Trâm 4 - Chim Liền Cánh

Chương 1

Chương 1

Nghê Thường Vũ Y

Trăng Trung thu sáng vằng vặc.
Bóng quế đung đưa, hương thơm ngan ngát. Trời vừa chạng vạng, vô vàn ngọn đèn lồng bọc sa mỏng đã được thắp trên cây quế, soi bóng xuống mặt nước lung linh, điện ngọc lầu quỳnh, bóng hoa gió lộng, nhất thời chẳng biết là cảnh nhân gian hay tiên cảnh nữa.
Trong ngôi đình nhỏ bên bờ nước, tiếng đồng ca của các ca nữ nghe còn rõ hơn tiếng trúc tơ. Trên vũ đài, ba mươi thiếu nữ vận áo gấm nắm tay nhau cùng múa. Đeo châu giắt ngọc, áo khăn lộng lẫy, hoa lệ vô vàn.
Hoàng Tử Hà ngồi sau bức rèm ở nhà thủy tạ cùng nữ quyến, nghe tiếng ca theo gió đưa tới. Đây là vườn hoa phủ tiết độ sứ Tây Xuyên, hôm nay là Trung thu, tiết độ sứ Phạm Ứng Tích bày tiệc tại phủ mời Quỳ vương Lý Thư Bạch. Về phần Hoàng Tử Hà thì được Phạm phu nhân đưa thiếp mời, cùng mấy cô nương họ Hoàng tới thưởng thức điệu Nghê Thường.
Sau loạn An Sử, điệu múa này đã thất truyền, nhưng giờ kỹ viện ở Dương Châu tham khảo các nghệ nhân lão thành tại giáo phường rồi dựng lại, nghe nói đã đạt đến tuyệt đỉnh tinh hoa.
Khách nam được tiếp đãi ngoài đại sảnh, còn Hoàng Tử Hà cùng nữ quyến thì ở phía sau. Giữa nhà thủy tạ treo bức rèm trúc, sau rèm trúc lại buông một lớp màn the, nên ngồi bên trong nhìn ra, các vũ nữ phía ngoài cũng mờ mờ ảo ảo, như ngắm hoa trong mây mù.
Các phu nhân tiểu thư vừa thưởng thức vừa tranh thủ tán gẫu, câu được câu chăng.
“Tử Hà tỷ, đại ca muội cứ luôn miệng nhắc đến tỷ, hôm qua còn huênh hoang rằng tỷ và huynh ấy thông minh ngang nhau, bị muội mắng cho một trận. Hừ, huynh ấy mà đòi sánh với tỷ ư?” Chu Tử Yến ngồi bên cạnh chống cằm nhìn cô cười, “Theo muội thấy, tỷ nhất định là cô gái hoàn mỹ nhất trên đời!”
Hoàng Tử Hà ngượng nghịu cúi đầu: “Đâu có.”
Chu Tử Yến giống hệt Chu Tử Tần, rất giỏi tự nói tự nghe, chẳng buồn quan tâm người khác ra sao, cứ thế thao thao bất tuyệt: “Rõ là thế mà! Tỷ tỷ xinh đẹp, dòng dõi thế gia, lại là tài nữ lừng danh thiên hạ. Chồng chưa cưới là đích tôn chi trưởng họ Vương Lang Gia, sau này tỷ gả vào đó khỏi cần nghĩ cũng biết là mỹ mãn một đời.”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ cúi đầu, chẳng biết trả lời ra sao, chỉ nhìn qua hai lớp rèm, dõi mắt về phía Vương Uẩn. Tuy chỉ thấy thấp thoáng bóng hình, song phong tu xuất chúng nọ cũng đủ khiến muôn ngàn thiếu nữ xiêu lòng.
Vị hôn phu cô đã đính hôn từ nhỏ xuất thân con nhà gia thế, phong nhã hào hoa, lời nói cử chỉ đều khiến người ta như được tắm gió xuân. Vậy mà, dù biết là không nên không phải, cô vẫn không thể kìm lòng nảy sinh tình cảm với Vũ Tuyên, kẻ mồ côi được cha mẹ cô nhận nuôi.
Bức thư tình cô gửi Vũ Tuyên đã trở thành chứng cứ khép tội cô hạ độc giết cả nhà, trong lúc chạy trốn lên kinh tìm cách minh oan, cô gập được bước ngoặt quan trọng nhất trong đời.
Ánh mắt cô vượt qua Vương Uẩn, dừng lại ở một bóng người xa hơn.
Giữa cả đám người xúm xít ton hót lấy lòng, y càng lộ rõ vẻ thanh cao ngạo nghễ, toa nhã hào hoa. Quỳ vương Lý Thư Bạch, kỳ tích trong đời cô, cứu tinh giữa lúc tuyệt vọng của cô, người đã khiến cô gạt bỏ tất cả dự định ban đầu, tiếp nhận vụ án đầu tiên bên cạnh y, đổi lấy lời hứa y giúp cô quay về Thục, lật lại bản án của gia đình, minh oan cho chính bản thân mình.
Giờ đây, y đã đưa cô về phủ Thành Đô, vụ án nhà cô cũng sáng tỏ, song Vương Uẩn, chồng chưa cưới của cô lại âm thầm đuổi theo truy sát Lý Thư Bạch đến tận đây. Bất ngờ hơn là, sau khi mối tình của cô và Vũ Tuyên đã tai tiếng khắp nơi, ngay cả khi bị cô thẳng thừng vạch trần âm mưu ám sát Lý Thư Bạch, Vương Uẩn vẫn tìm tới gia tộc cô, nhắc lại chuyện hôn nhân.
Hai người bọn họ còn có thể kết hợp sao? Cuộc hôn nhân đính ước từ bao nhiêu năm trước, giờ đã vật đổi sao dời, lẽ nào cô vẫn phải tuân thủ ư?
Giữa lúc Hoàng Tử Hà thẫn thờ suy nghĩ, chợt nghe bên tai vang lên tiếng ồn ào. Cô ngoái đầu trông lại thì thấy tất cả vũ nữ có mặt đều đã lùi lại làm nền cho một nữ tử ăn vận lộng lẫy đang xoay tròn, hai tay buông nhẹ như gió vờn tuyết. Tơ lụa khoác trên người nàng bay tung, như mây như khói, vấn vít quanh gương mặt, như tiên nơi cung quế tỏa ánh hào quang. Mọi người xung quanh trầm trồ không ngớt, mãi tới khi mây màu che mờ cả vầng trăng, bóng giai nhân đã chìm khuất giữa đám người, mới định thần lại được.
Có người thắc mắc: “Là ai múa mở màn vậy?”
“Còn ai nữa? Là vũ nữ từ Dương Châu đến đó… Cũng có người nói là từ Bồ Châu. Tóm lại đó là chị em với hung thủ giết người Công Tôn đại nương hôm trước, bà ta ra sức ton hót lấy lòng Phạm tiết độ, nghe nói Phạm tiết độ đã nhận lời tha cho hai nữ phạm nhân kia rồi.”
Hoàng Tử Hà sực nghĩ đến một người, thất thanh buột miệng: “Là Lan Đại ư?” “Đúng đúng, hình như chính là cái tên này!”
Hoàng Tử Hà nhìn theo bóng Lan Đại thấp thoáng giữa đám người, không khỏi chạnh lòng cảm khái. Lan Đại đứng thứ ba trong Vân Thiều Lục Nữ, sở trường là những điệu múa uyển chuyển, cũng là người nghĩa khí nhất trong mấy chị em. Sau khi Mai Vãn Trí mất tích, chính Lan Đại đã tìm đủ mọi cách đưa Tuyết Sắc về nuôi nấng; giờ Công Tôn đại nương và Phó Tân Nguyễn xảy ra chuyện, cũng là Lan Đại bôn ba ngàn dặm đến cứu.
Người bên cạnh lại nói thêm: “Nghe nói cũng có chồng con rồi, thế mà còn không biết tự trọng, đi tô son điểm phấn múa hát mua vui cho người ta, chồng ả không bận lòng ư?”
Kẻ khác cười khẩy: “Vũ nữ bán nghệ, biết gì liêm sỉ? Đàn ông cưới hạng gái này về nhà, cũng rặt một phường hạ lưu thôi.”
Mấy vị phu nhân cuối cùng cũng tìm được chủ đề chung, rạng rỡ mặt mày xúm lại xì xầm tán gẫu. Còn mấy tiểu cô nương như Chu Tử Yến lại vừa tò mò vừa e sợ, nhìn Lan Đại đến ngây ra.
Hoàng Tử Hà bất giác thở dài, giữa tiếng sênh ca văng vẳng làm nền cho điệu Nghê Thường, cô thẫn thờ đi đến bên lan can, nhìn ra vầng trăng tròn soi đáy nước.
Gió thu dìu dịu, sóng gợn lăn tăn, kéo dài bóng trăng ra rồi thu ngắn lại, xao động không ngừng. Cô tựa lan can, chợt nghe một giọng lành lạnh khẽ vang lên bên tai: “Hoa thơm trăng sáng, cớ gì rầu rĩ chẳng vui?”
Cô ngoái lại, nhìn Lý Thư Bạch qua bức màn the. Mọi người ngoài đó đang mải thưởng thức điệu múa của Lan Đại, chỉ mình y để ý thấy cô lẳng lặng lẻn ra đây.
Hoàng Tử Hà cúi đầu dựa lan can, hơi ghé lại gần y đáp khẽ : “Nhớ người nhà thôi.”
Lý Thư Bạch lặng lẽ quay sang nhìn cô. Ánh trăng vằng vặc soi rõ đường nét gương mặt y, đôi mắt đăm đắm còn long lanh in sóng gợn, tưởng như sao trời lấp lánh mới sa vào. Giọng y trầm thấp mà từ tốn: “Người chết đã chết rồi, người còn sống phải gắng gỏi lên. Người nhà cô nhất định cũng mong cô sống vui vẻ, chứ đâu muốn thấy cô chìm trong đau khổ thế này.”
Cô chậm rãi gật đầu, cõi lòng cũng xao động theo bức màn the phơ phất giữa gió thu. Trên vai trái y là vầng trăng tròn vành vạnh, hắt chiếc bóng cao lớn rắn rỏi của y lên cô, vững vàng mà tin cậy.
Cô chỉ thấy một cảm xúc khó tả dâng ngập trong lòng, hơi mù như mây lan khắp lồng ngực, thế giới trước mắt mờ mịt hẳn đi, còn xa xăm mơ hồ hơn khúc nhạc theo gió đưa lại.
Hai người cùng lặng ngắm vầng trăng nhô lên từ mái lầu phía đằng Đông, tỏa ánh dìu dịu khắp mặt đất. Bên tai là tiếng tơ tiếng trúc, nhịp phách dồn dập, ba mươi vũ nữ càng múa cành nhanh, chẳng khác nào ba mươi đóa hoa gấm xoay tròn trên mặt nước, như gió như mây.
Bóng người loang loáng, tiêu sáo thổi dồn, song Lý Thư Bạch đang nghe lại hơi nhíu mày, khẽ ồ lên một tiếng.
Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Sao thế?” Y trầm tư đáp: “Cây không hầu thứ hai dường như có lẫn tạp âm kim loại.” Điệu Nghê Thường Vũ Y phải dùng đến rất nhiều nhạc cụ, lần này gần như đã huy động tất cả nghệ nhân ở phủ Thành Đô, thôi thì đủ cả, hai tỳ bà, hai cổ cầm, hai không hầu, một đàn sắt, một đàn tranh, một đàn nguyễn. Còn có hai tất lật, hai sáo, hai sênh, một tiêu, chuông, trống, thanh la, não bạt, khánh, v.v… cả ban hát hơn hai mươi người, theo lệ ngồi bên góc vũ đài diễn tấu.
Hoàng Tử Hà còn chẳng nhìn rõ người bên ấy, càng không hiểu tập âm kim loại mà y nói là gì, chỉ liếc qua rồi đáp bừa: “Chắc là gảy sai đấy thôi.”
Lý Thư Bạch quay sang cười với cô, không nói thêm gì nữa.
Hai người tựa vào lan can, cách một bức màn, cùng xem ca múa. Phía trên là đình đài lầu gác thắp đèn sáng choang, bên dưới là mặt hồ in bóng vũ nữ xoay tròn như gió, đôi hàng đều lộng lẫy xa hoa. Sóng gợn lăn tăn, ngạt ngào hương quế.
Đúng lúc ấy, chợt nghe loáng thoáng bên hồ có người hô hoán: “Không hay! Xảy ra chuyện rồi!” Hoàng Tử Hà vội nhìn theo, thấy tiếng động phát ra từ phía bụi xương bồ. Một tên đầy tớ hộc tốc chạy tới, vừa chạy vừa la: “Cứu mạng, cứu mạng! Có người chết!”
Vừa nghe hai tiếng “người chết”, Chu Tử Tần phản ứng nhanh nhất, lập tức chạy đến bên hồ.
Nữ quyến trong nhà thủy tạ sợ đến hồn phi phách tán, hốt hoảng ôm ngực, chỉ trừ Hoàng Tử Hà và Chu Tử Yến. Hoàng Tử Hà đứng dậy, nhìn qua bức màn ra ngoài, chợt nghe thấy giọng Lý Thư Bạch bình thản mà chậm rãi: “Đi thôi, qua xem thế nào.”
Cô gật đầu, vén rèm bước xuống thềm.
Bà mợ đi cùng cô đương hoảng sợ, thấy thế cuống quýt hỏi với theo: “Tử Hà, con đi đâu đấy?”
“Con đi xem người chết.” Hoàng Tử Hà cúi mình thi lễ với bà ta, rồi nhanh nhẹn quay người xăm xăm đi về phía bụi xương bồ.
Chỉ nghe tiếng bà mợ giậm chân đằng sau: “Con gái con đứa đi xem xác chết gì chứ…”
Hoàng Tử Hà lờ đi, hối hả chạy đến hiện trường.
Chu Tử Tần đang ngồi chồm hỗm giữa bụi xương bồ, xem xét thi thể nữ nằm sấp. Phần đầu chìm trong nước, vai và lưng nửa ẩn nửa hiện, từ eo trở xuống nằm trên nền đất bùn, hai tay vươn ra đằng trước, cắm vào bùn lầy, chết dưới nước trong một tư thế kỳ quái.
“Sùng Cổ! Mau lại đây xem cái xác này!” Chu Tử Tần đang bí, thấy cô đến thì vẫy tay lia lịa. Gã vẫn quen miệng gọi cô là Sùng Cổ, xem chừng không thể chấp nhận việc cô là con gái.
Hoàng Tử Hà đi đến gần, nhận ra phía trước là bùn lầy mà mình lại đang đi giày tơ, vận váy xếp nếp, không tiện lội xuống, bèn dừng lại, cầm lấy một chiếc đèn lồng từ tay bổ khoái bên cạnh, giơ sang soi thi thể.
Người chết là nữ, hơi đẫy đà, tóc vấn theo lối hoa huệ bê bết bùn, quần áo dính đầy bùn đất, không sao nhận ra kiểu dáng ban đầu nữa.
Chu Tử Tần lật cái xác lại, kéo đôi tay lún sâu dưới bùn ra, vốc nước rửa sạch.
Người này áng chừng mười tám mười chín, da dẻ trắng nõn, mặt mũi đoan trang, cũng coi như có nhan sắc. Đôi tay thon dài nhỏ nhắn, song khi cắm xuống bùn đã bị xây xước vô số chỗ, chưa kể một vết xước dài từ mu bàn tay kéo đến tận dưới đốt xương ngón giữa.
Hoàng Tử Hà chậm rãi giơ ngọn đèn lồng lên, xem xét mặt mũi tử thi, thẫy vẫn còn vệt phấn lem luốc bèn bảo: “Tử Tần, đi gọi ông bầu gánh hát tới đây nhận mặt, xem có phải người của họ không.”
“Ôi chao! Bích Đào à! Cô chết thảm quá!” Bầu gánh sụt sùi mếu máo, khiến người ta không nỡ nhìn.
Chu Tử Tần hỏi: “Là người của gánh các vị ư?”
“Thưa vâng, Bích Đào là người của chúng tôi, lúc đến đâu hẵng còn sớm nên cô ấy nói muốn đi dạo trong vườn, đợi mãi tới giờ diễn vẫn chẳng thấy về. May mà Úc Lý đi theo cô ấy cũng đã tập qua khúc Nghê Thường Vũ Y, chúng tôi đành để Úc Lý thay vào.”
Hoàng Tử Hà nhìn sang Úc Lý, thấy cô ta vóc người nhỏ nhắn, đang bưng mặt khóc gào: “Sư phụ, sư phụ ơi…”
Còn đương trầm ngâm, Chu Tử Tần đã ghé tai thì thào: “Vụ này khó quá!”
Hoàng Tử Hà liếc gã: “Sao vậy?”
“Sùng Cổ xem, có rất nhiều điểm lạ lùng! Thứ nhất, người chết úp mặt xuống bùn, nằm ngay bên mép nước, đáng lý phải là bị người ta túm tóc ấn xuống nước cho chết sặc, nhưng đầu tóc người này tuy hơi rối song không có dấu vết bị lôi túm.” Hoàng Tử Hà gật đầu.
Thấy cô không phản đối, Chu Tử Tần phấn chấn nói tiếp: “Thứ hai là, hung thủ ấn đầu nạn nhân xuống nước, như vậy phải ngồi hoặc quỳ bên cạnh, nhưng cạnh cái xác không có dấu chân, lẽ nào hung thủ ngồi lên người nạn nhân ư? Như thế làm sao vận sức được?”
Hoàng Tử Hà nghĩ ngợi rồi hỏi: “Vậy công tử thấy tiếp theo phải bắt tay từ đâu?”
“Ta cho rằng, đầu tiên phải kiểm tra giày và quần áo tất cả mọi người, hễ thấy giày hay áo ai dính bùn hoặc bị ướt thì bắt lại thẩm vấn, đặc biệt là đàn ông khỏe mạnh.”
Hoàng Tử Hà vặn lại: “Công tử chẳng nói hiện trường không có dấu chân ư?”
“Cái đó… có lẽ hung thủ dùng cách gì đó xóa dấu vết rồi.”
Hoàng Tử Hà ngồi xuống, soi đèn vào thi thể Bích Đào rồi vén tay áo nạn nhân lên, trỏ cổ tay hỏi: “Công tử thấy những vết thương này chứ?” Chu Tử Tần gật đầu:
“Chắc là bị đá dăm lẫn bùn cứa phải.”
“Trừ vết bị đất đá cào xước thì còn gì nữa?”
Chu Tử Tần nhìn kỹ lại, rồi trỏ vết thương dài từ mu bàn tay đến tận gốc ngón giữa: “Cái này… Hình như hơi khác.”
Hoàng Tử Hà nghiêng đầu nhìn sang, ý bảo gã nghĩ tiếp: “Công tử đoán xem, tại sao lại có vết thương này, bị cào xước như thế nào?”
Chu Tử Tần bấy giờ mới à lên: “Có kẻ giật thứ gì đó từ tay Bích Đào! Cào xước luôn ngón tay cô ta!”
“Ừm…” Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: “Bích Đào có phải người gảy không hầu thứ hai trong ban hát của các vị không?” Bầu gánh gật đầu thưa: “Đúng thế.”
“Vậy người tấu không hầu thay chân Bích Đào hôm nay là Úc Lý ư?”
“Thưa phải, khúc Nghê Thường Vũ Y cần hai cây không hầu, Bích Đào là cây thứ hai. Không phải độc tấu, chỉ cần hòa tấu, nên chúng tôi mới dám để Úc Lý thay vào.”
Hoàng Tử Hà đưa mắt nhìn Úc Lý đang khóc lóc, thong thả nói: “Thế thì, tôi nghĩ Úc Lý cô nương nên giải thích đôi lời về lý do giết sư phụ, các vị thấy thế nào?”
Câu này đột ngột buông ra khiến tất cả mọi người trong ban hát sững sờ, Úc Lý bưng mặt khóc òa lên: “Tôi… Sao lại là tôi? Oan cho tôi quá…”
Chu Tử Tần kinh ngạc ngoái lại, thấy Hoàng Tử Hà đầy vẻ đoan chắc mới nghi hoặc đi một vòng quanh Úc Lý rồi vòng lại ghé tai hỏi Hoàng Tử Hà: “Sùng Cổ có lầm không đấy? Quần áo cô ta sạch bong, giày cũng không lấm bùn, chỉ có ống tay áo hơi lem luốc thôi. Huống hồ cô ta nhỏ người hơn hẳn Bích Đào, trông tay cũng chẳng lấy gì làm khỏe, sao có thể dìm đầu nạn nhân xuống nước được?”
Hoàng Tử Hà không đáp mà đi thẳng đến chỗ Úc Lý, vén tay áo cô ta lên.
Dưới ống tay áo là một xâu vòng vàng phải đến năm sáu chiếc, ôm lấy cổ tay.
Mấy nhạc công bên cạnh ồ lên: “Đây là xâu vòng của Bích Đào mà! Mấy hôm trước cô ấy còn khoe với chúng tôi, nói là tài tử Trần Luân Vân tặng.”
Úc Lý vô thức giấu cánh tay đeo vòng vào ngực, song thấy mọi người vẫn đổ dồn mắt nhìn mình thì hoảng sợ khóc nức lên: “Đây… Đây là sư phụ cho tôi mượn…”
“Thật ư? Sư phụ cô tốt thật đấy, không chỉ mất tích đúng lúc quan trọng để cô thế chỗ, còn tặng cả xâu vòng vàng cho cô nữa. Tiếc rằng cô ấy quên mất một chuyện.”
Đoạn Hoàng Tử Hà quay sang bầu gánh: “Ban hát nhà các người bình thường kỷ luật lỏng lẻo thế à? Lúc diễn tấu còn cho đeo trang sức ư?”
Bầu gánh vội đáp: “Chuyện đó… Chúng tôi quản rất nghiêm, từ khi bắt đầu truyền nghề đã dạy, trong lúc gảy đàn không được đeo vòng nhẫn, khi thổi tiêu sáo không cho đeo hoa tai dài hay vòng buông rủ. Trước khi lên sân khấu nhất loạt thu lại hết, để khỏi ảnh hưởng khi biểu diễn.”
“Đúng thế, nếu là một chiếc vòng hay cái lắc thì có thể lén giấu vào ngực áo. Nhưng một xâu vòng thế này, nếu giấu vào áo sẽ gồ lên, rất dễ bị phát hiện. Huống hồ sư phụ vừa mất tích, xâu vòng đã rơi vào tay Úc Lý, chẳng phải càng chứng tỏ cô ta là hung thủ hay sao? Thế nên, chỉ còn một cách duy nhất là đeo vào cổ tay mình. Cũng may, chỉ cần đẩy lên một chút, để tay áo rủ xuống là che giấu được thôi.” Nói đoạn, Hoàng Tử Hà bỏ tay cô ta xuống, “Bởi vậy, cô bất chấp quy củ không được đeo vòng nhẫn khi diễn tấu, vì chỉ có cách ấy mới giấu được xâu vòng này. Tiếc rằng cô xui xẻo, lại gặp phải Quỳ vương, hơn nữa trong khi diễn tấu không cẩn thận để xâu vòng chạm vào dây đàn, bị vương gia nghe được.”
Lý Thư Bạch và mọi người đã kéo đến nghe cô giảng giải, lúc này mới lên tiếng: “Đúng thế, bấy giờ đoạn giữa khúc Nghê Thường Vũ Y sắp kết thúc, ta chợt nghe thấy tiếng đàn từ cây không hầu thứ hai có lẫn tạp âm kim loại, có lẽ Hoàng tiểu thư cũng đoán ra từ điểm này.”
Ánh mắt mọi người nhìn Lý Thư Bạch bỗng tràn đầy ngưỡng mộ. Cây đàn thứ hai thường chỉ là hòa tấu, không phải chủ tấu, tiếng đàn cũng bị lẫn vào âm thanh của các nhạc cụ khác. Chẳng ai ngờ chỉ bằng một âm thanh ấy, y đã đoáng ra cây đàn nọ có vấn đề.
Cũng có người có vẻ kính nể Hoàng Tử Hà, dựa vào manh mối nhỏ đó mà luận ra hung thủ.
Trong ban hát có người nói: “Tôi nhớ ra rồi, bấy giờ khi tất cả vào chỗ mà chưa thấy Bích Đào, chính Úc Lý đã chạy đi tìm, rồi trở về bảo không tìm thấy. Có phải chính lúc đó cô ta đã dìm Bích Đào xuống nước không?”
“Có nhẽ đâu thế.” Bầu gánh nhăn mặt, “Úc Lý nhỏ nhắn như thế, làm sao đủ sức dìm được Bích Đào? Lẽ nào đúng là cô ta một mình giết hại Bích Đào, rồi lại bình thản quay về ư?”
Úc Lý gật đầu lia lịa, kêu khóc thảm thiết: “Đúng vậy! Thấy tôi thích xâu vòng quá, cứ mê mẩn ngắm mãi, sư phụ bèn tháo ra cho đeo một lúc thế thôi, tôi… tôi chỉ đeo xâu vòng một lúc, sao đã thành hung thủ giết người được?”
“Không cần đâu, tôi có thể diễn lại tình hình lúc đó ngay bây giờ.” Nói rồi cô liếc Chu Tử Tần, “Phiền Chu bổ đầu tìm giúp tôi một người phối hợp.”
Chu Tử Tần tức thì vỗ ngực: “Không cần nhờ người khác, cứ để ta.” Hoàng Tử Hà chớp mắt, nhìn lại gã một lượt từ trên xuống dưới. Hôm nay Chu Tử Tần được mời tới chơi tết Trung thu nên không mặc đồ bổ đầu, mà vận thường phục. Chỉ thấy gã khoác một chiếc áo gấm Thục màu hồ thủy, đeo túi hương tía, hầu bao lục, bao gươm da cá bạc… Từ trên xuống dưới phải đến cả chục màu.
Cô cảm thấy người này có đem nhận nước ngay lập tức cũng đáng, nhỡ tẩy sạch được đống màu mè lòe loẹt kia thì càng hay.
“Đến đây”. Hoàng Tử Hà vẫy tay gọi gã, rồi rút xâu vòng ra khỏi tay Úc Lý, dẫn Chu Tử Tần đến bụi xương bồ bên hồ.
Cô ra hiệu cho Chu Tử Tần giơ tay lên, hỏi: “Trời hơi lạnh, giờ lội xuống nước không biết có lạnh không?”
Chu Tử Tần vẫn chưa hiểu ý, ngu ngơ đáp: “Lần trước lặn xuống vớt thi thể ở Trường An giúp Sùng Cổ còn lạnh hơn… Nhưng giờ ta phải lội xuống tìm cái gì à?”
“Công tử đợi chút.” Nói rồi cô vứt luôn xâu vòng vàng trên tay xuống đáy nước nông. Tuy xâu vòng chìm lún một nửa vào bùn, nhưng mực nước sâu không tới nửa thước, dưới anh đèn vẫn thấy lấp loáng ánh vàng.
Chu Tử Tần ngạc nhiên hỏi: “Sùng Cổ làm gì thế?” “Công tử lội xuống vớt xem?”
Bấy giờ gã mới hiểu ra, vội chen vào giữa bụi xương bồ, nhưng đi được nửa chừng lại nhận ra suýt nữa thì lún chân xuống bùn, nên hơi ngần ngừ không bước tiếp.
Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn Lý Thư Bạch, y hiểu ý, bèn đi đến nắm lấy cổ tay Chu Tử Tần: “Để ta giữ cho.”
“Được!” Chu Tử Tần nắm lấy tay Lý Thư Bạch, giẫm chân xuống bùn, nhao người ra nhặt xâu vòng dưới nước.
Hoàng Tử Hà đưa mắt cho Lý Thư Bạch, y nhìn Chu Tử Tần vô tội với vẻ cảm thông rồi thình lình thả tay. Chu Tử Tần đang vươn người ra, tức thì ngã ngào xuống nước.
Đang định hét lên thì bùn đã xộc vào miệng. Thấy Chu Tử Tần hốt hoảng vùng vẫy, Lý Thư Bạch lại tóm vào mắt cá chân xách ngược gã lên, tức thì cả người gã nằm úp sấp giữa vũng bùn. Vì bị xách ngược mắt cá nên gã không có điểm tựa, hai tay cuống quýt quơ quào trong bùn mà không tóm được thứ gì để vận lực, dù biết bơi cũng vô dụng, từng chuỗi bong bóng thi nhau sủi lên òng ọc, tựa hồ đã sặc nước đến choáng váng.
Lý Thư Bạch vội kéo gã dậy, Chu Tử Tần sặc sụa ngồi phệt giữa bụi xương bồ nôn ra toàn bùn với nước, như một con cua vừa móc trong bùn ra.
Hoàng Tử Hà đưa khăn bông cho gã rồi ngồi xuống bên cạnh hỏi: “Tử Tần không sao chứ?”
Chu Tử Tần vừa lau đầu tóc vừa hắt xì lia lịa, lắp bắp đáp: “Không… không sao.” Làm gì có chuyện không sao? Quận thú Chu Tường nhìn con trai mà chỉ muốn khóc thét lên. Tiếc rằng người ra tay là Quỳ vương nên ông ta đành ngậm bồ hòn làm ngọt, gượng cười bảo kẻ hầu: “Mau lấy đồ đến để bổ đầu thay.”
Hoàng Tử Hà bấy giờ mới quay sang nhìn Úc Lý, thấy cô ta đã gục xuống đất, thì chậm rãi giải thích: “Nhìn vết bùn dính trên tay áo cô, tôi mới nghĩ đến cách giết người này. Tuy sau khi ra tay cô đã cố lau sạch bùn, nhưng vẫn còn một vệt lờ mờ, nếu so với đường viền giày của Bích Đào hẳn là vừa khéo. Thử nghĩ xem, nắm chân cô ta làm gì chứ?”
Úc Lý mặt xám như tro, cổ họng khô rang, ấp úng mãi không thốt nên lời.
Thấy vậy, Chu Tường bèn chút giận lên cô ta, thét gọi đám bổ khoái bắt lại: “Mau trói ả khi sư diệt tổ táng tận lương tâm này vào, để ta thẩm vấn!”
Mấy chị em trong ban hát xót xa nhìn Úc Lý, nước mắt như mưa: “Sao cô lại nghĩ quẩn như thế…”
“Là… trời không có mắt!” Úc Lý bị lôi đi, vẫn còn gào lên tuyệt vọng, “Tôi có chỗ nào không bằng ả? Ả ngu ngốc như thế, học mười mấy năm mới được là không hầu thứ hai! Tôi đứng bên học lỏm còn gảy hay hơn! Chẳng qua ả có chút nhan sắc mà thôi, dựa vào cái gì mà giẫm lên đầu lên cổ tôi…”
Hoàng Tử Hà thở dài: “Nếu cô là ngọc sáng thì sớm muộn cũng có người phát hiện ra thôi, sao phải cố chấp như thế?”
Có cô lên tiếng, đám bổ khoái đang lôi Úc Lý đi cũng dừng lại. Úc Lý nhìn chằm chằm thi thể Bích Đào, ròng ròng nước mắt, nghẹn ngào: “Ả… Ả ngày ngày lăng nhục tôi, tôi vẫn cố nhẫn nhịn, nhưng ả biết rõ tôi ngưỡng mộ Trần công tử, còn cố ý bám lấy tôi khoe khoang xâu vòng vàng y tặng…”
Ánh mắt Úc Lý xám ngoét như tro tàn, lướt qua gương mặt Hoàng Tử Hà: “Tôi… Tôi đã ấp ủ kế hoạch này suốt mấy tháng, nghĩ đi nghĩ lại, bảo đảm không còn gì sơ hở…. Thực không ngờ tiểu thư chỉ liếc qua là thấy đầy rẫy sơ sót…”
Hoàng Tử Hà lặng thinh, nhìn theo đám bổ khoái lôi Úc Lý đi.
Chu Tử Tần phía sau vừa lau mái tóc mới gội sạch, vừa than thở: “Đúng là nghĩ quẩn.”
Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn gã, gật đầu nói khẽ: “Bích Đào, Úc Lý. Hai cái tên này rất giống nhau, hẳn là vào gánh hát cùng một lúc. Vậy mà giờ đây một người lọt mắt xanh bầu gánh, trở thành nghệ nhân, kẻ kia gọi là đệ tử, thực ra chỉ là tỳ nữ. Họ cùng đi cùng về, đương nhiên cũng từng quen biết Trần Luân Vân nức tiếng phong lưu. Mối quan hệ tế nhị này, kéo dài đến giờ, sau đó…”
“Xâu vòng vàng Trần Luân Vân tặng Bích Đào, cuối cùng đã trở thành giọt nước tràn ly.”
“Đủ thấy trên đời này, vướng mắc về tình cảm là thứ khiến người ta đau đớn nhất.” Một giọng chậm rãi vang lên đằng sau, đủ lọt tai cô, nhưng lại không để kẻ khác nghe được.
Giọng nói dịu dàng như thế, khiến Hoàng Tử Hà ngẩn ra một thoáng mới ngoái lại.
Vương Uẩn đang ở sau lưng cô, rõ ràng nãy giờ vẫn đứng đó, thấy cô phá án xong mới lên tiếng.
Dưới ánh đèn leo lét, ánh mắt y nhìn cô sâu thăm thẳm, khiến Hoàng Tử Hà bối rối cúi đầu.
Chỉ nghe y bình thản nói: “Sống trên đời mỗi người đề có duyên phận và chốn về riêng, việc gì phải chuốc thêm phiền phức? Cuối cùng lại rơi vào cảnh hại người hại mình.”
Tim Hoàng Tử Hà thót lại, tuy hiểu ý y, song cô chẳng có cách nào phản bác, đành nín lặng cúi đầu.


