Chương CHIẾN QUỐC TUNG HOÀNH
(Thế Cục Quỷ Cốc Tử)
Hồi Thứ 1
Chư hầu minh hội, mưu toan khó lường
Hiếu Công thi gan, kết oán với Ngụy
Năm 344 trước Công nguyên, thời đúng tháng ba, trong hậu hoa viên cung Tần, sắc xuân đang đượm, trăm hoa đua nở, chim hót líu lo. Trên thảm cỏ xanh mướt, vài con công do quân chủ nước Thục cống tiến năm ngoái đang nô giỡn. Hai gã công trống đương xuân ra sức nhảy nhót, kêu hót, xoè đuôi, dốc hết bản lĩnh để phô bày sức hấp dẫn giống đực nhằm lấy lòng một nàng công mái đương nhởn nhơ cách đó không xa.
Cách đó trăm bước, trên đình Thưởng Xuân, Tần Hiếu Công và đại lương tạo(1) Công Tôn Ưởng đang ngồi đối diện, dường như không hề để tâm tới cảnh sắc mùa xuân phơi phới xung quanh. Tần Hiếu Công nét mặt sa sầm, mắt nhìn chăm chú vào tấm hịch văn gỗ đàn đặt trên bàn. Hịch văn là do Ngụy Huệ Hầu gửi tới vào nửa tháng trước, yêu cầu Tần Hiếu Công trước giờ Thân ngày Đinh Mùi tới Mạnh Tân(2), triều kiến Chu thiên tử.
Sau một hồi trầm ngâm suy nghĩ, Công Tôn Ưởng ngẩng đầu lên, giọng đầy khẩn khoản: “Chúa thượng! Việc cần chuẩn bị, vi thần đã chuẩn bị xong xuôi, năm nghìn tướng sĩ trang bị sẵn sàng, đợi lệnh xuất phát. Trước mắt còn lại ba ngày, nếu lên đường ngay, hành quân nhanh thì vẫn còn kịp.”
Tần Hiếu Công vẫn nhìn trừng trừng vào tấm hịch văn, dường như muốn xuyên thấu những mảnh gỗ viết mực đen xâu chỉ vàng trước mắt.
Công Tôn Ưởng lại khẩn cầu: “Khởi bẩm chúa thượng, hay là, hãy để vi thần hộ tống điện hạ tới đó?”
Tần Hiếu Công vẫn lặng thinh, mắt không rời khỏi tấm hịch văn.
Công Tôn Ưởng thở dài một tiếng, lại rũ đầu xuống.
Tần Hiếu Công cuối cùng cũng ngẩng lên, nhìn thẳng vào Công Tôn Ưởng: “Hừm! Cái gì mà tới Mạnh Tân triều kiến thiên tử? Trong mắt Ngụy Anh đã bao giờ có Chu Vương? Hắn xưa nay bụng dạ khó lường, chẳng qua là mượn cớ để hiệu lệnh thiên hạ!”
Công Tôn Ưởng đáp lời: “Hiệu lệnh thiên hạ chỉ là thứ yếu, thật lòng là muốn chinh phạt nước ta. Chúa thượng, mấy năm gần đây, chúng ta biến pháp đồ cường, thế nước ngày càng lớn mạnh, Ngụy Hầu đứng ngồi không yên, sớm đã nghĩ tới chuyện chinh phạt ta rồi. Hiện tại hắn đã chuẩn bị xong xuôi, chỉ thiếu lý do. Minh hội lần này, chúa thượng không thể không đi!”
Tần Hiếu Công thoáng kinh ngạc: “Ồ, ý ái khanh là Ngụy Anh mở minh hội là để chinh phạt ta?”
“Vi thần đã dò la biết được, mấy tháng nay, Ngụy Hầu lấy danh nghĩa hộ giá, liên tục điều động binh mã, chuyển bốn vạn lính trấn thủ Đại Lương tới vùng Hào Sơn, Hàm Cốc. Các nơi khác như Âm Tấn, Lâm Tấn quan, Thiếu Lương thuộc Hà Tây cũng tăng cường binh lính, kiểm tra gắt gao, canh phòng nghiêm ngặt. Đấy là chưa nói những nơi như Thiếu Lương, An Ấp huy động rất nhiều thợ thuyền, ngày đêm chế tạo đủ loại thiết bị công phá thành.”
Tần Hiếu Công cười nhạt một tiếng: “Hắn dám tới, cứ để hắn tới!”
Công Tôn Ưởng lo lắng: “Chúa thượng…”
Lại qua một hồi trầm ngâm lâu hơn nữa, khó chịu hơn nữa, Tần Hiếu Công mới ngẩng đầu nhìn Công Tôn Ưởng, khẽ thở dài một tiếng: “Dù quả nhân có đến tham dự, song nếu Ngụy Hầu thực sự muốn kiếm cớ, làm gì có chuyện không tìm ra?”
“Nếu chúa thượng không đi, cái cớ này hẳn chẳng cần tìm nữa!”
“Nếu công hầu các nước không đi, chỉ có quả nhân đi, há chẳng trở thành trò cười cho thiên hạ?”
“Chúa thượng, nếu không ngoài dự kiến của vi thần, công hầu các nước có lẽ đã tới từ lâu!”
“Cớ sao ái khanh lại khẳng định như vậy?”
“Bởi lý do Ngụy Hầu đưa ra quả thực rất hay: Triều kiến Chu thiên tử vào ngày kỷ niệm bảy trăm năm Vũ Vương tuyên thệ phạt Trụ, nghe thực đường đường chính chính, công hầu các nước còn có lý do gì không tới?”
“Ồ!” Tần Hiếu Công vẻ như không thực tin. “Ái khanh thử nói xem, những công hầu nào sẽ đi?”
“Trung Sơn và những nước nhỏ ở lưu vực sông Tứ không nói làm gì, còn trong số những nước lớn, nước Yên yếu nhất, Yên Công không dám không đi. Triệu, Hàn, Ngụy đều thuộc Tam Tấn, hơn nữa còn là láng giềng với Ngụy, Triệu Hầu, Hàn Hầu không thể không đi. Ngụy, Tề những năm gần đây không có xích mích, Tề Công không thể làm mất mặt Ngụy Hầu mà không đến. Còn Sở Vương có nể mặt Ngụy Hầu hay không, vi thần không dám chắc!”
Tần Hiếu Công trầm ngâm một lúc, nhíu mày hỏi: “Ý ái khanh là, ngay cả Tề Công cũng có thể tới?”
“Đúng vậy!”
Tần Hiếu Công tiếp tục trầm tư. Ánh mắt Công Tôn Ưởng không rời Hiếu Công, chờ đợi quyết định cuối cùng.
Tần Hiếu Công chầm chậm ngẩng lên, sắc diện cương quyết, dằn từng tiếng: “Công Tôn ái khanh! Mười tám năm trước, tiên quân vì muốn lấy lại Hà Tây, đã đại chiến với Ngụy Anh suốt ba tháng ròng, trúng tên mà mất. Quả nhân đã từng thề trước linh cữu tiên quân, không báo thù được cho tiên quân, không rửa nhục được cho Hà Tây, quả nhân sẽ không bước vào đất Ngụy nửa bước! Mười tám năm nay, quả nhân đã y theo lời đó. Lần này, quả nhân cũng không muốn phá lệ! Nếu công hầu các nước tới chầu thiên tử, thì cứ để họ đi!”
Tần Hiếu Công từ từ đứng dậy, không nói một lời với Công Tôn Ưởng, theo hành lang hiên ngang bước đi. Nhìn theo bóng Hiếu Công dần khuất, ánh mắt Công Tôn Ưởng tràn đầy ngỡ ngàng.
***
Cách Lạc Dương chừng trăm dặm về phía đông bắc, địa thế bằng phẳng rộng rãi. Nước sông cuồn cuộn chảy từ Lâm Tấn quan xuôi xuống, khi tới vùng đất này, mười phần hung hãn đã yếu đi đến tám phần. Bờ sông mở rộng gấp đôi, từ xa nhìn lại, chẳng khác gì một dải hồ hình đai áo. Trong vùng sông hồ đai áo ấy, dòng nước xiết đã yên bình trở lại, hình thành một bến sông tự nhiên, mọi người gọi là bến Mạnh Tân.
Theo ghi chép trong sử sách nhà Chu, vào cuối mùa xuân năm 1044 trước Công nguyên, Vũ Vương Cơ dẫn quân về phía đông, ra khỏi cửa ải Hàm Cốc, lập đàn tế trời trên sườn đồi cao cách Mạnh Tân không xa, hội tụ tám trăm chư hầu, tuyên thệ phạt Trụ. Sau khi tuyên thệ, quân Chu vượt sông Hà Thuỷ tại đó, hai năm sau đánh bại Trụ Vương ở cánh đồng Mục Dã, thẳng đến Triều Ca, giành được thiên hạ, lập nên nhà Đại Chu.
Tròn bảy trăm năm sau, tức năm 344 trước Công nguyên, cũng vào dịp cuối xuân, bến Mạnh Tân xưa nay yên tĩnh lại một phen huyên náo. Từng đoàn xe ngựa rầm rập tiến về, dừng lại trước sườn đồi đất vàng nức tiếng cách bến sông hai dặm, dựng trại xung quanh, tạo thành từng dãy hành dinh.
Có tổng cộng mười bốn hành dinh, quy mô khác nhau, dàn hàng trật tự. Trên mỗi hành dinh đều dựng cây cọc cao, treo cờ các nước, đủ các loại màu sắc xanh đỏ vàng đen trắng, rực rỡ vô cùng.
Ngày Đinh Mùi, trời đã về chiều, giờ Thân sắp tới.
Gió xuân dìu dặt, cờ xí muôn sắc tung bay phấp phới, trông mà hoa mắt, khó lòng nhận rõ những văn tự trên cờ.
Phía trước hành dinh treo lá cờ chữ “Sở” là một thảm cỏ xanh mướt. Trên thảm cỏ, thái tử nước Tề Điền Tích Cương và thái tử nước Sở Hùng Hoè phục sức hoa lệ, tư thái hiên ngang đang giương cung lắp tên, nhắm vào tấm bia, vùn vụt bắn liền ba mũi. Hai tên binh sĩ canh bia lập tức vác bia chạy ngược trở lại.
Trên mỗi tấm bia, cả ba mũi tên đều găm trúng hồng tâm. Điền Tích Cương và Hùng Hoè liếc xem tấm bia của đối phương, rồi cùng nhìn nhau cười.
Bỗng có tiếng vỗ tay bồm bộp từ phía sau vọng lại.
Hai người đều ngạc nhiên quay đầu lại nhìn. Cách họ khoảng mười bước chân, Hàn Chiêu Hầu tuổi trạc ngũ tuần đang đứng đó. Hàn Chiêu Hầu vóc dáng thấp đậm, rắn rỏi, mình mặc áo giáp da, ngang lưng đeo kiếm, trên mặt nở một nụ cười bí hiểm, lại vỗ tay liền ba cái.
Điền Tích Cương, Hùng Hoè liếc nhìn nhau, rồi cùng bước lên trước một bước, vòng tay nói: “Bái kiến Hàn Hầu!”
Hàn Chiêu Hầu đáp lễ, rồi tiến lại, cầm lấy tấm bia từ tay binh sĩ, vừa ngắm nghía vừa khen ngợi: “Quả là thiện xạ! Tự cổ anh hùng xuất thiếu niên, hôm nay gặp hai vị điện hạ, mới biết câu này quả thực không sai!”
Nước Hàn và Ngụy, Triệu đều thuộc đất Tấn, xưa gọi là Tam Tấn. Mười mấy năm nay, nước Ngụy ngày càng lớn mạnh, Hàn, Triệu đều trở thành thuộc quốc của Ngụy, nhất nhất nghe theo Ngụy Hầu sai khiến. Sau khi kế vị, Hàn Chiêu Hầu bắt đầu mưu đồ biến cách. Sau khi Công Tôn Ưởng sang Tần không lâu, Hàn Chiêu Hầu đã dùng biến pháp của Thân Bất Hại người Trịnh, nhờ thế nước Hàn ngày càng cường thịnh. Năm năm trước, nước Hàn và nước Sở biên cương xung đột, tướng nước Hàn là Thân Bất Hại dẫn bốn vạn quân giằng co với nước Sở suốt sáu tháng ròng. Nước Sở tập kích, chiếm được Nghi Dương của Hàn, Thân Bất Hại dẫn quân vòng qua Phương Thành, vượt đường xa đánh úp Uyển Thành của Sở, hai bên đều nhắm đánh vào vùng đất luyện thép trọng yếu của đối phương, chiến cục thành hoà. Mấy tháng sau, dưới sự điều đình của Ngụy Huệ Hầu, ba nước Ngụy, Sở, Hàn đã điều đình ở Thượng Sái, Sở trả lại Nghi Dương cho Hàn, Hàn trả lại Uyển Thành cho Sở, hai nước bắt tay làm hoà.
Lần này, Ngụy Huệ Hầu triệu tập đại hội ở Mạnh Tân, Sở vốn là vương, ngang hàng với Chu, hoàn toàn có thể không đến. Nhưng Sở Uy Vương thứ nhất là muốn thăm dò động thái Trung Nguyên, thứ hai là muốn tôi rèn thái tử, nhân tiện để cho nước Ngụy được mở mày mở mặt, nên cũng nhận lời mời của Ngụy Hầu, cho thái tử Hùng Hoè tới dự triều hội.
Bởi những khúc mắc trước kia, lại cũng vì mối quan hệ căng thẳng giữa Hàn và Ngụy, nên lúc này, sự xuất hiện của Hàn Chiêu Hầu mang một sắc thái khá đặc biệt. Thái tử nước Sở Hùng Hoè liếc Điền Tích Cương một cái, rồi thản nhiên đáp lời: “Đa tạ Hàn Hầu quá khen!”
Quả nhiên, Hàn Chiêu Hầu đặt tấm bia xuống đất, ngữ khí thong thả, lời nói đầy ẩn ý sâu xa: “Nghe nói điện hạ Doanh Tứ nước Tần có thể kéo cây cung năm thạch, cách xa trăm bước bắn trúng lá dương liễu. Nếu hôm nay cũng có mặt ở đây, ba vị hẳn có thể đọ tài cao thấp!”
Điền Tích Cương tuổi trẻ khí ngạo, phá lên cười lớn một tràng rồi nói: “Người mà Hàn Hầu vừa nhắc tới, lẽ nào là cậu ấm phóng đãng của Tần Công? Tích Cương lại nghe đồn rằng, khi Công Tôn Ưởng mới thi hành biến pháp, kẻ đó phản đối đầu tiên, bản thân hắn phải chịu cái nhục cắt tóc đã đành, ngay cả lão thầy già Công Tôn Giả và thái phó Doanh Kiền của hắn cũng phải liên luỵ, bị thích chữ vào mặt, xẻo mũi thay hắn, trở thành trò cười của liệt quốc.”
Hùng Hoè khinh khỉnh tiếp lời: “Cậu ấm phóng đãng đó không phải là không đến, chỉ e là không dám đến!”
Hàn Chiêu Hầu thấy Hùng Hoè ăn nói ngông cuồng, trong lòng bực bội, cười nhạt mà nói: “Ồ, điện hạ không những dám tới, mà còn không sai hẹn với Ngụy Hầu dù chỉ một chốc lát, quả nhân thực tình khâm phục! Nhân tiện xin nói một câu, Sính Đô(3) cách đây hơn ba nghìn dặm, điện hạ đi đường hẳn đã phải dãi gió dầm sương, thật vất vả quá!”
Hùng Hoè cười nhạt một tiếng: “Hồi Hàn Hầu, Hùng Hoè trên đường du sơn ngoạn thuỷ, vui vẻ khoan khoái vô cùng. Nếu nói về vất vả, Hùng Hoè sao so được với Hàn Hầu? Nghe nói Hàn Hầu nhận được hịch truyền của Ngụy Hầu, tức tốc lên đường ngay trong đêm, chưa tới ba ngày đã vượt qua nghìn dặm mà tới!”
Hàn Chiêu Hầu bật cười ha hả: “Ha ha, thật là miệng lưỡi sắc sảo! Sở Vương có điện hạ đúng là đã có người kế tục! Không giấu điện hạ, quả nhân và Sở Vương cũng được coi là quen biết nhiều năm. Tại cuộc gặp ở Thượng Sái năm xưa, trong bữa tiệc, quả nhân và Sở Vương đánh cuộc bằng rượu, Sở Vương nhất thời bất cẩn, đã để thua quả nhân một bình rượu lâu năm, nói rằng lần sau gặp mặt sẽ tặng. Hội Mạnh Tân lần này, quả nhân vốn không định tới, nhưng chợt nhớ Sở Vương có lẽ sẽ đến trả bình rượu còn nợ, nên đôi chân già này cứ nhất quyết đòi đi.”
Hùng Hoè cũng bật cười lớn, miệng lưỡi bén nhọn đáp trả: “Hàn Hầu nói rất đúng! Trước khi vãn bối đi, phụ vương quả thật có lấy ra một bình rượu lâu năm, kéo tay vãn bối lại dặn rằng: ‘Ngụy Hầu triệu tập hội Mạnh Tân, các công hầu khác có tới hay không rất khó nói, nhưng Hàn Hầu nhất định sẽ tới. Lần này sai con đến Mạnh Tân, cũng chẳng có việc gì khác, chỉ cần giao bình rượu lâu năm này cho Hàn Hầu. Cũng chuyển lời tới Hàn Hầu rằng, rượu này do quả nhân tự tay ủ, nếu muốn biết được mùi vị thật sự trong đó, phải thưởng thật kỹ!’.”
Hàn Chiêu Hầu hơi sững lại một thoáng, liếc sang Điền Tích Cương, lại liếc nhìn hơn chục hành dinh xa gần lớp lớp, đổi giọng tự trào: “Ha ha… Hôm nay, Ngụy Anh đúng là nở mày nở mặt, liệt quốc lớn nhỏ, không nước nào không tới! Bất luận thế nào, lần này được uống rượu ủ lâu năm của Sở Vương, quả nhân cũng coi như không uổng phí chuyến đi này!”
Hùng Hoè nhìn mặt trời đang xế về tây, cười nói: “Chỉ e Hàn Hầu nói quá sớm. Theo hịch truyền của Ngụy Hầu, chư hầu phải tới trước giờ Thân hôm nay. Nhìn mặt trời đã thấp thế kia, giờ Thân có lẽ đã tới rồi. Hẳn Hùng Hoè mắt mũi kém cỏi, nên không nhìn thấy xe của nước Tần đâu?”
Điền Tích Cương không bỏ lỡ thời cơ, tiếp lời: “Đúng vậy, đúng vậy, Tích Cương cũng muốn thỉnh giáo Hàn Hầu, Ngụy Hầu uy danh là thế, Tần Công làm gì có chuyện không dám tới?”
Hàn Chiêu Hầu quét ánh mắt qua Điền Tích Cương, dừng lại ở Hùng Hoè: “Tần Công không đến, có lẽ là coi thường rượu lâu năm của nước Sở!”
Hùng Hoè cung kính đáp: “Hàn Hầu nói chí phải. Nghe nói Tần Công tửu lượng kém, không như Hàn Hầu tửu lượng hơn người, chỉ cần nghe nói có người cho rượu, chưa đợi trời sáng đã cấp tập lên đường!”
Điền Tích Cương cười lớn, phụ họa: “Đúng vậy, đúng vậy! Hàn Hầu tửu lượng hơn người, tối nay có người ban rượu, Hàn Hầu vừa hay có cơ hội để thể hiện bản lĩnh!”
Hàn Chiêu Hầu thở dài một tiếng: “Ồ, hai vị điện hạ, tuổi trẻ khí thịnh cũng vô dụng thôi, tiệc rượu tối nay, bất kể tửu lượng khá dở thế nào, cũng đều phải uống. Hai vị hãy chờ mà xem, nếu đúng như quả nhân dự đoán, Tần Công tửu lượng kém e rằng sẽ phải uống rượu phạt!”
Hai vị thái tử lập tức ngẩn người: “Rượu phạt?”
Hàn Chiêu Hầu ngoảnh đi, ánh mắt từ từ dừng lại ở hành dinh nước Ngụy, rồi gật mạnh đầu khẳng định.
***
Trong mười bốn hành dinh xếp hàng ngay ngắn, có hai trại ở giữa. Một là hành dinh của thiên tử, tọa bắc hướng nam, phía trước phất phơ vuông cờ đỏ, trên cờ thêu chữ “Chu” thật lớn bằng chỉ xanh. Bên phải hành dinh thiên tử là hành dinh nước Ngụy, xếp thẳng hàng với hành dinh thiên tử, kích cỡ và kiểu cách của hai hành dinh này giống hệt như nhau, trên lá cờ màu xanh sẫm thêu một chữ “Ngụy” lớn bằng chỉ đỏ. Nhìn từ phía xa, hai lá cờ tung bay song song, một lá nền đỏ chữ xanh, một lá nền xanh chữ đỏ, tương phản chói chang, tuy nhiên trong đó hẳn còn mang một ý vị nào khác.
Hành dinh nước Ngụy yên ắng lạ lùng, đến không khí cũng dường như ngưng đọng.
Có ba người, tướng quốc Bạch Khuê, thượng đại phu Trần Chẩn, thượng tướng quân công tử Ngang ngồi im trước bàn, lặng phắc như tờ, hệt như ba pho tượng đất.
Ngụy Huệ Hầu ngồi ngay ngắn ở vị trí chủ, hai mắt khép hờ, sắc mặt thư thái, tay phải hơi nắm, ngón giữa đưa lên hạ xuống nhịp nhàng chạm xuống mặt bàn, giống như gõ, nhưng không phát ra tiếng.
Gõ được vài cái, Huệ Hầu chợt mở choàng mắt, từ từ ngẩng lên, đôi mắt như ngọn đuốc nhìn thẳng vào chiếc đồng hồ nước tinh xảo bày bên tay trái. Quan tư lậu(4) đứng hầu bên cạnh, mắt nhìn không chớp vào vạch khắc trên đồng hồ nước. Mọi người không hẹn mà cùng nhìn về một phía. Trong bầu tĩnh lặng như chết chóc, đồng hồ nước bỗng phát ra hai tiếng “tách tách” ngân vang.
Mực nước cuối cùng cũng dâng lên một vạch. Lát sau lại thêm một tiếng “tách” nữa, giọng quan tư lậu cất lên sang sảng: “Giờ Thân ngày Đinh Mùi đã tới!”
Ngụy Huệ Hầu hơi ngẩng đầu, để lộ khuôn mặt phương phi, như cười mà như không cười, ánh mắt sắc bén rời khỏi mặt bàn, lấn lượt quét qua Bạch Khuê, công tử Ngang, rồi dừng lại trên người Trần Chẩn.
Trần Chẩn thấy vậy, kịp thời tâu rằng: “Giờ Thân đã điểm! Quả như chúa thượng dự đoán, Tần Công đã kháng lệnh!”
Ngụy Huệ Hầu hai má rung rung, khẽ gật đầu: “Chư ái khanh đều đã thấy cả rồi. Không phải quả nhân muốn sinh sự với con ưng đen ấy, mà là nó đã đủ lông đủ cánh, muốn tự bay rồi!”
Công tử Ngang đứng phắt dậy, bước lên một bước: “Khởi tấu quân phụ, nhi thần thỉnh cầu tây chinh, thề sẽ bẻ rời cánh nó xuống cho quân phụ nhắm rượu!”
Ngụy Huệ Hầu từ từ di chuyển ánh mắt sang Bạch Khuê: “Ái khanh, khanh nói gì đi chứ?”
Lão tướng quốc Bạch Khuê liếc nhìn công tử Ngang một cái, khẽ chau mày: “Hồi bẩm chúa thượng, nước Tần mười năm biến pháp, thực lực ngày càng lớn mạnh, rõ ràng đã thành bọc mủ, sớm muộn cũng phải nặn bỏ! Song, việc có tuần tự, sự có nhanh chậm, vi thần cho rằng, việc cấp bách trước mắt không phải là chinh phạt, mà là triều kiến thiên tử. Đây là thịnh hội trăm năm, chư hầu thiên hạ tề tựu đông đảo, lỡ để xảy ra sơ sảy, có thể ươm mầm tai họa khó lòng dàn xếp!”
Ngụy Huệ Hầu gật đầu liên hồi: “Đúng vậy, lão ái khanh nói chí phải!” Rồi nhìn sang công tử Ngang. “Ngang Nhi, nghe thấy chưa? Mọi việc không chỉ phải nghĩ đến toàn cục, mà còn phải suy tính lâu dài, không được động một chút là đòi chinh phạt!”
Công tử Ngang liếc xéo Bạch Khuê một cái, hạ giọng: “Quân phụ dạy chí phải!”
Ngụy Huệ Hầu chuyển ánh mắt sang Trần Chẩn: “Trần ái khanh, các việc liên quan tới triều hội đã chuẩn bị sẵn sàng chưa?”
