảng: “Quả thật cũng nhớ tới thơ của Lý Thái Bạch.”
Dương Duy Học trầm ngâm: “Có phải câu “Đường đi khó! Gian nan hành lộ! Nhiều ngã ba biết phía nào đi?” ”(4)
Thẩm Lan cao giọng cười, tiếp lời: “Gió to sóng lớn có khi.
Giương buồm mây thẳng phi vào biển xanh!” (5)
Hai người nhìn nhau cười, chỉ cảm thấy hào khí biển hồ, phong cảnh nơi quan ải (6), vạn dặm núi sông đều ở trong lòng.
(7)
Chú thích:
1) Ẩn hộ: trong xã hội phong kiến, người dân hay bỏ xứ ra đi để trốn thuế, sưu, tránh bị bắt làm nô lệ.
Những người này sẽ không có hộ khẩu, và không bị trưng binh.
Tương tự như những người không có giấy tờ tùy thân ở hiện đại vậy (Thông tin tổng hợp dịch thô từ Baidu)
2) thiềm cung chiết quế: bẻ được nhánh quế trên cung trăng, chỉ việc thi cử đỗ đạt
3) Tế miếu Ngũ Tạng: tiếng lóng chỉ việc ăn uống
4,5): hai câu cuối trong bài Hành lộ nan 1 của Lý Bạch – thời Đường
Hành lộ nan kỳ 1
Kim tôn thanh tửu đẩu thập thiên,
Ngọc bàn trân tu trị vạn tiền.
Đình bôi đầu trợ bất năng thực,
Bạt kiếm tứ cố tâm mang nhiên.
Dục độ Hoàng Hà băng tắc xuyên,
Tương đăng Thái Hàng tuyết ám thiên.
Nhàn lai thuỳ điếu toạ khê thượng,
Hốt phục thừa chu mộng nhật biên.
Hành lộ nan! Hành lộ nan!
Đa kỳ lộ? Kim an tại?
Trường phong phá lãng hôi hữu thì,
Trực quải vân phàm tế thương hải.
Dịch thơ – bản dịch của Nguyễn Minh trang Thivien.com
Chén rượu ngọt mười ngàn một đấu
Mâm món ngon giá đáng vạn tiền
Quăng ly bỏ đũa ưu phiền
Rút gươm ngơ ngác đứng nhìn chung quanh
Muốn vượt sông Hoàng băng làm tắc
Lên Thái Hành lại tuyết tối trời
An nhàn câu cá chơi thôi
Bỗng dưng mơ phía mặt trời thuyền nan
Đường đi khó! Gian nan hành lộ!
Nhiều ngã ba biết phía nào đi
Gió to sóng lớn có khi
Giương buồm mây thẳng phi vào biển xanh.
6) hồ hải hào khí, quan tắc phong cảnh: trích từ bài Thủy Điệu Ca Đầu của Trương Hiểu Tường
7) vạn lí sơn hà câu tại hung hoài trung: trích từ bài Tặng Bùi thập tứ của Lý Bạch.