Trăng đã về Tây, đã quá canh ba.
Yến tiệc kết thúc thế này khiến Phạm Ứng Tích không khỏi khó chịu. May mà Hoàng Tử Hà nhanh chóng vạch rõ chân tướng, nhưng mọi người cũng đã cụt hứng, quên bẵng cả điệu Nghê Thường Vũ Y điên đảo chúng sinh.
Khách khứa lục tục cáo từ, ai về nhà nấy. Hoàng Tử Hà cùng mợ lên xe, chợt nghe thấy sau lưng có người gọi: “Tử Hà”
Cô ngoảnh lại, thấy Vương Uẩn tươi cười đứng nhìn ngọn đèn lồng ngay trước cửa, ngẩng lên nhìn mình khẽ nói: “Sáng mai ta sẽ đến bàn bạc vài việc với các trưởng bối trong tộc của cô. Nếu cô rỗi, có thể trò chuyện mấy câu thì tốt quá.”
Hoàng Tử Hà cứng người, cô cúi đầu hành lễ với y rồi im lặng quay đi buông rèm xe xuống.
Tấm rèm vừa buông, nụ cười trên môi Vương Uẩn cũng tắt lịn. Y ngước lên nhìn bầu trời tối thẫm lồng lộng trên đầu, trăng đã xế, những vì sao lấp lánh đầy trời lại càng sáng rỡ.
Những thứ xa xăm không thể với tới dường như luôn xán lạn hơn hết thảy. Cũng có thể là vì chói lọi quá mức, nên càng có vẻ khó với tới.
Giống như người con gái y những tưởng chỉ với tay ra là chạm đến, giờ đã biến thành vì sao rực rỡ mà xa xăm nhất giữa ngân hà. Ánh sáng chói ngời ấy chẳng khác nào ngọn lửa thiêu đốt trong lòng, khiến y ngày đêm canh cánh, nhung nhớ chẳng quên, khó mà kìm nén.
Vương Uẩn quay người lên ngựa, chuẩn bị về nhà họ Vương. Một chi của họ Vương Lang Gia dọn đến Xuyên Thục cũng có cơ ngơi, y là đích tôn dòng chính nhà họ Vương, đương nhiên không ai dám lơ là tiếp đãi.
Con ngựa y cưỡi dường như cũng gà gật buồn ngủ, cứ lê từng bước uể oải. Thoáng nghe tiếng chuông vàng leng keng, y chẳng cần ngoái lại cũng biết xe ngựa của Quỳ vương đi qua, bèn kéo cương ngựa tránh sang bên đường.
Đường phố ban đêm chỉ có một ngọn đèn leo lét ở chỗ ngoặt. Lý Thư Bạch vén rèm xe lên gọi: “Uẩn Chi.”
Vương Uẩn gật đầu chào y: “Vương gia.”
“Hôm nay Trung thu, dự tiệc ở phủ tiết độ xong ta vẫn chưa tận hứng. Vừa hay có ít trà ngon, Uẩn Chi có hứng cùng ta song đóm(1) nếm trà chăng?”
Vương Uẩn ung dung mỉm cười đáp: “Ngày ngắn buồn đêm dài, sao chẳng thắp đuốc dạo. Gia đã có nhã hứng, ty chức nào dám không tuân?”
Lý Thư Bạch không nói gì thêm, chỉ ra hiệu cho y đi cùng. Chẳng bao lâu đã thấy gác Đôn Thuần, nơi tạm trú hiện giờ của Lý Thư Bạch phía trước.
Gác Đôn Thuần vốn là hành cung năm xưa Huyền Tông cho xây dựng trong lúc chạy loạn An Sử đến đây. Tiếc rằng chưa xây xong, ngài ngự đã được Túc Tông tôn làm Thái thượng hoàng, rước về Trường An, để lại cung Đôn Thuần đang thi công dang dở. Quan viên đất Thục liền thu nhỏ quy mô lại, sau khi xây xong đổi gọi là gác, trở thành vườn cảnh của quan phủ Xuyên Thục. Lần này Quỳ vương giá lâm, quận Thục đã gấp rút tu sửa, để y ở tạm.
Vương Uẩn theo Lý Thư Bạch vào hiên Xuân Hóa, sau khi dâng trà xong, tất cả người hầu lui ra, kể cả Trương Hàng Anh.
Đèn đuốc sáng choang soi tỏ bóng hai người. Cả hai đều biết lòng dạ đối phương, nhưng không ai chịu nói toạc ra, chỉ đàm luận mấy chuyện vặt trong triều. Đồng Xương công chúa đã được an táng, đoàn đưa tang dài đến hơn hai mươi dặm, trong triều cũng có kẻ bàn rằng tang lễ vượt quá quy củ, hoàng thượng bèn phong nàng làm Vệ Quốc Văn Ý công chúa, lại cùng Quách thục phi ra tận cửa cung khóc lóc tiễn đưa, từ bấy không ai dám can gián nữa.
“Người nhà của các ngự y thì sao?” Vương Uẩn hỏi. Vì cái chết của Đồng Xương công chúa, hoàng đế đã trút giận sang các ngự y, cho rằng họ cứu chữa chậm trễ, sau khi giết hết hơn hai mươi người bọ Hàn Tông Thiệu, Khang Trọng Ân, còn toan hạ ngục tất cả họ hàng, lên đến hơn ba trăm người. Lý Thư Bạch nói thác rằng luật Đại Đường không có tiền lệ, Đại Lý Tự không thể xử lý, hoàng đế liền chuyển vụ này cho kinh triệu doãn Ôn Chương, khiến y chạy không thoát.
“Ngự Sử Đài không dám can ngăn, thừa tướng Lưu Chiêm dâng tấu cầu xin thánh thượng thì bị đuổi ra, giờ đã bị bãi tướng, biếm đi Lĩnh Nam làm quan. Ôn Chương phán cho hơn ba trăm người kia phải lưu đày, gần đây bị tố cáo là ăn hối lộ nên xử nhẹ, ta thấy thánh thượng sẽ không nương tay đâu.” Lý Thư Bạch nói mấy chuyện bâng quơ, tuy y ở Thục nhưng vẫn nắm rõ tình hình triều chính hơn ai hết.
Vương Uẩn thở dài: “Chuyện lớn trong triều như gió mây biến ảo, sóng dữ dồn dập thực khiến người ta không sao lường được.”
Lý Thư Bạch tiện tay cầm chén lên châm trà cho y, cười nói: “Trong triều giờ đây gió mây biến ảo, song đều nằm trong dự liệu của ta, riêng có một chuyện ta nghĩ mãi vẫn không sao hiểu nổi.” Trong kinh, Lý Thư Bạch thú hứng nào cũng đứng đầu, châm trà, thúc cúc, mã cầu, thứ gì cũng là cao thủ, tăm trà nhỏ mà đều tăm tắp, mãi vẫn chưa tan. Vương Uẩn nâng chén bằng ba ngón tay, ngắm nhìn thật kỹ rồi hỏi: “Chẳng hay gia không hiểu chuyện gì?”
“Ta còn nhớ, mùa thu ba năm trước, sau khi tavang danh không lâu, chúng ta đã gặp nhau bên bờ Khúc Giang. Bấy giờ ta cứ ngỡUẩn Chi sẽ dự kỳ thi năm sau, ai ngờ người nghe tin ta sắp ra biên tái dẹp SaĐà, lại muốn theo ta tòng quân.”
Nhà họ Vương Lang Gia xưa nay thanh cao tao nhã, thường theo nghiệp bút nghiên, ra làm quan văn, Lý Thư Bạch lúc ấy cũng kinh ngạc hỏi Vương Uẩn: “Bằng vào gia thế và chỗ dựa của mình, ngươi ở trong triều ắt sẽ như cá gặp nước, sao lại phải tòng quân?”
“Tôi không muốn đi con đường được người khác trải thảm sẵn, có lẽ chọn đường tổ tiên mình cố ý tránh né sẽ hay hơn.”
Dưới anh nắng đầu thu năm ấy, Vương Uẩn, bấy giờ còn là thiếu niên, từng nói đầy quả quyết, tựa như đã thấy bến bờ mà đời này mình sẽ cập.
Vậy là, trong danh sách các hộ vệ đi cùng mà Lý Thư Bạch trình lên triều đình, có thêm tên Vương Uẩn. Giữa thu, họ đến ven rìa sa mạc, đứng trên đài Phong Hỏa phóng mắt nhìn ra biên ải ngút ngàn. Cỏ úa chiều tàn, sông dài uốn lượn, khói đùn thẳng tắp.
Họ phóng ngựa hành quân giữa sa mạc, đuổi giết quân Sa Đà xâm phạm, có lần hăng hái còn đuổi theo đến tận lúc trăng lên, mấy chục kỵ mã giẫm lên bóng đêm tắm máu quay về. Đất Hồ tháng Tám đã đổ tuyết, vần trăng tàn vẫn còn treo cuối trời, những bông tuyết đã lả tả rơi xuống sa mạc, giáp sắt loang loáng, lạnh đến thấu xương. Lý Thư Bạch cưỡi ngựa dẫn đầu ngoái lại phóng mắt nhìn ra xa rồi ghìm cương, tháo túi rượu đeo bên hông ngựa quăng cho Vương Uẩn.
Rượu nóng vừa vào miệng, máu trong người cũng bắt đầu sôi lên. Hơi lạnh bị xua tan, vì vừa thắng trận nên mọi người vô cùng hào hứng, gào lên hát ông ổng giữa đồng hoang.
Vương Uẩn không hòa giọng được với đám người đó, chỉ cưỡi ngựa ngẩng nhìn trời, theo họ về doanh trại. Doanh Lũng Hữu đã ở ngay trước mắt, gốc bạch du trước cửa doanh thấp thoáng giữa màn mưa tuyết. Vương Uẩn phủi tuyết đọng trên mình, chợt sinh lòng cảm khái đọc một câu: “Tuyết bay mờ biên ải, tắt khói Phong Hỏa đài.”
“Bởi vậy, sau lần đẩy lùi Sa Đà, khải hoàn về kinh đó, ta không đem ngươi ra trận nữa.” Lý Thư Bạch chậm rãi nói, “Mỗi người đều có một nơi thuộc về mình, kiếp này, ngươi là đích tôn nhà họ Vương Lang Gia cao nhã hào hoa, sống giữa cảnh phồn hoa thịnh thế. Kiếm quý dù sắc bén đến đâu thì trên sa trường cũng chẳng bằng một thanh đao thường, gió cát và máu tanh chỉ tổ bào mòn lưỡi kiếm, thậm chí tàn hủy chất thép tốt của nó thôi.”
Vương Uẩn lặng lẽ nhìn xuống: “Nhưng khoảng thời gian đi theo vương gia đã khai phong cho thanh kiếm(2). Từ đó tôi mới bước lên con đường này, từ ty Phòng vệ đến Tả Kim Ngô Vệ, ít nhất cũng đã thoát được con đường cha tôi bày sẵn. Đời này kiếp này… tôi phải cảm ân gia dìu dắt.”
“Ta biết ngươi nói thật lòng, nhưng người sống trên đời lúc nào cũng có chuyện bất đắc dĩ. Ví như ngươi đã nhận lệnh giết ta thì phải dốc sức làm cho được, bằng mọi cách dồn ta vào chỗ chết.” Lý Thư Bạch thản nhiên như đang bàn luận về bóng tối ngoài song vậy.
Vương Uẩn thoáng sững ra, ngón tay nâng chén trà bất giác rụt lại. Cái chén hơi nghiêng, một hai tăm bọt bên trong chưa tan hết sáng ra ngoài.
Y từ từ đặt chén xuống, ngẩng lên nhìn Lý Thư Bạch.
Đêm khuya thanh vắng, hương quế thoảng qua. Lần đầu gặp bên bờ Khúc Giang, y cũng đã hành lễ với Lý Thư Bạch giữa hương hoa quế ngan ngát thế này.
“Vương Uẩn Lang Gia, tự là Uẩn Chi. Từ nay nguyện theo gia tung hoành thiên hạ, bảo vệ giang sơn Đại Đường.” Lời còn văng vẳng bên tai, vậy mà giờ đây ngồi bên nhau giữa đêm khuya thanh vắng, lại là tình cảnh thế này.
Vương Uẩn ngẩng lên nhìn Lý Thư Bạch, gượng cười: “Vương Uẩn là thần tử, phụng lệnh làm việc, không thể tự chủ, xin gia bỏ quá cho.”
Thấy y thẳng thắn thừa nhận, Lý Thư Bạch cũng cười đáp: “Nếu ta để bụng thì lần trước đâu có ngăn Tử Hà tiếp tục căn vặn? Ta hiểu tình cảnh của mình, cũng biết chỗ khó xử của Uẩn Chi. Điều mình không muốn, ắt không làm với người khác.”
Vương Uẩn lặng lẽ gật đầu. Y còn đang mải nghĩ về việc Quỳ vương thân thiết gọi thẳng tên vợ chưa cưới của mình như thế. Nhưng chẳng mấy chốc y đã nghĩ thông, người như Lý Thư Bạch lẽ nào lại nuốt lời.
Như đi guốc trong bụng y, Lý Thư Bạch thản nhiên tiếp: “Ngươi nhận nhiệm vụ này, hẳn cũng là biết đây là kế hoạch một mũi tên trúng hai con chim. Nếu ta chết, triều đình cũng coi như trừ được mối họa tiềm ẩn lớn nhất; còn nếu mọi chuyện bại lộ thì nhà họ Vương không tránh khỏi liên can. Bất luận ra sao, kẻ bày kế vẫn có thể khoanh tay ngồi nhìn, tiện thể dọn sẵn một con đường bằng phẳng.”
“Thế nên gia… gác chuyện này lại, không muốn làm ầm ĩ lên, cũng tức là, không muốn đôi bên cùng tổn thất?”
“Chẳng lẽ ngươi thì không phải ư?” Lý Thư Bạch ngừng một lát mới tiếp: “Ta biết không phải ngươi phóng hỏa, hành vi kiểu đó không giống tác phong của ngươi.”
Vương Uẩn khẽ đáp: “Tôi biết việc đó… Chỉ là, không cách nào ngăn trở.” “Ngươi ngăn không nổi đâu. Tất cả những kẻ vọng tưởng ngăn cản, đều sẽ bị nghiền nát. Lưu Chiêm đã vậy, Ôn Chương cũng thế, hai ta cũng vậy mà thôi.” Gương mặt tưởng chừng luôn bình thản của Lý Thư Bạch, cuối cùng cũng thoáng vẻ mệt mỏi. Y chăm chú nhìn Vương Uẩn, hạ giọng: “Giờ ngươi vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao, lại bị ta lột trần thân phận, e rằng nhà họ Vương cũng gặp rắc rối. Nhưng ta có thể giúp ngươi.” Vương Uẩn chậm rãi gật đầu: “Vương gia một câu nặng tày chín đình, ắt không nuốt lời. Nhưng… dám hỏi gia muốn nhà họ Vương làm việc gì?” Lý Thư Bạch làm thinh. Thật lâu.
Đêm khuya thanh vắng, lặng phắc như tờ. Bóng tối như ngưng đọng lại, nuốt chửng tất thảy những dơ bẩn và đẹp đẽ.
Chẳng biết bao lâu sau, Lý Thư Bạch mới hạ quyết tâm, lên tiếng: “Từ bỏ hôn ước năm xưa.”
Hôn ước năm xưa.
Năm mười sáu tuổi, vì ngượng ngịu, Vương Uẩn mới rủ Lý Nhuận cùng đi nhìn trộm thiếu nữ nọ, chỉ thoáng thấy gương mặt nghiêng của cô.
Đó là hôn sự định sẵn từ khi y còn nhỏ. Một mảnh giấy, hai cái tên, từ một người xa lạ, cô đã trở thành người gần gũi nhất.
Vậy mà giờ đây, Lý Thư Bạch lại bảo y, từ bỏ.
Vương Uẩn cúi đầu, phì cười: “Quỳ vương gia quả rất giỏi cân nhắc tình hình, không hề sơ sẩy. Biết rõ sự tồn vong của nhà họ Vương đều trông cả vào một câu này, vậy mà vẫn bày ra vẻ khoan dung cho tôi lựa chọn.”
“Uẩn Chi, chuyện này là ta không phải với ngươi.” Lý Thư Bạch cúi xuống vô thức xoay xoay chén trà trong tay, chậm rãi thuyết phục: “Nhưng ngươi có nghĩ trước đây Tử Hà từng vạch trần chuyện cũ của Vương hoàng hậu, nếu gả vào nhà ngươi, thì ngày tháng sau này sẽ ra sao?”
Vương Uẩn cười nhạt: “Nàng đã là vợ tôi, đương nhiên tôi sẽ dốc hết sức bảo vệ, không cần gia nhọc lòng.”
“Thế nếu sau khi ngươi ám sát thất bại, ta về kinh gặp thánh thượng thì sao?” Lý Thư Bạch thản nhiên hỏi tiếp, “Nhà họ Vương các người liệu có thoát nổi kiếp nạn này không? Dẫu ngươi muốn bảo vệ, thì phải làm thế nào mới bảo vệ được đây?”
Vương Uẩn thong dong đáp: “Khả năng nhà họ Vương bị diệt, cũng không lớn bằng phủ Quỳ đâu.”
Lý Thư Bạch vẫn lạnh tanh: “Phủ Quỳ có khả năng phản kháng, còn nhà họ Vương thì không thể.”
Sảng đường lại chìm vào im lặng, bóng đêm nặng nề phủ trùm lên họ, trong phòng sáng choang mà ngột ngạt, đôi bên đều thấy vẻ tăm tối sâu xa khó nắm bắt trong mắt người kia.
Khói trà nghi ngút bốc lên, tạo thành vô vàn hình dạng mờ ảo giữa không trung, rồi lại tan vào hư vô.
Thật lâu, Vương Uẩn mới nói khẽ: “Vương gia đã nắm được tất cả chân tướng thì tôi cũng không giấu giếm nữa. Gia cho rằng tại sao đúng lúc này kẻ đứng sau màn lại bất chấp tất cả, tìm đủ cách san bằng mọi thứ mình không thể thao túng?”
Lý Thư Bạch cúi xuống, hỡ hững đáp: “Có lẽ vì trong trận động đất ở Giang Nam khi trước, có người đã nói rằng triều đình sắp xảy ra biến cố. Ra tay lúc này, vừa khéo ứng với thiên thời địa lợi nhân hòa.”
“Vậy tiếp theo gia định thế nào? Có bao giờ nghĩ Hoàng Tử Hà ở bên cạnh mình sẽ gặp phải chuyện gì chăng? Gia cho rằng trong tình cảnh này vẫn có thể bảo vệ nàng bình yên vô sự hay sao?” Vương Uẩn nhìn chòng chọc Lý Thư Bạch, nói rất khẽ, nhưng hết sức rành rọt, “Đương nhiên vương gia tài ba xuất chúng, tính toán như thần, nhưng trước mệnh nhà vận nước, sinh mạng con người chỉ như cỏ rác, huống hồ là một thiếu nữ không nơi nương tựa. Có lúc chỉ sơ sẩy một ly, lại làm gãy cả bụi lan đấy.”
“Đây chính là… nguyên nhân ta không dám hứa hẹn với cô ấy.” Lý Thư Bạch cúi đầu nhìn bình lưu ly trên bàn. Con cá đỏ rực đang trầm mình dưới đáy nước bất động, chẳng biết là đang ngủ hay đang nhìn bọn họ, hệt như một giọt máu chìm xuống đáy bình.
“Có những việc ta nhất định phải kết thúc, tận mắt chứng kiến chân tướng. Nhưng có lẽ lần này một đi sẽ không còn cách nào trở lại, ta… không thể để cô ấy cùng mạo hiểm được.”
Dường như đây là lần đầu tiên trong đời, giọng y lộ vẻ hoang mang.
Vương Uẩn ngập ngừng, cuối cùng vẫn không dằn được nói thẳng: “Nhưng gia đã quyết, hơn nữa còn cho rằng mình sẽ không thua, nên ngay từ đầu đã đề nghị tôi từ bỏ hôn sự, bởi gia nắm chắc phần thắng!”
“Ngươi lầm rồi.” Lý Thư Bạch khẽ nhúng ngón tay vào làn nước trong bình lưu ly, “Ta chỉ muốn để cô ấy được tự do.”
Con cá nhỏ giật nẩy mình, cuống quýt quẫy đuôi, toan trốn khỏi làn nước dập dờn mùi nguy hiểm. Nhưng sóng nước đập vào thành bình rồi dội lại, cá ở trong nước làm sao tránh nổi, chỉ còn cách cam chịu.
Vương Uẩn đứng phắt dậy, giọng cũng trở nên sắc lạnh: “Ý gia là Tử Hà ở bên cạnh tôi sẽ không được hanh phúc sao?”
Lý Thư Bạch lặng lẽ ngước lên nhìn kẻ xưa nay luôn ôn hòa như gió xuân, lần này lại vì Hoàng Tử Hà mà mất bình tĩnh, bất giác mỉm cười: “Uẩn Chi, đừng nóng.”
Thấy y nở nụ cười hiếm hoi, Vương Uẩn thoáng sững ra, đành nén giận ngồi xuống gượng gạo tạ lỗi: “Ty chức thất lễ… Xin gia thứ tội.”
“Ngươi hiểu lầm ý ta rồi. Thực ra ta chỉ muốn cho Tử Hà một cơ hội tự do lựa chọn. Bất luận cô ấy chọn ngươi hay ta, ta cũng không muốn cô ấy bị ràng buộc. Đây cũng là công bằng cho cả hai chúng ta…” Ánh mắt tươi tắn của Lý Thư Bạch từ từ hướng ra ngoài song. Bóng cây trùng trùng đứng lặng trong đêm tối, như quái thú rập rình, như mộng mô chỉ chực chờ nuốt chửng những cơn mộng đẹp. “Mấy ngày nữa ta về kinh, vụ ám sát sẽ được vén màn, dù ta không rõ là ai giật dây ai cầm đầu, nhà họ Vương cũng có thể dẹp tan cơn sóng gió này.”
Vương Uẩn lặng thinh cúi nhìn xuống, nhưng cằm lại hơi nhếch lên.
Lý Thư Bạch rót thêm cho Vương Uẩn một chén sứ xanh lam, ánh đèn rọi lên ngón tay thon dài trắng trẻo của y, như sông xuân soi bóng hoa lê, ung dung tao nhã.
Chỉ nghe y cười nói: “Uẩn Chi, lẽ nào ngươi không dám tin vào bản thân, cảm thấy nếu không có hôn ước ràng buộc, Tử Hà sẽ không chọn mình sao?”
Thấy y thư nhân tự đắc, Vương Uẩn chợt thấy lòng sôi lên, không thể kiềm chế, giơ tay đón lấy chén trà Lý Thư Bạch đưa: “Chúc vương gia chuyến này thuận lợi, tôi sẽ xử lý thật nhanh những chuyện ở đay, để gia khỏi phải bận tâm về sau.”