Trần Chẩn dõng dạc đáp lời: “Khởi bẩm chúa thượng, mọi việc đã sẵn sàng. Theo sắp xếp, một canh giờ nữa, tức vào lúc hoàng hôn, thiên tử sẽ ban tiệc, chúa thượng cũng nên chuẩn bị chút ít!”
Ngụy Huệ Hầu gật đầu: “Phải! Đây là đại sự, không thể qua loa!” Suy nghĩ một lát, lại nói tiếp. “Trần ái khanh, khanh là người chủ quản nghi lễ, quả nhân và Chu thiên tử, và các công hầu trong thiên hạ, đều nghe theo sự sắp đặt của khanh. Hãy sắp xếp cho chu đáo!”
Nghe thấy quân chủ cố tình nói tới từ “quả nhân” trước cả từ “Chu thiên tử”, Bạch Khuê khẽ giật mình, vòng tay mà tâu: “Chúa thượng…”
Ngụy Huệ Hầu dường như đoán được ông định nói gì, bèn xua tay: “Lão ái khanh, ngày mai cử hành đại lễ, khanh hãy đi kiểm tra lại khắp lượt, chớ để xảy ra sơ suất!”
Bị chặn họng, Bạch Khuê đành nuốt lời khuyên xuống cổ, giọng khàn khàn đáp lời: “Vi thần tuân chỉ!”
Bạch Khuê cáo lui, khuôn mặt già nua chằng chịt nếp nhăn càng trở nên ưu tư. Ông men theo con đường nhỏ rảo bước về trại của mình. Môn khách Công Tôn Diễn ra nghênh đón. Bạch Khuê thì thầm một hồi với Công Tôn Diễn, rồi Công Tôn Diễn nhanh chóng ra khỏi trại.
***
Để phòng ngự người Ngụy, Tần Hiếu Công ngay trong những năm đầu biến pháp cải chế, đã nghe theo kế của Công Tôn Ưởng, dời đô từ Nhạc Dương tới Hàm Dương phía tây, xây thành cao lũy sâu, ngoài thành lớp lớp tường bao, dưới tường thành còn đào một con hào rộng năm trượng, sâu gần một trượng, dẫn nước từ Vị Hà tới bao quanh bảo vệ, khiến thành trì càng thêm kiên cố, đúng là thành đồng hào nóng.
Vào lúc chập tối, trong điện Di Tình, không khí ngưng đọng. Tần Hiếu Công ngồi trên ngai rồng, thái tử Doanh Tứ, thái phó Doanh Kiền, thượng đại phu Cảnh Giám, quốc uý Xa Anh chia nhau ngồi ở hai bên. Ai nấy sắc mặt nặng nề, ánh mắt đổ dồn vào thượng đại phu Cảnh Giám.
Cảnh Giám trầm giọng nói: “Muôn tâu chúa thượng! Theo vi thần được biết, mười hai chư hầu Trung Nguyên đều hưởng ứng Ngụy Hầu, tới Mạnh Tân triều kiến thiên tử! Liệt quốc lớn nhỏ vùng Sơn Đông, ngoài Tề, Sở cử thái tử đi, còn lại đều đích thân quân chủ tới.”
Rõ ràng, trong buổi triều hội Mạnh Tân, ngoài hai nước Tề và Sở ít nhiều nằm ngoài dự kiến, còn tình hình nước khác đều nằm trong dự đoán của Công Tôn Ưởng. Tần Hiếu Công dường như sực nhận ra sự việc nghiêm trọng, đôi mày chau tít, từ từ khép mắt lại.
Doanh Kiền từng bị đại lương tạo Công Tôn Ưởng xử hình xẻo mũi, hơi ngẩng đầu lên, liếc sang Doanh Tứ, nói oang oang: “Tứ Nhi, công thúc thật lòng không hiểu, tại sao chúng ta không tới triều hội Mạnh Tân?”
Vẫn còn ôm mối hận với Công Tôn Ưởng, Doanh Tứ nhanh chóng hiểu ý, lập tức đáp lời: “Công thúc, Tứ Nhi không hiểu việc này. Có lẽ đại lương tạo có suy tính khác.”
Doanh Kiền hừ mũi một tiếng, nhìn về phía Hiếu Công: “Không phải thần đệ oán trách, nhưng quân huynh không nên việc gì cũng nhất nhất nghe theo Công Tôn Ưởng! Triều hội Mạnh Tân, liệt quốc trên danh nghĩa là đến chầu Chu thiên tử, thực chất lại là đến chầu Ngụy Hầu. Ngụy Hầu là người thế nào, mà ngay cả nước lớn như Tề, Sở đều không dám khinh thường đắc tội. Công Tôn Ưởng hắn hiểu cái gì, nói không đi là dám không đi! Bây giờ thì hỏng rồi! Ngụy Anh vốn dĩ đã không thuận mắt với nước Tần ta, lúc này kiếm được lý do chính đáng, lại chẳng nhân cơ hội thôn tính chúng ta?”
Cảnh Giám liếc nhìn Xa Anh, dường như muốn nói điều gì nhưng lại thôi.
Tần Hiếu Công từ từ mở mắt, quét ánh nhìn qua Doanh Kiền và Doanh Tứ, vừa như tự trách, lại vừa như trả lời Doanh Kiền: “Việc này không thể trách đại lương tạo! Là quả nhân ôm mối hận Hà Tây, nhất thời tức giận không đi, không ngờ quả nhiên đã gây phiền toái!”
Thấy Hiếu Công nói vậy, Doanh Kiền tự biết lỡ lời, cúi đầu không nói gì nữa. Mọi người đều im lặng.
Tần Hiếu Công chợt ngẩng lên hỏi: “Đại lương tạo… đại lương tạo đâu rồi?”
Cảnh Giám vòng tay đáp: “Hồi bẩm chúa thượng, đại lương tạo hai ngày trước đã tới núi Chung Nam thị sát doanh trại.”
Tần Hiếu Công lấy làm lạ: “Tới núi Chung Nam thị sát doanh trại.” Trầm ngâm một lát, bèn thở dài một tiếng: “Gọi ông ta về mau!”
“Vi thần tuân lệnh.”
***
Trời vừa tối, bên ngoài hành dinh thiên tử đèn đuốc sáng trưng, nhã nhạc tấu lên, dìu dặt hài hoà. Đúng vào lúc đó, công tử Ngang dẫn một nghìn võ binh sầm sập chạy tới, vây khắp xung quanh hành dinh, chỉ chừa lại một lối đi, giáo mác tua tủa ở trước cửa.
Hành động quá ư đường đột khiến bữa tiệc của thiên tử vốn đang hỷ khí chan hoà bỗng chốc sặc mùi uy hiếp. Mười hai chư hầu đang đứng trước cửa hành dinh chừng một tầm tên bắn chờ triệu kiến, tất thảy đều sững sờ nhìn nhau, ai nấy cùng lộ vẻ tức giận. Hùng Hoè, Điền Tích Cương đưa mắt nhìn nhau, đang định phẩy tay áo bỏ đi thì thấy Trần Chẩn vẫy tay về phía đội nhạc, cất giọng sang sảng: “Thiên tử ban yến! Sở điện hạ, Tề điện hạ giá đáo!”
Đội nhạc lập tức tấu lên khúc nhạc thiên tử nghênh tân khách. Hùng Hoè, Điền Tích Cương nghe thấy tên mình được xướng lên, sững lại chốc lát, cuối cùng cũng miễn cưỡng đi về phía hành dinh của thiên tử.
Tiếp đó, Trần Chẩn lần lượt hô to: “Triệu Hầu giá đáo! Hàn Hầu giá đáo! Yên Hầu giá đáo!… Vệ Công giá đáo!”
Những chư hầu được Trần Chẩn điểm danh đều mặt mày nặng trịch, lần lượt bước vào lối đi tua tủa giáo mác theo thứ tự xướng danh.
Chu Hiển Vương mình khoác long bào, thân hình gầy guộc, sắc mặt thoáng vẻ xanh xao, ngồi ngay ngắn ở ngôi chủ, mặt hiện vẻ cười, song người tinh mắt vừa nhìn đã thấy, nụ cười này là cố gắng nặn ra.
Theo thứ tự xướng danh của Trần Chẩn, các công hầu lần lượt hành đại lễ ba lạy chín dập đầu trước Chu thiên tử. Hành đại lễ bái kiến xong, Chu thiên tử lần lượt ban chỗ cho từng người. Người bái kiến cuối cùng là Vệ Thành Công với bộ râu đen dài phất phơ.
Vệ Thành Công tiến lên mấy bước, sau khi hành đại lễ xong, bèn lớn giọng hô: “Thần tử Đại Chu, cháu đời thứ hai mươi ba của Vệ thất là Cơ Tốc khấu kiến thiên tử bệ hạ!”
Chu Hiển Vương vẫn với nụ cười miễn cưỡng, bàn tay đưa ra cũng miễn cưỡng tương tự, nói: “Ái khanh bình thân!”
Vệ Thành Công tạ ơn xong, đứng dậy đi về vị trí cuối cùng. Theo sách sử ghi chép, khi liệt quốc triều kiến thiên tử, vị trí ngồi sẽ tuân theo quan hệ huyết thống xa gần với tông thất nhà Chu, cũng như tuần tự cấp bậc trên dưới. Nước Vệ là đất phong của Khang Thúc, em cùng mẹ với Chu Vũ Vương, xét về huyết thống là rất gần với tông thất nhà Chu, về lý phải xếp trên cùng, hoặc chí ít cũng phải ngang hàng với Lỗ Công, Yên Công. Tuy nhiên, lần này, Trần Chẩn đã sắp xếp trật tự dựa vào thực lực mạnh yếu của mỗi nước, căn bản không hề quan tâm đến quy tắc của Chu thất. Vệ Thành Công có quan hệ huyết thống gần với Chu thất hơn cả, song do thực lực yếu nhất nên bị xếp cuối cùng. Các nước lớn không có ý kiến gì, Vệ Thành Công tuy một bụng hậm hực cũng không dám nói ra.
Lúc này, chỉ còn lại một chỗ trống, chính là vị trí bên cạnh Chu thiên tử. Công hầu có mặt đều biết, vị trí này đặc biệt dành cho Ngụy Hầu. Là người chủ trì bữa tiệc, đáng lẽ Ngụy Hầu phải đến đầu tiên, song lại lề mề chưa tới, dụng ý tuy không nói ra, song mọi người đều ngầm hiểu.
Phía bên ngoài hơn chục bước, nơi vốn dĩ là vị trí đội nhạc của thiên tử, giờ lừng lững hai hàng binh lính, toàn thân giáp sắt, toả ra làn khí sát phạt khiến ai nấy ớn lạnh. Đứng oai phong lẫm liệt phía đầu hai hàng lính là thượng tướng quân công tử Ngang nước Ngụy. Bầu không khí căng thẳng này trái ngược hoàn toàn với tiếng nhã nhạc đón khách vẫn dìu dặt từ phía đội nhạc của thiên tử ở bên ngoài hành dinh.
Thấy mọi người đều đã yên vị, Trần Chẩn vẫy tay, nhạc đón khách lại tiếp tục cử lên. Trần Chẩn không bỏ lỡ thời gian, dõng dạc hô vang: “Ngụy Hầu giá đáo!”
Hai hàng lính “roạt” một tiếng lùi ra hai bên, chừa ra một lối đi rộng chừng ba bước chân. Ngụy Huệ Hầu thủng thẳng tiến vào, sải bước trong tiếng nhạc, hướng về phía Chu thiên tử, quỳ xuống, song chỉ một lạy một dập đầu, cất giọng sang sảng: “Ngụy Anh khấu kiến bệ hạ!”
Chu Hiển Vương trong lòng chùng xuống, song miệng vẫn nói: “Ái khanh bình thân!”
Ngụy Huệ Hầu lại không đứng dậy ngay, vẫn dập đầu sát đất. Chu Hiển Vương mặt hơi biến sắc, nhắc lại: “Ái khanh bình thân!”
Ngụy Huệ Hầu không nhúc nhích, vẫn dập đầu sát đất. Chu Hiển Vương đưa mắt nhìn khắp lượt chư hầu, song chẳng ai để ý tới Hiển Vương, hầu như mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Ngụy Huệ Hầu. Chu Hiển Vương ngần ngừ một lát, đành phải đứng dậy, bước xuống, đích thân đỡ Ngụy Huệ Hầu đứng dậy.
Nhìn thấy cảnh tượng này, chư hầu đều đưa mắt nhìn nhau, mỗi người một vẻ kinh ngạc.
Chu thiên tử kéo tay Ngụy Huệ Hầu dắt tới chỗ ngồi, rồi cùng an tọa. Nhã nhạc đón khách đã dừng. Trần Chẩn vỗ tay, Công Tôn Diễn và một người hầu rượu bước vào, lần lượt rót rượu cho từng người.
Thấy rượu đã rót xong, Ngụy Huệ Hầu cố tình đặng hắng lớn một tiếng, đám công hầu đều ngẩng nhìn về phía ông ta.
Ngụy Huệ Hầu tuổi gần năm mươi, vóc dáng cao lớn, vạm vỡ như trâu mộng, khuôn mặt vuông vức, không giận đã uy. Ngồi ở ngôi trên, Chu Hiển Vương trẻ hơn Ngụy Hầu cả chục tuổi chẳng khác gì một thư sinh yếu ớt, nụ cười miễn cưỡng trên khuôn mặt càng khó lòng che giấu nỗi sợ hãi tận đáy lòng.
Ngụy Huệ Hầu lại đặng hắng tiếng nữa, đưa mắt lướt nhìn khắp lượt hai hàng võ binh đang đứng phía sau chư hầu không xa, vờ sầm mặt xuống, lớn tiếng trách mắng: “Trần Chẩn, đám võ sĩ này là thế nào?”
Trần Chẩn khấu đầu đáp: “Bẩm chúa thượng, là thượng tướng quân lo lắng cho sự an nguy của thiên tử, nên đặc biệt đưa tới hộ giá!”
Ngụy Huệ Hầu nghiêm giọng hỏi: “Thượng tướng quân đâu?”
Công tử Ngang dõng dạc đáp: “Có mạt tướng!”
Ngụy Huệ Hầu nghiêm mặt: “Hôm nay thiên tử ban tiệc, quần thần vui vẻ, ngươi lại dẫn đám võ sĩ này đứng canh ở đây, thật mất hứng! Còn không mau lui ra.”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Công tử Ngang vội vẫy tay, cùng đám võ sĩ lui ra.
Ngụy Huệ Hầu ngồi thẳng người, quét ánh mắt khắp lượt mười hai chư hầu, khẽ mỉm cười, vòng tay tạ lỗi: “Thời thế loạn lạc, chư vị công hầu đều là thân thể ngàn vàng, lại thêm bệ hạ thiên tử đích thân tới đây, Ngụy Anh vô cùng lo sợ, chỉ e xảy ra sơ suất, nên căn dặn chúng phải canh phòng nghiêm ngặt. Nào ngờ chúng lại cẩn thận quá mức, làm kinh động đến chư vị!”
Mười hai chư hầu đưa mắt nhìn nhau, ai nấy trong lòng hiểu rõ, nên chẳng ai dám nói lời nào.
Ngụy Huệ Hầu lại vòng tay cung kính mà nói: “Được chư vị xem trọng, không quản đường sá xa xôi tới Mạnh Tân, Ngụy Anh vô cùng cảm kích!”
Mười hai công hầu thấy vậy, đành phải vòng tay đáp lễ. Chủ nhân thực sự của bữa tiệc là Chu Hiển Vương đã bị gạt sang một bên, vẻ mặt hết sức sượng sùng. Ngụy Huệ Hầu như không nhìn thấy, nâng chén rượu lên mà nói: “Chư vị công hầu tề tựu ở Mạnh Tân, thiên hạ quy tâm, thực là đại sự trăm năm có một, đáng được chúc mừng! Nhân ngày lành cảnh đẹp, Ngụy Anh tạm thay thiên tử ngự tửu, cảm tạ chư công!”
Nói đoạn, Ngụy Huệ Hầu ngửa cổ uống liền một hơi.
Chư hầu nhìn nhau, thảy đều kinh ngạc. Thái tử nước Sở Hùng Hoè ho lớn một tiếng, rồi e hèm liền vài cái trong cổ họng. Triệu Túc Hầu, Yên Văn Công cũng húng hắng ho theo, trong tiệc bỗng chốc tạp âm hỗn loạn.
Điền Tích Cương quay sang nhìn Hàn Chiêu Hầu, hạ giọng hỏi: “Tích Cương lần đầu triều kiến thiên tử, không hiểu lễ nghi. Xin hỏi Hàn Hầu, rượu hôm nay, chén đầu tiên là ai uống?”
Hàn Chiêu Hầu lắc đầu, nói khẽ: “Chiếu theo luật lệ, thiên tử ban rượu, chén đầu tiên đáng ra phải do thiên tử nâng lên kính trời, chén thứ hai kính đất, chén thứ ba cùng uống với chúng ta.”
Điền Tích Cương gật đầu nói: “Đa tạ Hàn Hầu chỉ giáo! Tích Cương năm ba tuổi đã nghe câu ‘khách át quyền chủ’, nhưng tới hôm nay mới tận mục sở thị!”
Hàn Chiêu Hầu đang định nói tiếp, chợt thấy ánh mắt sắc lạnh của Ngụy Huệ Hầu đang quét tới, đôi môi vừa mấp máy lập tức im bặt. Ánh mắt Ngụy Huệ Hầu quét khắp lượt chư hầu, dừng lại ở Vệ Thành Công ngồi ở cuối cùng. Vệ Thành Công rùng mình ớn lạnh, tay run cầm nâng chén rượu lên, uống cạn đầu tiên. Ngụy Huệ Hầu gật gù đắc ý, tiếp đến lại đưa mắt về phía quân chủ các nước nhỏ như Tống, Nghĩa Cừ, Lỗ, Trung Sơn, Đào, Trần. Chư hầu lần lượt nâng chén uống cạn.
Khi ánh mắt Ngụy Huệ Hầu dừng lại ở Yên Văn Công tuổi ngoại lục tuần, Văn Công thoáng ngần ngừ một lát, rồi cũng nâng chén, nhìn sang Hiển Vương, cúi đầu với Hiển Vương, gõ chén xuống bàn ba lần, rồi uống liền một hơi. Không đợi Ngụy Huệ Hầu nhìn đến, Triệu Túc Hầu, Hàn Chiêu Hầu cùng nâng chén lên, bắt chước Yên Văn Công, đều đưa mắt nhìn Chu Hiển Vương, gõ chén ba cái xuống bàn, rồi uống. Hai thái tử Tề, Sở ngồi ở hai bên, chẳng chú ý tới thiên tử, cũng chẳng để ý tới Ngụy Huệ Hầu, chỉ nhìn nhau cười cười, nâng chén chúc nhau, rồi cùng uống cạn.
Trong buổi tiệc, chỉ có Chu Hiển Vương không nâng chén, ngồi ngây như khúc gỗ sau bàn.
Ánh mắt Ngụy Huệ Hầu nhanh chóng chuyển sang Chu Hiển Vương. Muôn nỗi đau xót trong lòng Chu Hiển Vương hoá thành một nụ cười gượng gạo. Ông nâng chén lên môi, nhấp một ngụm, rồi đặt trở lại bàn.
Ngụy Huệ Hầu cười hài lòng, vòng tay nói: “Ngụy Anh đa tạ chư vị đã có mặt ở đây! Ngụy Anh còn vài lời muốn nói, mong chư vị cho phép!”
Xung quanh lập tức im bặt, mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía Ngụy Huệ Hầu.
Ngụy Huệ Hầu khẽ đặng hắng, cất giọng sang sảng: “Chư vị công hầu! Bảy trăm năm trước, tại nơi này, chính trên gò đất phía trước không xa, Chu Vũ Vương hội hợp tám trăm chư hầu thiên hạ, tuyên thệ phạt Trụ. Thử nghĩ mà xem, tại sao Chu Vũ Vương có thể hội minh tám trăm chư hầu? Bởi người có đức hạnh, có tài năng! Người xưa có câu, ‘người có đức có tài sẽ có được thiên hạ.’ Trụ Vương thất đức bất tài nên mất thiên hạ. Vũ Vương tài đức song toàn nên có thiên hạ. Chư vị công hầu, hiện nay chúng ta đứng trên đất này, nhớ lại chuyện xưa, thực khó tránh trong lòng cảm khái!”
Câu này khác nào ám chỉ Chu thiên tử là người vô tài vô đức, nên ai cũng có thể đoạt lấy vương vị. Do vậy, Ngụy Huệ Hầu vừa dứt lời, Chu Hiển Vương mặt đỏ bừng hổ thẹn, cúi gằm mặt xuống, lén kéo vạt áo lau nước mắt.
Hàn Chiêu Hầu chạm khẽ vào Điền Tích Cương ngồi cạnh, thì thầm: “Nghe rõ chưa? Ngụy Hầu tài đức song toàn, thiên hạ nên thuộc về ông ta!”
Điền Tích Cương liếc mắt nhìn Ngụy Huệ Hầu, hừ mũi một tiếng, ngoảnh mặt đi không thèm nhìn. Hùng Hoè mắt sáng rực, nhìn thẳng vào Ngụy Huệ Hầu, lớn tiếng hỏi: “Xin hỏi Ngụy Hầu, trong thiên hạ hiện nay, ai là người tài đức song toàn?”
Ngụy Huệ Hầu nhìn về phía Hùng Hoè, cười khẽ mà nói: “Có một người, song đương nhiên không phải là thái tử nước Sở Hùng Hoè!”
Hùng Hoè lạnh lùng đáp: “Nói như vậy, người đó hẳn là Ngụy Hầu đây?”
Ngụy Huệ Hầu bật cười: “Ha ha ha ha! Người tài đức song toàn có thể chấn hưng vương nghiệp, bá chủ thiên hạ. Ngụy Huệ Hầu tài nông đức mọn, sao có thể gánh vác trọng trách này? Hơn nữa, dù Ngụy Anh có tài năng đó, cũng không dám khoe khoang!”
Thân là chư hầu, lại nói chuyện vương nghiệp trước mặt thiên tử, những lời như vậy mà ông ta cũng dám thốt ra, không khỏi khiến mọi người bàng hoàng sửng sốt, đưa mắt nhìn nhau. Ngụy Huệ Hầu lại đổi sang chuyện khác: “Có điều, thiên hạ thực sự vẫn có một kẻ như thế, tự cho mình đức cao vọng trọng, tài trí siêu quần!”
Chư hầu kinh ngạc, không hẹn mà cùng đổ dồn ánh mắt về phía Ngụy Huệ Hầu. Hùng Hoè dõng dạc hỏi: “Xin hỏi Ngụy Hầu, kẻ đó là ai?”
Ngụy Huệ Hầu thu lại nụ cười, gằn mạnh từng chữ: “Tần Công Doanh Cừ Lương!”
Mọi người lại đưa mắt nhìn nhau. Hàn Chiêu Hầu khẽ chạm vào Điền Tích Cương: “Thấy chưa? Vòng vèo qua lại, cuối cùng cũng nhắc đến việc chính rồi đấy!”
Ngụy Huệ Hầu nghiêm mặt, giọng nói càng thêm gay gắt: “Hôm nay chư hầu về chầu thiên tử, thiên hạ quy tâm, vua giữ đạo vua, tôi gìn đạo tôi, có thể gọi là phúc lớn của lê dân. Duy có Tần Công ngông cuồng tự đại, đã không đích thân tới, cũng không giải thích nguyên do! Đây gọi là gì? Là xem thường thiên hạ! Là không coi thiên tử ra gì! Là dưới nghịch trên! Là trái thiên đạo luân thường!”
Ngụy Huệ Hầu quy kết một loạt tội trạng của Tần Công, giọng nói lúc một âm vang, sắc mặt lúc càng giận dữ, đây là điều mà các công hầu có mặt không thể ngờ tới. Vệ Thành Công xưa nay có tiếng nhát gan sợ việc, dường như không chịu nổi hàng loạt những lời truy vấn đầy thịnh nộ của Ngụy Hầu, hai tay run bần bật, làm đổ cả chén rượu vừa mới châm đầy, rượu bắn tung tóe.
Triệu Túc Hầu ngồi cạnh ông ta điềm tĩnh như không, đưa tay nhặt chén rượu lên, đặt ngay ngắn trên bàn. Công Tôn Diễn nhanh nhẹn bước tới, lại rót rượu vào đầy chén.
Yên Công, Lỗ Công vẫn ngồi ngay ngắn, hai mắt khép hờ, làm như không nghe thấy, không nhìn thấy. Mấy vị quân chủ nước nhỏ sắc mặt thấp thỏm nhìn Ngụy Huệ Hầu, lo sợ trận lôi đình sẽ giáng xuống đầu họ. Điền Tích Cương khinh khinh nhìn Vệ Thành Công, hừ mũi một tiếng.
Ngụy Huệ Hầu vô cùng hài lòng trước phản ứng nhanh nhạy của Vệ Thành Công, ánh mắt lập tức chiếu tới: “Xin hỏi Vệ Công, Tần Công lòng dạ khó lường, phạm phải tội lớn trong thiên hạ, nên chăng cả thiên hạ cùng tru diệt?”
Vệ Thành Công còn chưa hết bàng hoàng, nghe thấy hỏi vậy, bèn lắp bắp: “Cơ Tốc không… không… phải…”
Ngụy Huệ Hầu mỉm cười, đổi giọng ôn hoà: “Vệ Công, rốt cuộc Vệ Công muốn nói gì?”
Vệ Thành Công càng thêm hoảng hốt: “Cơ Tốc… Phải… phải…”
Ánh mắt Ngụy Huệ Hầu vô cùng mãn nguyện, rời khỏi Vệ Thành Công, từ từ quét qua những người khác, không thấy ai có phản ứng gì, ánh mắt bèn dừng lại ở Chu thiên tử: “Tần Công không coi bệ hạ ra gì, làm trái luân thường, Vệ Công cho rằng Tần Công đã phạm phải tội lớn trong thiên hạ, tội này đáng trừng phạt, bệ hạ nghĩ sao?”
Chu Hiển Vương tâm trạng đang lúc rối bời, bị hỏi thình lình, lại càng hoang mang bối rối, đưa mắt nhìn sang hai bên trái phải: “Chuyện này…”
Ngụy Huệ Hầu nghiêm mặt, ánh mắt sắc lạnh như dao: “Tần Công sớm đã sinh lòng phản phúc, khiến thần, người phẫn nộ, Vệ Công cho rằng tội này nên trừng trị, bệ hạ nghĩ sao?”
Chu Hiển Vương càng hoảng hốt, trán rịn mồ hôi, kéo vạt áo lên lau liền vài cái, lắp bắp: “Ý… ý ái khanh… thế nào?”
Ngụy Huệ Hầu giọng càng nghiêm nghị, chúi người về trước, ánh mắt xoáy vào Hiển Vương: “Ngụy Anh đang hỏi bệ hạ kia mà!”
Từ khi đăng cơ tới nay, Chu Hiển Vương chưa từng bị bề tôi truy hỏi kiểu đấy bao giờ, trong lúc cấp bách, chỉ biết ngây người, lưỡi cứng đờ trong miệng, mãi hồi lâu mới lắp bắp được vài tiếng: “Nên… nên phạt!”
Nghe thấy vậy, Ngụy Huệ Hầu dường như cuối cùng cũng nhớ ra đạo làm tôi, chậm rãi rời khỏi chỗ, sửa lại vạt áo, bước tới trước mặt Chu thiên tử, khấu bái sát đất: “Bệ hạ thánh minh! Ngụy Anh nguyện dẫn cánh quân chính nghĩa, chọn ngày lành phạt Tần, chấn chỉnh thiên đạo, tấu xin bệ hạ ân chuẩn!”
Chu Hiển Vương lại nhìn hai bên trái phải, thấy chẳng ai nói gì, đành đáp: “Vậy… vậy… cứ làm theo lời ái khanh!”
Ngụy Huệ Hầu cất giọng sang sảng: “Ngụy Anh lĩnh chỉ!” Rồi đứng dậy, lại bước tới vị trí ngang hàng thiên tử, ngồi xuống, đảo mắt một vòng, chậm rãi nói: “Chư vị công hầu, Ngụy Anh nhận lệnh thiên tử khởi binh phạt tội, trừng trị giặc Tần, mong chư vị dốc sức trợ giúp, có sức góp sức, có của góp của. Số lượng cụ thể sẽ do thượng đại phu Trần Chẩn tính toán. Ngụy Anh không rườm lời nữa, mong chư vị sau buổi đại lễ hội minh, cứ theo hẹn ước, vận chuyển lương thực, điều động binh lính, cùng chung tay tru diệt giặc Tần thất đạo!”
Chư hầu đưa mắt nhìn nhau, không ai hưởng ứng, song cũng không ai dám ho he phản đối.
Ngụy Huệ Hầu thoắt cái đã lại vui cười hớn hở: “Đêm nay hoa đẹp trăng tròn, chư vị hãy vui say thoả thích! Thượng đại phu, cho gọi đội ca vũ vào hầu!”
Trần Chẩn đắc ý đáp: “Vi thần lĩnh chỉ!”
Trần Chẩn vẫy tay, nhạc lại nổi lên, vũ công lướt vào, múa điệu “Đại Vũ” do chính Chu Công soạn ngay sau khi Vũ Vương phạt Trụ khải hoàn. Điệu múa ca ngợi sự nghiệp phạt Trụ kỳ vĩ của Vũ Vương, phàm trong nghi lễ triều bái thiên tử, đều được biểu diễn. Đây là tiết mục thường lệ, vốn không có gì đáng nói. Song vào hôm nay, lại có chút bất thường. Đó là binh lính Đại Chu cầm giáo mác trong điệu vũ lại vận trang phục màu xanh của võ binh Đại Ngụy, còn binh lính phía Thương Trụ Vương lại mặc trang phục của Tần, rõ ràng, Ngụy Huệ Hầu kiếm cớ phạt Tần là có âm mưu từ trước.
Thiên tử ban yến đột nhiên biến thành tuyên thệ phạt Tần, đây là việc không ai ngờ tới. Tuy rằng chiến hoả còn chưa lan tới, song bá khí của Ngụy Huệ Hầu đã khiến đám công hầu trong lòng bất mãn. “Đại Vũ” vốn gồm sáu khúc, vừa mới múa tới khúc thứ hai, Điền Tích Cương đã kéo Hùng Hoè rời khỏi yến tiệc trước tiên. Chư hầu khác nhìn thấy, cũng lần lượt cáo từ. Ngụy Huệ Hầu dường như sớm đã lường trước kết cục này, vô cùng khách khí ra tận cổng tiễn chư hầu, sau đó mới quay trở về hành dinh.
***
Công Tôn Diễn sau khi rời khỏi hành dinh, ba chân bốn cẳng chạy về trại tướng quốc, thuật lại chi tiết sự việc xảy ra trong yến tiệc với Bạch Khuê. Bạch Khuê vừa nghe vừa chau mày, lớn giọng kêu lên: “Đúng là hồ đồ! Chúa thượng đã tự mình hại mình rồi!”
Công Tôn Diễn vội hỏi: “Chúa công, lúc này còn cứu vãn được chăng?”
Bạch Khuê trầm ngâm hồi lâu, rồi lắc đầu than thở: “Lão hủ sớm đã lường trước sự việc sẽ tới nước này. Ba tháng trước, nghe Trần Chẩn đề ra chuyện triều kiến thiên tử ở Mạnh Tân, trong lòng ta đã thấy hoài nghi. Nào ngờ chúa thượng không những nhất nhất nghe theo mà còn quyết tâm thực hiện. Than ôi, mấy năm nay, từ lúc Trần Chẩn làm thượng đại phu, chúa thượng ngày càng nhiều mơ mộng hão huyền!”
“Người này có dụng tâm khác, chúa công nên chú ý đề phòng! Công Tôn Diễn nghe nói hắn đang rình rập vị trí của chúa công!”
Bạch Khuê cười khẩy: “Hừm, hắn muốn làm tướng quốc ư, hãy còn sớm! Đi, lão hủ muốn tới bái kiến chúa thượng!”
Trong hành dinh nước Ngụy, tỳ nhân, hoạn quan nội thị thân tín của Ngụy Huệ Hầu, giúp Huệ Hầu cởi áo cừu, vừa đỡ ông ta ngồi xuống ghế thì thượng đại phu Trần Chẩn, thượng tướng quân công tử Ngang bước vào, khấu bái sát đất.
Ngụy Hầu vẻ rất phấn khởi, đích thân đỡ hai người dậy: “Trần ái khanh, Ngang Nhi, mau đứng dậy! Quả nhân đang định cho gọi hai người!”
Hai người ngồi xuống, Trần Chẩn tâu rằng: “Vừa rồi chúa thượng khí thế như cầu vồng, uy chấn chư hầu! Chu Vương thì ngược lại, khúm na khúm núm, run rẩy sợ sệt, chẳng có lấy một chút phong độ của bậc thiên tử!”
“Than ôi!” Ngụy Huệ Hầu cố ý thở dài. “Quả nhân chẳng qua cũng chỉ là tên đã lên cung, không thể không bắn!”
“Chúa thượng, theo ý vi thần, vương khí của Đại Chu dường như đã tận rồi!”
Ngụy Huệ Hầu trầm ngâm một thoáng: “Ái khanh chớ nên nói bừa. Việc phạt Tần, chư hầu có ý kiến gì không?”
“Người Tần phạm thiên uy, chư hầu đều nói nên phạt.”
Ngụy Huệ Hầu khẽ nhếch mép cười nhạt: “Hừm, bọn chúng nào muốn phạt, chẳng qua chỉ là muốn đục nước béo cò mà thôi! Không giấu ái khanh, trong triều hội Mạnh Tân, quả nhân chỉ muốn tìm lý do để thảo phạt Tần Công, đồng thời lập nên phép tắc cho thiên hạ. Nào ngờ, còn chưa tìm lý do, Tần Công đã tự dẫn xác đến nộp.”
“Chúa thượng thánh minh! Nước Tần ngày một cường thịnh, đã trở thành mối họa tâm phúc. Hôm nay trời ban cơ hội, chúa thượng quyết đoán chóng vánh, không phải bậc minh chủ của thiên hạ thì không thể làm được như vậy!”
Ngụy Huệ Hầu gật đầu: “Đúng vậy, ái khanh nói rất phải! Tần Công dùng biến pháp của Công Tôn Ưởng, thi hành pháp luật hà khắc, nghe nói dân chúng oán hận, bách tính lầm than, quả nhân dù có bỏ qua, trời cao cũng không dung thứ!” Rồi khẽ ngoảnh đầu sang phía công tử Ngang: “Ngang nhi, nếu cho con dẫn quân thảo phạt, liệu con nắm mấy phần thắng?”
Công tử Ngang bước lên một bước: “Khởi tấu quân phụ, nhi thần chỉ cần năm vạn tinh binh, đảm bảo sẽ đạp tan cổng thành Hàm Dương, buộc Doanh Cừ Lương, Công Tôn Ưởng phải quỳ gối nhận tội!”
Ngụy Huệ Hầu hài lòng nhìn công tử Ngang: “Được lắm, không hổ danh là con trai của quả nhân!”
Tỳ nhân bước vào: “Bẩm chúa thượng, có tướng quốc cầu kiến!”
“Cho vào!”
Công Tôn Diễn bị đám lính chặn lại, đành đứng bên ngoài cửa hành dinh. Một mình Bạch Khuê vào trong trại, quỳ xuống khấu đầu: “Vi thần khấu kiến Chúa Thượng.”
Ngụy Huệ Hầu nhìn Bạch Khuê, ân cần hỏi: “Lão ái khanh! Đêm hôm khuya khoắt, khanh còn chưa nghỉ, có việc gì mà vội vàng làm vậy?”
Bạch Khuê lại khấu bái: “Vi thần nghe nói chúa thượng muốn phạt Tần, e rằng không thể!”
Ngụy Huệ Hầu kinh ngạc hỏi: “Vì sao không thể?”
“Bẩm chúa thượng, nước Tần hôm nay đã không còn là nước Tần hôm qua. Công Tôn Ưởng biến pháp mười năm, nước Tần giờ lương thực đầy kho, binh lính hùng hậu, từ lâu đã không thể xem thường. Nếu chúa thượng nhất quyết phạt Tần, ắt sẽ dẫn đến cục diện lưỡng bại câu thương!”
Công tử Ngang hừ mũi một tiếng, cắt lời Bạch Khuê: “Cái gì mà lưỡng bại câu thương? Lão tướng quốc, hãy thử tính xem, trong sáu mươi năm qua, Tần và Ngụy đã trải qua cả thảy ba mươi trận chiến lớn nhỏ, người Tần đã thắng được mấy lần? Bảy trăm dặm Hà Tây vốn là của Tần, sáu mươi năm qua, người Tần đã trụ nổi một bước ở đó chưa?”
Bạch Khuê không đếm xỉa tới công tử Ngang: “Tâu chúa thượng, xin hãy nghe lão thần một câu, chuyện phạt Tần lần này, tuyệt đối không nên!”
Ngụy Huệ Hầu hơi chau mày: “Thế theo lão ái khanh, chuyện nào mới nên?”
“Bẩm chúa thượng, nghiệp bá vương, trước hết ở gốc rễ. Gốc rễ của một nước, cai trị nhờ vào nhân tài, chính sự nhờ vào nông thương, chứ không phải ở binh lính tinh nhuệ. Ngày xưa Văn Chiêu Hầu chiêu hiền nạp sĩ, cầu từ gốc rễ, mới có thể khiến Đại Ngụy hùng bá vài chục năm ở Trung Nguyên. Thời gian biến cải, nay đã khác xưa. Nước Tề bắt đầu từ thời Tề Uy Vương Điền Nhân Tề, nỗ lực đồ trị, mau chóng lớn mạnh. Nước Tần bắt đầu từ thời Doanh Cừ Lương, biến pháp cải chế, ngày một đổi khác, chúa thượng không thể xem thường mà khinh suất!”
Ngụy Huệ Hầu thoáng giận dữ: “Có phải khanh đang muốn nói với quả nhân, quả nhân đã không bằng Tề Công, cũng không bằng Tần Công?”
Bạch Khuê dập đầu lia lịa: “Lão thần không có ý đó.”
Ngụy Huệ Hầu hừ mũi một tiếng, thủng thẳng nói: “Xem ra, lão ái khanh đã già thật rồi!”
Bạch Khuê mắt ngấn lệ: “Chúa thượng!”
Ngụy Huệ Hầu trách cứ: “Lão tướng quốc, không phải quả nhân trách mắng gì khanh. Về mặt trị quốc, trị dân, khanh đều là nhân tài, song lại không nhìn ra đại thế của thiên hạ, nói gì tới lo toan quốc sự? Xem ra, ở Mạnh Tân này, chẳng còn việc gì cho khanh làm nữa. Khanh nên tới Đại Lương tu bổ kênh lớn thì hơn. Kênh lớn có hoàn thành đúng kỳ hạn hay không, vừa liên quan tới nông, cũng liên quan tới thương, chính là ‘cầu từ gốc rễ’ mà khanh vừa nói!”
Bạch Khuê nước mắt giàn giụa, nghẹn ngào: “Chúa thượng!”
Ngụy Huệ Hầu bực bội phẩy tay: “Đi đi! Giờ Thìn ngày mai, lập tức lên đường!”
Bạch Khuê lại dập đầu, giọng trầm nặng: “Lão thần cáo lui!” Rồi nặng nề lê bước ra ngoài.
Nhìn theo bóng dáng run rẩy của Bạch Khuê khuất dần ngoài cửa hành dinh, Ngụy Huệ Hầu hừ mũi một tiếng, quay sang Trần Chẩn, công tử Ngang: “Đúng là kiến giải hủ lậu! Gốc rễ, gốc rễ? Gốc rễ là gì? Đánh đâu thắng đó, công đâu hạ đó mới là gốc rễ. Nếu không có mưu sách công phạt của Ngô Khởi(5), Nhạc Dương(6). Nếu không có võ binh, kỵ binh thiết giáp oai hùng, tiên quân sao có thể uy phục liệt quốc? Đại Ngụy sao có thể hùng bá tới ngày nay? Ngụy Ngang nghe lệnh!”
Công tử Ngang lập tức đứng bật dậy: “Có nhi thần!”
“Phong Ngụy Ngang làm Tây chinh đại tướng quân, Long Giả làm phó tướng, Ngụy Thân làm giám quân, dẫn theo mười hai vạn võ binh, năm trăm chiến xa, năm nghìn kỵ binh thiết giáp, chọn ngày tốt rời Hà Tây, thảo phạt Hàm Dương!”
“Nhi thần tuân lệnh!”
Ngụy Huệ Hầu quay sang Trần Chẩn: “Trần ái khanh!”
Trần Chẩn đứng dậy đáp: “Có vi thần!”
“Phía liệt quốc, khanh sắp xếp đến đâu rồi?”
“Hồi bẩm chúa thượng, theo vi thần thấy, hai nước Hàn, Triệu, có thể điều động mỗi nước hai vạn binh mã. Còn các nước khác, tuỳ vào tài lực cụ thể, chia nhau đảm đương việc cung ứng lương thực quân nhu cho đại quân.”
“Tốt!” Huệ Hầu gật đầu. “Liệt quốc tốt nhất chỉ nên tham gia, không được ỷ lại vào họ. Khanh hãy thông báo cho Triệu Hầu và Hàn Hầu, vào ngày Tần đầu hàng, phàm là đất đai Triệu, Hàn giành được, đều sẽ thuộc về họ! Hàn, Triệu chỉ cần xuất binh, quả nhân tuyệt đối không để họ uổng công!”
“Vi thần lĩnh chỉ! Chúa thượng thưởng phạt phân minh, thực may mắn cho thiên hạ!”
“Sắp xếp cẩn thận, thăm dò kỹ lưỡng động thái của quân thần nước Tần!”
“Vi thần tuân chỉ!”
***
Trong một thung lũng núi non trập trùng bao bọc nằm giữa dãy Chung Nam kéo dài tám trăm dặm, tọa lạc một dãy doanh trại. Đối diện với cửa doanh trại là một bãi tập rộng lớn. Đại lương tạo Công Tôn Ưởng đứng trên đài quan binh, đang chăm chú theo dõi một buổi diễn tập đặc biệt.
Thấy Hiếu Công nhất quyết không chịu tới tham gia triều hội Mạnh Tân, việc đầu tiên của Công Tôn Ưởng chính là tuần sát ba quân. Tới lúc này, Công Tôn Ưởng biến pháp đã hơn mười năm. Những năm trước chú trọng đến nước giàu, hai năm gần đây bắt đầu chú trọng tới binh mạnh, đặc biệt chọn ra năm vạn tráng đinh, lập nên một đội quân mới, phân tán trong vùng rừng sâu núi thẳm này, bí mật huấn luyện dựa theo “tân pháp cường quân” do đích thân ông biên soạn.
Trên bãi tập, một binh sĩ thân không manh giáp đang thoăn thoắt nhảy trái né phải, một tay cầm khiên, một tay cầm món vũ khí sắc nhọn có thể đâm thủng da bò mà tộc Nhung Địch phía tây thường sử dụng, đang diễn tập đánh giáp lá cà với đám binh sĩ giáp trụ cồng kềnh. Chỉ một lát sau, đám giáp sĩ đã thở hồng hộc, để lộ rất nhiều sơ hở, “thương tích” đầy mình. Trong khi binh sĩ người không manh giáp lại chẳng mảy may xây xước.
Công Tôn Ưởng xem đến ngây người, rồi hỏi lớn: “Đây gọi là chiêu pháp gì?”
Thiên phu trưởng(7) đứng cạnh ông trả lời: “Bẩm đại lương tạo, đây gọi là ‘quăng giáp bỏ trụ’, chuyên dùng để ứng phó với võ binh nước Ngụy!”
Công Tôn Ưởng gật gù: “Tốt lắm, không giáp đánh có giáp, quả là mới mẻ. Thiên phu trưởng thử nói xem, nguyên lý của nó ở đâu?”
“Võ binh nước Ngụy được trang bị tận răng, phòng bị quá dư thừa, sẽ mất đi linh hoạt. Mạt tướng đã tính kỹ càng trọng lượng mà một võ binh Đại Ngụy mang trên người, cộng tất cả cân nặng của áo giáp, khiên mâu, đao kiếm, ít nhất cũng phải trên dưới bốn mươi cân(8). Sức nặng bốn mươi cân, lại thêm áo giáp cồng kềnh bó chặt lấy mình, đã bất lợi cho bôn tập đường trường, lại bất lợi cho giao chiến vùng núi. Nếu chúng ta cởi bỏ mũ trụ, áo giáp, trang bị gọn nhẹ xung trận, lựa chọn địa hình rừng núi chơi trò ‘mèo vờn chuột’ với lính Đại Ngụy, chắc chắn sẽ có cơ thủ thắng!”
“Tốt, cách này rất hay! Thiên phu trưởng còn có pháp bảo nào khác không?”
Thiên phu trưởng bèn vỗ tay thật lớn. Ngay lập tức, một binh sĩ toàn thân giáp trụ chạy lên bãi tập, một tay cầm khiên, một tay cầm cây chùy gỗ lớn cỡ đầu người. Binh sĩ di chuyển nhanh nhẹn, giơ khiên che chắn. Chùy gỗ gõ vào khiên, phát ra những tiếng ‘boong boong’ vang trầm.
Công Tôn Ưởng nhìn một hồi, vẫn mơ hồ không hiểu, quay sang hỏi thiên phu trưởng: “Có diệu quyết gì trong đó?”
“Hồi đại lương tạo, đây gọi là lính chùy, mạt tướng chuyên dùng để ứng phó với kỵ binh thiết giáp của Ngụy.”
Công Tôn Ưởng sửng sốt: “Ồ, ứng phó thế nào?”
“Kỵ binh thiết giáp của Ngụy toàn thân mang áo giáp dày, vũ khí bình thường không thể gây tổn thương tới chúng. Mạt tướng đã thử cách này, chỉ cần nện trúng đầu ngựa, nhẹ thì khiến ngựa hoa mắt chóng mặt mà phát điên, nặng thì khiến ngựa chết lăn tại chỗ. Mất ngựa chiến, kỵ binh Ngụy chỉ còn nước giơ đầu chịu báng!”
Công Tôn Ưởng trầm ngâm hồi lâu, rồi liên tiếp gật gù: “Tuyệt lắm! Này chàng trai, ngươi tên gì?”
“Tư Mã Thác!”
“Tư Mã Thác, bắt đầu từ hôm nay, ngươi không còn là thiên phu trưởng nữa, mà là tả thứ trưởng!”
Tả thứ trưởng là chức vị do Tần Hiếu Công đích thân sắp đặt từ khi Công Tôn Ưởng bắt đầu biến pháp. Từ cấp thiên phu trưởng nhảy vọt lên tả thứ trưởng, tăng liền bốn cấp, khiến Tư Mã Thác kinh ngạc đến trố mắt, đứng sững hồi lâu mới kịp phản ứng, quỳ xuống bái lạy: “Mạt tướng tạ ơn sự cất nhắc của đại lương tạo!”
“Tả thứ trưởng đại nhân, trước hết ta giao cho ngươi hai vạn bộ binh, để ngươi đích thân huấn luyện. Có điều, cũng không thể hoàn toàn ‘quăng giáp bỏ trụ’. Ngươi hãy triệu tập thợ mộc, chế tạo ra loại áo giáp gọn nhẹ. Hãy nhớ, trên chiến trường, binh sĩ của chúng ta còn sống một người thì xác của kẻ thù sẽ tăng thêm một người!”
Tư Mã Thác dõng dạc đáp: “Mạt tướng tuân lệnh!”
“Còn nữa, loại đao của tộc Nhung không nên cứ thế mà dùng, cần phải cải tiến, để có thể đâm một nhát xuyên thấu cơ thể võ binh Đại Ngụy. Tư Mã Thác, đối thủ của ngươi chỉ có một, chính là võ binh và kỵ binh của Đại Ngụy!”
Tư Mã Thác đáp: “Mạt tướng tuân lệnh!”
“Nghe nói gần đây có một dòng suối tên gọi Hàn Tuyền, ngươi biết ở đâu không?”
Tư Mã Thác chỉ tay về một đỉnh núi ở phía nam: “Vượt qua đỉnh núi kia sẽ tới.”
“Đi! Đưa ta tới đó!”
Tư Mã Thác lập tức chọn ra vài tên lính thân tín, thay thường phục, đưa Công Tôn Ưởng tới suối Hàn Tuyền. Hai canh giờ sau, họ đã trèo qua đỉnh núi, lọt vào trong một khe núi thâm u.
Quả nhiên là một nơi tuyệt diệu! Núi biếc trùng điệp, chim hót hoa thơm, vài nếp nhà cỏ thấp thoáng dưới bóng tùng bách xanh rợp, thật thư thái lòng người. Bên cạnh nhà cỏ có vài cây cổ thụ, tuy chỉ tầm một vòng ôm, song nghe nói đã vài trăm năm tuổi.
Tư Mã Thác chỉ vào mấy gian nhà cỏ trong thung lũng phía xa, nói: “Dòng suối Hàn Tuyền chảy qua phía trước gian nhà cỏ. Nghe nói trong nhà cỏ có một ông lão kỳ lạ sinh sống, là ẩn sĩ, tên gọi Hàn Tuyền Tử!”