2

Muôn sông ngàn núi

Vương Uẩn không hề đến nhà họ Hoàng.
Sáng hôm sau, y cho người hầu đến nhà họ Hoàng báo tin, vì bận bịu việc công nên không thể giữ lời hẹn, mong được lượng thứ.
“Xem ý tứ thì đáng lẽ hôm nay y sẽ đến bàn bạc chuyện hôn nhân, nghe nói còn có mấy bậc bề trên trong nhà họ Vương cũng tới…” Hoàng Dũng, bác họ Hoàng Tử Hà vốn đã triệu tập các bậc cao niên trong tộc lại, khấp khởi đợi Vương Uẩn đến, nào ngờ y lại cáo bận, khiến họ phấp phỏng không thôi.
“Liệu có phải… nhà họ Vương cấn cá gì về hôn sự này không?”
“Có nhẽ đâu thế, hôm qua Vương công tử còn sau người đến bàn bạc trình tự, xem phải đón Tử Hà vào kinh thành hôn thế nào cho thỏa đáng mà…”
“Huống hồ dù nghe tin Tử Hà giết chết cả nhà rồi bỏ trốn, nhà họ Vương cũng chưa bao giờ tỏ ý hối hôn, theo tôi thấy, không thể có chuyện gì được.”
Mấy bậc bề trên trong họ xôn xao bàn tán, coi việc cô gả vào nhà họ Vương đã chắc mười mươi, không suy suyển vào đâu được. Đúng lúc ho cho rằng Vương Uẩn không đến, toan lục tục cáo từ thì lại có người từ bên ngoài hớt hải chạy vòa, tay cầm một phong thư: “Lão gia, Lục tiểu thư có thư.”
Trong số các chị em họ, Hoàng Tử Hà đứng vai thứ sáu. Hoàng Dũng mừng rỡ hỏi: “Là Vương công tử gửi ư?”
“Thưa không.” Người hầu lắc đầu đáp, “Là Quỳ vương gửi đến.”
Mọi người nhìn nhau, bấy giờ mới nhớ ra, Hoàng Tử Hà trước đây làm hoạn quan bên cạnh Quỳ vương.
“Nhưng… giờ Tử Hà đã khôi phục danh phận, là con gái nhà chúng ta, sao Quỳ vương còn viết thư gửi nó nữa?” Họ nghi hoặc cầm phong thư lên xem, chỉ thấy bì thư viết:
Thủ tục cho hoạn quan Dương Sùng Cổ phủ Quỳ vương về Thục. Hoàng Tử Hà nhận và cất giữ.

“Vẫn là người phủ Quỳ làm việc chu đáo, dù Tử Hà đã khôi phục thân phận nữ nhi, nhưng suy cho cùng muốn rời vương phủ vẫn phải tuân theo thủ tục.” Mọi người lại tấm tắc cảm thán, song không ai dám bóc thư ra, vội sai người đưa sang cho Hoàng Tử Hà.
“Cho hoạn quan phủ Quỳ vương về Thục ư?” Hoàng Tử Hà đọc qua rồi bóc phong bì, rút bức thư bên trong ra. Vừa mở thư, cô đã trông thấy ba chữ viết ngay trên đầu: Giấy từ hôn.
Hoàng Tử Hà im lặng gập thư lại, cho người đưa thư lui ra, chốt cửa cẩn thận rồi mới mở tờ giấy ra đọc kỹ.
Vương Uẩn Lang Gia, từ nhỏ đính hôn với Hoàng Tử Hà quận Thục. Về sau đôi bên trưởng thành, trời Nam đất Bắc, tính tình trái ngược nên viết giấy này giải trừ hôn ước, từ nay về sau tùy ý cưới gả, không được tranh chấp.

Hoàng Tử Hà sững sờ ngồi xuống bên song, nhìn bốn chữ Vương Uẩn Lang Gia, rồi lại cầm phong bì lên, nhìn nét chữ của Lý Thư Bạch bên ngoài.
Tối qua y vừa hứa, vậy mà giờ đã thực sự giúp cô xóa bỏ cuộc hôn nhân này.
Duyên phận giữa cô và Vương Uẩn, từ nay kết thúc. Cô gấp tờ giấy lại, nhét vào phong bì. Chợt chạm phải thứ gì bên trong, cô bèn dốc ra lòng bàn tay.
Là hai hạt đậu đỏ thắm, óng ả long lanh, xâu lại bằng một sợi dây vàng. Cô lật đi lật lại, nhìn hai hạt đậu đỏ trôi dọc theo sợi dây, lúc thì sát lại, lúc thì tách ra, chẳng khác hai hạt sương trên nhụy hoa.
Cô nắm chặt hay hạt đậu đỏ, dựa vào chiếc bàn nhỏ bên song, khẽ tì má lên cánh tay. Bên tai như nghe tiếng Lý Thư Bạch thầm thì, cô yên tâm, đã có ta đây.
Khu vườn nhỏ ngoài song đã vào thu, lá vàng rơi rụng lả tả.
Hoàng Tử Hà tựa người bên cửa sổ, nghe tiếng gió rì rào khi gần khi xa, hòa cùng tiếng lá rơi xào xạc, tiếng chim non ríu rít nhảy nhót trên cành, siết chặt hai hạt đậu đỏ trong tay.


Chu Tử Tần ngày ngày đều bừng bừng hứng khởi.
Có án thì đi điều tra, không thì đi loanh quanh trên phố, xem có kẻ nào trộm cắp hay cản trở đường đi lối lại không. Đối tượng bị sờ gáy nhiều nhất chình là Nhị cô nương ngang nhiên bày sạp hàng giữa đường.
Tuy hôm qua vừa bị cho uống mấy ngụm nước, song Chu Tử Tần vẫn khỏe như vâm, hôm nay lại lăng xăng chạy khắp nơi. Theo lệ, gã tới chỗ Nhị cô nương dòm dỏ, đấu khẩu vài câu, đang phấn khởi quay đi thì bắt gặp Hoàng Tử Hà đứng ngay bên đường, ôm một túi quýt, tủm tỉm cười nhìn hai người.
Nhìn nụ cười rạng rỡ của cô dưới nắng, Chu Tử Tần bất giác thấy mặt nóng bừng, bèn chạy đén bên cạnh, nhón một quả quýt vừa bóc vừa hỏi: “Sao hôm nay lại tới đây?”
“Vào thu rồi, da dẻ hơi khô, tôi đi mua ít son môi và thuốc bôi tay.”
Gã hồ hởi: “Đừng mua nữa! Để ta làm cho! Son môi bên ngoài toàn làm bằng tủy bò, ta sẽ dùng tủy hươu, không có mùi hôi. Ta còn nghiên cứu được một phương pháp, chắt lọc tinh chất bạch chỉ, ngọc trúc, đinh hương, hoa đào, thơm ngát mà mịn màng, ngày kia sẽ đưa đến cho!”
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Tốt quá, cảm ơn công tử.”
Chu Tử Tần bấy giờ mới quay sang Nhị cô nương, có vẻ tần ngần.
“Tiện thể làm thêm một ít, Nhị cô nương sáng nào cũng phải dậy từ tinh mơ, nhất định cũng sợ nẻ. Thuốc bôi tay cũng làm dôi ra một ít đi. Hơn nữa…” Hoàng Tử Hà nhìn Nhị cô nương cười nói, “Nếu công tử tặng cô ấy, về sau nhất định cô ấy sẽ thân thiết với công tử hơn, công tử nói gì cũng nghe theo, phải không nào?”
“Cũng phải, vậy ta làm thêm một ít. Chẳng biết cô ấy thích mùi gì, hay hợp với loại gì nữa…”
“Cô ấy thích hoa quế, người hơi nóng, công tử phải bỏ thêm chút hạt bí đao, bớt bạch chỉ và hoa đào đi.”
Ngắm Nhị cô nương thêm một lát, cô lại bổ sung, “Cô ấy không còn cha mẹ, bên dưới lại có mấy đứa em, công tử đừng cho vào lọ sứ, cho vào hộp gỗ sơn ấy. Trẻ con da dẻ còn non, bỏ thêm chút dầu chồn, cô ấy nhất định sẽ cho cả các em dùng.”
Chu Tử Tần ngạc nhiên ra mặt: “Sùng Cổ quen cô ấy à?”
“Đâu có, quan sát mà đoán bừa vậy thôi.”
“Liệu có đúng không đây…” Chu Tử Tần lầm bầm.
“Vậy ta cũng đoán thử xem.” Phía sau có người nói chen vào. Hoàng Tử Hà chẳng cần ngoái lại cũng biết là ai, khóe môi bất giác lộ nụ cười.
Chu Tử Tần ngoảnh đầu mừng rỡ reo lên: “Gia cũng biết xem tướng ư?”
Lý Thư Bạch hôm nay vận một bộ đồ bằng lĩnh trọng lăng, thoạt nhìn chỉ thấy thuần một màu xanh, nhưng mỗi thoáng ẩn hiện, càng tôn lên phong thái tuấn tú bất phàm, khiến những người xung quanh đều len lén liếc nhìn, song không ai dám nhìn thẳng.
Trương Hàng Anh thực thà theo sau y, mỉm cười chắp tay chào Chu Tử Tần.
Chu Tử Tần níu ngay lấy Lý Thư Bạch gặng hỏi: “Gia mau đoán đi, để toi xem gia lợi hại hay Sùng Cổ lợi hại hơn?”
“Nhị cô nương chắc hẳn sinh vào mùa xuân, cha là đồ tể, mẹ nuôi tằm dệt lụa. Xem tướng mặt thì cô ta mồ côi cha mẹ từ nhỏ, anh trai cũng chết yểu, trong nhà chỉ còn cô ấy và ba đứa em, hai trai một gái. Nhị cô nương từng bị từ hôn, vì nhà chồng chưa cưới cũng khó khăn, cưới về lại phải nuôi thêm ba đứa em nheo nhóc, làm sao sống nổi. Cô ta đành kế nghiệp cha, bán thịt dê trên phố này hơn bốn năm rồi, cũng đủ nuôi hai em trai đi học trường tư, học hành không tệ.”
Chu Tử Tần há hốc miệng, nhìn Lý Thư Bạch đầy kính phục: “Rõ… rõ ràng thế cơ à? Tài xem tướng của gia đúng là phi phàm!”
Khóe môi Lý Thư Bạch hơi cong lên, thấp thoáng ý cười, y chỉ đáp: “Quan trọng nhất là giữa hai chân mày cô ta rất sáng sủa, mày mắt rạng rỡ, ta dám chắc mấy hôm nữa cô ta sẽ một bước lên mây, bay lên cành cao.”
Chu Tử Tần nửa tin nửa ngờ nhìn đầu mày Nhị cô nương rồi lẩm bẩm: “Thật hay đùa đây…”
Lý Thư Bạch mỉm cười nhìn Hoàng Tử Hà, chưa kịp nói gì thì nghe thấy bên cạnh nhốn nháo cả lên. Ba bốn tên hầu ăn vận chỉnh tề xúm xít vây quanh một gã đàn ông bụng phệ, cả người nần nẫn mỡ, vừa nhác thấy Nhị cô nương bán thịt dê bên đường, cơ thịt trên mặt ông ta bỗng rần rật rồi nhào tới nắm ngay lấy tay áo cô, bất chấp phản thịt nhầy nhụa mỡ: “Đây… Đây chẳng phải Nhị nha đầu ư?”
Nhị cô nương ngẩn ra hỏi lại: “Vị này là ai vậy?”
“Tứ thúc của con đây! Ông nội con là chú họ của ta! Năm xưa cha con còn nhỏ, ông nội con đến nhà ta giúp việc tế lễ từng dắt cha con theo, nên ta cũng đã gặp mặt một lần! Con giống cha con hồi nhỏ như đúc!”
“Ồ… ra là Tứ thúc.” Nét mặt Nhị cô nương rành rành mấy chữ: Tứ thúc thật tinh mắt, trí nhớ cũng tốt quá.
Song ông chú này chẳng buồn để tâm đến ánh mắt cô, nhanh nhẹn rút gia phả đem theo người, giở ra cho cô xem: “Đây, con nhìn xem, ông nội con là Lưu Lương Thượng, sau khi ra ở riêng thì chuyển đến phủ Thành Đô làm đồ tể kiếm sống, đúng không nào? Con nhìn sang bên này này…” Ngón tay ông ta đi theo đường nối dài, qua vô số cái tên lạ hoắc, cuối cùng dừng lại trỏ vào một cái, “Lưu Hỉ Anh, chính là ta, theo vai vế chẳng phải là chú họ con ư?”
Nhị cô nương ngỡ ngàng, chẳng biết ông chú họ xa lơ xa lắc từ trên trời rơi xuống này muốn thế nào, đành quấy quá đáp: “Con ngu ngốc, không nhận ra Tứ thúc, mong Tứ thúc bỏ qua.”
“Ôi chao, họ hàng xa ít qua lại thì vậy thôi, không sao không sao.” Lưu Hỉ Anh gỡ con dao phay khỏi tay cô, đặt lên phản thịt, “Nhị nha đầu, Tứ thúc hiện giờ là ty thương Miên Châu, sao có thể để cháu gái phơi mặt ngoài đường bán thịt dê được? Mau theo ta về nhà, ta sẽ nuôi con, rồi làm lễ thật to ghi tên con vào gia phả, về sau con chính là con gái ta!”
Nhị cô nương chớp mắt, còn chưa nghĩ ra nên làm gì thì người đằng sau đã dắt một cỗ xe mui xanh tới, giục cô lên.
“Khoan đã, đợi con bán xong thịt hôm nay…” Nhị cô nương nhìn Lưu Hỉ Anh, rồi lại cầm dao lên. Lưu Hỉ Anh vội sai người hầu: “Đem tất cả thịt về nhà bếp luôn đi. Con thích ăn thịt dê à?”
“Không, bình thường thịt ế con đều phải ăn cả.” Nhị cô nương miệng nói, tay cầm một sợi thừng rơm nhanh nhẹn buộc thịt lại, ném cho họ: “Coi như đây là quà ra mắt Tứ thúc vậy, con phải về nhà đây, còn nấu cơm cho mấy đứa em nữa.”
“Đừng mà Nhị nha đầu, đến nhà ta đi…”
“Thôi thôi, con chỉ là một người bán thịt, sao có thể đến nhà Tứ thúc được? Huống hồ dưới con còn mấy đứa em phải nuôi…”
“Thì gọi cả bọn chúng đến…”
Chu Tử Tần đứng xem hài kịch mà suýt đánh rơi cả hàm dưới. Ngoái lại thấy Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên như không, gã thiếu điều muốn quỳ sụp xuống vái lạy: “Vương gia đúng là người trời! Đoán việc như thần vậy!”
Hoàng Tử Hà cười tinh quái: “Tra đến tông ty mấy đời thì ai mà chẳng có họ với một nhân vật vai vế, phải không nào?”
“Nhưng có mấy ai hăm hở tới tìm một người họ hàng xa lơ xa lắc như thế đâu, sao Nhị cô nương tự nhiên lại có cái phúc ấy?”
Hoàng Tử Hà cười cười nhìn Lý Thư Bạch, y cũng mỉm cười đáp trả, cúi đầu thì thầm vào tai cô: “Lưu Hỉ Anh tình cờ nghe được tin đồn rằng Nhị cô nương bữa trước từng giúp đỡ Quỳ vương trong lúc gặp nguy ở ngoại ô. Sau khi lén lút đến gác Đôn Thuần nghe ngóng, lão ta bèn hối hả chạy đến đây.”
Thấy Chu Tử Tần lật đật chạy đi hóng hớt, Hoàng Tử Hà không nén được nụ cười: “Quỳ vương quả là nhiệt tình.”
Lý Thư Bạch cúi đầu chăm chú nhìn cô hồi lâu mới hờ hững đáp: “Chẳng qua không muốn thêm một đối thủ đấy thôi.”
Hoàng Tử Hà thoáng ngạc nhiên, không hiểu Chu Tử Tần đối địch với Quỳ vương lúc nào, song thấy y đã quay lưng đi thẳng, bèn vẫy tay với Chu Tử Tần rồi nhanh nhảu đi theo y.
Đã qua Trung thu, khí trời ngày một lạnh dần, bên con đường vắng, lá vàng lả tả rơi xuống thành một lớp dày dưới chân họ, mỗi bước đều nghe lạo xạo. Đất Thục xưa nay nắng ít mù nhiều, sắc trời âm u, nay có lá vàng lại càng thêm phần quạnh quẽ.
Giọng Lý Thư Bạch khẽ khàng mà chậm rãi bên tai cô: “Tối qua ta đã nói chuyện với Vương Uẩn.”
Hoàng Tử Hà cúi đầu không đáp. Hôn ước cũ với Vương Uẩn khiến cô và Lý Thư Bạch muốn ở bên nhau cũng khó mà qua được ải của y. Giờ đây quan hệ giữa ba người vô cùng phức tạp, tình cảnh khó xử khiến người ta chẳng biết phải xử trí ra sao nữa.
Thấy cô làm thinh, Lý Thư Bạch lại nói tiếp: “Phong thư ta nhờ người đưa tới, cô đã nhận được chưa?”
Hoàng Tử Hà khẽ gật đầu, lí nhí đáp: “Việc này quả là không phải với nhà họ Vương.”
Lý Thư Bạch gật đầu: “Ta biết. Thế nên mấy ngày nữa ta sẽ về kinh, xử lý cho xong việc cần phải giải quyết. Có lẽ sẽ xảy ra rất nhiều chuyện, hoặc phải mất rất nhiều thời gian, nhưng ta nhất định quay lại.”
“Tôi chờ.” Giọng Hoàng Tử Hà rất khẽ, mặt bất giác cũng đỏ ửng lên, nhưng ánh mắt nhìn y không mảy may dao động.
Lý Thư Bạch cúi đầu đắm đuối nhìn cô, thấy làn da trắng tái dưới ánh sáng lờ mờ ngày thu hơi ửng hồng, kều diễm không bút nào tả xiết. Y chỉ thấy lòng xao xuyến khôn cùng, máu nóng chảy rần rật dưới từng tấc da, mọi mạch máu từ lồng ngực đến tận ngón tay đều như sôi lên, khiến y thoáng ngây người.
Rồi dường như bị dòng máu nóng trong tim dẫn dụ, y thình lình đưa tay ôm cô vào lòng, siết chặt.
Hoàng Tử Hà đột ngột bị y ôm lấy, thân thể bất giác run lên. Hai tay cô chắn ở giữa, toan đẩy y ra, nhưng vừa chạm vào lồng ngực y, cả người cô đã mềm nhũn. Nhìn trên cánh tay mình, cô trông thấy hai hạt đậu đỏ xâu bằng dây vàng đã trượt xuống tận khuỷu tay, nhẹ nhàng chạm vào nhau.
Hoàng Tử Hà bất giác ngẩn ngơ, rồi từ từ xuôi hai tay xuống, mặc cho y ôm lấy mình, tựa như hai người sẽ cứ thế dính chặt lấy nhau, từ nay không bao giờ chia lìa nữa.
Lý Thư Bạch cúi đầu vùi mặt vào tóc Hoàng Tử Hà, hít thật sâu mùi hương thoang thoảng thanh mát mà xa xăm của cô, ý thức cũng từ từ tan ra như tuyết ngày xuân.
Chẳng biết từ lúc nào, hai tay cô đã khẽ khàng giơ lên ôm lấy y. Vùi mặt vào ngực y, nghe tiếng hai trái tim đập dồn, mặt cô cũng nóng bừng.
Lâu thật lâu, y mới buông cô ra, dịu giọng dặn dò: “Bất luận nghe được tin gì cũng đừng sợ hãi, càng không cần lo lắng. Cứ yên lòng đợi ta về.”
Hoàng Tử Hà đỏ bừng hai má, lặng lẽ gật đầu, nhưng vẫn nhanh nhạy nhận ra có điều không ổn. Tuy lòng chưa thôi xao xuyến, song cô vẫn buột miệng hỏi: “Có thể xảy ra chuyện gì?” Nét cười dịu dàng thoáng qua gương mặt Lý Thư Bạch, y đắm đuối nhìn cô đáp khẽ: “Không có gì đầu, chẳng qua sợ cô đợi mãi phát chán lại quên khuấy mất ta thôi.”
Hoàng Tử Hà giơ tay đánh khẽ vào vai y: “Nói bậy.”
Y mỉm cười nắm lấy tay cô, đăm đăm lặng ngắm. Bàn tay y từ cổ tay cô trượt xuống, thong thả tách bàn tay cô ra, mười ngón đan vào nhau.
Hai hạt đậu đỏ thắm nhẹ nhàng chạm vào đôi cổ tay sát lại.
Hai người lặng thinh nắm tay nhau đi giữa một trời lá vàng rơi lả tả. Trên con đường vắng vẻ ngày thu, hướng tới một tương lại xa xăm mờ mịt.