Công Tôn Ưởng gật đầu nói: “Biết rồi, các ngươi hãy đợi ở đây!”
Nói đoạn, Công Tôn Ưởng sải bước tiến về phía mấy gian nhà cỏ. Khi ông bước tới gần một gốc cổ thụ, từ trong nhà cỏ bước ra một một ông lão râu trắng phơ phơ. Công Tôn Ưởng tiến lên một bước, vái dài mà nói: “Xin hỏi lão trượng, nơi này phải chăng có dòng Hàn Tuyền mà dân gian vẫn thường nhắc tới?”
Ông lão râu trắng cũng vái đáp lễ, rồi chỉ về một phía, nói: “Xin khách nhân hãy xem!”
Công Tôn Ưởng nhìn theo hướng chỉ, cách khoảng trăm bước, thấy một vạt nước suối trong vắt đang ào ào tuôn chảy.
“Xin hỏi lão trượng, cớ sao lại gọi Hàn Tuyền?”
Ông lão mỉm cười, chỉ vào dòng suối mà nói: “Suối này mùa hè vẫn lạnh như băng nên mới gọi Hàn Tuyền. Thường uống nước suối này, có thể trừ bách bệnh, thọ tới ngàn năm.”
Công Tôn Ưởng cười nói: “Thảo nào lão trượng lại dựng nhà ở đây!”
Ông lão râu trắng khẽ lắc đầu: “Dựng nhà ở đây là Quan Doãn Tử, không phải lão hủ!”
“Quan Doãn Tử?” Công Tôn Ưởng vô cùng kinh ngạc. “Là người đã giữ Lão Đam tại Hàm Cốc để viết ra năm nghìn câu ‘Đạo đức’(9) đấy chăng?”
Ông lão khẽ gật đầu: “Đúng vậy! Sau khi Lão Đam cưỡi trâu xanh rời khỏi Quan Tây ba ngày, Quan Doãn Tử đột nhiên đốn ngộ mọi việc thế gian, bèn treo ấn, ruổi ngựa đuổi về tây. Tiếc là lúc đó trời đã tối mịt, không còn nhìn thấy bóng dáng Lão Đam đâu nữa. Quan Doãn Tử vô cùng hối hận, đã tìm kiếm khắp núi Chung Nam suốt nhiều năm trời, vẫn không thể tìm thấy Lão Tử. Quan Doãn Tử biết Lão Tử không muốn gặp mình, thở than không ngớt, rồi dựng nhà cỏ ở đây trú lại.”
“Nghe lão trượng nói vậy, phải chăng lão trượng là đệ tử cao tài của Quan Doãn Tử?”
Ông lão râu trắng gật đầu nói: “Cuối đời Quan Doãn Tử nhận hai đồ đệ, một là lão hủ đây, và một là sư huynh Vương Hủ. Ân sư quy tiên đã ba năm, sư huynh xuất sơn chơi tiên, chọn Quỷ Cốc ở núi Vân Mộng làm nơi cư ngụ, tự xưng là Quỷ Cốc Tử. Lão hủ không nỡ rời xa nếp nhà cỏ của tiên sư, nên lưu lại đây, được chư tiên hữu gọi là Hàn Tuyền Tử!”
Công Tôn Ưởng liền phủ phục xuống đất khấu đầu: “Hàn Tuyền Tử tiền bối, xin nhận của vãn sinh một lạy!”
Hàn Tuyền Tử vội đỡ ông dậy: “Khách nhân là bậc tôn quý, lão hủ sao dám nhận?”
Công Tôn Ưởng đứng dậy, trong lòng thoáng ngạc nhiên, thuận miệng hỏi luôn: “Vãn sinh chẳng qua chỉ là một thư sinh quèn, tiền bối dựa vào đâu mà nói là tôn quý?”
Hàn Tuyền Tử mỉm cười nói: “Nhìn khách nhân thiên đình đầy đặn, phong thái phi phàm, tuyệt không phải hạng tầm thường! Chỉ là có khí đen tích tụ ở ấn đường, hẳn trong lòng có tâm sự lớn!”
Công Tôn Ưởng kinh ngạc: “Tâm sự của vãn sinh quả không giấu nổi tuệ nhãn của tiền bối. Có điều…”
“Khách nhân theo lão hủ tới thảo đường trò chuyện được chăng?”
Công Tôn Ưởng đi theo Hàn Tuyền Tử bước vào gian nhà cỏ, nhìn thấy mấy người dáng chừng là đệ tử ngồi trên chiếu, đều đang trầm tư tĩnh tọa. Hàn Tuyền Tử dẫn ông đi qua hai gian nhà, bước vào hậu đường, hai người phân ngôi chủ khách ngồi xuống. Một đệ tử trẻ tuổi bước vào, rót trà xong bèn lui ra.
Công Tôn Ưởng sau khi xưng rõ thân phận, liền kể lại một lượt chuyện triều hội Mạnh Tân cho Hàn Tuyền Tử nghe, rồi nói:
“Ngụy Hầu mở triều hội Mạnh Tân, dụng ý là nhằm vào Tần. Vãn sinh gắng thuyết phục chúa thượng tới dự hội, song chúa thượng không nghe. Nếu đúng như dự đoán của vãn sinh, Ngụy Hầu tất sẽ thảo phạt ta trong vài ngày tới. Trước mắt, thực lực của ta tuy có thể chống cự, song muốn thắng lợi, e rằng rất khó. Nếu kết cục quả là như vậy, khác nào ngọc đá đều tan, với nước Tần là mất đi cơ hội đánh bại nước Ngụy, giành lại Hà Tây, với dân chúng là một trường kiếp nạn, bởi trận chiến xảy ra trên đất Tần. Mấy ngày qua, vãn sinh vì chuyện này mà lo lắng không yên, nghe nói nước suối nơi đây có thể giúp tỉnh táo tinh thần, vãn sinh mộ danh mà tới, nào ngờ may mắn gặp được tiền bối ở đây!”
Công Tôn Ưởng nói liền một mạch, Hàn Tuyền Tử trước sau luôn giữ nụ cười trên môi, thần sắc như nghe mà không giống nghe. Công Tôn Ưởng chợt nhận ra mình đã quá nhiều lời, vội dừng lại: “Vãn sinh bất tài, thỉnh cầu tiền bối chỉ giáo”
Hàn Tuyền Tử vẫn giữ nguyên nét cười trên mặt, quay ra ngoài gọi lớn: “Xá Nhân!”
Người đệ tử trẻ tuổi vừa rót trà khi nãy nghe gọi, vội vã bước vào, cúi gập người hướng về Hàn Tuyền Tử.
“Ngươi hãy đi hứng một chậu nước suối về đây, để giúp khách nhân tỉnh táo tinh thần!”
Xá Nhân cất bước đi ngay, một lát sau đã bưng một chậu sứ quay về, bên trong đựng lưng lửng nước suối.
Hàn Tuyền Tử chỉ vào chậu nước nói: “Đại lương tạo, hãy giúp tinh thần tỉnh táo!”
Công Tôn Ưởng ngẩn ra một thoáng, song lời đã nói ra, cũng không tiện phân trần gì thêm, bèn miễn cưỡng tiến lại, nhúng bàn tay vào chậu nước. Tay vừa chạm vào nước, quả nhiên cảm thấy một làn hơi mát lạnh thấu tận tâm can. Công Tôn Ưởng hít vào một hơi thật sâu, vốc nước vã lên đầu, xoa lên mặt, lớn tiếng xuýt xoa: “Sảng khoái! Thật sảng khoái!”
Hàn Tuyền Tử mỉm cười hỏi: “Đại lương tạo tinh thần đã tỉnh táo chưa?”
Công Tôn Ưởng cảm thấy lời nói của Hàn Tuyền Tử dường như mang ẩn ý sâu xa, suy nghĩ một lát, hỏi khẽ: “Tinh thần tỉnh táo hay không, dựa vào đâu mà biết?”
“Nếu tinh thần đã tỉnh táo, đại lương tạo tất có thể nhớ lại năm nghìn câu ‘Đạo đức’ của Lão Đam.”
Công Tôn Ưởng ngẫm nghĩ một lát, không hiểu được ý tứ, bèn ngẩng lên hỏi: “Năm nghìn câu ‘Đạo đức’, vãn sinh đã khắc cốt ghi tâm, dù không uống nước suối này, cũng có thể thuộc làu.”
Hàn Tuyền Tử vẫn mỉm cười: “Xin đại lương tạo đọc đoạn thứ ba mươi sáu!”
Công Tôn Ưởng lập tức đọc luôn: “Muốn cho buông chùng, phải giương cho căng. Muốn cho suy yếu, phải giúp mạnh thêm. Muốn cho phế bỏ, phải giúp hưng vượng. Muốn cướp đoạt lấy, hãy ban cho trước. Thế gọi là…”
Chữ “hiểu rõ” còn chưa phát ra khỏi miệng, Công Tôn Ưởng như thể bổ đề quán đỉnh, nhất thời đại ngộ, lập tức dập đầu khấu bái: “Vãn sinh tạ ơn tiền bối chỉ giáo!”
Hàn Tuyền Tử không đáp, đưa tay chỉ vào chén trà đặt trên bàn đá, cười nói: “Đại lương tạo, mời dùng trà!”
Hai người ngồi thưởng trà một lát, Công Tôn Ưởng còn bận việc, không dám nấn ná lâu, bèn cáo từ xuống núi. Vừa tới doanh trại, quả nhiên đã thấy có ngựa khoẻ chờ sẵn, nói là Tần Công triệu ông trở về Hàm Dương lập tức.
Đường núi rất khó đi, mặc dù Công Tôn Ưởng đi miết không nghỉ, nhưng mãi tới chập tối ngày hôm sau mới tới Hàm Dương. Đến trước cửa cung, Công Tôn Ưởng nhảy xuống ngựa, sải bước chạy phăm phăm lên bậc thềm. Nội thần đứng hầu bên cửa cung lập tức nghênh đón: “Đại lương tạo, mau lên, chúa thượng đợi ông trong cung Di Tình lâu lắm rồi!”
Công Tôn Ưởng khẽ gật đầu, rảo bước theo nội thần vào trong. Hai người tới cung Di Tình, nội thần vào trong bẩm báo: “Bẩm chúa thượng, đại lương tạo cầu kiến!”
Tần Hiếu Công vội nói: “Mau cho vào!”
Công Tôn Ưởng bước vào, quỳ xuống khấu bái: “Vi thần Công Tôn Ưởng khấu kiến chúa thượng!”
“Ái khanh miễn lễ!”
“Tạ ơn chúa thượng!”
Công Tôn Ưởng đứng dậy, chậm rãi tiến lại vị trí của mình, ngồi xuống, đưa mắt nhìn quanh, thấy đám đại quan như thái tử Doanh Tứ, thái phó Doanh Kiền, thượng đại phu Cảnh Giám, quốc uý Xa Anh ai nấy đều ngồi ngay ngắn, sắc mặt trầm trọng. Xem ra, họ đã chờ đợi rất lâu.
Tần Hiếu Công không ngẩng lên, nói với Công Tôn Ưởng: “Quả đúng như dự đoán của ái khanh, Ngụy Hầu đã viện cớ quả nhân không tới triều hội Mạnh Tân, chuẩn bị khởi đại binh!” Không đợi Công Tôn Ưởng tiếp lời, lại quay sang Cảnh Giám. “Cảnh ái khanh, hãy mau nói rõ tình thế!”
Thượng đại phu Cảnh Giám tiếp lời: “Theo vi thần dò la biết được, Ngụy Hầu chia quân ba lộ, trung lộ gồm mười hai vạn võ binh Đại Ngụy, năm trăm cỗ chiến xa, năm nghìn kỵ binh thiết giáp, chủ tướng là công tử Ngang, phó tướng là Long Giả. Bảy vạn võ binh của công tử Ngang xuất phát từ Hàm Cốc: năm vạn võ binh và năm nghìn kỵ binh thiết giáp của Long Giả xuất phát từ Hà Tây. Tả lộ là hai vạn quân Hàn, xuất phát từ Lạc Dương, chủ tướng là Nghi Dương lệnh Đường Thu; hữu lộ là hai vạn quân Triệu, xuất phát từ Tấn Dương, chủ tướng là Tấn Dương lệnh Triệu Báo.”
Chưa tính quân Hàn, Triệu, chỉ riêng mười hai vạn võ binh Đại Ngụy đã đủ khiến người ta nghe tin mà xanh mặt. Những người có mặt không ai thốt được câu nào, bầu không khí vô cùng trầm trọng.
Tần Hiếu Công chậm rãi ngẩng lên: “Chư vị ái khanh, các khanh có kế sách nào đẩy lui quân địch chăng?”
Doanh Kiền nện nắm đấm đánh “thình” xuống bàn, giận dữ rít lên: “Quân chó Ngụy, mối nhục Hà Tây còn chưa rửa được, hôm nay lại bức bách đến tận cửa, chẳng phải coi người Tần ta là phường vô dụng ư?”
Doanh Tứ lại càng căm phẫn sục sôi, đứng phắt dậy: “Công phụ, nhi thần bất tài, xin dẫn một vạn tử sĩ đi trước quyết chiến với địch!”
Tần Hiếu Công lừ mắt nhìn Doanh Tứ, Doanh Tứ thở phì phì ngồi phịch xuống.
Tần Hiếu Công từ từ di chuyển ánh mắt sang quốc uý: “Xa tướng quân thấy thế nào?”
Xa Anh vòng tay tâu: “Nước tới đất chặn, binh tới tướng đỡ. Ngụy Hầu tuy khởi ba lộ đại quân, song hai nước Hàn, Triệu chưa chắc đã thật lòng xuất binh, chúng ta chỉ cần ứng phó với trung lộ, hẳn có cơ hội thắng lợi!”
Hiếu Công khẽ gật đầu: “Được, nói tiếp đi!”
“Võ binh Đại Ngụy trang bị ưu việt, khí thế dũng mãnh, giỏi dã chiến, giao chiến trực diện sẽ bất lợi với ta. Song người Ngụy đi xa khỏi biên giới, lương thảo cung ứng khó khăn. Ngược lại chúng ta kho lẫm dồi dào, ý chí sục sôi, chỉ cần kiên trì giữ thành, không tới ba năm, có thể khiến người Ngụy suy kiệt!”
Hiếu Công nhìn sang Cảnh Giám: “Ý Cảnh ái khanh thế nào?”
Cảnh Giám đáp: “Vi thần tán thành biện pháp của Xa tướng quân. Chỉ còn cách cố thủ các thành. Lính dã chiến của ta không đủ tám vạn, hơn nữa về kinh nghiệm và trang bị, đều thua xa võ binh Đại Ngụy, do vậy không thể liều lĩnh giao chiến. Trước mắt địch mạnh ta yếu, nếu ta dùng kế vườn không nhà trống, cố thủ thành trì, vờn nhau với địch, có lẽ sẽ đẩy lui được quân Ngụy!”
Sắc mặt Hiếu Công hơi giãn ra chút ít, đôi mắt mở tròn, đằng hắng thật mạnh, cất giọng uy nghiêm: “Chư vị ái khanh, quả nhân dốc sức lo toan việc nước đã mười năm, là vì cái gì? Vì một điều duy nhất: rửa mối nhục Hà Tây! Sáu mươi năm trước, người Ngụy chiếm đoạt Hà Tây của ta, bắt bớ thần dân của ta, ức hiếp ta tới tận ngày nay! Sáu mươi năm là thế nào? Là một vòng Giáp Tý! Là một luân hồi! Sáu mươi năm đã là quá đủ, quả nhân thực sự không thể nhẫn nhịn thêm được nữa!”
Bốn người Doanh Kiền, Doanh Tứ, Xa Anh, Cảnh Giám đều đồng thanh nói: “Chúa thượng, chúng thần thề chết chiến đấu với quân Ngụy, thu phục Hà Tây!”
Tần Hiếu Công phẩy tay: “Chư vị ái khanh, quả nhân quyết định, dốc toàn lực nước Tần, quyết chiến với Ngụy một phen!”
Hơn chục năm qua, đây có lẽ là lần đầu tiên Tần Công đưa ra một quyết định dứt khoát và nhanh chóng đến vậy trước việc trọng đại. Trên đường từ núi Chung Nam trở về, kỳ thực Công Tôn Ưởng đã tính toán đến kế sách phòng ngự, song Tần Hiếu Công lại chưa hỏi ý kiến của ông, rõ ràng cho rằng thời cơ quyết chiến với Ngụy đã chín muồi. Mà đây cũng chính là mối lo âu của Công Tôn Ưởng. Đại địch trước mặt, quân chủ nôn nóng, ắt quốc thế lâm nguy.
Công Tôn Ưởng vốn từ đầu tới cuối chưa nói câu nào, lúc này hai mắt đang khép hờ bất chợt mở choàng, ngẩng đầu nhìn Tần Hiếu Công, khẽ gọi: “Chúa thượng!”
Hiếu Công dường như lúc này mới sực nhớ tới Công Tôn Ưởng, liền liếc nhìn sang, cất giọng kiên định: “Ái khanh bất tất phải nhiều lời! Lần trước quả nhân vì giận dữ nhất thời, không nghe lời ái khanh, đúng là đã phải hối hận. Song ái khanh cũng nên biết rằng, dù quả nhân có tới Mạnh Tân, Ngụy Hầu cũng không dễ dàng bỏ qua cho quả nhân. Thế Tần, Ngụy như nước với lửa, ngươi không chết thì ta phải chết, sớm muộn cũng phải quyết chiến một phen! Bảy trăm dặm Hà Tây vốn do tiên tổ Mục Công đích thân đao thương chinh phạt mà có được, sáu mươi năm trước lại bị quy về đất Ngụy, người Tần vẫn xem đây là quốc nhục. Quả nhân dốc sức vì nước đã mười năm, mục đích chính là rửa mối đại nhục này. Vào ngày đăng cơ, quả nhân đã thề rằng, Hà Tây chưa được thu hồi một ngày, thì quả nhân không nhắm mắt một ngày!” Rồi quay sang Xa Anh. “Xa tướng quân, bài bố thế nào, quả nhân giao cả cho khanh. Sức người, sức của cần bao nhiêu, quả nhân sẽ ban đầy đủ. Còn các vị ái khanh khác, thái phó phụ trách lương thảo, thượng đại phu phụ trách bang giao, thái tử phụ trách binh lính, đại lương tạo…”
Tần Hiếu Công chợt khựng lại, ngạc nhiên nhìn sững vào Công Tôn Ưởng. Công Tôn Ưởng chậm rãi đứng dậy, rời khỏi chỗ ngồi, đi thẳng tới trước mặt Tần Công, dập đầu sát đất, giọng nói tuy khẽ, song rất trầm trọng: “Đại lương tạo khẩn cầu chúa thượng thu hồi mệnh lệnh!”
Hiếu Công kinh ngạc: “Công Tôn ái khanh?”
Công Tôn Ưởng kiên quyết: “Chúa thượng, vi thần cho rằng, trước mắt chúng ta không thể quyết chiến với Ngụy!”
Thấy Công Tôn Ưởng ngăn cản quyết liệt, suốt bao năm qua chưa thấy ông thẳng thừng như vậy bao giờ, quần thần thảy đều sửng sốt.
Hiếu Công trầm ngâm một lát, chậm rãi hỏi: “Theo ý ái khanh, quả nhân nên làm thế nào?”
Công Tôn Ưởng nhấn mạnh từng chữ: “Cúi đầu cầu hoà!”
Công Tôn Ưởng vừa dứt lời, quần thần lập tức nhao nhao phản đối. Doanh Tứ hoả khí đùng đùng, cao giọng chất vấn: “Đại lương tạo, đứng trước cường địch, ông chưa đánh đã hàng là có ý gì?”
Doanh Tứ vừa dứt lời, Doanh Kiền bèn hừ mũi: “Hừm, có ý đồ gì đừng có hỏi hắn, đôi mắt già này sớm đã nhìn thấu tỏ! Hễ chuyện nào cần khua môi múa mép đấu đá mưu mẹo, kẻ này chẳng ai bì kịp. Song hễ bàn tới xông pha trận mạc, đao kiếm giao tranh, là hắn nhũn như chi chi!”
Cảnh Giám sắc mặt lộ vẻ bất bình, đang định lên tiếng thì Công Tôn Ưởng đã thủng thẳng cất lời: “Điện hạ và thái phó chớ vội tức giận, xin hãy nghe Ưởng giải thích!”
Doanh Kiền ngoảnh đầu sang hướng khác, lộ vẻ khinh thường: “Đồ hèn nhát, còn có lời gì để nói?”
Công Tôn Ưởng chẳng buồn để tâm, chỉ nhìn Hiếu Công: “Trước đây binh gia Tôn Vũ Tử có câu rằng, ‘người biết lúc nào nên chiến và lúc nào không nên chiến mới có thể chiến thắng’. Hai bên giao tranh, bên thủ cần giữ cho vững, bên công cần đánh cho mạnh!” Rồi chậm rãi nhìn sang Xa Anh: “Trong tình thế trước mắt, ngoài con sông Lạc Thuỷ chỗ nào cũng có thể băng qua, chúng ta hầu như không có địa hình hiểm trở nào để cố thủ. Xin hỏi Xa tướng quân, cố thủ trong suốt ba năm, liệu chúng ta nắm chắc được mấy phần?”
Việc này, dường như chưa có ai tính đến.
Xa Anh ngần ngừ: “Khoảng năm, sáu phần!”
Công Tôn Ưởng gặng hỏi: “Xa tướng quân, là năm phần hay sáu phần?”
Xa Anh ngẫm nghĩ một lát, ấp úng nói: “Năm phần!”
Công Tôn Ưởng lại nhìn sang Hiếu Công: “Chúa thượng, trước một trận chiến chỉ nắm chắc năm phần thắng, như vậy mà cũng có thể khai chiến ư?”
Nghe Công Tôn Ưởng hỏi vậy, Tần Hiếu Công cũng bắt đầu bình tĩnh lại, đôi mày chau tít, trầm ngâm suy nghĩ.
Công Tôn Ưởng tiếp tục nói: “Biết rõ không thể đánh, mà cứ khăng khăng đánh, là cái dũng của kẻ thất phu, là tự chuốc bại vong! Chúa thượng, đại trượng phu sống ở trên đời, biết cương biết nhu mới có thể trường tồn. Năm xưa Câu Tiễn nếm mật nằm gai, mới phục hưng cơ nghiệp…”
Doanh Kiền cười khẩy một tiếng: “Công Tôn Ưởng, ngươi chỉ nhớ được nếm mật nằm gai, song quên mất trước khi nếm mật nằm gai, Câu Tiễn đã quyết chiến một trận!”
Công Tôn Ưởng quay sang Doanh Kiền, mỉm cười, hỏi lại: “Lẽ nào thái phó thực sự cho rằng Ngụy Anh chỉ là hạng Phù Sai?”
Doanh Kiền cứng họng. Tần Hiếu Công càng chau tít đôi mày, một lát sau nói khẽ tới mức gần như không thành tiếng: “Chư vị ái khanh, chuyện đối phó với quân địch, để mai bàn tiếp!”
Đêm xuống, trong điện Dưỡng Tâm, tẩm cung của Hiếu Công, Hiếu Công không có vẻ gì muốn ngủ, nhăn trán nhíu mày, liên tục đi đi lại lại. Một lát sau, từ bên ngoài cửa vọng lại tiếng bước chân. Nội thần bước vào, quỳ xuống bẩm báo: “Muôn tâu chúa thượng, những thứ chúa thượng cần đều đã chuẩn bị xong!”
Nội thần vỗ tay, lập tức hai hoạn quan mỗi người bê theo một bó rơm và một cung nữ bưng khay đồng đựng túi mật theo nhau bước vào.
Nội thần đứng dậy, dẫn họ tới góc tường, chỉ vào khoảng nền gạch lạnh, nói: “Rải ở đây!”
Hai hoạn quan rải rơm xong, nội thần xem xét một hồi, đích thân treo túi mật lên.
Mọi việc xong xuôi, nội thần cho ba người lui ra, bẩm báo với Hiếu Công: “Muôn tâu chúa thượng, mọi thứ đã sắp xếp xong xuôi. Rơm này là rơm phương nam, túi mật này là mật của loài trâu nước đắng nhất phương nam, đến cả dây treo mật và vị trí treo mật cũng không sai một ly so với ghi chép trong sử nước Việt.”
Hiếu Công phẩy tay, nội thần bèn lui ra.
Hiếu Công thử nằm lên lớp rơm, hai mắt nhìn vào túi mật treo lủng lẳng trên đầu. Do dự một lát, ông từ từ kéo túi mật lại gần, để bên miệng, rồi nhắm mắt lại, thè lưỡi ra, đưa về phía túi mật.
Đầu lưỡi vừa chạm vào túi mật, Hiếu Công đã nhảy bật khỏi đống rơm, hét toáng lên: “Người đâu!”
Nội thần hối hả chạy vào.