Chu Tử Tần đã nói là làm.
Hôm sau gã đưa ngay son tới, ngoài một hộp to nhất cho Hoàng Tử Hà, còn chuẩn bị mười mấy hộp nhỏ để cô chia cho các chị em, riêng Mi Vu cũng có một hộp.
Hoàng Tử Hà khều một ít bôi lên lòng bàn tay thử màu.
Trông thấy hai hạt đậu đỏ xâu bằng dây vàng trên cổ tay trắng muốt của cô, tươi tắn đến chói mắt, Chu Tử Tần bất giác choáng váng cả đầu óc, cứ ngây ra ngắm nhìn hồi lâu.
Hoàng Tử Hà kéo tay áo che đi rồi quay lưng lại, vừa thoa son vừa hỏi: “Nhị cô nương thích son hương hoa quế chứ?”
Chu Tử Tần bấy giờ mới định thần, ủ rũ đáp: “Hôm nay cô ấy không dọn hàng. Ta vừa hỏi thăm được địa chỉ nhà, nhưng… ngại không dám đưa đến…”
Hoàng Tử Hà cúi đầu cười, chỉ muốn hỏi lại: công tử mà cũng biết ngại kia à?
“À phải rồi, Sùng Cổ này, vụ hôm Trung thu đã kết án rồi. Ta cũng bàn bạc với cha, tuy xưa nay chưa từng có nữ bổ đầu, nhưng chúng ta vẫn muốn mời cô làm nữ bổ khoái ngoài biên chế, cô giúp chúng ta phá án, hằng tháng nha môn sẽ trả lương, thế nào?”
“Chẳng thế nào cả!” Cô chưa kịp đáp đã thấy một người đùng đùng từ ngoài cửa đi vào, lớn tiếng cắt lời gã.
Người đến là thím của Hoàng Tử Hà. Cô đứng dậy hành lễ, thấy mặt bà hầm hầm, bẽn lễ phép hỏi: “Có chuyện gì sai bảo cháu ư?”
Bà thím lườm Chu Tử Tần, rồi giận dữ phẩy tay ngồi xuống: “Cháu à, ta nào dám sai bảo gì cháu. Mặt mũi mấy mười đời nhà họ Hoàng đều vì cháu mà mất cả rồi, mấy bậc bề trên như ta cũng đâu dám chõ miệng vào.”
Hoàng Tử Hà vờ như không hiểu, đứng yên đời bà thím nói hết.
“Con gái con đứa cả ngày đi theo đám bổ khoái nha dịch, trước đây còn nói cha cháu, mọi người cũng nể cháu là thiên kim nhà quận thú nên mắt nhắm mắt mở cho xong. Nhưng giờ cha mẹ cháu đã qua đời, cháu chỉ là dân thường, lại là con dâu chưa gả của nhà họ Vương, ngoan ngoãn ở nhà chờ kiệu hoa đến rước chẳng hay hơn ư, việc gì phải vấy vào vũng nước đục? Chẳng phải… bên ngoài đã có lời tiếng ong tiếng ve, nói là Vương công tử về kinh bàn bạc việc hủy hôn với cha mẹ đấy!”
“Là ai loan tin này vậy?” Hoàng Tử Hà thầm đoán, hẳn là Lý Thư Bạch, người này thực quá quyết tuyệt, để Vương Uẩn khỏi nuốt lời, bèn nhanh tay chặt đứt đường lui của y.
Chu Tử Tần không hiểu đầu đuôi nhảy dựng lên: “Cái gì cơ? Tên khốn Vương Uẩn kia dám hủy hôn à? Hắn định về kinh bàn việc hủy hôn ấy hả? Để ta tóm cổ tẩn cho hắn một trận!”
“Nguồn cơn việc này chẳng phải vì Chu bổ đầu ư?” Bà thím hầm hầm trừng mắt lườm gã, “Dạo Tử Hà bị truy nã toàn quốc, nhà họ Vương cũng không hề đả động chuyện hủy hôn, sao giờ đã rửa sạch oan khiên lại sinh sự? Chẳng phải nhờ Chu thiếu bổ đầu cứ lôi con bé đi phá án hay sao? Đường đường là khuê nữ, cả ngày theo bổ đầu hết bươi tử thi lại phá án mạng, nhà chồng nào chịu nổi?”
Chu Tử Tần đương nhiên không chịu lép, độp lại ngay: “Đại nương không biết rồi! Lúc ở trong kinh, Vương công tử vô cùng thán phục Sùng… Hoàng tiểu thư tâm tư tinh tế, đoán án như thần. Huynh ấy cũng từng giúp chúng tôi đến hiện trường điều tra, sao có thể vì việc này mà hủy hôn! Rõ ràng là tin đồn bậy bạ, không thể tin được!”
“Hừ!!! Nhưng rõ ràng Vương công tử đã rời Thành Đô, chuyện này không thể chối cãi được! Lúc trước Vương công tử từng đến nhà họ Hoàng mấy lần, dốc lòng thu xếp cho con bé, giờ thì sao, mấy hôm trước đã nói sẽ đến bàn bạc việc hôn nhân, kết quả sát giờ hẹ lại cáo bận, cả việc lớn như về kinh cũng không báo lấy một tiếng, bổ đầu bảo là vì sao?”
Chu Tử Tần vẫn nói cứng: “Đương nhiên là vì Vương Uẩn sợ lúc chia tay lưu luyến, lại lo mình không nỡ xa Hoàng tiểu thư, nên phải gắng nén nỗi khổ chia ly, chẳng từ mà biệt, để khỏi sụt sùi thương cảm.”
Bà thím Hoàng Tử Hà chỉ là người thường, sao địch lại công phu nói đen thành trắng vô địch Trường An của Chu Tử Tần, đành cười nhạt quay lưng đi thẳng, quẳng lại một câu: “Tử Hà à, nếu chuyện hủy hôn là thực, thì từ nay về sau, mong cháu thận trọng chút đi!”
Chu Tử Tần lè lưỡi làm mặt quỷ sau lưng bà ta, rồi quay lại nhìn Hoàng Tử Hà: “Kệ bà ấy, ta thường tới Tả Kim Ngô Vệ ăn chực, hiểu rõ tính tình Vương Uẩn, người ôn hòa như thế mà hủy hôn mới là lạ! Huống hồ vợ chưa cưới của huynh ấy lại là cô, dù ta có tha, Quỳ vương cũng chẳng chịu để yên, nhất định sẽ ra mặt thay cô!”
Hoàng Tử Hà cười bất lực: “Đa tạ Tử Tần tặng son và thuốc bôi tay, sau này có vụ án lớn cứ gọi tôi, tôi sẽ giúp công tử coi như cảm tạ.”
“Chủ yếu phải nhờ Sùng Cổ dạy ta phá án, tuy tay nghề nghiệm thi của ta là thiên hạ vô địch, nhưng về phương diện suy đoáng thì còn kém lắm, quả là lực bất tòng tâm.” Gã gãi đầu, thở dài não nuột, “Đương nhiên, nếu có tài xem tướng như Quỳ vương thì càng tốt, đi ngang qua đường liếc một cái đã biết kẻ kia khi nào thì phạm tội, đến lúc đó cứ theo dõi hắn là được…”
Hoàng Tử Hà bật cười khúc khích: “Được rồi, về sau công tử cứ nhờ gia chỉ bảo thêm cho.”
“Chỉ bảo gì chứ, Quỳ vuong cũng đi rồi, sáng sớm nay lên đường.” Chu Tử Tần xị mặt, rồi như sực nhớ ra chuyện gì đó, thì thào bảo cô: “À phải, trước lúc lên đường Trương nhị ca có nhờ tôi giúp huynh ấy nghe ngóng tin tức Tích Thúy ở Thục. Sùng Cổ bảo Tích Thúy liệu có đên đây không?”
Hoàng Tử Hà trầm tư đáp: “Cũng không biết được, có khi một ngày nào đó cô ấy lại đến thì sao?”
“Đúng nhỉ, thiên hạ rộng lớn như thế, đâu cũng có thể đi, đâu cũng có thể không đi mà.” Nói rồi, Chu Tử Tần lại liếc ra ngoài song, thấy không có ai mới hạ giọng, “Lúc ta đến, Trương nhị ca đang thu dọn hành lý. Lần này về, chắc không hề gì. Vậy mà ta lại thấy Trương nhị ca đầy vẻ lo lắng, cứ nơm nớp không yên.”
Hoàng Tử Hà “ừm” một tiếng, nhớ lại lúc từ biệt hôm qua, Lý Thư Bạch đã dặn dò cô nghe được tin gì cũng không được kinh sợ, càng không cần lo lắng, cứ yên lòng đợi y về, bèn cúi đầu nhìn xuống, xoay xoay chiếc vòng mã não trên cổ tay, hồi lâu mới hỏi: “Trương nhị ca nói gì?”
“Huynh ấy không dám nói, nhưng ta cứ bám riết không buông…”
Tài đeo bám của Chu Tử Tần, cả cô cũng không phải là đối thủ, đương nhiên Trương Hàng Anh làm sao chống đỡ nổi, đành ấp úng nói: “Khuyên đỏ…”
Vừa nghe Chu Tử Tần nhắc đến hai chữ “khuyên đỏ”, Hoàng Tử Hà đã thấy hơi lạnh từ cột sống xộc thẳng lên óc, vội gặng: “Chữ nào?”
Chu Tử Tần ngơ ngác: “Chữ nào gì cơ?” Bấy giờ cô mới nhận ra mình hơi quá khích, có lẽ Chu Tử Tần không biết chuyện này, đành miễn cưỡng trấn tĩnh lại, gắng lấy giọng bình thản: “Ý tôi là, trừ hai chữ đó ra, Trương nhị ca còn nói gì không?”
Chu Tử Tần lắc đầu: “Không hề. Huynh ấy vừa lỡ mồm buột miệng ra hai từ này đã hối hận khôn xiết, ngậm chặt miệng lại. Ta nài nỉ hết cả hơi, nhưng huynh ấy lại quay ra cầu xin ta, nói rằng lúc trước vì phạm quy mà bị đuổi khỏi đội nghi trượng, nếu ta không muốn huynh ấy phải về Đoang Thụy Đường phơi thuốc thì đừng hỏi thêm nữa. Trương nhị ca đã nói thế, ta còn biết làm sao nữa.”
Hoàng Tử Hà lặng thinh, hồi lâu mới gật đầu, song chẳng nói thêm gì.
Chu Tử Tần bèn gặng: “Sùng Cổ cũng biết ‘khuyên đỏ’ nghĩa là gì đúng không? Vừa rồi Sùng Cổ nói ‘chữ nào’ là ý gì? Các vị lại giấu ta chuyện gì phải không?”
Hoàng Tử Hà thở dài: “Tử Tần à, có những chuyện thà không biết thì hơn đấy.”
“Một là biết cả, hai là mù tịt, chứ cứ biết nửa chừng thế này khó chịu lắm!” Chu Tử Tần nhăn mặt, tha thiết nhìn cô, “Sùng Cổ, tiết lộ cho ta một tí đi? Một tí thôi mà…”
“Biết một tí còn khó chịu hơn biết nửa chừng đấy!” Hoàng Tử Hà từ chối thẳng thừng, “Có những việc, một khi bị cuốn vào thì chẳng hay ho gì đâu.”
“Nhưng Sùng Cổ đã biết rồi, chẳng phải là cũng bị cuốn vào rồi ư? Ta bất chấp, bạn bè với nhau phải có nghĩa khí, chúng ta có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu!” Hoàng Tử Hà chậm rãi lắc đầu: “Phải, tôi đã bị cuốn vào, vậy mà giờ đây sóng gió ập đến, người ta lại đẩy tôi ra… Thực tình, tôi còn rút ra nổi ư?”
Chu Tử Tần ngơ ngác, chẳng hiểu cô đang nói gì.
Chỉ thấy Hoàng Tử Hà quay sang cười hỏi gã: “Tử Tần có vào được gác Đôn Thuần không?”
Chu Tử Tần quen tư duy nhảy cóc, song cũng chẳng ngờ cô lại thình lình đổi chủ đề như vậy, há hốc mồm hồi lâu mới gật đầu: “Được.”
“Dẫn tôi vào được không, tôi muốn xem thử nơi ở của Quỳ vương.”
Khóe miệng Chu Tử Tần rần rật: “Sùng Cổ buồn cười nhỉ? Trước đây làm tiểu hoạn quan bên cạnh Quỳ vương, ngày nào chẳng ở phủ Quỳ, còn chưa thấy nơi ở của gia ư?”
Hoàng Tử Hà đành viện cớ khác: “Được rồi, vậy dẫn tôi đi tham quan hành cung nhé.”
“Không vấn đề, để ta mượn cho một bộ đồ của công. Đi nào.”


Chu Tử Tần giao du rộng rãi, chỉ trong mấy tháng, khắp trên dưới quận Thục đều nhớ mặt. Đám hộ vệ canh giữ gác Đôn Thuần vừa thấy gã đã nhao nhao: “Sao Chu bổ đầu lại đến? Sáng nay chẳng phải vừa tới tiễn Quỳ vương ư?”
“Ta để quên đồ, phải vào tìm.” Nói rồi, gã vẫy tay chào tất cả, thản nhiên dẫn Hoàng Tử Hà vào. Thấy Hoàng Tử Hà mặc đồ bổ khoái, mọi người cũng chẳng để ý, chỉ cười hì hì trêu: “Cậu chàng này cứ trắng nõn nà ấy nhỉ.”
Đến trước hiên Xuân Hóa, cô chỉ thấy tùng bách xanh ngắt một màu, che khuất cả sảnh đường phía sau. Đi lòng vòng trên nền gạch xanh trước hiên hồi lâu, cô chợt hỏi: “Lúc Quỳ vương đến đây, có những ai hầu hạ?”
Một kẻ đang dọn vườn cạnh đó liền đáp: “Sau khi các thị vệ bên cạnh Quỳ vương lần lượt quay về, đều do họ hầu hạ gia.”
Cô lại hỏi: “Có để lại người nào không?”
“Có một thị vệ bị thương phạm đến xương cốt, không thể đi theo gia nữa, tình cờ cũng là người Thục nên gia gửi gắm cho quận thú giữ người này lại phụ việc, giờ đã ghi tên vào danh sách ở gác rồi.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, hỏi han thêm về người nọ rồi đến gặp, là một nan tử khí khái, chừng hơn hai mươi tuổi, trước đâu cô cũng đã từng gặp, hình như mọi người gọi hắn là Điền Ngũ, tiếc rằng giờ đã cụt tay phải, không thể làm lính được nữa.
Người này đương nhiên cũng nhận ra Hoàng Tử Hà, liền chào: “Dương công công.” Đôi bên vái chào nhau xong, Hoàng Tử Hà tiện miệng hỏi: “Thứ gia để lại cho ta đâu?”
Điền Ngũ ngẩn ra, ấp úng: “Thứ… gì cơ?”
“Chính là thứ trước khi đi gia đưa cho ngươi, dặn ngươi sau này chuyển lại cho ta đó.” Hoàng Tử Hà bình thản nhìn hắn.
Điền Ngũ há hốc miện, lưỡng lự đáp: “Là… cái đó ư…”
Nghe hai người đối đáp, Chu Tử Tần chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì hết, mà cũng chẳng hơi đâu đoán mò, điềm nhiên ngồi xuống bên cạnh cắn hạt dưa.
“Nhưng gia đã dặn, phong thư ấy phải đến ngày này năm sau mới được giao cho Dương công công.” Điền Ngũ bối rối gãi đầu, nghi hoặc hỏi: “Sao giờ công công đã đòi lấy rồi? Gia nói với công công rồi à?”
Hoàng Tử Hà thản nhiên giải thích: “Ừm, gia dặn ta nếu có việc gấp thì cứ xem phong thư gia để lại.”
Điền Ngũ lắc đầu: “Nhưng gia dặn tôi là ngày này năm sau.”
“Sáng nay lúc tới tiễn gia lại xảy ra việc gấp. Giờ gia về kinh, nhất định sẽ gặp trùng trùng nguy hiểm, nên mới dặn có để lại một phong thư ở chỗ ngươi, vốn định một thời gian nữa mới giao cho ta, nhưng giờ thế cục nguy cấp, nên bảo ta mau chóng lấy về.”
Nghe cô nói vậy, Chu Tử Tần đang cầm nắm hạt dưa liền ngẩn ra: “Sùng Cổ cũng đi tiễn gia ư?”
“Ừm, sớm hơn công tử.” Cô ngoái lại nhìn gã, ý bảo “ngậm miệng”.
Chu Tử Tần lại cắm cúi cắn hạt dưa, không dám ho he gì nữa.
Thấy cô có vẻ quả quyết, ánh mắt cũng hết sức bình tĩnh, không giống nói dối, Điền Ngũ đành đáp: “Thôi được, xin Dương công công đợi cho một lát.” Đoạn hắn quay về phòng, chẳng bao lâu thì quay lại, đưa một bức thư gắn xi kín cho cô: “Là bức này đây.”
Bì thư không đề tên người gửi người nhận. Hoàng Tử Hà đón lấy, bảo Điền Ngũ: “Đa tạ, làm phiền Điền Ngũ ca rồi.” Đoạn quay người, vừa đi vừa mở phong thư.
Tử Hà, thấy chữ như thấy người.
Lúc cô mở thư này ra, hẳn là ta đã chết.
Mưa gió trong triều, chẳng ai tránh được. Mấy năm nay dốc hết tâm huyết, như giẫm băng mỏng, cuối cùng cũng có lúc đổ vỡ khó cứu. Bóng ác non Tây, vương khí suy kiệt ta không thể cứu, nhưng có mối họa ta có thể trừ. Dựa vào mình ta, dẫu có dốc cạn sức lực cũng không ngăn nổi dòng chảy của triều đình giữa trời dài đất rộng.
Lần này chịu chết, ta đã đợi suốt mười mấy năm. Tổ lật lấy đâu trứng lành, giấc kê vàng đã tỉnh, thà thẳng thắn đối mặt còn hơn nín thít sống mòn. Cả đời ta vốn không ràng không buộc, chỉ muốn vạch trần bí mật thân này, rồi chết cũng không tiếc. Nào ngờ chiều xuân ấy lại tình cờ gặp cô, rồi bước bước dấn sâu, đến nỗi quên cả bản thân mình. Tử Hà, cô là sai lầm lớn nhất, cũng là may mắn lớn nhất đời ta.
Họ Vương Lang Gia không phải mối tốt, sau ta, chắc sẽ đến lượt họ sụp đổ. Giờ cô đã không còn dính líu gì với Vương Uẩn nữa, bằng tuệ nhãn của cô, ắt sẽ tìm được duyên lành nơi khác, như ý viên mãn…

Hoàng Tử Hà chẳng kịp đọc hết đã thấy trước mắt tối sầm. Nét chữ sắc sảo của Lý Thư Bạch nhòa hẳn rồi tan đi như khói. Cô đứng lặng, hai chân mềm nhũn, phải dựa vào gốc bách cao ngất đằng sau mới trụ vững nổi.
“… Sùng Cổ?”
Là Chu Tử Tần đang cuống quýt gọi cô.
Hoàng Tử Hà vội vã gấp phong thư lại, song trước mắt tối mò, chẳng thấy gì cả, đành nhét lá thư vào ngực áo, yếu ớt gọi: “Tử Tần…”
“Hả? Ta đây.”
“Tôi… hơi chóng mặt.” Nói đến đây, cô cũng định thần lại, vịn tường chầm chậm đi đến cạnh lan can rồi tựa cột ngồi xuống, giơ tay bóp trán, “Thiếu máu ấy mà, một lát là ổn thôi.”
Chu Tử Tần vỗ đầu, hớt hải chạy vào căn phòng cạnh đó, lấy hai viên kẹo vừng đưa cho cô: “Gia không ở đây, cô cũng đừng quên mang kẹo theo chứ.”
“Đâu đến nỗi yếu ớt thế, gần đây cũng không phải bôn ba cả ngày mà.” Đoạn cô nhón một viên kẹo vừng chậm rãi nhai, thẫn thờ hồi lâu.
Phóng mắt nhìn ra tùng bách xanh um phía trước, chỉ thấy cành cong uốn lượn tựa như rắn rồng vươn mình, tán lá rậm rì chẳng khác bóng đen thấp thoáng, vườn cảnh được cắt tỉa gọn gàng nay đã trở thành hành cung quạnh quẽ cả trăm năm.
Trong nháy mắt cô đã hiểu được sự đáng sợ của triều đình.
Chu Tử Tần ngồi bên nhìn cô đầy lo lắng: “Sùng Cổ không sao chứ?”
“Không… Tôi không sao…” Cô co chân lên, áp mặt vào cánh tay, gục đầu xuống gối giây lát rồi hỏi: “Cùng tôi đến thăm mộ cha mẹ được không?”


Trên mộ Hoàng quận thú lún phún cỏ xanh. Chỉ cần có đất thì ngọn cỏ ngoan cường sẽ không ngừng mọc ra suốt bốn mùa, chờ đến một ngày con người sơ ý, chúng sẽ có cơ hội vươn cao.
Chu Tử Tần xe nhẹ đường quen, chạy thẳng đến nơi, vái một vái thật dài trước mộ rồi thành khẩn khấn khứa: “Kính thưa tất cả người nhà của Hoàng tiểu thư… Lần trước quấy nhiễu các vị thực là có lỗi, xin các vị bỏ quá cho, dù sao cuối cùng Hoàng tiểu thư đã giúp các vị bắt được hung thủ, coi như tôi cũng góp một tay…”
Hoàng Tử Hà chẳng buồn để ý đến gã mà quỳ phục xuống, thẫn thờ nhìn hàng chữ trên bia mộ khắc rành rành tên cô: Hiếu nữ, Hoàng Tử Hà.
Cả gia đình thuận hòa yên ấm là vậy, giờ đây chỉ còn một mình cô.
Ánh mắt cô vượt qua phần mộ trước mặt, nhìn ra ngôi mộ nhỏ giản dị đằng sau. Trước mộ chỉ có một tấm bia đá khắc mấy chữ đơn sơ: Vũ Tuyên chi mộ.
Ngoài ra, không còn gì khác.
Dưới nấm đất hoang vu ấy, là mối tình đầu đã vùi chôn của cô. Chẳng ai còn biết đến phong tư nho nhã của hắn, cũng chẳng ai hay câu chuyện của hắn. Càng không ai biết, hắn từng biến một thời thiếu nữ của cô thành giấc mộng đẹp nhất thế gian này.
Tiếc rằng giờ đây mộng đẹp đã tan, hắn cũng rời xa cô mãi mãi. Trước mặt cô, chỉ có một con đường đầy rẫy hiểm nguy. Lý Thư Bạch mong cô ở lại đây đợi ngày y đạp bằng chông gai quay về, song cô tự biết, mình không thể ngồi một chỗ đợi định mệnh giáng xuống được.
Người sống trên đời luôn phải đối mặt với muôn ngàn sóng gió. Bão táp trên triều nghiêng ngả thiên hạ. Nếu vào lúc gian nan hung hiểm nhất lại không thể kề vai sát cánh cùng người ấy thì cô cần gì sống uổng kiếp này, càng không thể nói là viên mãn như ý được.
Cô cắn môi, khom người dập đầu ba cái trước mộ người nhà.
Từ đầu đến cuối, cô đều lặng thinh không nói. Chu Tử Tần đi cũng chẳng hiểu nguyên do, chỉ biết nghi hoặc nhìn cô, cũng chẳng rõ tại sao mắt cô ầng ậng nước.


Núi non trùng điệp, đường xa tít tắp.
Con đường phía trước dường như không có điểm cuối, cứ trải dài ra lớp lớp. Lý Thư Bạch mải miết đi, càng gần kinh thành, y càng thấy bất an.
Con cá nhỏ trong bình lưu ly dường như cũng mệt vì đường xa, lặng lẽ lặn xuống đáy bình, bất động thật lâu. Mặc cho y búng vào thành bình, nó cũng chỉ uể oải quẫy đuôi, chẳng buồn để ý.
Ánh nắng rọi qua rèm xe càng lúc càng thêm ấm áp.
Suốt, lá đỏ lá vàng rơi lả tả. Vén rèm trông ra, tình cờ một chiếc lá đỏ bay vào rơi xuống lòng mình. Y nhặt lên xem, lại nhớ đến lúc chia tay trên con đường vắng ở Thành Đô hôm ấy, một chiếc lá đỏ cũng rơi xuống tóc cô thế này.
Hẳn cô không biết, khi ôm cô vào lòng, y đã âm thầm gỡ chiếc lá từ tóc cô, nắm chặt trong tay.
Y lật cuốn sách trên bàn ra, đặt chiếc lá vừa nhặt xuống cạnh chiếc kẹp sẵn trong sách. Hai chiếc lá đỏ nằm bên nhau, nhìn thân thiết vô cùng.
Giờ cô đang làm gì nhỉ? Chiều thu thế này, chắc là đang ngủ bên song? Liệu có phải đang chìm trong mộng đẹp?
Nghĩ vậy, khóe môi y bất giác cong lên thành một nụ cười, thầm nhủ, một thời gian nữa, không thấy mình quay về, cuộc hôn nhân của cô với Vương Uẩn cũng bị chính mình phá hỏng, liệu cô có hận mình không nhỉ?
Đi mải miết hết ngày này sang ngày khác, phong cảnh ngoài song cũng trở nên dần trở nên quen thuộc. Núi non ngoài ngoại ô kinh thành dường như cũng hùng vĩ nguy nga hơn nơi khác. Núi non trùng điệp, sông nước uốn quanh, non xanh nước biếc cùng bao bọc lấy tòa thành phồn hoa nhất dưới gầm trời này, trở thành nơi muôn vạn dân chúng hướng về.
Nghỉ lại biệt phủ ngoài thành một đêm, quân Đông Tây Xuyên cũng dừng lại đóng trại ở đây, tảng sáng hôm sau chỉ có một mình xa giá Quỳ vương vào thành.
Thấy cỗ xe ngựa quen thuộc, từ quan đến dân trong thành đều nháo nhào kháo nhau, Quỳ vương về kinh rồi. Quan viên các bộ xúc động rưng rưng, như nhìn thấy cảnh đống tấu chương chất cao như núi đang vợi đi nhanh chóng.
Thế nên, xe ngựa còn chưa đến phường Vĩnh Gia, trước cửa phủ Quỳ đã có cả đám người xúm xít đứng đợi. Tới khi nghe tiếng chuông vàng quen thuộc, mọi người đều rộ lên hoan hô rồi nhao nhao chạy đến tham kiến. Thượng thư bộ Công Lý Dụng Hòa tay gạt tất cả ra, nước mắt nước mũi ròng ròng: “Vương gia cuối cùng cũng về kinh rồi! Hoàng thượng đang định xây một trăm hai mươi tòa tháp ở ngoài thành để rước cốt Phật từ chùa Pháp Môn, xin gia cho chỉ thị, chúng hạ quan phải xây thế nào đây?”
Thôi Thuần Trạm đẩy phắt Lý Dụng Hòa ra, hối hả thưa: “Bẩm vương gia, vụ kinh triệu doãn Ôn Chương nhận hối lộ giờ đã giao cho Đại Lý Tự điều tra, gia xem…”
“Đây là sổ thu thuế năm nay của bộ Hộ, mời gia xem qua…”

Giữa tiếng ồn ào nhốn nháo, Lý Thư Bạch cuối cùng cũng bước xuống xe. Y vốn cao, nên chỉ cần nhìn quanh một lượt, mọi người đã cảm thấy y nhìn thấy mình, tức thì đám đông yên tĩnh hẳn, ai nấy vội vã dâng sổ sách của mình lên.
Song Lý Thư Bạch không nhận lấy, chỉ ra hiệu cho đám tùy túng rẽ đám đông ra, đi thẳng vào phủ, miệng nói: “Bản vương đi tắm gội thay áo đã, các vị có thể vào sảnh đợi…”
Vừa nói đến đây, y bỗng sững ra trước cửa
Đám người đằng sau không hiểu Quỳ vương trông thấy gì, nhưng thấy y đứng sững ở đó, đang nói nửa chừng thì im bặt, bèn lũ lượt vươn đầu ra ngó xem rốt cuộc là cái gì đã khiến Quỳ vương nổi danh lạnh lùng điềm tĩnh, dù núi lở trước mặt cũng không hề biến sắc lại phải thẫn thờ.
Lý Thư Bạch nhanh chóng định thần, bước qua cửa rồi quay lại bảo tất cả mọi người: “Hôm nay ta mệt rồi, mời các vị về cho, mọi chuyện để mai hẵng bàn.”
“Bẩm vương gia, mạng người quan trọng mà! Việc của Ôn Chương rốt cuộc…”
“Vương gia, một trăm hai mươi tòa tháp phải làm sao đây! Trên dưới bộ Công sắp bị lôi đi xử giảo hết rồi…”
“Xin gia xem qua đi…”
Lý Thư Bạch như không nghe thấy, chỉ đứng trên thềm, nhìn chằm chằm bóng dáng mảnh mai trước bức chiếu bích(3).
Hoàng Tử Hà vận bộ váy vàng nhạt, mái tóc búi đơn giản, chỉ cài cây trâm y tặng, đứng trước chiếu bích quét vôi trắng, lúm đồng tiền ẩn hiện trên gương mặt tái xanh. Trong đôi mắt đắm đuối kia lấp lánh hai vì sao sáng nhất thế gian, phản chiếu bóng hình y, khiến mọi thứ trước mặt y bỗng sáng rực lên như có hào quang vạn trượng.
Từng bước, từng bước, y thong thả bước xuống thềm, đi về phía cô.
Hoàng Tử Hà đứng giữa gió lộng, tà áo bay bay, tóc tơ phấp phới, nhoẻn miệng cười thật tươi, ánh sao trong mắt cũng long lanh dao động.
Ngực y như có cái gì trào lên rồi nghẹn lại, hơi thở cũng ngừng mất một nhịp. Máu trong tim y sôi lên, cả người lúc lạnh lúc nóng, chẳng biết là mững rỡ hay là xót xa.
Bước đến cách cô hai bước, y mới dừng chân, khẽ hỏi: “Sao lại đến đây?”
Cô ngước nhìn y: “Gia thanh thế lớn quá, dọc đường đi có bao nhiêu người tiếp đón bày tiệc tẩy trần nên chậm hơn tôi nhiều. Tôi đến đây từ hôm trước, đã nghỉ ngơi được hai ngày rồi.”
Không để cô đánh trống lảng, y lại hỏi: “Chẳng phải bảo cô cứ yên tâm ở Thục đợi ta ư?”
“Đợi thế nào đây? Đợi đến mùa thu năm sau đọc thư tuyệt mệnh của gia ư?” Cô hít một hơi thật sâu, mặt vẫn tươi cười song bờ môi đã run lên, hơi thở lẫn giọng nói đều nghèn nghẹn: “Tuy biết gia đã sắp xếp như thế thì nhất định sẽ bình yên quay về, nhưng… tôi làm sao chờ nổi, huống hồ, nếu cứ ngồi đợi chờ vô vọng, chi bằng tôi chính tay nắm giữ thứ mình có thể nắm giữ còn yên tâm hơn.”
Nụ cười của cô kiên cường mà rạng rỡ. Tia nắng cuối ngày rọi lên gương mặt tươi tắn, khiến cả thế giớ thoắt mờ mịt hẳn đi. Gương mặt cô lấp lánh ánh hoàng hôn vàng rực, khiến Lý Thư Bạch lóa cả mắt, không dám nhìn thẳng.
Dường như y có thể trông thấy cô một thân một mình cưỡi Na Phất Sa băng qua muôn sông ngàn núi, giữa một trời hoa vàng lá úa mùa thu, bất chấp mọi thứ chạy thẳng đến kinh thành.
Cổ họng bỗng nghẹn lại, không thốt nổi lời nào, y chỉ biết giơ tay chạm nhẹ vào mặt cô, như chạm vào mộng ảo, cảm thấy tất cả đều mông lung, không dám tin là thật.
Giọng nói vốn lạnh nhạt bình thản, lúc này cũng run lên: “Cô có biết… tình thế hiện giờ đối với ta nguy hiểm nhường nào không?”
Đoạn y rút lá bùa trong tay áo, chìa ra trước mặt cô.
Giữa tờ giấy ố vàng, trên nền hoa văn xà trùng quỷ dị, ba chữ “côi, tàn, góa” đều bị khuyên đỏ thắm. Vết mực đỏ như máu còn loang ra, thấm vào những hoa văn chìm bên dưới, lờ mờ tạo thành một chữ sau cùng: vong.
Nhìn con chữ ẩn hiện giữa lớp, như có như không hoa văn chìm đấy quái gở song lại như xoáy vào mắt, cô chỉ mỉm cười, vươn tay nắm lấy tay y. Rồi giống như lần trước, mười ngón tay đan vào nhau.
Dưới ánh chiều vàng rực, cô nắm chặt tay y, cười dịu dàng: “Tôi đã nói sẽ vĩnh viễn ở bên gia mà.”
Dòng máy sôi sục trong tim cuối cùng cũng trào dâng như vỡ đê. Y chẳng còn sức xua đuổi cô nữa, đành bất chấp tất cả ôm chặt lấy cô, chặt đến gần như thô bạo. Cô cảm giác được cả người y run lên, hơi thở rối loạn dồn dập, luống cuống chẳng khác một gã thiếu niên chưa hiểu sự đời. Đanh định cười trêu kẻ xưa nay quen thói làm mặt lạnh, nhưng vừa mở miệng ra, môi chưa kịp cong lên, nước mắt đã lăn dài.
Cô lặng lẽ vùi mặt vào ngực Lý Thư Bạch, để nước mắt mình thấm vào vạt áo gấm trên người y.
Trường An cuối thu, tà dương vàng rực. Trong phủ Quỳ hoa cúc nở rộ, mùi thuốc thoang thoảng bảo phủ tất cả lầu gác.
Khung cảnh êm đềm lúc này, có lẽ là ngày cuốicùng của họ.