Tần Công mặt nhăn như bị, luôn miệng kêu: “Nước! Nước! Nước!”
Nội thần như đã chuẩn bị từ trước, khẽ vỗ tay một cái, cung nữ đứng hầu sẵn bên cửa tay bưng khay lật đật chạy vào, trên khay đặt bát nước và đĩa đường đen. Hiếu Công cầm bát nước lên, súc liền vài ngụm, lại xúc một thìa đường đổ vào trong miệng, mới thấy đỡ hơn một chút.
Nội thần chỉ vào đám rơm và túi mật: “Chúa thượng, hay là để lão nô thu dọn những thứ này đi!”
Hiếu Công xua tay nói: “Cứ để đấy!”
Tối đó, Hiếu Công không tài nào chợp mắt, chỉ nhìn chong chong vào túi mật. Cung Tần thiết triều vào ngày lẻ, hôm sau là ngày chẵn, không phải lên triều. Trời vừa rạng sáng, Hiếu Công rửa mặt chải đầu qua loa, không kịp ăn uống, lập tức sai nội thần chuẩn bị kiệu đến phủ đại lương tạo.
Công Tôn Ưởng bình thường quen dậy sớm, hôm nay còn dậy sớm hơn, bởi cũng không ngủ được, chỉ canh cánh suy nghĩ phải làm thế nào mới khiến Hiếu Công đổi ý.
Khi Tần Hiếu Công giá lâm, Công Tôn Ưởng đang múa kiếm trong sân. Thanh bảo kiếm trong tay lên xuống loang loáng, dệt thành một vạt hào quang. Tần Công đứng xem một lúc, buột miệng thốt lên: “Kiếm pháp tuyệt diệu!”
Nghe thấy tiếng nói, Công Tôn Ưởng vội dừng lại, thấy là Hiếu Công, ngạc nhiên sửng sốt, lập tức quăng kiếm xuống đất khấu đầu hô: “Vi thần khấu kiến chúa thượng!”
Tần Hiếu Công vội bước đến, đỡ ông dậy, nói: “Ái khanh mau bình thân!”
Hai người bước vào trong phủ, phân ngôi chủ thứ ngồi xuống. Hiếu Công nhìn Công Tôn Ưởng chậm rãi nói: “Ái khanh, tối qua quả nhân đã nếm thử rồi!”
Công Tôn Ưởng ngơ ngác không hiểu, ngạc nhiên hỏi lại: “Nếm thử gì kia?”
Tần Hiếu Công mỉm cười: “Chính là thứ Việt Vương Câu Tiễn đã từng nếm.”
Công Tôn Ưởng bỗng chốc xúc động dâng trào, liền hỏi: “Mùi vị thế nào?”
Tần Hiếu Công vẫn mỉm cười: “Từ tối tới nửa đêm đắng không tả xiết, từ nửa đêm về sáng dần dần cảm nhận được vị ngọt trong đắng!”
Công Tôn Ưởng nhìn Hiếu Công chăm chú, biết rằng chủ ý của Hiếu Công đã thay đổi, trong lòng mừng rỡ, thuận miệng nói tiếp: “Chúa thượng, vị ngọt sau đắng mới là vị ngọt thực sự!”
Tần Hiếu Công thu lại nét cười, giọng nói trầm nặng: “Ái khanh, quả nhân nằm trên đống rơm khô, suốt đêm không ngủ, hai mắt chong chong nhìn túi mật, bên tai văng vẳng lời nói của ái khanh. Tới khi trời sáng, quả nhân cuối cùng cũng đã hiểu ra. Đúng vậy, bây giờ nhìn lại mới thấy Câu Tiễn quả thực rất may mắn, bởi Phù Sai đã cho ông ta cơ hội để nếm mật nằm gai!”
Giọng Công Tôn Ưởng đầy cảm kích: “Linh dương lùi lại là để chuẩn bị bật nhảy. Câu Tiễn nếm mật là để tiêu diệt Phù Sai! Chúa thượng, cục thế hiện tại, tiến một bước, tất đá ngọc đều vỡ! Lùi một bước, sẽ xoay chuyển càn khôn!”
Tần Hiếu Công mở to mắt: “Khanh nói xoay chuyển càn khôn?”
“Đúng vậy!” Công Tôn Ưởng trịnh trọng gật đầu. “Vi thần dám hỏi chúa thượng, nước Tần nỗ lực trị quốc suốt chục năm qua, lẽ nào chỉ là vì rửa mối nhục Hà Tây?”
Tần Hiếu Công cúi đầu suy nghĩ, một lát sau mới ngẩng lên nhìn Công Tôn Ưởng: “Quả nhân muốn nghe cao kiến của ái khanh!”
“Chúa thượng, biến pháp mười năm, nước ta đã có phép tắc, dân ta sức lực dồi dào, kho lẫm có lương thực tích luỹ, binh sĩ có ý chí chiến đấu. Nếu thực sự khai chiến với người Ngụy, giống như Xa tướng quân nói, ta có lẽ cũng có cơ thủ thắng, chưa hẳn đã bại. Nếu chúa thượng chỉ muốn hả dạ một chốc, thì ta vẫn có thể đánh một trận, song ai thắng ai thua, vi thần thực sự không thể nói trước. Nếu chúa thượng muốn mưu tính lâu dài, vi thần cho rằng nhất thiết chưa thể đánh ngay. Song một khi đã đánh, thần muốn một trận toàn thắng, quét sạch quân Ngụy ra khỏi Hà Tây!”
Tần Hiếu Công khẽ gật đầu.
Công Tôn Ưởng dõng dạc nói tiếp: “Chúa thượng! Chỉ cần chúng ta giữ chặt Hà Thuỷ hiểm trở, phía đông lấy được hai ải Hào, Hàm, phía nam chiếm lấy Vũ Quan, sẽ trở thành đất nước bốn bề phong kín, tiến có thể uy hiếp Sơn Đông, chấn động liệt quốc, lùi có thể dựa vào địa hình hiểm trở mà cố thủ, an nhiên vô ưu.”
Tần Hiếu Công khẽ thở dài: “Lời ái khanh nói, chính là điều quả nhân vẫn thường mơ thấy!”
Công Tôn Ưởng mỉm cười nói: “Chỉ cần lúc này chúa thượng lùi lại một bước, tất cả những điều đó sẽ không còn là giấc mơ nữa!”
Ánh mắt Tần Hiếu Công lộ rõ vẻ kinh ngạc.
Công Tôn Ưởng sắc mặt kiên định: “Vi thần tin chắc, chưa tới ba năm, không những có thể rửa được mối nhục Hà Tây, giành lại Hà Tây, chiếm được sông trời Hà Thuỷ, mà cán cân mạnh yếu giữa Tần Ngụy cũng đảo chiều, chìm hay nổi, đều do chúa thượng định đoạt!”
Vẻ mặt Tần Hiếu Công chuyển từ kinh ngạc sang hoài nghi, rồi khẽ lắc đầu, cười gượng mà rằng: “Ái khanh chớ nên an ủi quả nhân, đã quyết định cúi đầu cầu hoà thì chúng ta hãy cứ cúi đầu cầu hoà đi thôi! Quả nhân đã hiểu, người biết cúi đầu mới là anh hùng thực sự, song hiện tại quả nhân vẫn còn một khúc mắc…”
“Vi thần xin nghe!”
“Ngụy Anh mưu tính đã lâu, quyết ý thảo phạt ta, hôm nay chính là tên đã lên cung không thể không bắn. Giờ đây dù quả nhân có muốn cúi đầu, e rằng hắn cũng không chấp nhận!”
Công Tôn Ưởng mỉm cười nói: “Chúa thượng yên tâm, chỉ cần vi thần đích thân đi sứ, tặng nhiều lễ vật hậu hĩnh, ông ta sẽ không từ chối!”
Tần Hiếu Công vô cùng kinh ngạc, nhìn Công Tôn Ưởng nửa tin nửa ngờ. Hồi lâu, bèn lắc đầu dứt khoát: “Ai đi cũng được, riêng ái khanh không thể đi!”
Công Tôn Ưởng từ từ thu nét cười lại: “Chúa thượng?”
Tần Hiếu Công chậm rãi nói: “Ái khanh còn nhớ chuyện năm xưa chăng? Năm đó tể tướng Ngụy là Công Thúc Toạ cực lực khuyên Ngụy Anh giết ái khanh. Ngụy Anh không giết khanh, nghe nói vẫn hối hận tới tận hôm nay. Giờ nếu ái khanh một thân một mình tới Ngụy, khác nào chim tự lao đầu vào lưới? Hơn nữa, bên cạnh quả nhân không thể một ngày thiếu khanh!”
“Chúa thượng yên tâm! Năm xưa Ngụy Anh không giết vi thần, ngày nay sẽ càng không giết. Hơn nữa, vi thần cũng không phải đi sứ một mình. Không giấu chúa thượng, vi thần sớm đã chọn ra trợ thủ. Chỉ cần có người này, việc lớn ắt thành.”
Tần Hiếu Công vô cùng ngạc nhiên: “Trợ thủ? Là ai?”
“Thượng đại phu nước Ngụy, Trần Chẩn!”
Tần Hiếu Công lắc đầu quầy quậy: “Nước Ngụy thực quyền nằm cả trong tay Bạch Khuê, Trần Chẩn chẳng qua chỉ là một tên thượng đại phu hữu danh vô thực, đến tước khanh còn chưa tới, làm sao có thể làm nên việc lớn?”
Công Tôn Ưởng mỉm cười đáp: “Chúa thượng, kẻ này tước vị không cao, song tham vọng lại lớn, sớm đã rình rập ngôi vị tướng quốc của Bạch Khuê, còn tước khanh, hắn vốn không thèm đếm xỉa tới. Hơn nữa, kẻ này rất dễ tham lợi mờ mắt, chỉ cần nhìn thấy danh lợi, sẽ chẳng còn phân biệt được trắng đen phải trái.”
“Ý ái khanh là, người này là một tên tiểu nhân vụ lợi?”
“Tiểu nhân hùng hổ, đẩy đổ đỉnh lớn!”
Tần Hiếu Công thấy Công Tôn Ưởng nói nghe có lý, đành phải gật đầu: “Ái khanh đã nhất quyết muốn đi, quả nhân sẽ không nói thêm gì nữa. Song nước Ngụy không như nước Tần, quả nhân dù muốn giúp khanh, cũng là lực bất tòng tâm!”
“Chúa thượng yên tâm, vi thần tự biết bảo vệ mình!”
Tần Hiếu Công quay sang nội thần: “Trong kho còn bao nhiêu vàng bạc châu báu?”
Nội thần đáp: “Khởi bẩm chúa thượng, vàng bạc châu báu trong kho đã dùng để đặt mua chiến mã của tộc Tây Nhung và thép thô của nước Hàn, còn lại chẳng bao nhiêu!”
Tần Hiếu Công thoáng chau mày: “Quả nhân muốn hỏi còn bao nhiêu?”
Nội thần do dự một lát: “Còn lại trăm dật(10) vàng, hai vạn bạc, ba hòm kỳ trân dị bảo các loại, đều là do lão nô giữ lại phòng khi chúa thượng có việc gấp cần dùng!”
“Quả nhân chỉ cần dùng chỗ bạc đó thôi. Vàng và châu báu, còn lại bao nhiêu đưa hết cho đại lương tạo!”
“Lão nô tuân chỉ!”
Tần Hiếu Công quay sang nói với Công Tôn Ưởng: “Khanh hãy chọn lấy một người khôn ngoan lanh lợi làm phó sứ. Khanh thử xem, ai thích hợp?”
“Ngũ đại phu Sư Lý Tật!”
Tần Hiếu Công suy nghĩ một lát, gật đầu nói: “Cho hắn đi!”
Sự việc không thể chậm trễ, Công Tôn Ưởng lập tức cấp tập chuẩn bị, tới khi trời tối, mọi thứ đã sẵn sàng. Tảng sáng hôm sau, đoàn xe đi sứ sang Ngụy của Công Tôn Ưởng đã rầm rập rời khỏi phủ đại lương tạo, lao về phía cổng thành đông.
Song Công Tôn Ưởng hoàn toàn không ngờ, bên dưới cổng thành, có một người đang đứng đợi trong ánh ban mai, chính là Tần Hiếu Công. Phía sau ông còn có các trọng thần đầu triều như thái tử Doanh Tứ, thái phó Doanh Kiền, thượng đại phu Cảnh Giám, quốc uý Xa Anh. Hiển nhiên là họ đã đứng đó đợi sẵn từ sớm.
Công Tôn Ưởng hô dừng xe, bước lên phía trước vài bước, vội vã cùng phó sứ Sư Lý Tật dập đầu khấu bái. Tần Hiếu Công đích thân đỡ hai người dậy. Hai người đưa mắt nhìn nhau, rồi Công Tôn Ưởng vòng tay nói: “Chúa thượng xin dừng bước, vi thần cáo từ!”
Tần Hiếu Công nắm tay Công Tôn Ưởng: “Công Tôn ái khanh, quả nhân không biết phải nói gì thêm. Lần này đi sứ, ái khanh dùng sức một người chống lại quân đội một nước, vận mệnh tương lai của nước Tần hoàn toàn đặt trên vai ái khanh đó!”
Công Tôn Ưởng dõng dạc: “Vi thần thề chết làm tròn sứ mệnh!”
Tần Hiếu Công phẩy tay, nội thần bèn từ trên xe bê xuống một hòm lễ vật vô cùng tinh xảo đặt trước mặt Công Tôn Ưởng. Công Tôn Ưởng ngạc nhiên nhìn hòm lễ vật, rồi đưa ánh mắt dò hỏi hướng vào Hiếu Công. Hiếu Công đưa mắt cho nội thần, nội thần lập tức mở hòm, bên trong đựng đầy các món trang sức rực rỡ đủ màu.
Hiếu Công chỉ tay vào hòm lễ vật, chậm rãi nói: “Ái khanh! Chút đồ tế nhuyễn này, tối qua quả nhân mới gom được từ chỗ các phu nhân, phi tần và công chúa, khanh hãy mang theo! Quả nhân chỉ có thể giúp khanh được đến thế!”
Những người có mặt nghe thấy lời này đều cúi gục đầu, đưa tay áo che mặt mà khóc.
Công Tôn Ưởng lại quỳ sụp xuống, dập đầu liền ba cái, rồi đóng hòm lại, đứng vụt dậy, quay sang Sư Lý Tật, hô khẽ: “Khởi hành!”
Công Tôn Ưởng rời khỏi Hàm Dương, tiến thẳng về phía đông. Vừa qua Lạc Thuỷ, đoàn người lập tức cảm thấy bầu không khí có vẻ khác thường. Trạm gác dọc đường nhiều hơn hẳn bình thường, tra xét cũng gắt gao hơn. Thấy các chữ “Sứ Tần”, “Công Tôn” trên cờ hiệu, người đi đường ai nấy đều nhìn đoàn xe đi sứ bằng con mắt hiếu kỳ, thậm chí thù địch. Điều này khiến họ vô cùng thấp thỏm, suốt dọc đường đi không ai nói lấy một câu.
Công Tôn Ưởng thì khác, không những không cảm thấy lo âu, mà ngược lại, cứ như đã biến thành một người khác, càng đi càng phấn chấn. Vừa qua biên giới nước Ngụy, chốc chốc ông lại kéo toang rèm cửa xe, ánh mắt sáng rực bao quát toàn bộ khung cảnh bên ngoài ô cửa. Khi sắp tới Âm Tấn, một trọng trấn của Hà Tây, Công Tôn Ưởng còn thò hẳn đầu ra ngoài cửa sổ, vừa nhìn thành luỹ phía xa, vừa gật đầu khe khẽ, dường như đang tính toán điều gì.
Phó sứ đi sau xe tưởng Công Tôn Ưởng muốn gọi, bèn thúc ngựa áp lại, lên tiếng hỏi: “Đại lương tạo có gì sai bảo?”
Công Tôn Ưởng thần thái ung dung, chỉ ra phía ngoài: “Sư Lý Tật, có biết đây là nơi nào không?”
“Bẩm đại lương tạo, chúng ta đã vào biên giới nước Ngụy, đây là Âm Tấn thuộc Hà Tây!”
Công Tôn Ưởng không nói gì nữa, vẫn nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ. Chợt trông thấy một cỗ xe bò chở đầy lương thực dừng ở vệ đường, bên cạnh có một ông lão mặc áo đen và một gã trai mặc áo lam đang ngồi nghỉ chân, Công Tôn Ưởng liền hô dừng xe, nhảy xuống, bước tới trước mặt ông lão vòng tay vái dài mà hỏi: “Xin hỏi lão trượng, lão phải chăng là người Tần?”
Ông lão đưa mắt dò xét, lại ngẩng đầu nhìn lá cờ, thấy bên trên có chữ “Tần”, bèn đứng dậy đáp lễ, khẽ gật đầu.
Công Tôn Ưởng chỉ vào lương thực trên xe hỏi: “Lão trượng, lão định mang xe lương thực này đi đâu?”
Ông lão còn chưa kịp nói gì, gã trai bên cạnh đã đáp: “Là đưa quân lương, chúa thượng sắp khởi binh chinh phạt!”
Công Tôn Ưởng nhìn gã trai trẻ, cố ý than thở: “Thiên hạ chưa thái bình nổi mấy năm, chúa thượng nhà cậu lại muốn chinh phạt nước nào vậy?”
Chàng trai trẻ ngước mắt nhìn lá cờ, tiến sát về phía Công Tôn Ưởng, nói khẽ: “Ông là người Tần! Trông ông không giống người xấu, tôi nói cho ông biết, chúa thượng sắp chinh phạt nước Tần các ông đấy, ông nên cẩn thận thì hơn. Chớ nên sống trong thành, tốt nhất hãy chuyển vào trong núi!”
Công Tôn Ưởng bật cười vài tiếng, quay sang ông lão: “Xin hỏi lão trượng, nơi này là đất gì?”
Vẫn chưa để ông lão kịp trả lời, gã trai lại lanh chanh đáp: “Đây là Âm Tấn!”
Ông lão ho khẽ một tiếng, lừ mắt nhìn gã, rồi chậm rãi nói: “Hồi bẩm quan nhân, sáu mươi năm trước, chúng tôi gọi vùng này là Ninh Tần!”
Công Tôn Ưởng cung kính cúi gập người trước ông lão, sau đó quay trở về xe, vừa đi vừa nói với Sư Lý Tật: “Phó sứ đã nghe rõ rồi chứ? Lão trượng nói, vùng đất này không phải là Âm Tấn mà là Ninh Tần!”
Sư Lý Tật thân là người Tần, đương nhiên có biết đến cái tên này, liền gật đầu nói: “Đúng vậy! Thuở nhỏ từng nghe cha nói, nơi đây trước gọi là Ninh Tần!”
Công Tôn Ưởng giọng quả quyết: “Sáu mươi năm trước, vùng đất này tên gọi Ninh Tần. Không tới vài năm nữa, nó lại sẽ được gọi là Ninh Tấn!”
Sư Lý Tật chớp mắt một cái, sực hiểu ra: “Ý đại lương tạo là chúng ta phải thu lại Hà…” Bỗng nhận ra mình lỡ lời, vội im bặt, liếc nhìn xung quanh.
Công Tôn Ưởng mỉm cười, nhảy lên xe, cỗ xe lại từ từ lăn bánh.
***
Cung thành nước Ngụy tọa lạc ở vị trí hơi lệch về phía bắc so với trung tâm thành An Ấp, được dày công xây dựng suốt ba đời quân chủ Văn Hầu, Võ Hầu và Huệ Hầu, trông rất mực huy hoàng lộng lẫy, rất tương xứng với quốc thế bừng bừng lớn mạnh của nước Ngụy hiện tại.
Trên bãi cỏ xanh trong hậu hoa viên cung Ngụy, Ngụy Huệ Hầu đang chân lướt như bay, thanh bảo kiếm trên tay vùn vụt xé gió, múa lên loang loáng. Tỳ nhân nơm nớp đứng hầu bên cạnh, ánh mắt di chuyển theo đường kiếm của Ngụy Huệ Hầu. Bảo kiếm của Ngụy Huệ Hầu càng múa càng nhanh, ánh mắt của tỳ nhân dường như không thể theo kịp đường kiếm, bèn đưa tay lên dụi mắt vài cái. Ngụy Huệ Hầu chợt dừng lại, thu thế rất đẹp mắt, rồi thu kiếm về.
Tỳ nhân lại dụi mắt: “Muôn tâu chúa thượng, hôm nay chúa thượng múa kiếm còn nhanh hơn hôm qua, lão nô nhìn mà hoa cả mắt.”
Ngụy Huệ Hầu cười ha hả, tra kiếm vào bao, sắc mặt bí hiểm: “Lại đây, quả nhân nói cho ngươi biết một bí mật!”
Tỳ nhân có vẻ sợ sệt, vội ghé sát tai lại.
Ngụy Hầu im lặng một lát rồi nói: “Nếu ngươi chỉ nhìn thấy kiếm quang, không thấy quả nhân, thì ba quân đã đến lúc xuất chinh rồi!”
Tỳ nhân lắp bắp: “Nhưng… vừa rồi lão nô đã không nhìn thấy chúa thượng!”
Ngụy Huệ Hầu sững lại một thoáng, rồi lại cười: “Vậy sao? Thế thì ba quân nên xuất chinh rồi!”
“Chúa thượng, thật vừa khéo! Long tướng quân mới từ Hà Tây trở về, đang ở điện phụ cầu kiến!”
Ngụy Huệ Hầu vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, vội nói: “Mau truyền tới thư phòng yết kiến!”
Tỳ nhân tuân lệnh, bước ra ngoài truyền chỉ. Hai nội thị đứng hầu bên cạnh liền tiến lại thay y phục cho Huệ Hầu. Huệ Hầu đi về ngự thư phòng, vừa ngồi xuống, tỳ nhân đã dẫn quận thú(11) Hà Tây Long Giả bước vào đến sân. Nghe tiếng chân bước, Ngụy Huệ Hầu vội đứng dậy ra tận cửa nghênh đón.
Long Giả nhìn thấy Huệ Hầu ra sân đón, lập tức dập đầu khấu bái, miệng hô: “Mạt tướng Long Giả khấu kiến chúa thượng!”
Ngụy Huệ Hầu rảo bước lại, đỡ Long Giả dậy, đưa ánh mắt thân thiết nhìn ông ta một lượt, chậm rãi nói: “Mấy tháng không gặp, Long ái khanh gầy đi nhiều quá!”
Long Giả cảm kích nhìn Ngụy Huệ Hầu: “Chúa thượng, trông người cũng gầy đi!”
“Phải rồi, phải rồi! Việc nước việc nhà, bận rộn chồng chất, quân thần chúng ta, muốn phát tướng cũng khó lắm thay!”
Long Giả mắt ngấn lệ, giọng nói có phần nghẹn ngào: “Vi thần thân phận hèn mọn, chết cũng không tiếc. Chúa thượng long thể tôn quý, muôn lần xin bảo trọng!”
Ngụy Huệ Hầu cười nói: “Bảo trọng! Quân thần chúng ta đều phải bảo trọng! Thế gian còn rất nhiều đại sự đang đợi chúng ta! Đi, vào trong nói chuyện!”
Hai người bước vào thư phòng, cung nữ vội mang trà lại. Hai người phân ngôi quân thần ngồi xuống. Ngụy Huệ Hầu thân mật nhìn Long Giả: “Long ái khanh, lần này cho gọi khanh tới, không cần hỏi, hẳn khanh cũng biết là vì chuyện gì!”
“Vi thần cũng vì chuyện này mà cầu kiến chúa thượng!”
“Không giấu Long ái khanh, lần này phạt Tần, tuy quả nhân thấy phần thắng đã nắm trong tay, song ái khanh cũng biết, quả nhân không hề lỗ mãng. Ái khanh trấn thủ Hà Tây nhiều năm, rất hiểu người Tần. Quả nhân thực lòng muốn hỏi khanh, trận chiến này liệu nắm chắc được mấy phần thắng?”
Long Giả do dự một lát: “Vi thần khó mà đoán chắc!”
Ngụy Huệ Hầu sững người: “Khó mà đoán chắc? Ý ái khanh là trận chiến này không thể nắm chắc phần thắng?”
“Muôn tâu chúa thượng, nếu mười năm trước phạt Tần, vi thần có thể cầm chắc tám phần thắng; năm năm trước phạt Tần, là sáu phần. Còn hiện tại, vi thần chỉ có thể chắc được năm phần!”
“Năm phần?” Ngụy Huệ Hầu sửng sốt. “Mới chỉ mấy năm không giao chiến, lẽ nào quân Tần đã thành thần binh?”