3

Nghiêng ngả thiên hạ

Trong cung Đại Minh, lầu gác nguy nga tráng lệ cũng đã trút sạch sắc thu theo những chiếu lá hòe rụng xuống.
Hoàng Tử Hà theo sau Lý Thư Bạch, một lần nữa bước vào điện Tử Thần.
Lý Thư Bạch tâu trình lại tình hình ở Thục, rồi dâng cống phẩm các nơi lên. Hoàng đế vẫn tươi cười ôn hòa như trước, chỉ là chiếc cằm vốn đầy đặn giờ đã tóp đi đôi chút. Sau khi Đồng Xương công chúa qua đời, ngàu ngự và Quách thục phi đau lòng khôn xiết, gầy rộc hẳn đi.
“Tết Trùng dương hôm trước, mấy anh em tề tựu trong cung dự tiệc, chỉ thiếu mỗi Tứ đệ, Thất đệ còn ngậm câu: ‘Nay cắm thù du thiếu một người’(4).” Hoàng thượng lần chuỗi mười tám hạt(5), cười nói, “Cung khuyết trẫm mới tu sửa, đệ còn chưa thấy nhỉ?”
“Cung khuyết ư?” Lý Thư Bạch đã nghe nói, song vẫn thản nhiên hỏi lại.
“Đúng vậy, cửa phượng đế thành mờ mây phủ(6), qua cửa cung Đại Minh là thấy ngay hai tòa gác Tường Loan, Tê Phượng nằm trước điện Hàm Nguyên, giờ cả hai đều đã cũ nên trẫm sai người tu sửa lại, đẹp đẽ như mới, Tứ đệ mà trông thấy nhất định sẽ phải tán thưởng.”
Lý Thư Bạch chỉ nín lặng gật đầu. Lúc ở Thục y đã được tin lần này hoàng thượng cho sửa sang lại điện Hàm Nguyên cùng hai gác Tường Loan, Tê Phượng nguy nga hơn xa thuở trước, lấy gỗ trầm làm xà, lim vàng làm cột, khắp nơi sơn son thiếp vàng, tổng cộng hết mấy ngàn lượng vàng, vài trăm hộc trân châu, chưa kể sừng tê, đá quý, vân vân. Hậu cục và bộ Công phải giật gấu vá vai đến giờ vẫn chưa đủ bù.
Song ngài ngự nào hay những nông nỗi ấy, chỉ hào hứng kể: “Sau đại tế Đông chí năm nay, chúng ta sẽ uống rượu trên hai tòa gác mới sửa, xem ca múa từ xa, nhất định trở thành câu chuyện phong nhã nổi tiếng trong cung Đại Minh, lưu danh sử sách.”
Lý Thư Bạch lại tâu trình: “Lời bệ hạ rất có lý, có điều công trình này đã tiêu tốn rất nhiều, hôm qua bộ Công tới tìm thần đệ, nói rằng nếu bây giờ lại cho xây một trăm hai mươi tòa tháp để rước cốt Phật thì quả là nan giải.” Hoàng đế nhíu mày, vuốt chòm râu lơ thơ nghĩ ngợi rồi phán, “Lý Dụng Hòa đúng là vô dụng, bộ Công nắm trong tay quyền điều động bao nhiêu tiền bạc như vậy mà có mỗi một trăm hai mươi tòa tháp cũng không xây nổi ư?”
“Bẩm, năm nay xây dựng khá nhiều, đầu năm xây cung Kiến Bật, giữa năm xây mộ công chúa, giờ lại mới trùng tu cung khuyết, nếu xây thêm tháp, e rằng sẽ cạn kiệt quốc khố.”
Hoàng đế thở dài: “Tứ đệ, gần đây ta thấy rất bất an, nhớ năm xưa Linh Huy gặp phúc ắt thông, câu đầu tiên mở miệng ra nói là: ‘Sống được’, ai ngờ giờ đây lại đột ngột qua đời, để trẫm… người đầu bạc tiễn kẻ tóc xanh, như nến tàn trước gió, ai mà biết được ngày mai lại ở đâu?”
Lý Thư Bạch an ủi : “Bệ hạ đương độ tráng niên, sao lại nói lời chán nản ấy rồi? Triều đình xã tắc còn phải trông vào bệ hạ, xin bệ hạ đừng nản lòng như thế. Theo thần đệ thấy, cốt Phật không rước cũng chẳng hề gì.”
“Cốt Phật nhất định phải rước về. Kiếp này ta được trông thấy thì có chết cũng không hối tiếc.” Hoàng đế lắc đầu đầy cương quyết, rồi hỏi: “Vậy… Tứ đệ tinh thông sách sử, cảm thấy chín chín tám mươi mốt tòa tháp có được không?”
“Cửu cửu quy nhất, con số này cũng rất tốt lành.” Nói rồi, Lý Thư Bạch nhíu mày, “Nếu bệ hạ vẫn quyết rước cốt Phật về, thì thần đệ cho rằng, quan trọng nhất là tâm ý. Nhà Phật có thuyết thập nhị nhân duyên, bệ hạ xây mười hai tòa cũng đủ. Cũng có thể chỉ xây ba tòa thôi, tượng trưng cho Phật, pháp, tăng, vừa thanh tịnh lại phù hợp.”
“Tứ đệ không hiểu lòng thành của trẫm rồi, xây có mấy tòa như thế làm sao tỏ lòng được?” Hoàng đế không vui, xua tay cho y lui ra.
Lý Thư Bạch đứng dậy cáo lui, ra đến cửa điện còn nghe hoàng đế nói: “Bảy mươi hai vậy, bên trong thờ phụng thất thập nhị hương nhà Phật cũng được.”
“Lần trước rước cốt Phật là năm Nguyên Hòa thứ mười bốn, cách đây năm mười năm rồi.” Tại phủ Ngạc, Lý Nhuận phấn khởi rót trà cho Lý Thư Bạch, “Nghe nói lần đó náo nhiệt chưa từng thấy, dân chúng trong trành tranh nhau mua đèn nhang để cung nghênh cốt Phật, lần này chắc cũng thế.”
Lý Thư Bạch đón lấy chung trà Lý Nhuận vừa pha, chậm rãi hỏi: “Đệ có biết hôm cốt Phật được rước từ chùa Pháp Môn ra, có một bà lão dẫn theo cháu gái đứng đợi bên ngoài, cốt Phật vừa ra, bà ta liền dốc vào miệng đứa bé một lọ thủy ngân, dùng nhục thân của nó để cúng dường không?”
Lý Nhuận hít vào một hơi khí lạnh, mở to mắt: “Nhưng… Phật pháp cao thâm, thiện nam tín nữ đông đảo, khó tránh có kẻ cuồng tín, chẳng qua cũng chỉ cầu được phù hộ đấy thôi.”
“Nếu chỉ dân chúng tin Phật thì đâu đến nông nỗi ấy, nhưng hoàng gia đi rước, triều đình làm gương, sẽ trở thành mầm họa. Dốc hết sức lực toàn quốc, khiến dân ngu cuồng loạn thì ích gì?” Lý Thư Bạch lắc đầu, “Năm ấy Hàn Dũ chỉ vì can gián việc rước cốt Phật mà bị biếm, giờ đây xem chừng cũng cần một người đứng ra khuyên ngăn.”
“Tứ ca đừng làm chuyện dại dột!” Lý Nhuận vội can, “Từ sau khi Đồng Xương công chúa qua đời, bệ hạ luôn gặp ác mộng, giờ chỉ một lòng muốn rước cốt Phật vào cung thờ phụng để tiêu tai giải nạn. Ý bệ hạ đã quyết, không ai khuyên nổi đâu!”
Lý Thư Bạch gật đầu không đáp.
Uống hết nửa chén trà, thấy Lý Thư Bạch không nói gì thêm, Lý Nhuận mới hơi yên lòng, ngẩng lên trông thấy Hoàng Tử Hà vận đồ nữ thì ồ lên hỏi: “Bên cạnh Tứ ca cuối cùng cũng có một thị nữ rồi ư?”
Hoàng Tử Hà nâng vạt áo lên hành lễ, gật đầu với y.
“Hình như ta đã thấy cô ở đâu rồi thì phải…” Vừa nói đến đó, y bỗng “à” lên rồi vỗ trán, “Dương Sùng Cổ! Gần đây trong kinh đồn ầm lên rằng, Hoàng Tử Hà cải trang thành tiểu hoạn quan, Quỳ vương xuôi Nam phá án, đám tiên sinh kể chuyện ngoài phố đã dựng thành chuyện kể khắp nơi rồi đấy!”
Hoàng Tử Hà cúi đầu: “Khi trước tiểu nữ không dám tiết lộ thân phận, chứ không phải cố ý lừa gạt Ngạc vương gia, mong vương gia thứ tội.”
“Ba bốn năm trước ta và Vương Uẩn từng trông thấy cô trong cung một lần, vậy mà về sau gặp mấy lần vẫn không nhận ra, là ta không biết người tiên đấy thôi.” Nói đoạn, y ra hiệu cho cô ngồi xuống, còn đích thân rót trà mời, xong xuôi mới thắc mắc, “Vương Uẩn chẳng phải cũng về kinh rồi ư? Sao Hoàng tiểu thư còn hầu hạ bên cạnh Tứ ca?”
Hoàng Tử Hà nín lặng uống trà. Người lên tiếng là Lý Thư Bạch: “Dương Sùng Cổ là hoạn quan hạng bét ở phủ ta, đã điểm chỉ ký tên rõ ràng, bất luận thân phận thay đổi thế nào, hễ ta chưa có lời, thì cũng đừng hòng đi đâu được.”
Hoàng Tử Hà nhìn y như muốn mắng: “Vô sỉ”, còn Lý Nhuận lần đầu tiên thấy một Lý Thư Bạch thế này thì sững cả người ra, quên bẵng rót thêm nước vào bình trà.
Hoàng Tử Hà rút một túi gấm trong tay áo ra, đặt nhẹ lên bàn, đẩy về phía Lý Nhuận: “Thứ này xin trả lại cho Ngạc vương gia.”
“Gì vậy?” Lý Nhuận ngạc nhiên cầm lên, mở túi lấy vật bên trong ra.
Vòng ngọc long lanh, phát ra ánh sáng mờ mờ, như có làn khói mỏng bao quanh. Y lặng lẽ nắm chặt nó trong tay, màu ngọc cũng long lanh biến đổi theo động tác của y, tạo ra vô vàn vầng sáng.
Lý Nhuận thần thờ ngắm chiếc vòng hồi lâu, đoạn hỏi: “A Nguyễn… nhờ hai người trả lại ta ư?”
Lý Thư Bạch chậm rãi gật đầu: “Trước khi qua đời, cô ấy nhờ Công Tôn đại nương trả lại cho đệ.”
“Qua đời à…?” Lý Nhuận ngẩng phắt lên, đôi mắt mơ màng mở to.
“Đệ đã biết chuyện Hoàng Tử Hà phá án giải oan, hẳn cũng nghe được manh mối vụ này bắt nguồn từ cái chết của một ca kỹ chứ?”
Lý Nhuận ngỡ ngàng nhìn Lý Thư Bạch, như vừa vỡ lẽ. Mặt y tái ngắt, nốt ruồi son đỏ thắm giữa mi tâm cũng nhạt hẳn đi, chén trà tuột tay rơi xuống nền gạch vỡ tan tành, vụn trà xanh lục loang đầy đất.
Lý Thư Bạch thở dài: “Thất đệ cất đi. Dù sao cũng là di vật của thái phi, vẫn nên trả cho chủ cũ.”
“Vâng…” Y ngơ ngẩn đáp, tay vẫn nắm chặt chiếc vòng.
Thấy y đờ đẫn, Lý Thư Bạch bèn đứng dậy từ biệt: “Ta vừa về kinh, còn rất nhiều việc, vòng đã trả lại đệ, ta cũng phải về đây.”
“Tứ ca…” Lý Nhuận vô thức giữ lấy tay y.
Lý Thư Bạch ngoái lại. Lý Nhuận căn môi nói khẽ: “Đệ muốn nhờ huynh giúp một việc.” Lý Thư Bạch đành ngồi xuống hỏi: “Sao thế?”
“Đệ nghi ngờ…” Lý Nhuận ngập ngừng, mấy ngón tay siết chặt chiếc vòng đến tái nhợt cả ra. Rồi đột nhiên y đứng phắt dậy, nhìn qua khung cửa sổ mở toang, thấy không có ai lảng vảng mới hít một hơi thật sâu, gắng trấn tĩnh nói tiếp, “Đệ nghi ngờ mẫu phi đệ bị người ta hãm hại.”
Lý Thư Bạch nhíu mày, quay sang nhìn Hoàng Tử Hà.
Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ một lát, rồi bình thản hỏi: “Có phải vương gia phát hiện ra chuyện gì không, sao đột nhiên lại hỏi vậy?”
Lý Nhuận cắn môi gật đầu: “Mời Tứ ca và Hoàng tiểu thư theo đệ.”


Trần thái phi là phi tần của tiên hoàng, theo lệ phải ở trong cung Thái Cực dưỡng già. Nhưng ngay trong đêm tiên hoàng băng hà, thái phi đau đớn quá độ đã hóa điên, cung nữ hầu hạ trong cung Thái Cực lại bỏ mặc không săn sóc, năm ấy Lý Nhuận mới hơn mười tuổi, đến thăm mẫu phi thì thấy bà đầu bù tóc rối, cơm không đủ no áo không đủ mặc, bèn quỳ trước điện Tử Thần thật lâu, cầu xin hoàng đế cho đón mẫu phi về vương phủ phụng dưỡng.
Sau khi được đón về vương phủ, Trần thái phi tuy vẫn phát bệnh luôn, nhưng người ở vương phủ săn sóc chu đáo nên cũng coi như được tĩnh dưỡng. Lý Nhuận chăm nom mẹ rất cẩn thận, cho mở một gian điện nhỏ sau chính điện, để bà ở ngay gần mình. Giờ đây tuy mẫu phi đã qua đời, song y vẫn giữ gian điện nọ, bày biện bài trí hệt như lúc bà còn sống, không hề động đến.
Lý Nhuận dẫn Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà vào, chỉ thấy bên trong thờ linh vị của Trần thái phi, trước án thờ bày hoa thơm và nhang nến, khiến không khí hơi ngột ngạt.
Sau khi thắp cho Trần thái phi nén nhang, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn sang Lý Nhuận. Y đặt chiếc vòng lên trước linh vị mẫu phi, rồi chắp tay vái dài, đứng lặng hồi lâu mới quay lại bảo họ: “Mẫu phi đệ trước khi lâm chung đã có lúc tỉnh táo lại. Bà dặn đệ rằng, thiên hạ Đại Đường sắp mất rồi.” Nghe vậy, cả Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà đều biết chuyện này không phải tầm thường, bèn chăm chú lắng nghe y nói tiếp.
“Bấy giờ mẫu phi đã rất lâu không tỉnh, đệ cũng biết tình trạng của bà. Nhưng lần đó mẫu phi thực sự rất tỉnh táo, khác hẳn mọi khi.” Nhớ lại tình cảnh lúc ấy, Lý Nhuận không khỏi thở dài, “Bởi vậy, những lời bà nói nhất định không phải lời của kẻ điên, đệ nghĩ, lúc phụ hoàng lâm chung, chắc mẫu phi đã biết được chuyện gì đó, nên mới hóa điên, ắt hẳn là một bí mật vô cùng quan trọng, bằng không sao mẫu phi lại nghĩ nó có liên quan đến giang sơn xã tắc, thiên hạ Đại Đường?”
Hoàng Tử Hà hỏi: “Bấy giờ thái phi nói thế nào, vương gia có thể thuật lại cho chúng tôi nghe chăng?”
Lý Nhuận mở ngăn tủ, lấy ra một hộp trang điểm sơn đen, khảm xà cừ hình hoa, trong khá cũ kỹ, thoạt nhìn đã biết là vật dùng lâu ngày. Lý Nhuận thận trọng mở hộp, gỡ tấm gương đồng mờ đục ra, để lộ khe hở đằng sau.
Y lại mở một chiếc hộp nhỏ cạnh đó, lấy ra mẩu giấy bông vẽ ba mảng mực đen sì, gập lại ướm vào khe hở sau tấm kính: “Bấy giờ mẫu phi rút mảnh giấy này ra từ đây, chẳng biết bà đã giấu ở đó từ khi nào nữa. Bà đưa cho đệ nói rằng, đây là bà vất vả lắm mới vẽ được mà giấu đi, dặn đệ phải cất thật kỹ… liên quan đến chuyện tồn vong của cả thiên hạ.”
“Có thể thấy thái phi lúc đó rất tỉnh táo, quả thật không phải lú lẫn.” Cô vừa ngẫm nghĩ về mấy chữ “tồn vong của cả thiên hạ”, vừa nghiêng đầu nhìn sang Lý Thư Bạch.
Lý Thư Bạch khẽ gật đầu với cô, rồi hỏi Lý Nhuận: “Còn gì nữa không?”
““Mẫu phi còn nói một câu…” Lý Nhuận ngần ngừ, nhưng cuối cùng cũng thành thực kể, “Bà dặn đệ không được thân thiết với Tứ ca.”
Lý Thư Bạch cúi đầu im lặng nhìn ba mảng mực đen sì trên tờ giấy trong tay y.
Hoàng Tử Hà lúng túng lên tiếng: “Vậy mà Ngạc vương gia vẫn kể chuyện này cho chúng tôi.”
“Ta và Tứ ca cùng lớn lên trong cung Đại Minh, lại cùng bị đưa ra khỏi cung, từ nhỏ đến giờ vẫn khăng khít. Ta… biết Tứ ca có ý nghĩa thế nào với thiên hạ Đại Đường mà.” Lý Nhuận đặt tờ giấy bông lên bàn, cả người như bị rút cạn sức lực, khó khăn lắm mới đứng vững được trước án thờ, “Thế nên ta nghĩ, mẫu phi nhất định đã biết được gì đó, nên mới bị hãm hại đến hóa điên còn thốt ra lời này, mà kẻ hại mẫu phi nhất định có liên quan mật thiết đến việc phụ hoàng băng hà, cũng là kẻ thù của Tứ ca.”
Lý Thư Bạch chậm rãi gật đầu, song không nói gì thêm.
Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Thái phi sinh thời sống ở đây ư? Mọi thứ vẫn giữ nguyên như trước ạ?”
Lý Nhuận gật đầu, ngồi xuống ghế chống tay vào trán nói khẽ: “Hoàng tiểu thư cứ việc tra soát thật kỹ, biết đâu lại thấy manh mối gì đó.”
Hoàng Tử Hà bèn đứng dậy đi qua vách ngăn, sang phòng ngủ của Trần thái phi cạnh đó. Phòng không rộng, mé trái là cửa sổ, đặt một chiếc sập nhỏ, bàn trang điểm và bàn ghế; mé phải là một chiếc giường gỗ trắc chạm trổ, buông màn gấm, treo mấy đồ trang trí bằng ngọc thạch và gỗ đào. Hoàng Tử Hà đi quanh bàn trang điểm một vòng, thấy mọi thứ đều đã được thu dọn, chẳng còn gì cả, vì thường xuyên quét tước nên trong phòng rất sạch, cô miết tay lên mép bàn, chợt khựng lại, cúi xuống nhìn kỹ. Lý Thư Bạch đứng trước cửa thấy vậy thì hỏi với vào: “Gì thế?”
Cô quay lại đáp: “Hình như có vết móng tay khứa.”
Lý Thư Bạch nhặt trong hộp nữ trang Lý Nhuận vừa đem ra một mảnh chì kẻ mày hình xoắn ốc, đặt vào tay cô.
Hoàng Tử Hà miết nhẹ mảnh chì đen vào mép bàn, tức thì những vết móng tay khứa hiện ra rõ mồn một, sắp thành hai chữ xiên xẹo: Quỳ vương.
Lý Thư Bạch thản nhiên ra hiệu cho cô tiếp tục miết.
Một hàng chữ xiêu vẹo dần dần hiện ra: họa từ Quỳ vương.
Lý Nhuận cũng bước đến bức vách, trông thấy mẫy chữ nọ thì ngỡ ngàng hỏi: “Đây… là mẫu phi ta viết ư?”
Hoàng Tử Hà gật đầu đáp: “Hình như vẫn còn nữa.”
Đoạn cô lại miết tay sang trái, mẩu than chì xanh đen mài lên nền gỗ trắc đen thẫm, dưới ánh mặt trời tạo thành một vệt dài với đủ sắc độ đen khác nhau. Trên đó là những vết khắc vừa nông vừa xiên xẹo, tổng cộng có mười hai chữ: Đại Đường sắp mất triều đình rối loạn họa từ Quỳ vương. Ngoài ra, không còn gì nữa.
Hoàng Tử Hà lục tìm khắp giường tủ nhưng không phát hiện thêm gì.
Cô trả mảnh than chì vào hộp trang điểm, nhìn lại hàng chữ kia một lượt rồi chầm chậm rút khăm tay của mình ra lau sạch đi.
Lý Nhuận đứng trước cửa, lúng túng nhìn Lý Thư Bạch: “Tứ ca…”
Trái lại, Lý Thư Bạch chỉ bình thản vỗ nhẹ vai y: “Ta biết. Ta sẽ bắt tay vào điều tra mọi chuyện năm xưa, để xem rốt cuộc là kẻ nào đứng sau thao túng tất cả.”