Giọng Long Giả đầy lo lắng: “Chúa thượng, chưa nói đến chuyện khác, vi thần chỉ nói một điều, nước Tần mười năm trước đổi ngựa lấy lương thực, nước Tần hiện nay đổi lương thực lấy ngựa; nước Tần mười năm trước có đất không có người trồng cấy, nước Tần hiện nay có người không có đất trồng cấy. Chúa thượng thử nghĩ xem, một đất nước có người mà không đủ đất trồng, có dễ thảo phạt hay không?”
Ngụy Huệ Hầu cúi đầu, trầm ngâm suy nghĩ, hồi lâu sau ngẩng đầu nhìn Long Giả: “Ái khanh, ta không phạt Tần, Tần ắt phạt ta! Nước Tần hôm nay đã như vậy, nếu lại thêm mười năm nữa, Đại Ngụy ta liệu có còn tồn tại được chăng? Hơn nữa, tên đã lên cung, không thể không bắn! Quả nhân xưa nay nhất ngôn cửu đỉnh, sao có thể bỏ cuộc giữa chừng?”
“Việc này…” Long Giả không biết phải nói gì.
“Khanh xem thế này được không?” Ngụy Huệ Hầu dừng lại một lát, chậm rãi nói. “Quả nhân giao thêm cho khanh năm vạn tinh binh, dốc toàn lực cả nước, khởi binh thảo phạt Tần, trước hết khiến chúng trở tay không kịp, tiếp đến đoạt lấy kho lẫm của chúng để dùng cho ta!”
Long Giả gật đầu: “Nếu cuộc chiến này đã không thể tránh, vi thần sẽ dốc hết sức mọn, dù thịt nát xương tan cũng không dám từ!”
Ngụy Huệ Hầu giọng quả quyết: “Long ái khanh, quả nhân không muốn khanh thịt nát xương tan, chỉ mong khanh bắt sống Tần Công, khải hoàn trở về!”
“Vi thần tuân lệnh! Dám hỏi chúa thượng, lúc nào khởi binh?”
“Hôm qua quả nhân đích thân tới Thái miếu xin quẻ, quẻ nói rằng giờ Ngọ, ngày Đinh Sửu, hợp tây chinh.”
Long Giả kinh ngạc: “Ngày Đinh Sửu? Là ngày kia rồi!”
“Đúng vậy! Giờ Ngọ, ngày Đinh Sửu, quả nhân sẽ đích thân tới cửa doanh trại làm lễ tế cờ, đưa tiễn tướng quân!”
Long Giả đứng dậy khấu đầu: “Vi thần và ba quân tướng sĩ cung kính chờ chúa thượng đại giá!”
Long Giả đang định cáo từ thì tỳ nhân bước vào, nói: “Bẩm chúa thượng, thượng đại phu có việc gấp cầu kiến!”
“Truyền vào!”
Trần Chẩn vội vã rảo bước vào trong, quỳ xuống khấu đầu nói: “Khởi tấu chúa thượng, có sứ giả nước Tần là Công Tôn Ưởng đến triều kiến!”
Ngụy Huệ Hầu thoáng ngạc nhiên: “Công Tôn Ưởng? Trong lúc này, hắn tới làm gì?”
“Có vẻ như hắn tới để cầu hoà!”
“Cầu hoà?” Ngụy Huệ Hầu ngẩn ra một lát, rồi cười nhạt một tiếng. “Trần ái khanh, khanh hãy nói với Công Tôn Ưởng, quả nhân không có thời gian nghe hắn khua môi múa mép, bảo hắn hãy giữ sức mà trở về nghênh chiến với Long tướng quân!”
Long Giả do dự một thoáng, bước lên tâu rằng: “Khởi tấu chúa thượng, vi thần cho rằng, chúa thượng cứ nên gặp hắn, thử xem tay Công Tôn Ưởng kia có lời gì để nói?”
Ngụy Huệ Hầu ngẫm nghĩ một lát rồi gật đầu: “Được, Long tướng quân đã khuyên như vậy, quả nhân cũng muốn thử gặp mặt hắn xem sao. Trần ái khanh, khanh hãy về nói với Công Tôn Ưởng, bảo hắn ngày mai lên triều để chứng kiến uy nghi của Đại Ngụy ta. Nếu nói năng dễ nghe, quả nhân có thể cho hắn một con đường sống! Nếu ăn nói hồ đồ, quả nhân sẽ bắt hắn làm vật tế cờ.”
Sáng sớm hôm sau, Công Tôn Ưởng mang theo lễ vật, cùng Sư Lý Tật đi tới cung Ngụy. Lúc này, tiếng chuông thượng triều đã điểm hai lượt, quan viên nước Ngụy từ cấp đại phu trở lên đang lục tục kéo đến. Ở bãi buộc ngựa cách cửa cung hai tầm tên bắn, tiếng người gọi nhau í ới, tiếng ngựa hí ồn ào, vô cùng náo nhiệt.
Do sắp triệu kiến sứ Tần, cung Ngụy ngày thường vốn đã khí thế hào hùng, hôm nay lại càng khác biệt. Lính canh cửa nhiều gấp đôi so với mọi hôm, giáo mác tua tủa, hết sức uy nghiêm.
Tiếng chuông thượng triều điểm qua ba lượt, văn võ triều thần bắt đầu tiến vào cửa cung. Do chưa có chỉ, đám Công Tôn Ưởng chỉ có thể đứng đợi ở ngoài cửa. Chưa đầy một khắc quả nhiên có truyền chỉ đại phu bước ra cửa cung, đứng trên bậc thềm, cất giọng sang sảng: “Chúa thượng có chỉ, truyền sứ thần Công Tôn Ưởng lên điện cầu kiến!”
Sư Lý Tật liếc nhìn Công Tôn Ưởng, thần sắc căng thẳng. Công Tôn Ưởng lôi từ trong ống tay áo ra một chiếc túi gấm: “Phó sứ hãy cầm lấy vật này! Nếu xảy ra chuyện, hãy mở ra!”
Sư Lý Tật hai tay đỡ lấy túi gấm: “Hạ quan tuân lệnh!”
Công Tôn Ưởng quay người, ngẩng cao đầu bước lên bậc thềm hành lễ với truyền chỉ đại nhân, hạ giọng thì thầm vài câu, rồi quay xuống vẫy tay. Sư Lý Tật hiểu ý, lập tức sai thuộc hạ khiêng lễ vật lên. Đi qua cửa chính của cung điện, lại qua hai tầng cửa trong nữa mới tới chính điện. Quan truyền chỉ bước vào, một lát sau từ bên trong vọng ra tiếng truyền chỉ của tỳ nhân: “Truyền sứ thần nước Tần Công Tôn Ưởng bái kiến!”
Công Tôn Ưởng một mình bước vào đại điện, từ xa nhìn thấy Ngụy Huệ Hầu ngự trên ngai vàng, bên trái là một hàng võ tướng như công tử Ngang, Long Giả, bên phải là một dãy văn thần như thái tử Thân, Trần Chẩn, Chu Uy.
Công Tôn Ưởng quỳ xuống khấu đầu bái lạy, dõng dạc hô lớn: “Sứ thần Công Tôn Ưởng khấu kiến bệ hạ, chúc bệ hạ long thể an khang, vạn thọ vô cương!”
Công Tôn Ưởng vừa dứt lời, khắp triều chấn động, mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Ngụy Hầu. Dù sớm đã lễ băng nhạc hoại, song hai chữ “bệ hạ” vẫn vô cùng đường đột.
Lời Công Tôn Ưởng nằm ngoài dự liệu của Ngụy Huệ Hầu. Ngụy Huệ Hầu thoáng nghĩ ngợi, rồi đập bàn quát lớn: “Công Tôn Ưởng, là ngươi không hiểu lễ nghi, hay là thực lòng muốn làm loạn thần tặc tử?”
Công Tôn Ưởng mỉm cười: “Bệ hạ vì đâu mà nói vậy?”
Ngụy Huệ Hầu cười nhạt: “Công Tôn Ưởng, ngươi chớ khua môi múa mép. Quả nhân hỏi ngươi, hai chữ ‘bệ hạ’ chỉ được phép dùng khi tham bái thiên tử, sao ngươi có thể tuỳ tiện xưng hô bừa bãi làm vậy?”
Công Tôn Ưởng đĩnh đạc đáp: “Bệ hạ, Công Tôn Ưởng không hề nói bừa. Thiên tử tức con trời, con trời đương nhiên là bậc minh chủ có thể cai trị thiên hạ, hiệu lệnh chư hầu. Luận theo thiên hạ ngày nay, bệ hạ uy thế đủ để hiệu lệnh chư hầu, đức tài đủ để cai trị thiên hạ, cớ sao lại không thể xưng hai tiếng ‘bệ hạ’?”
Ngụy Huệ Hầu thừa hiểu Công Tôn Ưởng nói vậy là có ý nịnh bợ, hoặc vì mục đích khác. Tuy nhiên, dù gì đi nữa, những lời này quả thực nghe rất khoái nhĩ. Ngụy Huệ Hầu đảo con ngươi một vòng, hơi ngả về sau, chậm rãi nói: “Hừm, xem ra ngươi quả thực không hiểu lễ nghi, quả nhân tạm không trách tội ngươi. Nói đi, ngươi từ nghìn dặm tới đây hẳn không chỉ vì muốn gọi hai chữ ‘bệ hạ’!”
Công Tôn Ưởng trong lòng đã có suy tính, lại dập đầu một cái, ngẩng lên nói: “Bệ hạ thánh minh! Công Tôn Ưởng nhận uỷ thác của Tần Công, tới vấn an bệ hạ. Nước Tần tuy nghèo khó, không có mấy sản vật, song Tần Công vẫn phái vi thần tới cống tiến lên bệ hạ chút ít đặc sản đất Tần, mong bệ hạ không chê!”
Ngụy Huệ Hầu mặt không đổi sắc: “Là đặc sản gì?”
Công Tôn Ưởng ngoảnh ra phía cửa, hô to: “Dâng tiến cống phẩm lên bệ hạ!”
Đoàn tuỳ tùng nước Tần đang đợi sẵn ngoài điện, nghe thấy tiếng hô của Công Tôn Ưởng, lập tức khiêng những hòm lễ vật kềnh càng bước vào trong điện, trên các hòm lễ vật nổi bật hai chữ “Tần cống”.
Đám người khiêng hòm vừa lui ra, lại có chục thiếu nữ Tần uyển chuyển bước vào, quỳ xuống trước mặt Ngụy Hầu, dập đầu rồi đồng thanh lên tiếng: “Dân nữ khấu kiến bệ hạ, cung chúc bệ hạ long thể an khang, vạn thọ vô cương!”
Khắp đại điện lặng phắc như tờ, dường như hết thảy những người có mặt đều kinh ngạc đến sững sờ trước những hành động của Công Tôn Ưởng.
Công Tôn Ưởng hai tay dâng lên danh sách lễ vật. Tỳ nhân nhận lấy, đặt trước mặt Ngụy Huệ Hầu. Công Tôn Ưởng khấu đầu nói: “Số Tần nữ kia do đích thân Tần Công tuyển chọn từ trong dân gian, tuy nhan sắc chưa đến mức nghiêng nước nghiêng thành, song cũng đàn hay múa giỏi, biết chữ hiểu lý, kính mong bệ hạ không chê.”
Công Tôn Ưởng khẽ phẩy tay, đám Tần nữ từ từ rút lui.
Nước Ngụy còn chưa khởi binh, nước Tần đã chịu khuất phục, kết cục này nằm ngoài dự liệu của Ngụy Huệ Hầu. Ông ta không khỏi ngỡ ngàng, rồi như sực hiểu, bật ra một tràng cười lớn, ném đánh vèo tờ danh sách xuống đất: “Thứ nhất, quả nhân không thiếu những thứ này. Thứ hai, không muốn cướp đoạt những thứ Tần Công yêu quý. Công Tôn Ưởng, xem ra ngươi lại phải vất vả một phen, mau mang toàn bộ những thứ này về đi. Những món tốt đẹp như thế, hãy để Tần Công hưởng thụ dần dần!”
Công Tôn Ưởng đáp lời: “Bệ hạ, xin cho thần nói một lời! Những thứ này tuy nhỏ mọn, song là thành ý của Tần Công. Vi thần nhận uỷ thác của Tần Công, tới đây dâng lên bệ hạ, nếu bệ hạ không nhận, vi thần trở về biết ăn nói thế nào với Tần Công đây?”
Ngụy Huệ Hầu cười nham hiểm: “Hãy nói với Tần Công của ngươi, sớm biết như vậy sao trước còn làm?”
Công Tôn Ưởng ra vẻ kinh ngạc: “Vi thần ngu muội, mong bệ hạ chỉ rõ!”
Ngụy Huệ Hầu cười nhạt: “Quả nhân hỏi ngươi, một tháng trước Tần Công nhà ngươi đang làm gì?”
Công Tôn Ưởng bình thản đáp: “Một tháng trước, Tần Công đang đi khắp nước Tần lựa chọn cống phẩm dâng lên bệ hạ.”
Ngụy Huệ Hầu đập mạnh tay xuống bàn: “Lựa chọn cống phẩm cái gì? Quả nhân sớm đã nhận ra, Doanh Cừ Lương ngỡ mình đủ lông đủ cánh muốn bay lên trời rồi!”
Công Tôn Ưởng làm bộ kinh hãi: “Bệ hạ giận dữ là vậy, vi thần thực sự không biết là bởi chuyện gì?”
Ngụy Huệ Hầu lại cười nhạt: “Ngươi đã giả vờ không biết quả nhân sẽ nói cho ngươi nghe! Quả nhân mở hội triều kiến thiên tử ở Mạnh Tân, liệt quốc Trung Nguyên nô nức tới dự, duy có Tần Công nhà ngươi tự cao tự đại, cự tuyệt không đến là vì lẽ gì?”
Công Tôn Ưởng cố ý thở phào một tiếng thật dài, rồi mỉm cười, chậm rãi nói: “Thảo nào suốt dọc đường đi, Công Tôn Ưởng thấy đao kiếm loang loáng, người xe rầm rập, cứ ngỡ các nơi đang mở hội săn bắn, nào ngờ lại là do bệ hạ nổi trận lôi đình!”
Công tử Ngang cười khẩy: “Đại lương tạo, ông bất tất phải khua môi múa mép, hãy về cho mau, khoác giáp đội trụ dẫn binh lính quyết một trận sống mái với đại quân ta!”
Công Tôn Ưởng quay sang công tử Ngang, vòng tay nói: “Thượng tướng quân nói đùa rồi! Võ binh Đại Ngụy đánh đâu thắng đó, thượng tướng quân lại là đệ nhất hổ tướng trong thiên hạ, Ưởng chẳng qua là một thư sinh quèn, nào dám đối đầu với thượng tướng quân dù là nửa chiêu nửa thức?”
Công tử Ngang khoé miệng lại nhếch nụ cười nhạt: “Kể ra ngươi cũng biết điều! Mau về báo với Tần Công nhà ngươi, thiết quân Đại Ngụy giờ Ngọ ngày mai tế cờ, bảo hắn giơ sẵn đầu trên thành Hàm Dương đợi ta đến lấy!”
Công Tôn Ưởng chuyển ánh mắt sang Ngụy Huệ Hầu: “Lẽ nào bệ hạ thực sự có ý phạt Tần, mà không muốn biết nguyên do vì đâu Tần Công không tới Mạnh Tân triều kiến thiên tử?”
Ngụy Huệ Hầu cười nhạt: “Nói đi, lúc này quả nhân cũng không có việc gì gấp gáp, nghe cũng không sao!”
“Thiên hạ hiện nay, Chu thất đã suy vi, ở nơi chật hẹp, chỉ còn cái hư danh ‘vương’ rỗng tuếch, đừng nói là Tần Công, chư hùng trong thiên hạ, liệu có ai thật lòng kính lễ Chu thiên tử?”
Ngụy Huệ Hầu cười nhạo: “Nói như vậy, hoá ra chư hầu thiên hạ nên tới Hàm Dương triều kiến Tần Công mới phải?”
“Bệ hạ nói đùa rồi. Bậc vương dựa vào đức và lực để uy phục thiên hạ. Nhìn vào chư hầu trong thiên hạ, người vừa có đức vừa có lực chẳng ai hơn được bệ hạ!”
“Câu này là có ý gì?”
“Đại Ngụy từ đời Văn Hầu đến nay, thực thi rộng rãi nền chính trị nhân đức, liên tiếp lập nhiều chiến công hiển hách, suốt mấy chục năm qua hùng bá Trung Nguyên, uy phục thiên hạ, liệt quốc Trung Nguyên đều kính sợ mà thần phục, thực chất từ lâu đã lãnh đạo quần hùng, là vị vương không vương miện trong thiên hạ.”
Công Tôn Ưởng dừng lại, đưa mắt nhìn Ngụy Huệ Hầu. Tuy sắc mặt Ngụy Huệ Hầu không chút cảm xúc, song cơ thể hơi ngả về phía trước, rõ ràng có ý lắng nghe. Công Tôn Ưởng đã nhận ra, khẽ đặng hắng một tiếng, nói tiếp: “Không tính đến Man Sở phía nam, trong liệt quốc Trung Nguyên, Chu thất hữu danh vô thực, Chu thất hữu thực vô danh, sự thực rõ như ban ngày, không phải bàn cãi.”
Ngụy Huệ Hầu ngồi thẳng người dậy, đặng hắng khẽ một tiếng, tiếp lời: “Công Tôn Ưởng, lời nói của ngươi chỉ là suy nghĩ của kẻ tiểu nhân. Tuy thiên hạ danh không hợp với thực, song lễ nhạc vẫn còn, Chu thiên tử vẫn là chủ chung của thiên hạ, chư hầu thiên hạ trên danh nghĩa vẫn là thần bộc của Chu thất. Quả nhân thân là thần tử của Chu thất, đương nhiên phải dốc lòng vì Chu thất, tận lực khiến thiên hạ hướng về nhân, lòng dân hướng về nghĩa, và vì sự an lạc của trăm họ. Ngoài những điều đó, quả nhân không có vọng tưởng gì khác. Những lời ngươi vừa nói bất luận có đạo lý đến mấy, đều không liên quan tới quả nhân.”
Những lời phân trần của Ngụy Huệ Hầu, đặc biệt là những từ “trên danh nghĩa” và “có đạo lý”, thực chất đã bộc lộ dã tâm trong lòng ông ta. Công Tôn Ưởng trong lòng hiểu rõ như ban ngày, bèn mỉm cười, dõng dạc mà nói: “Tấm lòng nhân nghĩa của bệ hạ, Công Tôn Ưởng tuy kính phục song không tán thành. Nhân có lớn có nhỏ, nghĩa có dày có mỏng. Thương Thang không hành đại nhân, đâu có thể diệt trừ Hạ Kiệt? Chu Vũ không hành hậu nghĩa, sao có thể quét sạch Thương Trụ? Hạ Kiệt, Thương Trụ còn tồn tại ngày nào, thiên hạ không yên ngày đó. Thiên hạ không yên, làm gì còn lễ nhạc nữa đây? Hơn nữa, lễ nhạc của Chu thất tới thời Xuân Thu đã suy tàn. Vài trăm năm chiến loạn, lễ nhạc càng là danh tồn thực vong. Thiên hạ ngày nay, chế độ cũ không trị, chế độ mới không lập, đương nhiên là cội gốc của họa loạn, là khởi nguồn của tai ương. Chính vì vậy, Tần Công cho rằng, vì đại nhân hậu nghĩa trong thiên hạ, vì hạnh phúc an lạc của trăm họ, sự việc cấp bách hiện thời là bỏ cũ lập mới, khiến danh tương xứng với thực, chứ không phải là tới Mạnh Tân triều bái một thiên tử hữu danh vô thực. Muôn tâu bệ hạ, trong triều hội Mạnh Tân, kẻ mà chư hầu phải triều kiến chẳng qua chỉ là Chu thiên tử, nên Tần Công không muốn làm chuyện vô vị này, vì thế mà không đến. Còn như nếu tới Mạnh Tân không phải là để triều kiến Chu thiên tử, mà là để triều kiến bệ hạ, thì Tần Công sao có thể không đi?”
Ngụy Huệ Hầu lại ngả người về phía trước, hạ giọng hỏi: “Ý Tần Công là…”
Công Tôn Ưởng dõng dạc nói: “Tần Công nguyện tôn bệ hạ làm chủ chung của thiên hạ, nguyện dốc tận quốc lực để phò tá bệ hạ quay mặt về nam xưng tôn.”
Công Tôn Ưởng vừa dứt lời, toàn triều chấn động. Ngụy Huệ Hầu mặt vẫn lạnh tanh, ngả người ra phía sau, trong mắt loé ra một tia sáng quắc. Trần Chẩn đã phát giác ra, bèn chớp mắt vài cái, liếc sang công tử Ngang đứng đối diện. Công tử Ngang chau tít đôi mày, vẻ mặt không vui, muốn nói gì đó song lại cố gắng nín nhịn.
Quần thần trong triều mỗi người một vẻ mặt, đưa mắt nhìn nhau, cuối cùng không hẹn mà cùng nhìn về phía Ngụy Huệ Hầu. Ngụy Huệ Hầu thình lình sầm mặt đập bàn liền mấy cái, quát lớn: “Công Tôn Ưởng to gan, ngươi xúi giục Tần Công còn chưa đủ, còn dám chạy tới An Ấp nói những lời phản nghịch trước mặt quả nhân, muốn đẩy quả nhân vào chỗ bất trung bất nghĩa là có dụng ý gì đây?”
Toàn triều lại một phen sững sờ. Công tử Ngang đầu mày giãn ra, bước lên tấu: “Khởi tấu quân phụ, đại quân ta ngày mai khởi binh chinh phạt, vậy mà hôm nay Công Tôn Ưởng lại dám lên triều nói lời mê hoặc, hẳn là muốn kéo dài thời gian, ngăn cản bước tiến của đại quân ta. Nhi thần thỉnh cầu quân phụ minh xét.”
Tư đồ Chu Uy cũng bước lên một bước, cao giọng tấu: “Vi thần đồng ý với thượng tướng quân. Giữa Tần và Ngụy thù hận đã lâu, khó mà hoà giải, sớm đã như nước với lửa. Mười sáu năm trước người Tần nước yếu lực mỏng, Hiến Công còn dám đại chiến ở Hà Tây với ta. Nay người Tần nước mạnh lực lớn, Tần Công lại ra vẻ yếu ớt cầu hoà, từ đó có thể thấy dụng tâm của Công Tôn Ưởng rất đáng ngờ!”
Công tử Ngang tiếp lời: “Đại tư đồ nói chí phải! Công Tôn Ưởng vừa là giặc Tần, bụng dạ lại nham hiểm khó lường, nhi thần thỉnh cầu trừng phạt hắn thật nghiêm!”
Quần thần vẻ đã hiểu ra, theo nhau gật đầu tán thành. Công tử Ngang quăng một ánh nhìn về phía tiên phong phạt Tần là Bùi Anh đứng cạnh Long Giả. Bùi Anh hiểu ý, bước lên trước một bước, quỳ một gối, cất giọng sang sảng: “Đại quân sắp lên đường phạt Tần, mạt tướng thỉnh cầu chúa thượng, dùng máu Công Tôn Ưởng để tế cờ soái quân ta!”
Trừ Long Giả, tất cả võ tướng đều bước lên một bước, đồng thanh tấu: “Chúng thần thỉnh cầu chúa thượng, giết Công Tôn Ưởng tế cờ!”
Ngụy Huệ Hầu dường như rất hài lòng trước lời chư tướng, hơi ngả người về phía sau, ngón tay gõ nhẹ trên mặt bàn, mắt liếc xéo Công Tôn Ưởng, khoé miệng lộ một nét cười thâm độc: “Công Tôn Ưởng, ngươi còn lời gì để nói?”
Công Tôn Ưởng quét mắt khắp lượt quần thần, sau đó dừng lại ở Ngụy Huệ Hầu, bật cười một tràng dài.
Toàn triều đều kinh ngạc.
Ngụy Huệ Hầu lạnh lùng hỏi: “Công Tôn Ưởng, ngươi cười gì?”
Công Tôn Ưởng thu lại nét cười, ngạo nghễ nói: “Công Tôn Ưởng không biết phải nói gì, chỉ có thể cười mà thôi!”
Ngụy Huệ Hầu hơi ngả người về phía trước, khoé miệng lại lộ ra nụ cười âm trầm: “Được, ngươi đã không biết phải nói gì thì chớ oán trách quả nhân. Người đâu!”
Hai tên vệ sĩ lập tức bước lên, cùng giữ chặt lấy Công Tôn Ưởng.
Ngụy Huệ Hầu gằn mạnh từng chữ: “Áp giải hắn đi! Giờ Ngọ ngày mai, đưa ra trước cổng doanh trại tế cờ!”