Dọc đường về, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà ngồi trong xe nhìn quang cảnh phố phường trôi qua bên ngoài, đều trùng trùng tâm sự.
“Ta không thân thiết với Trần thái phi.” Lý Thư Bạch nhìn cô, cuối cùng cũng mở lời.
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Lúc tiên hoàng băng hà, thái phi phát điên, gia mới mười ba tuổi nhỉ?”
“Ừm, tuy ta ở trong cung Đại Minh, nhưng đa phần là phụ hoàng tranh thủ ghé qua thăm, chứ ta ít khi tới chỗ phụ hoàng. Những ngày cuối cùng, bên cạnh phụ hoàng luôn có Trần thái phi hầu hạ, song ta cũng ít khi chạm mặt. Từ sau khi phụ hoàng qua đời, ta không hề gặp lại bà ấy nữa.”
Hoàng Tử Hà nhẹ nhàng vuốt ve mấy món trang trí bên cửa sổ, trầm ngâm đáp: “Tại sao Trần thái phi cứ đinh ninh ghi nhớ một hoàng tử mới mười ba tuổi, lại hiếm khi gặp mặt, hơn nữa lúc đã phát điên, còn cho rằng gia sẽ làm điên đảo thiên hạ nhỉ?”
Lý Thư Bạch nhíu mày, gõ nhẹ lên bàn hỏi: “Cô nghĩ sao?”
“Ngạc vương có nói một câu mà tôi hết sức tán đồng. Chính là nếu có kẻ làm Trần thái phi phát điên thì nhất định hắn rất muốn hại gia, nên mới dẫn dụ Trần thái phi sinh lòng căm ghét gia như vậy.”
Y đặt bàn tay trắng trẻo thon dài trên bàn, trầm ngâm thật lâu mới hỏi khẽ: “Tử Hà… có tin ta không?”
Cô ngỡ ngàng nhìn Lý Thư Bạch, chẳng hiểu sao y lại đột nhiên hỏi vậy.
“Trang Chu mộng bướm, tỉnh dậy chẳng biết mình là người hay bướm. Khi phát hiện ra hàng chữ Trần thái phi để lại, ta chợt nhớ đến Vũ Tuyên.” Y không nhìn cô mà ngẩn ngơ nhìn quang cảnh đường phố quen thuộc trôi qua ngoài cửa sổ, “Sau khi giết hại cha mẹ cô, hắn cũng đã quên hết mọi chuyện, hơn nữa còn tin vào đủ thứ ám thị mà khăng khăng cho rằng cô mới là hung thủ.”
Hoàng Tử Hà tròn mắt nghi hoặc hỏi: “Ý gia là?”
“Có lẽ hồi mười ba tuổi ta đã làm chuyện gì đó khiến Trần thái phi nhớ mãi không quên?” đôi mày y nhíu lại, ánh mắt hướng ra ngoài cũng dao động theo nhịp rung lắc của xe, “Con cá đỏ thình lình xuất hiện trong đời ta và con cá đã biến mất cùng đoạn ký ức quan trọng kia của Vũ Tuyên, có quan hệ gì đây?”
Mọi thứ thứ trước mắt bỗng chốc chìm vào sương mù, không sao trông rõ được.
Hoàng Tử Hà bất giác sinh lòng nghi hoặc, liệu có phải cỗ xe đang lộc cộc lăn đi này, quang cảnh đường phố trôi qua ngoài cửa kia, cùng Lý Thư Bạch ngay trước mặt chỉ với tay ra là chạm đến, cũng là hư ảo không?
Ký ức của họ rốt cuộc là giả hay thật? Cuộc đời của họ cho đến bây giờ liệu có từng bị bóp méo, thêm nếm thứ gì đó mà họ tin chắc, rồi lại xóa bỏ thứ gì đó mà họ khắc cốt ghi tâm chăng?
Bên trong xe nhất thời rơi vào im lặng. Cả hai đều lằm thinh, tựa hồ có một áp lực nặng nề khủng khiếp đang đè lên họ, đến hít thở cũng chậm chạp khó khăn.
Một hồi lâu sau, Hoàng Tử Hà mới nhẹ nhàng giơ tay ra, ấp lên tay y: “Bất luận chân tướng cuối cùng ra sao, tôi chỉ biết, tất cả những gì chúng ta từng trải qua đều là chân thực… Ít nhất thì tình cảm giữa đôi bên hiện giờ là thực.”
Lý Thư Bạch lặng lẽ nâng hai bàn tay cô lên, vùi mặt vào. Hoàng Tử Hà cảm giác được hơi thở nặng nề mà rối loạn của y phả vào lòng bàn tay mình.
Y từng dựa vào chỉ tay, những đường chỉ tượng trưng cho số mệnh cả đời mà nhận ra thân phận của cô, song giờ đây, hơi thở của y đã vương vào cuộc đời cô, để lại dấu ấn vĩnh cửu trong huyết mạch, đời đời kiếp kiếp, cô cũng không thể lãng quên.
Chẳng biết bao lâu sau, xe ngựa dần chậm lại, bên ngoài có người bẩm: “Thưa gia, đã đến bộ Công.”
Lý Thư Bạch ngẩng lên, ấp tay cô trong hai bàn tay mình, im lặng một thoáng rồi nói: “Vào thôi.” Giọng đã lại lạnh lùng trầm thấp. Ra khỏi xe ngựa, rời khỏi không gian chỉ có hai người, y vẫn chỉ có thể là Quỳ vương gia lạnh lùng cứng cỏi, không bao giờ biết sợ.
Hoàng Tử Hà lặng lẽ theo sau y, bước qua cổng lớn.
Trong lúc Lý Thư Bạch bàn luận với Lý Dụng Hòa, Hoàng Tử Hà ngồi trong đại sảnh. Giờ cô là nữ tử, ngồi được một lúc đã bị vô số quan viên xì xầm bàn tán, bèn đứng dậy ra mảnh vường đằng trước ngắm hoa cúc.
Đã sắp đến tháng Mười, hoa cúc nhuốm sương, bắt đầu tàn úa. Cô lơ đãng ngắm, thầm nghĩ đến hàm nghĩa bốn chữ “họa từ Quỳ vương” thì có người xăm xăm chạy đến gọi to: “Sùng Cổ! Quả nhiên là ở đây!”
Hoàng Tử Hà ngoái lại. Đến giờ vẫn còn gọi cô bằng cái tên ấy, chỉ có Chu Tử Tần.
Hôm nay gã mặc áo xanh lục, nom nhã nhặn hiếm thấy, tiếc rằng lại đeo thắt lưng vàng nghệ, thực chẳng khác gì bó mạ buộc cọng rơm. Nhưng Hoàng Tử Hà chẳng hơi đâu soi mói, trái lại còn mừng rỡ ra mặt: “Sao Tử Tần cũng vào kinh?”
“Hẵng giải thích tại sao Sùng Cổ chẳng nói chẳng rằng bỏ lại ta chạy về kinh đã?” Gã chất vấn.
Hoàng Tử Hà cười rầu rĩ, thuận miệng vin cớ: “Công tử biết đấy, cứ ở đó cả ngày bị các bề trên răn dạy, ai mà chịu nổi.”
“Nói cũng phải, ôi chao, chúng ta đều bị người trên bức ép cả, ta thì hơn gì, còn ở đó thì toi đời!” Chu Tử Tần vừa nói vừa giơ tay dụi mắt, nước mắt rưng rưng, “Kể ra đúng là gay go to! Cha ta ép lấy vợ!”
Hoàng Tử Hà phì cười hỏi: “Là cô nương nhà nào vậy?”
“Cháu gái dòng thứ của ty thương quận Thục, nghe nói là một con cọp cái, nghe danh ta ham mê thi thể cũng không sợ. Ta đã lân la đò hỏi đám người hầu nhà đó, kẻ nào cũng nói cô ta hung hãn vô cùng, chữ nghĩa chỉ biết lơ mơ nhưng hay tay cứ lăm lăm hai con dao bầu, thoăn thoắt chặt thịt, còn có thể vác cả nửa con heo lên vai nhẹ như không! Sùng Cổ bảo cưới hạng người đó về có còn sống được nữa không!”
Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ rồi hỏi: “Cô ta tên gì?”
Chu Tử Tần đã buồn còn thêm bực: “Tên quê một cục! Gọi là cái gì Lưu Nhị Nha! Nghe đã thấy khiếp rồi đúng không? Rõ ràng là cha ta thấy con gái nhà nào cũng sợ ta, nên vơ bừa lấy một con hổ cái, định chèn ép ta cả đời đây mà!”
“Ồ…” Hoàng Tử Hà gật đầu, “Đúng thế, xem ra việc lớn không thành rồi. Tuy cô ta rất xinh đẹp, tính tình cũng dễ thương, nhưng cái tên Lưu Nhị Nha thực khó nghe quá…”
“Sùng Cổ quen cô ả ư?” Chu Tử Tần sững người, rồi vỗ trán tự giải thích ngay, “À phải, đương nhiên là quen rồi. Trước đây Sùng Cổ là thiên kim nhà quận thú mà, nhất định đã gặp các tiểu thư nhà khác.”
Hoàng Tử Hà cười đáp: “Gặp thì gặp rồi, nhưng mới gần đây thôi.”
“Thôi thôi, không nói chuyện đó nữa, mau kể xem ả Lưu Nhị Nha kia có hung hãn đáng sợ như lời đồn không?”
“Có chữ, hệt như lời đồn, giết heo mổ dê cái gì cũng dám làm, người bình thường đừng hòng bắt nạt được.”
Chu Tử Tần đau đớn đấm ngực: “Chết ta rồi…”
“Không chỉ hung hãn, mà còn rất đanh đá, thích gọi người ta là bổ đầu đụt.”
“Hả? Mấy người đó sao giống nhau vậy, cứ thích bảo người ta đụt…” Nói đến đây, Chu Tử Tần mới định thần lại, ngây ra hồi lâu rồi lắp bắp: “Đụt… Bổ đầu đụt ư?”
“Đúng thế, cô nương đó rất giỏi dùng dao bầu, vác nửa con heo lên vai phăm phăm, thích gọi người ta là bổ đầu đụt, là con thứ hai trong nhà.” Hoàng Tử Hà cười cười nhìn gã.
Chu Tử Tần trợn tròn mắt, há hốc miệng ra, đủ nhét lọt cả quả trứng gà: “Nhị… Nhị cô nương à?”
“Công tử thử nói xem?”
“Nhưng, nhưng chẳng phải cha mẹ cô ta mất cả rồi sao?”
“Hôm đó chẳng phải công tử cũng thấy tay Lưu Hi Anh béo đó tới tìm cô ấy, nói là họ hàng xa muốn nhận nuôi cô ấy ư? Theo tôi biết thì Tào ty thương quận Thục vừa xin nghỉ, thay chân ông ta hình như chính là Lưu ty thương ở Miên Châu đó.”
“Ta nào biết! Có nghe nói ty thương đổi người mới, nhưng xưa nay ta không quan tâm chuyện đó!” Mặt Chu Tử Tần bỗng đỏ bừng lên, “Lẽ lẽ lẽ lẽ lẽ nào là…”
“Công tử nói xem?” Hoàng Tử Hà vỗ vào lan can cạnh mình, “Công tử lặn lội ngàn dặm chạy trốn đến tận kinh thành, có phải định nhờ Quỳ vương nói giúp với lệnh tôn, hủy bỏ cuộc hôn nhân này không?”
Chu Tử Tần chống trán nín lặng.
Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Vậy bây giờ có muốn nhờ Quỳ vương nữa không?”
“Để… để ta nghĩ đã…” Lắp bắp một lúc, gã mới nặn ra được mấy chữ, “Dù sao… Tốt xấu gì… Nói thế nào cũng là người quen, nếu từ chối e là không ổn… Huống hồ Sùng Cổ cũng biết đấy, ít có cô nào không sợ thi thể lắm…”
“Công tử cứ cân nhắc thêm đi.” Hoàng Tử Hà cười đầy ẩn ý.
Thấy cô cười, Chu Tử Tần chỉ muốn đào lỗ chui xuống đất: “Làm… Làm gì cơ?”
“Chẳng làm gì cả.” Cô thản nhiên ngẩng đầu ngắm trời.
“Thực ra… Sùng Cổ thì cũng rất được…” Chu Tử Tần thở dài nói khẽ, “Chỉ là, chỉ là chúng ta gặp nhau không phải lúc, nên ta luôn coi Sùng Cổ là một tiểu hoạn quan, chúng ta cứ xưng huynh gọi đệ cùng quật mộ nghiệm thi là hay nhất.”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ cúi đầu cười, chắp tay vái gã một vái rồi đứng thẳng dậy hỏi: “Bây giờ công tử sẽ về ngay Thành Đô, chấp thuận hôn sự chứ gì?”
“Không vội… Dù sao, dù sao cũng đính hôn rồi.” Gã bẽn lẽn nói, rồi lại sực nhớ ra một chuyện, “À phải, lá bùa của Quỳ vương là thực hả?”
Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi: “Công tử cũng biết chuyện lá bùa ư?”
“Chứ sao, ta thấy có lẽ bây giờ cả kinh thành đều đồn ầm lên rồi ấy chứ?” Chu Tử Tần nhìn quanh ngó quất, qua ta mới về kinh, liền chạy đến chợ Tây ăn bánh nang của Mã A Đại, món ta thích nhất…. Sùng Cổ đoán xem kết quả thế nào? Ta nghe thấy hai người ngồi ngay bên cạnh thao thao nói chuyện phủ Quỳ!”
Hoàng Tử Hà nhíu mày hỏi: “Họ nói sao?”
“Nghe đồn… Lúc Quỳ vương ở Từ Châu, đã giết chết Bàng Huân!”
“…” Hoàng Tử Hà ngán ngẩm, “Còn phải nghe đồn à? Chuyện này ai mà chẳng biết?”
“Sai rồi!” Chu Tử Tần úp úp mở mở ghé tai cô thì thầm, “Nghe đồn sau khi giết Bàng Huân, oan hồn của hắn liền nhập vào người Quỳ vương, hiện giờ trên người Quỳ vương không phải hồn phách của gia nữa, mà là Bàng Huân!”
Hoàng Tử Hà chẳng biết nói gì về tin đồn ma quái nhố nhăng này nữa.
“Họ nói rằng, Quỳ vương anh minh thần võ tài năng xuất chúng như vậy, sao có thể là người phàm được? Nghe nói gia được quỷ thần giúp sức, nên mới mưu trí hơn người, đọc qua là nhớ như vậy đấy!”
“Bằng chứng đâu?” Hoàng Tử Hà bực bội hỏi, “Lẽ nào gia thông minh hơn người là do quỷ thần giúp sức hay sao?”
“Ờ thì…”
“Huống hồ, lúc Quỳ vương còn niên thiếu, đã được tiên hoàng khen hết lời về trí tuệ thông minh. Tất cả các hoàng tử tròn mười tuổi đều được phong vương, ban phủ đệ rồi dọn ra khỏi cung, chỉ riêng Quỳ vương sau khi sắc phong vẫn được tiên hoàng giữ lại cung Đại Minh, đích thân dạy dỗ, bấy giờ Bàng Huân chẳng biết đang ở tân đâu kia!”
Chu Tử Tần gãi đầu nhăn mặt: “Nói cũng phải…”
Hoàng Tử Hà mím môi nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi: “Còn gì nữa? Có ai nói gì nữa không?”
“À, nghe nói khi Bàng Huân nhập xác Quỳ vương, còn để lại cho gia một lá bùa định mệnh! Trên đó dự báo trước vận mệnh của Quỳ vương, cuối cùng Quỳ vương sẽ đâm ra lú lẫn, bị Bàng Huân khống chế, rốt cuộc…” Gã lại làm bộ thần bí nhìn quanh một vòng, rồi ghé tai cô nói nhỏ: “Khi trên lá bùa xuất hiện chữ ‘vong’, gia sẽ bị Bàng Huân đoạt mất ý thức, khiến cả thiên hạ nghiêng ngả theo!”
Hoàng Tử Hà đứng bật dậy, run rẩy hỏi: “Lời đồn ngoài phố… đã đến mức ấy rồi ư?”
Thấy sắc mặt cô rất khó coi, Chu Tử Tần vội xua tay rồi ra dấu bảo cô im lặng.
“Chẳng qua là đám người ngôi lê đôi mách nói bừa, việc gì phải cuống lên. Đừng… đừng nghiêm túc thế chứ…”
“Công tử không biết đấy…” Cô ráng sức hít thở, trán lấm tấm mồ hôi.
Kẻ loan tin về lá bùa, nhất định là người năm xưa đặt bẫy. Hiện giờ cả ba chữ đều bị khuyên tròn, hoa văn làm nền lờ mờ chữ “vong”, tin đồn cũng đã lan truyền khắp thiên hạ, chứng tỏ hắn đã bức ép Quỳ vương đến đường cùng.
Lời nhắn “họa từ Quỳ vương” ở phủ Ngạc, không hẹn mà lại phù hợp với giả thuyết giang sơn nghiêng ngả đang lan khắp phố lớn ngõ nhỏ một cách thần bí. Tấm lưới giăng sẵn từ ba năm trước, giờ đang từ từ thu hẹp lại, song kẻ thu lưới là ai thì họ vẫn chưa dám khẳng định.
Không có cả cơ hội liều một phen cá chết lưới rách.
Thấy mặt Hoàng Tử Hà tái nhợt đến đáng sợ, Chu Tử Tần cuống quýt kéo ao cô gọi khẽ: “Sùng Cổ…. làm sao thế? Ta chỉ nói bừa thôi… thật mà…”
Hoàng Tử Hà tựa vào bức tường phía sau, cố gắng hít thở. Chỉ thấy ngực lạnh buốt như có vô số sợi dây rối tắc nghẽn bên trong, không sao gỡ nổi. Dù muốn tìm cho được một đầu mối, nhưng tai cứ ù đi, những âm thanh nhốn nháo như vô vàn lưỡi gươm đâm vào tim, khiến cô chẳng biết bắt tay từ đâu, đành sợ sệt đứng yên, mặc cho đầu ong lên.
Chu Tử Tần đang sợ đến luống cuống tay chân thì nghe đằng sau có tiếng người, vội ngoái lại trông, thì ra mấy viên quan bộ Công đã bước ra, kẻ nào kẻ nấy mặt mày tươi tỉnh. Có mấy người quen trông tháy Chu Tử Tần thì mừng rỡ bước đến chào: “Tử Tần lại về kinh đấy à? Ở Thục không vui sao?”
“Ôi, Tiền huynh, Lương huynh, Ngu huynh…” Gã vừa tươi cười chào họ vừa lo lấng giật giật tay áo Hoàng Tử Hà, dường như vẫn hối hận vì trót kể những lời đồn bậy bạ cho cô.
“Đây chẳng phải là… Hoàng tiểu thư ư?” Mấy người kia đang vui vẻ nên cũng chào hỏi cả cô, “Vương gia ra ngay giờ đấy, tiểu thư đợi cho một lát.”
Hoàng Tử Hà gật đầu với họ.
Thấy ai nấy đều mừng rỡ ra mặt, Chu Tử Tần liền hỏi: “Trong kinh đồn rằng bộ Công phải xây một trăm hai mươi tòa tháp, túng tiền đến mức chỉ muốn đâm đầu xuống sông đào ngoài thành, sao hôm nay ai cũng tươi cười hơn hớn thế?”
“Vớ vẩn, mấy hôm nữa bộ Công chúng ta lại chẳng thừa tiền dựng thêm ba vòng lan can quanh sông đào ấy chứ!”
Chu Tử Tần chớp mắt: “Các vị không định đi cướp bộ Hộ đấy chứ?”
“Hừm, giờ bộ Hộ lấy đâu ra tiền? Còn chẳng phải nhờ Quỳ vương giải quyết giúp ư? Sáng mai sẽ ra cáo thị, triều đình rước cốt Phật vào kinh, dọc đường sẽ lập bảy mươi hai tòa tháp làm chỗ dừng chân cho cốt Phật. Thương nhân và kẻ sĩ trong thiên hạ nếu muốn rước cốt Phật tích công đức, có thể đấu giá nhận xây. Thử nghĩ mà xem, người lắm tiền đông như thế mà chỉ có bảy mươi hai suất, họ chẳng tranh nhau vỡ đầu ra ấy à?”
Kẻ bên cạnh tiếp lời: “Thế nên lần này xây bảy mươi hai tòa tháp rước cốt Phật, chẳng những bộ Công không phải bỏ một đồng, mà còn thu được một món bẫm ấy chứ…”
Chu Tử Tần bấy giờ mới vỡ lẽ, xoa cằm hỏi: “Đệ còn nghe nói, ngày cốt Phật vào kinh, người trong kinh phải chăng đèn kết hoa, dựng cổng chào dọc đường đám rước đi kia đấy…”
“Đương nhiên cũng có thể áp dụng quyên tiền như xây tháp, gì chứ người giàu có muốn làm công đức đông như kiến ấy mà!”
Nhìn người bộ Công hớn hở đi nghĩ công văn viết tấu chươn, Chu Tử Tần đành ngoái lại bảo Hoàng Tử hà: “Hay thật… Quỳ vương vừa về, bao nhiêu vấn đề bèn được giải quyết hết!”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ đứng dưới bầu trời không, ngắm cảnh thu đìu hiu trước mắt, chậm rãi đáp: “Ích gì đâu…”
“Hả?” Chu Tử Tần ngạc nhiên nhìn sang, song cô chẳng nói gì thêm, chỉ ngẩng đầu ngắm hoàng hôn cuối trời. Ánh vàng bao trùm cả Trường An, bóng chiều sắp phủ mờ Cửu Châu.
Đại điện lung lay sắp đổ, triều đình đã mục nát từ tận gốc rễ. Quỳ vương Lý Thư Bạch dù có tài ba nghiêng trời lệch đất, cũng có ích gì đâu.
Chẳng qua chỉ là bóng hoàng hôn phản chiếu cuối cùng thôi.



Truyện Cùng Thể Loại

Các Đại Năng Đã Để Lại Thần Thức


Lưu ý: Vui lòng tải app để có thể lưu lại thần thức trên truyện này
Tải app để đọc truyện sớm nhất