Hồi Thứ 2
Công Tôn Ưởng đơn độc vào hang hùm
Tần Hiếu Công hạ mình cầu thân Ngụy
Đám Sư Lý Tật bồn chồn lo lắng, đứng đợi ở bãi buộc ngựa bên ngoài cửa cung, đột nhiên nhìn thấy một đám lính áp giải Công Tôn Ưởng ra khỏi cửa, thảy đều sững sờ kinh hãi. Một tên quân uý rút bảo kiếm định xông lên giải cứu, Sư Lý Tật thấy vậy lập tức đưa tay cản lại.
Đám người cuống quýt vây quanh Sư Lý Tật, hỏi dồn: “Ngũ đại phu, làm thế nào đây?”
Sư Lý Tật quay sang một tên lính, dặn: “Ngươi ở lại đây dò la tin tức, những người khác theo ta trở về dịch quán!”
Đám người về tới dịch quán, còn chưa ngồi nóng chỗ, tên lính dò la tin tức đã phi ngựa quay về, vẻ đầy hốt hoảng: “Mau lên… tiểu nhân…”
Sư Lý Tật mặt thoáng biến sắc, song lập tức trấn tĩnh lại ngay: “Không phải vội, cứ nói từ từ!”
Tên lính thở ra một hơi: “Tiểu nhân dò la biết được, Ngụy Hầu giờ Ngọ ngày mai khởi binh, muốn mang đại lương tạo ra tế cờ!”
Cả đám người đều kinh hãi, ào ào rút kiếm ra khỏi bao hò nhau đi cướp ngục. Sư Lý Tật trầm tư một lát, rồi thò tay vào ống tay áo lấy ra chiếc túi gấm mà Công Tôn Ưởng đưa cho trước đó, mở túi liếc xem một lượt, sắc mặt từ từ giãn ra, vội quay sang nói với quân uý: “Chuẩn bị xe!”
Đám Sư Lý Tật thay đổi trang phục, lên một cỗ xe ngựa lớn, lao về phía con phố Đông Nhai náo nhiệt nhất An Ấp. Tại vị trí đẹp nhất của phố Đông Nhai, một tửu lầu hai tầng sang trọng mới được xây dựng, hôm nay đúng là lễ khai trương, trong thành An Ấp không ai không biết.
Khi xe ngựa của Sư Lý Tật tới nơi, phía trước tửu lầu đã vô cùng nhộn nhịp, người xe nô nức. Những nhà quyền quý, giàu có trong thành An Ấp hầu hết đều đã tề tựu về đây, trên bãi buộc ngựa không còn lấy một cọc trống. Sư Lý Tật ăn bận như một công tử hào hoa nhảy xuống xe ngựa, bước thẳng tới trước tửu lầu.
Sư Lý Tật chưa vội bước ngay vào trong, mà đứng ở gần đó quan sát kỹ lưỡng cửa chính. Phía trên khung cửa nghễu nghện ba chữ “lầu Nguyên Hanh”, chữ nào chữ nấy to bằng đầu người, sắc vàng lấp lánh, liếc qua đã biết được làm bằng đồng Nguyên chất.
Trước cửa tửu lầu, chiêng trống rộn ràng huyên náo cả con phố, ông chủ tửu lầu Lâm Dung đích thân dẫn đầu năm sáu tiểu nhị mặt tươi hơn hớn đứng chầu trước cửa, không ngớt cúi chào nghênh đón khách quý. Mỗi vị khách bước vào đều có người xướng danh chạy ra đón, tiếp lấy thiếp mời, rồi cao giọng ngân nga, kiểu như “hoan nghênh Lương thiếu gia”, “hoan nghênh Ngô thiếu gia”. Sau đó, người thì tiếp nhận lễ vật, ghi chép vào sổ, người thì sắp xếp chỗ ngồi cho tân khách, toàn bộ tửu lầu nhộn nhịp chẳng khác gì hội chợ.
Sau khi quan sát một lúc, Sư Lý Tật đã vạch ra kế sách trong đầu. Nhìn thấy lượng khách đã hòm hòm, bèn đưa mắt ra hiệu cho hai tên lính cải trang làm người hầu, rồi ung dung bước tới cửa chính. Hai tên lính hiểu ý, liền khiêng hòm lễ vật nối gót theo sau.
Ông chủ Lâm chưa từng gặp Sư Lý Tật, song thấy bộ dạng oai phong của hắn, tuy trong tay không có thiếp mời, nhất thời chưa rõ vị khách này là ai, song vẫn vồn vã bước lên nghênh đón, cung kính vái chào mà nói: “Tại hạ Lâm Dung, đa tạ các hạ đại giá quang lâm!”
Sư Lý Tật liền đáp lễ: “Tại hạ Mộc Vũ Khuy(1) đi ngang qua quý địa, nghe nói nay là ngày quý quán khai trương đại cát, nhân tiện ghé qua chúc mừng!”
Ông chủ Lâm chìa tay: “Mộc tiên sinh, mời!”
Tiếp theo, có người ghi ba chữ “Mộc Vũ Khuy” vào sổ, người nhận lễ đỡ lấy hòm lễ vật, mới vừa hé nắp đã vội vội vàng vàng đóng sập lại, mắt trợn trừng nhìn sững vào ông chủ Lâm. Ông chủ Lâm ngẩn ra một lát, rồi chậm rãi bước lại phía hòm lễ vật đưa tay lật mở nắp hòm.
***
Ở cửa mật thất trên tầng hai lầu Nguyên Hanh, lão quản gia Thích Quang của thượng đại phu Trần Chẩn khẽ vén tấm rèm trúc treo trước cửa, quét mắt quan sát một lượt phía dưới lầu, rồi từ từ quay người lại, bước vào một gian nhã thất.
Nhã thất rất rộng, bên trong bài trí cực kỳ xa hoa lộng lẫy. Phía sau chiếc bàn dài đen bóng, Trần Chẩn đang khép hờ hai mắt, ngồi ngay ngắn trên chiếu. Thích Quang đứng yên một lát mới khẽ khàng bẩm báo: “Bẩm chúa công, người cần tới đều đã tới đủ, bảo họ bắt đầu được chưa?”
Trần Chẩn không mảy may cử động, chỉ nhếch mép bật ra vài tiếng: “Đợi thêm chút nữa!”
Thích Quang nghĩ ngợi một lát, rồi nói khẽ: “Hay là… để tiểu nhân sắp xếp cho tân khách vui chơi trước đã. Những người này đa phần là tay chơi, nhìn thấy xúc xắc thì cơm rượu cũng thành vô vị!”
Trần Chẩn hé mắt, ánh nhìn xói thẳng vào Thích Quang: “Vội cái gì? Nói đến xúc xắc, ta phải nhắc ngươi một câu, khanh đại phu trong triều không được phép kinh thương, lại càng không nói tới chuyện mở sòng bạc. Đây là luật lệnh của Đại Ngụy, ngươi nhớ kỹ chứ?”
“Hồi bẩm chúa công, mọi luật lệnh của Đại Ngụy, tiểu nhân đều đã khắc cốt ghi tâm!” Thích Quang nói đoạn, liền tiến lên trước một bước, hạ thấp giọng nói. “Chúa công, cho tới lúc này, trong thành An Ấp không ai không biết tửu lầu này là do ông chủ Lâm mở, dù là tiểu nhân cũng chưa từng dám tuỳ tiện lộ diện!”
“Biết vậy thì tốt!” Trần Chẩn gật đầu, rồi khẽ thở dài một tiếng. “Than ôi, ngươi cũng thấy rồi đấy, không lo việc nhà, sao biết củi gạo đắt rẻ? Ta ở đây đau đầu nát óc suy tính, chẳng phải đều là vì đám người nhàn rỗi các ngươi ư?”
Thích Quang quỳ xuống dập đầu nói: “Đại ân của chúa công, tiểu nhân mười kiếp cũng khó lòng báo đáp!”
“Ai thèm trông chờ các ngươi báo đáp? Chỉ cần trong lòng hiểu rõ phải trái, bớt gây chuyện phiền phức là ta đã hài lòng lắm rồi! À phải, nghe nói họ Lâm kia mấy bữa trước suốt ngày kêu túng tiền, rốt cuộc là túng thiếu cái gì?”
Thích Quang do dự một lát, rồi thò vào trong tay áo rút ra một cuốn sổ: “Đây là sổ ghi chép toàn bộ các khoản chi ra do ông chủ Lâm ghi lại, tiểu nhân đã tính sơ qua, còn thiếu hai trăm lẻ ba lượng vàng!”
Trần Chẩn đẩy cuốn sổ sang một bên, thoáng chau mày: “Chỉ một khoảnh to bằng cái mông đít này, chẳng phải đã ném vào ba trăm lượng vàng rồi ư, sao vẫn còn thiếu nhiều đến thế?”
Thích Quang trả lời: “Chưa nói tới phòng ốc, chỉ tính riêng đồ vật bày biện và trang trí bên trong, tất cả đều dùng hàng thượng phẩm, đừng nói là ở An Ấp, ngay cả liệt quốc cũng khó tìm thấy cái thứ hai. Chúa công, điều này cũng là ý muốn của người!”
Trần Chẩn “hừm” một tiếng, nhắm mắt lại.
“Ông chủ Lâm còn nói, lần này nợ nhiều nhất là tiền công và tiền nguyên liệu, chủ nợ lũ lượt kéo đến thúc ép, mong chúa công mau nghĩ cách!”
Trần Chẩn không hề tỏ ra lo lắng: “Nghĩ cách! Nghĩ cách ư? Ta lại không biết hoá phép ra vàng, bảo ta nghĩ thế nào đây?”
Thích Quang càng hạ thấp giọng thì thào: “Tiểu nhân còn có một chuyện muốn bẩm báo.”
Trần Chẩn vẫn không ngẩng đầu lên: “Nói đi!”
“Tiểu nhân nghe nói, Bạch Khuê muốn nhường lại ngôi vị tướng quốc cho Chu tư đồ!”
Trần Chẩn sửng sốt, lập tức trợn trừng mắt: “Hả, ngươi nghe ai nói?”
“Là Ngô thiếu gia, cậu hai nhà tư nông đại nhân nói. Ngô thiếu gia có quan hệ thân thiết với Bạch gia, hẳn không thể bịa đặt!”
Ánh mắt Trần Chẩn bỗng trở nên sắc lạnh, ông ta nhắm mắt suy nghĩ thoáng chốc, rồi nở một nụ cười gian xảo, nói với Thích Quang: “Vừa rồi nghe ngươi nói lần này vẫn còn thiếu thốn chút đỉnh, Bạch gia chẳng phải có rất nhiều tiền bạc ư? Hai trăm lượng vàng mòn mọn, hãy để phần cho Bạch công tử đi!”
“Bạch công tử?” Thích Quang chớp mắt liền vài cái, bỗng chốc ngộ ra. “Tiểu nhân đã hiểu!”
Trần Chẩn he hé mắt, hỏi: “Ngươi hiểu gì?”
Thích Quang cất giọng nịnh bợ: “Bạch công tử tính ưa nhàn rỗi, ham trò mới lạ. Trong toà lầu này, ngoài mới lạ ra, đâu còn gì khác nữa? Ý chúa công hẳn là muốn tiểu nhân tìm cách kéo hắn vào chiếu bạc, mang vàng bạc nhà hắn…” Lão tặc lưỡi một cái, rồi vung tay làm động tác cướp đoạt.
Trần Chẩn khép mắt lại, một lúc lâu mới mở ra: “Không phải vội, đây là việc dần dà, chỉ e chậm không cứu nổi gấp!”
Thích Quang đang định tiếp lời, chợt thấy ông chủ Lâm hấp tấp chạy lên lầu, dập đầu trước cửa. Thích Quang bước ra khỏi mật thất, ông chủ Lâm bèn thì thầm gì đó vào tai Thích Quang. Thích Quang hít ngược một hơi khí lạnh, lạc giọng kêu lên: “Hai trăm lượng vàng?”
Ông chủ Lâm gật lấy gật để.
Thích Quang ngạc nhiên hỏi: “Lễ vật hậu hĩnh như vậy, chắc hẳn hắn ta phải có yêu cầu gì chứ?”
Ông chủ Lâm lại ghé sát tai Thích Quang thì thào. Thích Quang càng kinh ngạc: “Sao cơ? Người này muốn gặp ông chủ? Ngươi không nói cho hắn biết ngươi chính là ông chủ ư?”
“Tiểu nhân nói rồi, nhưng hắn khẳng định tiểu nhân không phải là ông chủ. Hắn còn nói, nếu không gặp được ông chủ thực sự, hắn… hắn sẽ mang cả hòm lễ vật trở về.”
Thích Quang ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Thế này đi, ngươi gọi hắn lên đây!”
Ông chủ Lâm tuân lệnh, chạy xuống lầu, loáng cái đã dẫn theo Sư Lý Tật cùng trở lên. Thích Quang bước ra nghênh đón, vái dài mà nói: “Tại hạ Thích Quang, là ông chủ lầu Nguyên Hanh, không biết tiên sinh giá lâm, thất lễ không ra nghênh đón!”
Sư Lý Tật nhìn đối phương từ đầu đến chân, rồi cung kính đáp lễ: “Tại hạ nghe nói quý quán khai trương nên chuẩn bị chút lễ mọn tới chúc mừng, xin Thích tiên sinh bẩm báo lên chủ nhân tửu lầu, tại hạ rất mong được diện kiến một lần!”
Thích Quang âm thầm kinh ngạc, mặt hơi biến sắc: “Tiên sinh có việc gì, cứ nói với tại hạ là được!”
Sư Lý Tật cười khẽ: “Tại hạ không quản nghìn dặm xa xôi tới bảo địa, chỉ mong được gặp mặt chủ nhân các vị một lần, lẽ nào không thể diện kiến?”
Thích Quang suy nghĩ một lát, rồi dứt khoát: “Tiên sinh đã không tin tại hạ, xin mời về cho! Ông chủ Lâm, tiễn khách!”
Sư Lý Tật cũng không trả lời, quay người bước đi luôn. Không ngờ mới đi được vài bước, một giọng nói đã cất lên từ phía sau bức rèm: “Tiên sinh dừng bước!”
Sư Lý Tật dừng lại, Trần Chẩn trong trang phục thường ngày từ trong gian mật thất bước ra. Sư Lý Tật lập tức vái dài hành lễ: “Tại hạ bái kiến thượng đại phu!”
Trần Chẩn nghe Sư Lý Tật gọi mình là “thượng đại phu”, trong lòng khẽ giật thột, nhưng lập tức trấn tĩnh lại ngay, cười hỏi: “Tiên sinh đây là…”
“Tại hạ Sư Lý Tật, ngũ đại phu nước Tần!”
Trần Chẩn trong lòng đã hiểu rõ ngọn ngành, khẽ vòng tay đáp lễ: “Trần Chẩn bái kiến ngũ đại phu!” Rồi nghiêng người lùi về sau rèm nhường đường. “Ngũ đại phu, mời!”
Hai người bước vào trong phòng, phân ngôi chủ khách ngồi xuống. Trần Chẩn vòng tay, lập tức nói thẳng vào chuyện: “Sư Lý đại phu tới tệ quán, dường như không phải để chúc mừng!”
Sư Lý Tật cũng vòng tay nói: “Đã không giấu được cặp mắt tinh tường của thượng đại phu, tại hạ đành phải thú thực. Tại hạ được giao phó trọng trách tới đây thỉnh cầu thượng đại phu một chuyện!”
Trần Chẩn cười cười, hỏi: “Là Công Tôn Ưởng giao phó phải không?”
Sư Lý Tật khẽ lắc đầu.
“Không phải Công Tôn Ưởng? Vậy là ai?”
“Tần Công!”
Trần Chẩn trong lòng sửng sốt, ngẫm nghĩ chốc lát rồi nói: “Được Tần Công nể mặt, tại hạ vô cùng lo lắng. Xin hỏi Tần Công giao phó chuyện gì?”
“Xin thượng đại phu cứu đại lương tạo!”
Trần Chẩn mỉm cười: “Sư Lý đại phu đùa thái quá rồi! Từ lúc bãi triều tới giờ, tính ra chưa quá hai canh giờ, Tần Công không thể biết chuyện đại lương tạo bị đem tế cờ nhanh chóng đến vậy! Dù có biết, lẽ nào sứ giả có thể mọc cánh mà bay tới?”
“Không giấu gì thượng đại phu, trước khi tại hạ đi sứ, Tần Công đã đoán chắc Ngụy Vương bệ hạ sẽ giết đại lương tạo tế cờ, hơn nữa người duy nhất cứu được đại lương tạo, chính là thượng đại phu đây! Lúc sắp lên đường, Tần Công đã bí mật giao cho tại hạ một túi gấm, tại hạ chẳng qua chỉ hành sự theo kế sách mà thôi!”
Trần Chẩn ngẫm nghĩ một lát rồi ngẩng lên nói: “Hậu lễ của Tần Công, xin Sư Lý đại phu mang về giúp! Đây là việc hệ trọng, tại hạ tài hèn sức mọn, e rằng không thể gánh vác nổi uỷ thác của Tần Công!”
“Thượng đại phu chớ nên khiêm nhường! Tần Công nói: chỉ cần thượng đại phu có ý giúp đỡ, không có chuyện gì không làm được. Tần Công còn nói, chút vàng này chỉ là lễ mọn ra mắt, sau khi việc thành Tần Công sẽ đền ơn hậu hĩnh! Tần Công xưa nay đã nói là làm, chắc hẳn thượng đại phu cũng đã nghe nói!”
Trần Chẩn thở dài: “Chà, Tần Công cứ nhất quyết đẩy tại hạ vào chỗ khó! Thế này vậy, Sư Lý đại phu, xin hãy trở về dịch quán trước, đợi tại hạ tìm thời cơ đến khẩn cầu chúa thượng xem sao!”
Sư Lý Tật vòng tay cung kính: “Tại hạ thay mặt Tần Công cảm tạ thượng đại phu!”
Sư Lý Tật cáo từ ra về. Thích Quang tiễn ra tận cửa, rồi vội vã quay trở lại, hai mắt nhìn chằm chằm vào Trần Chẩn không chớp, miệng muốn nói gì đó song lại thôi. Trần Chẩn hiểu Thích Quang muốn hỏi gì, bưng chén trà lên nhấp một ngụm, rồi chậm rãi nói: “Đã thấy chưa? Chẳng có hố nào không qua nổi! Ta đang muốn đi ngủ thì có kẻ mang gối tới!”
Thích Quang thấy chủ nhân nói nhẹ như không, sắc mặt cũng giãn ra, song giọng vẫn đầy lo lắng: “Chúa công, còn việc cứu người…”
Trần Chẩn nhịp nhịp ngón tay xuống bàn, vẻ thờ ơ: “Cứu ai kia? Chỉ là thuận nước đẩy thuyền mà thôi!”
***
Doanh trại trung quân trong tam quân nước Ngụy đặt tạm ở phía tây thành, cách phủ thượng tướng quân không xa. Trong cổng doanh trại là một đàn tế vừa mới đắp, trên đàn tế tung bay hai lá cờ xanh thẫm, một là quốc kỳ, một là soái kỳ. Hai bên đàn tế, ba quân tướng sĩ vũ trang oai vệ, đội ngũ chỉnh tề. Từ trên đàn tế nhìn xuống, chỉ thấy cờ bay lớp lớp, giáo mác tua tủa, giáp trụ sáng loà. Phía trước đàn tế, dưới lá cờ soái, đại lương tạo Công Tôn Ưởng nước Tần bị trói quặt hai tay trên cột cờ lớn.
Giờ Ngọ sắp tới. Một tràng trống trận rền vang, hai tay đao phủ đưa mắt ra hiệu cho nhau, rồi cùng bước tới trước mặt Công Tôn Ưởng, đứng hai bên trái phải đợi lệnh. Một người khác bê chiếc khay lại, trên khay đặt ba bát rượu.
Chủ tướng công tử Ngang vẻ bồn chồn, đi đi lại lại phía trước đàn tế. Tướng lĩnh ba quân oai phong lẫm liệt đứng trước toàn quân. Phó tướng Long Giả ngẩng cao đầu đứng phía trước chủ tướng, chòm râu trắng bay phất phơ.
Bỗng thấy thám mã phóng ngựa lao tới, quỳ xuống bẩm báo: “Báo, trên con đường lớn phía trước không thấy có xe của chúa thượng!”
Ngay sau đó, lại một thám mã khác phi nhanh tới: “Báo, trước cung thành không nhìn thấy đại đội xa giá!”
Đúng lúc đó, quan tư lậu cất giọng sang sảng báo giờ: “Giờ Ngọ ngày Đinh Sửu đã tới!”
Ánh mắt của tất cả tướng lĩnh đều đổ dồn vào công tử Ngang. Long Giả bước lại, nói khẽ: “Thượng tướng quân, theo tình hình này, xem ra chúa thượng sẽ không tới!”
Công tử Ngang giậm chân một cái, rồi sải bước tới trước cửa doanh trại, tung mình nhảy phắt lên một cỗ chiến xa, ra roi thúc ngựa, lao băng băng về phía cung thành.
Công tử Ngang hộc tốc lao vào cung, song thấy mọi thứ trong cung vẫn bình thường, không hề có không khí căng thẳng hay náo nhiệt như vẫn thấy trước những cuộc chinh phạt. Công tử Ngang lòng bỗng chùng xuống, hỏi một thái giám, được biết quân chủ vẫn đang ở ngự thư phòng, bèn vội vã chạy tới.
Trong ngự thư phòng, Ngụy Huệ Hầu ngồi ngay ngắn trước bàn, mắt khép hờ, như thể đang lim dim ngủ. Tỳ nhân quỳ ở phía sau, hai bàn tay nắm nhẹ, đang nhịp nhàng đấm lưng cho quân chủ. Một cung nữ tay cầm quạt đứng bên cạnh khẽ khàng phe phẩy. Bên cạnh là một chiếc đồng hồ nước, mức nước đã qua vạch giờ Ngọ.
Công tử Ngang cấp tốc bước tới, quỳ dưới bậc thềm. Tỳ nhân liếc thấy, bèn dừng tay lại, nói: “Chúa thượng, thượng tướng quân cầu kiến!”
Ngụy Huệ Hầu ngạc nhiên: “Ồ, Ngang Nhi tới ư? Truyền vào!”
Công tử Ngang bước vào trong cửa, dập đầu hành lễ: “Nhi thần khấu kiến quân phụ!”
Ngụy Huệ Hầu hiền từ nhìn công tử Ngang: “Ngang Nhi, giữa trưa sao không ở nhà nghỉ ngơi, tới đây làm gì?”
Công tử Ngang sững người, rồi ngập ngừng nói: “Quân phụ, giờ Ngọ đã tới, đại quân chinh phạt đã tề tựu đông đủ, Công Tôn Ưởng đã được áp giải tới nơi, ba quân tướng sĩ trong doanh trại đang ngóng chờ quân phụ giá lâm, giết Công Tôn Ưởng tế cờ!”
“Tế cờ?” Ngụy Huệ Hầu ra vẻ ngạc nhiên, rồi đập mạnh tay lên trán, “Ồ, phải rồi, giờ Ngọ hôm nay ba quân xuất chinh, quả nhân đã nói rằng sẽ tới tế cờ!” Rồi quay sang phía tỳ nhân hỏi. “Mau xem đồng hồ, là giờ nào rồi?”
Tỳ nhân bước lại trước đồng hồ nước, cao giọng bẩm báo: “Bẩm chúa thượng, đã qua giờ Ngọ!”
Ngụy Huệ Hầu thở dài đánh sượt, ra vẻ rầu rĩ: “Trời ơi, quả nhân không để ý, ngủ gật lúc nào không hay, ngờ đâu làm lỡ đại sự. Chuyện này… giờ giải quyết thế nào đây?”
“Quân phụ, mới lỡ mất nửa khắc, vẫn có thể tiến hành.”
Ngụy Huệ Vương trừng mắt nhìn công tử Ngang: “Ba quân xuất chinh là chuyện trọng đại, đừng nói là nửa khắc, dù là khoảnh khắc cũng không thể được!”
Công tử Ngang hoang mang không hiểu: “Quân phụ?”
Tỳ nhân nhìn thấy Trần Chẩn từ xa bước lại, khẽ chen vào một câu: “Chúa thượng, thượng đại phu cầu kiến!”
Ngụy Huệ Hầu mừng rỡ: “Ồ, Trần ái khanh cũng tới rồi, mau mời vào yết kiến!”
Trần Chẩn bước lên phía trước, dập đầu lạy mà hô: “Vi thần khấu kiến chúa thượng!”
“Ái khanh bình thân! Ngang Nhi, con cũng đứng lên đi!”
Trần Chẩn và công tử Ngang cùng đồng thanh:
“Tạ ơn chúa thượng!”
“Tạ ơn quân phụ!”
Hai người đứng dậy, rồi ai về chỗ nấy.
Ngụy Huệ Hầu nhìn Trần Chẩn, than thở: “Ái khanh, quả nhân đúng là đã già rồi! Giờ Ngọ hôm nay ba quân xuất chinh, quả nhân nói sẽ tới dự lễ tế cờ, nào ngờ lại ngủ quên để lỡ mất việc lớn! Chà, khanh nói thử xem, chuyện này…”
Trần Chẩn trong lòng đã rõ, lập tức lên tiếng: “Đây là ý trời, chúa thượng hà tất phải tự trách mình!”
Ngụy Huệ Hầu mở to mắt: “Ồ! Ái khanh nói xem, thế nào là ý trời?”
Trần Chẩn chớp mắt liền vài cái, khẽ hỏi: “Vi thần dám hỏi chúa thượng, chúa thượng đã bao giờ ngủ gật vào buổi sáng chưa?”
Ngụy Huệ Hầu lắc đầu.
“Chúa thượng chưa bao giờ ngủ gật vào buổi sáng, hôm nay lại ngủ thiếp đi, hơn nữa giấc ngủ lại không sớm không muộn, vừa đúng thời gian này, lẽ nào không phải ý trời?”
Ngụy Huệ Hầu trầm tư ngẫm ngợi, rồi gật đầu nói: “Ái khanh nói rất phải! Xem ra, lễ tế cờ hôm nay là tuân theo ý trời!”
Công tử Ngang vô cùng kinh ngạc, vội nói xen vào: “Quân phụ, nếu hôm nay không thích hợp, chúng ta đổi sang ngày mai được chăng?”
Ngụy Huệ Hầu giận dữ nhìn công tử Ngang, quát lớn: “Mai sao được? Việc quân quốc đại sự, đâu phải trò đùa?”
Công tử Ngang toàn thân run rẩy, quỳ phục xuống đất: “Nhi thần biết tội!”
Ngụy Huệ Hầu từ từ hít vào một hơi: “Con quay về báo với ba quân tướng sĩ, việc tế cờ tạm thời lùi lại, đợi chỉ!”
Công tử Ngang dập đầu: “Nhi thần lĩnh chỉ! Nhi thần cáo lui!”
Công tử Ngang ném về phía Trần Chẩn một ánh nhìn tức tối, rồi đứng lên lui ra. Vừa đi được vài bước, đã khựng lại bởi giọng nói sang sảng của Ngụy Huệ Hầu: “Ngang Nhi, nhân tiện áp giải tên Ưởng gì đó vào ngục, dặn bọn chúng trông coi cẩn thận, chớ bỏ đói kẻo hắn gầy đi!”
Công tử Ngang không buồn ngoảnh lại, chỉ đáp một tiếng: “Nhi thần tuân lệnh!” Rồi nghênh ngang bỏ đi.
Ngụy Huệ Hầu nhìn công tử Ngang bước ra khỏi cửa, khẽ thở dài một tiếng, quay đầu lại nói với Trần Chẩn: “Ái khanh cầu kiến quả nhân, hẳn có việc quan trọng?”
Trần Chẩn đứng lên, tới trước mặt Ngụy Huệ Hầu quỳ xuống, dập đầu liền ba cái: “Bẩm chúa thượng, vi thần đã phạm trọng tội rồi!”
Ngụy Huệ Hầu ngạc nhiên hỏi: “Ái khanh phạm tội?”
Trần Chẩn quay ra ngoài, vỗ tay. Lát sau, đã thấy hai tên lính khiêng vào một chiếc hòm, rồi lui ra. Ngụy Huệ Hầu ngạc nhiên nhìn chiếc hòm: “Trần ái khanh, đây là thứ gì?”
Trần Chẩn chỉ tay vào chiếc hòm: “Chúa thượng, có người dâng chiếc hòm này tới phủ vi thần, nói là bên trong đựng hai trăm lượng vàng. Vi thần kiên quyết từ chối mà không được, đành nhận lấy! Chiếu theo luật của Đại Ngụy, quan khanh, đại phu tư túi dẫu chỉ một lượng vàng cũng phạm tội không thể ân xá, huống hồ là hai trăm lượng vàng. Vi thần hoang mang cực độ, tức tốc chuyển lên chúa thượng chiếc hòm vẫn còn nguyên niêm phong, xin chúa thượng minh xét!”
“Ồ! Là kẻ nào dâng tặng?”
“Tuỳ tùng của Công Tôn Ưởng, phó sứ Sư Lý Tật, ngũ đại phu của nước Tần!”
Ngụy Huệ Hầu suy nghĩ một lát, rồi từ tốn nói: “Hắn dâng tặng lễ vật hậu hĩnh như vậy, hẳn muốn khanh giải cứu Công Tôn Ưởng.”
Trần Chẩn dập đầu: “Chúa thượng anh minh!”
“Ái khanh nói xem, việc này quả nhân đúng hay sai?”
“Chúa thượng xử sự anh minh, vi thần đâu dám nói xằng.”
Ngụy Huệ Hầu cười ha hả, nói: “Ái khanh đừng lảng tránh. Mau nói đi, quả nhân muốn nghe ý kiến của khanh!”
“Vi thần cho rằng, chúa thượng anh minh sáng suốt, chắc hẳn sẽ không giết Công Tôn Ưởng tế cờ!”
“Ồ!” Ngụy Huệ Hầu bật lên một tiếng kinh ngạc.
“Người Tần thế lực đã lớn mạnh, không thể không diệt. Song vi thần cho rằng, diệt trừ thế lực của Tần có hai cách, thứ nhất là khởi binh chinh phạt, diệt trừ tận gốc; thứ hai là khéo mượn thế của chúng, để dùng cho ta. Nếu khởi binh chinh phạt, khả năng lưỡng bại câu thương cực lớn, đây là việc bất đắc dĩ. Nếu có thể mượn thế của chúng để dùng cho ta, mới là thượng thượng sách. Người Tần vừa nghe tin ta chinh phạt đã co rúm lại, không chiến mà hàng. Đúng là ta mong còn chẳng được, sao lại cự tuyệt?”
Ngụy Huệ Hầu trầm tư suy nghĩ: “Ái khanh nói rất phải. Nếu mượn dùng thế của chúng sẽ chế ngự được thế của chúng. Đợi thế của chúng yếu đi, quả nhân sẽ không còn mối lo phía tây nữa!”
“Quân chủ quả là nhất đại thánh chủ, dù là Thương Thang, Chu Vũ, mưu sự cũng chỉ đến thế mà thôi!”
Ngụy Huệ Hầu khép hờ đôi mắt, suy nghĩ một lát rồi nói: “Trần ái khanh, hãy mang kim bài của quả nhân vào ngục thả Công Tôn Ưởng ra, cho hắn tạm thời nghỉ ngơi trong dịch quán! Dù thế nào đi nữa, kẻ này cũng chỉ là tới cầu hàng mà thôi!”
Tỳ nhân đưa kim bài cho Trần Chẩn. Trần Chẩn nhận lấy, dập đầu nói: “Vi thần cáo từ!”
“Trần ái khanh, hòm lễ vật này là người ta dâng tặng khanh, khanh cũng mang về đi!”
Trần Chẩn dập đầu nói: “Vi thần không dám!”
Ngụy Huệ Hầu cười nói: “Cứ coi như quả nhân thưởng cho khanh!”
Trần Chẩn lại dập đầu: “Vi thần tạ ơn chúa thượng hậu thưởng!”
Tỳ nhân vỗ tay, ra hiệu cho hai người bước lại khiêng chiếc hòm ra.
“Vi thần cáo từ!” Trần Chẩn dập đầu xong thì lui ra, song mới bước vài bước, Ngụy Huệ Hầu đột nhiên gọi với theo: “Ái khanh dừng bước!”
Trần Chẩn liền đứng lại.
Ngụy Huệ Hầu tươi cười, chỉ tay xuống chiếu nói: “Ái khanh hãy ngồi thêm một lát, quả nhân vừa nghĩ tới một chuyện, muốn hỏi ý ái khanh!”
Trần Chẩn thấp thỏm ngồi xuống, nhìn Ngụy Huệ Hầu không chớp mắt.
“Quả nhân vừa nãy ngủ gật,” Ngụy Huệ Hầu chậm rãi nói, “trong lúc lơ mơ, lại thấy mình quay trở về triều hội Mạnh Tân. Khanh đoán thử xem, Chu thiên tử đang làm gì? Ông ta đứng trước mặt quả nhân khoe khoang bộ trang phục trên mình. Quả nhân xưa nay chẳng bao giờ chú ý thiên tử mặc trang phục gì, nhưng ông ta cố tình khoe khoang khiến quả nhân động lòng, liếc mắt nhìn thử, quả nhiên lộng lẫy cao quý. Quả nhân muốn hỏi ái khanh, phục sức của thiên tử phải chăng rất đẹp?”
Trần Chẩn rất đỗi ngạc nhiên, ngẫm nghĩ một lát mới đáp: “Theo ghi chép trong ‘Chu lễ’, trang phục của thiên tử rất mực cầu kỳ. Đại khái có thể phân thành hai loại, cát phục và hung phục.”
“Hung phục tạm thời không nói tới, trước hết hãy nói về cát phục!”
“Cát phục có tổng cộng mười loại, một là cừu phục, hai là cổn phục, ba là vũ phục, bốn là thuế phục, năm là hy phục, sáu là huyền phục, bảy là vi biền phục, tám là bì biền phục, chín là…”
“Vi biền phục và bì biền phục là thế nào?” Chưa đợi Trần Chẩn nói xong, Ngụy Huệ Hầu đã cắt ngang. “Chu thất đúng là quá rườm rà. Theo quả nhân biết, thánh hiền thời thượng cổ chỉ có ba loại trang phục, một là biền phục (lễ phục), hai là ti phục (trang phục tơ lụa), ba là ma phục (trang phục vải gai). Biền phục tế trời đất, ti phục thiết triều, ma phục cử hành tang lễ.”
Trần Chẩn dập đầu nói: “Chúa thượng thánh minh. Theo ghi chép trong sách cổ, thượng cổ có ba loại trang phục, thời Hạ có năm loại trang phục, thời Thương có bảy loại trang phục. Cho tới thời Chu, cát phục và tang phục gộp lại, tổng cộng có hơn mười loại.”
“Lễ nghi của nhà Chu quả là phức tạp. Theo ý quả nhân, thiên tử chỉ nên có ba loại trang phục là đủ rồi!”
Trần Chẩn trong lòng đã thấu hiểu: “Chúa thượng noi theo hiền vương thượng cổ, bỏ rườm rà, tìm đơn giản, thấu hiểu lòng dân, xứng danh là đương kim hiền vương!”
Ngụy Huệ Hầu cười ha hả, rồi ngáp dài: “Quả nhân nói vui vậy thôi! Ái khanh hãy lui về, quả nhân mệt rồi, muốn nghỉ ngơi!”
Trần Chẩn bái lạy nói: “Vi thần cáo lui!”
Trần Chẩn trở về phủ, lệnh cho Thích Quang cầm kim bài của Ngụy Huệ Hầu tới dịch quán, cùng với ngũ đại phu Sư Lý Tật mau chóng vào trong ngục. Quan tư hình sau khi kiểm tra kim bài, lệnh cho lính canh ngục áp giải Công Tôn Ưởng ra khỏi nhà lao.
Công Tôn Ưởng mặc trang phục tù nhân, bị cùm chân suốt hai ngày qua, lại phải chịu đựng nỗi giày vò chốn lao tù, cơ thể vô cùng hư nhược, chưa bước nổi vài bước đã loạng choạng suýt ngã. Sư Lý Tật vội chạy lại đỡ Công Tôn Ưởng, khóc mà nói: “Đại lương tạo, hạ quan tới muộn rồi!”
Công Tôn Ưởng gượng đứng vững, đưa ánh mắt nhìn về phía Thích Quang tay cầm kim bài, đang đứng ngoài cửa, ngờ vực hỏi: “Vị này là…”
Sư Lý Tật vội vàng giới thiệu: “Đây là Thích lão quản gia trong phủ Thượng đại phu. Chính ông ta đã mang kim bài tới cứu đại lương tạo.”
Thích Quang bước tới cung kính hành lễ, nói: “Tiểu nhân Thích Quang phụng mệnh chúa công, mời đại lương tạo tạm thời trở về dịch quán nghỉ ngơi! Chúa công còn nói, khi trời tối sẽ chuẩn bị chút rượu nhạt để giúp đại lương tạo tẩy trần!”
Công Tôn Ưởng vái Thích Quang một vái dài, rồi leo lên xe ngựa, nói với Sư Lý Tật: “Tới phủ thượng đại phu!”
Xe ngựa tới ngoài cổng phủ thượng đại phu, Công Tôn Ưởng trong trang phục tù nhân, được Sư Lý Tật dìu vào cổng chính. Người hầu sớm đã vào trong bẩm báo, Trần Chẩn nghe nói Công Tôn Ưởng chưa thay áo tù đã tới bái kiến thì vội ra nghênh đón. Hai người hành lễ xong thì nắm tay nhau bước vào phòng khách. Còn Thích Quang kéo Sư Lý Tật vào phòng bên trò chuyện.
Vừa bước vào phòng khách, Công Tôn Ưởng đã quỳ xuống, dập đầu sát đất nói: “Công Tôn Ưởng khấu kiến thượng đại phu.”
Trần Chẩn vội vã kéo Công Tôn Ưởng đứng dậy: “Đại lương tạo thân phận quyền quý, tại hạ sao dám nhận?”
Công Tôn Ưởng đứng dậy, hai người phân ngôi chủ khách ngồi xuống.
Công Tôn Ưởng vòng tay nói: “Đại ân không nói tạ ơn, tại hạ nợ thượng đại phu một mạng, không thể dùng hai chữ tạ ơn mà bày tỏ cho hết!”
Trần Chẩn cũng vòng tay nói: “Là đại lương tạo phúc dày mạng lớn, Trần Chẩn nào dám kể công!”
“Có câu, thù lớn không gì bằng thù giết cha, ân sâu không gì bằng ân cứu mạng. Đại ân của thượng đại phu, tại hạ không có gì báo đáp, chỉ xin gọi một tiếng Trần huynh!”
Tim Trần Chẩn nảy lên một cái, nhìn kỹ Công Tôn Ưởng, thấy ông ta rất mực chân thành, không hề có vẻ giả dối, trong lòng vô cùng cảm động, buột miệng nói: “Công Tôn huynh!”
Công Tôn Ưởng thấy Trần Chẩn nói vậy, cũng run giọng mà gọi: “Trần huynh!”
Trần Chẩn tự tay đưa một chén trà cho Công Tôn Ưởng: “Công Tôn huynh, mời dùng trà!”
Công Tôn Ưởng cảm tạ Trần Chẩn, đỡ lấy chén trà nhấp một ngụm, lại buông ra vài lời tán thưởng. Hai người khách sáo qua lại một hồi, Trần Chẩn bèn nói: “Công Tôn huynh quý là quyền thần nước Tần, địa vị dưới một người trên vạn người, tại hạ sau này đã có chỗ nhờ cậy!”
Nghe vậy, Công Tôn Ưởng tỏ vẻ không vui: “Trần huynh nói ra lời này hẳn là khinh thường tại hạ?”
Trần Chẩn vội vã cười xoà: “Được rồi, được rồi, hôm nay chúng ta không nói chuyện này! Công Tôn huynh, mời dùng trà!”
Công Tôn Ưởng cũng cười, bưng chén trà lên nhấp một ngụm, nhìn Trần Chẩn, rồi nghiêm mặt nói: “Bất luận Trần huynh cảm thấy thế nào, từ hôm nay trở đi, tại hạ sẽ coi Trần huynh là huynh đệ.”
“Lời Công Tôn huynh, cũng là mong muốn của tại hạ!”
“Đã là huynh đệ, tại hạ muốn dốc lòng tâm sự, không biết Trần huynh có muốn nghe chăng?”
“Công Tôn huynh cứ nói, không phải ngại ngần!”
“Thượng đại phu hiện tại tuy được lòng quân chủ, song địa vị lại không chắc chắn.”
Trần Chẩn sững lại chốc lát: “Xin đại lương tạo nói rõ!”
Giọng Công Tôn Ưởng càng nghiêm trọng hơn: “Nói nhẹ thì là không chắc chắn, còn nói nặng hơn thì…” Nói đến đây, cố tình lấp lửng. Trần Chẩn lòng dạ thấp thỏm, mắt nhìn Công Tôn Ưởng trân trân. Công Tôn Ưởng lúc này mới chậm rãi tiếp lời: “Thì… Ngụy như chồng trứng!”
Nghe thấy câu này, Trần Chẩn lại thở hắt ra, hơi ngả người về phía sau, thái độ có vẻ coi thường: “Công Tôn huynh dựa vào đâu mà nói vậy?”
Công Tôn Ưởng biết Trần Chẩn không phục, bèn hỏi lại thay cho câu trả lời: “Dựa vào tài của Trần huynh, đáng lẽ đã phải ở ngôi tướng quốc. Nhưng kỳ thực tới ngày nay, Trần huynh vẫn chỉ là một thượng đại phu hữu danh vô thực. Nguyên do vì sao, Trần huynh biết chứ?”
Lời nói quả nhiên đã đánh trúng chỗ hiểm. Trần Chẩn trầm ngâm một lát, rồi ngẩng nhìn Công Tôn Ưởng: “Xin Công Tôn huynh chỉ giáo!”
“Theo tại hạ thấy, có hai nguyên nhân. Thứ nhất là vì lão tướng quốc ghen ghét tài năng, xem Trần huynh như kẻ thù, trước mặt quân chủ thường xuyên chèn ép, để tranh giành sự sủng ái của quân chủ. Thứ hai, là do quân chủ!”
Trần Chẩn ngả người về phía trước, không giấu nổi vẻ ngạc nhiên, hỏi: “Ý huynh là sao?”
“Tại hạ trước đây từng ở nước Ngụy nhiều năm, hiểu rõ quân chủ. Tuy quân chủ rất mực hiền minh, song có một điểm tại hạ không phục, đó là dùng người thân không dùng người tài, dùng người kém không dùng người giỏi. Ví như Bạch tướng quốc. Tổ tiên của Bạch Khuê vốn là sủng thần của Văn Hầu, tiên phụ của Bạch Khuê với tiên quân Võ Hầu danh là quân thần, nhưng tình như huynh đệ. Cũng chính nhờ vào quân chủ, Bạch gia mới có thể tự tung tự tác, giàu có nghiêng ngửa, leo lên tới chức khanh tướng. Hay như Chu tư đồ, anh rể của Chu tư đồ là cựu tướng quốc Công Thúc Toạ, nếu luận về quan hệ thân thích, thì Chu Uy còn là bậc chú của quân chủ. Hiện tại quân chủ trọng dụng hai người này, cho một người cai quản bá quan, một người cai quản bách tính. Thử hỏi Trần huynh, nếu quân chủ không phải dùng người theo mối quan hệ thân thích, thì tại sao thực quyền trong triều chỉ nằm trong tay hai người này?”
Trần Chẩn khâm phục, gật gù thừa nhận: “Phải, phải, Công Tôn huynh nói rất đúng!”
Công Tôn Ưởng nhân đà nói tiếp: “Theo tại hạ biết, bá quan trong triều đều có quan hệ thân thích nội ngoại với Ngụy thất, duy có Trần huynh là dựa vào tài năng mà được trọng dụng. Dùng tài leo cao, ắt có kẻ đố kỵ. Đừng nói là Bạch tướng quốc, dù là Chu Uy, liệu ông ta ta có thực sự phục Trần huynh hay không? Hiện tại Trần huynh còn được quân chủ sủng ái, song vạn nhất có điều sơ sảy thì tình cảnh của Trần huynh chẳng phải là Ngụy như chồng trứng hay sao?”
Trần Chẩn hít ngược một hơi khí lạnh, vươn người ra phía trước mà hỏi: “Theo Công Tôn huynh, hoàn cảnh hiện tại của tại hạ còn có thể cứu vãn chăng?”
Công Tôn Ưởng mỉm cười, chỉ ra tử huyệt của Trần Chẩn: “Lời tại hạ nói, kỳ thực Trần huynh sớm đã hiểu rõ. Nếu không, Trần huynh hà cớ phải mạo hiểm mở tửu lầu? Trần huynh là người mang chí lớn, nếu không phải vì muốn mở rộng việc kết giao, chẳng nhẽ lại là vì kiếm chút tiền cỏn con ư?”
Nghe Công Tôn Ưởng nhắc tới lầu Nguyên Hanh, Trần Chẩn mặt cắt không còn hạt máu, một lúc lâu sau mới nói: “Công Tôn huynh có gì chỉ giáo, tại hạ xin được rửa tai lắng nghe!”
“Trần huynh, thứ lỗi cho tại hạ nói thẳng, chỉ một tửu lầu này, e rằng còn lâu mới đủ. Kẻ áo vải như chúng ta nếu muốn thăng tiến, ắt phải thấu hiểu lòng quân chủ, làm ra chuyện kinh thế hãi tục. Như tại hạ năm xưa khi ở Ngụy có khác gì Trần huynh bây giờ, tuy dốc lòng tận tụy, song mãi vẫn không được trọng dụng, bất đắc dĩ mới phải sang Tần. Sau khi sang Tần, tại hạ vắt óc suy nghĩ nhiều tháng trời, mới đoán ra được tâm tư của đương kim quân chủ, thôi thúc quân chủ biến pháp cải chế, vì thế ngày nay mới có được thành tựu vẻ vang.”
Trần Chẩn gật đầu: “Theo Công Tôn huynh, hiện tại tâm tư quân chủ đang ở đâu?”
Công Tôn Ưởng mỉm cười: “Người hiểu rõ lòng quân chủ, chẳng ai hơn được Trần huynh, Trần huynh hà tất phải hỏi câu này?”
Trần Chẩn cũng cười mà nói: “Được trò chuyện cùng Công Tôn huynh, quả là một chuyện sảng khoái hiếm có trong đời!”
Công Tôn Ưởng một lời trúng tim: “Trần huynh lần này nếu có thể thuận ứng lòng quân chủ, trợ giúp quân chủ hoàn thành vương nghiệp, không chỉ công lao sánh với Tử Nha, mà còn lưu danh sử sách muôn đời.”
“Nếu được như vậy, đều là nhờ công của Công Tôn huynh đây!”
“Là công của Tần Công! Tại hạ còn có một thỉnh cầu, mong Trần huynh giúp đỡ!”
Trần Chẩn mỉm cười nói: “Chỉ cần giúp được, tại hạ sẵn sàng hiến chút sức mọn.”
“Tại hạ từ lâu đã ngưỡng mộ danh tiếng thượng tướng quân, rất muốn kết giao. Nghe nói thượng tướng quân và Trần huynh có mối quan hệ thân thiết, tại hạ muốn nhờ Trần huynh giúp cho việc này.”
Sắc mặt Trần Chẩn bỗng tối sầm lại: “Ồ… Công Tôn huynh có lẽ không biết, thượng tướng quân một lòng muốn giết Công Tôn huynh để tế cờ, tại hạ vì cứu huynh ra đã khiến tướng quân giận dữ tới mức muốn băm vằm tại hạ thành muôn mảnh!”
Công Tôn Ưởng cười ha hả mà nói: “Tại hạ đến đây cũng là vì chuyện này. Trần huynh và thượng tướng quân vốn là tri kỷ, lần này nếu vì tại hạ mà căng thẳng, tại hạ sao dám yên lòng? Sư Lý đại phu!”
Sư Lý Tật đang trò chuyện với Thích Quang ở phòng bên, nghe thấy tiếng gọi vội vã chạy lại.
“Mang hai chiếc hòm trên xe lại đây!”
Một lát sau, vài người khiêng theo hai hòm lễ vật tiến vào, sau khi đặt xuống, lập tức rút lui.
Công Tôn Ưởng mở một chiếc hòm, bên trong đựng đầy vàng. Công Tôn Ưởng chỉ vào hòm lễ vật, nói: “Chút lễ mọn này, mời thượng đại phu chuyển tới thượng tướng quân, xin thượng tướng quân bớt giận! Còn nữa, xin thượng đại phu bẩm lên thượng tướng quân, tại hạ muốn mở tiệc rượu nhạt ở lầu Nguyên Hanh để cảm tạ ân đức của thượng tướng quân đã không giết tại hạ!”
Trần Chẩn liếc nhìn hòm lễ vật, cười cười nói: “Công Tôn huynh, trong nhà thượng tướng quân không thiếu những thứ này!”
Công Tôn Ưởng gật đầu nói: “Thứ thượng tướng quân còn thiếu, dựa vào tài trí của Trần huynh, không cần tại hạ phải nói ra. Có điều chút lễ mọn này chẳng qua là lễ ra mắt mà thôi!”
Trần Chẩn, Công Tôn Ưởng bốn mắt nhìn nhau, bật cười thành tiếng. Công Tôn Ưởng mở nốt chiếc hòm còn lại, rồi mỉm cười nói: “Đại ân của Trần huynh, không tiền bạc nào báo đáp nổi. Chút châu báu này tuy ít ỏi, song là thành ý của tại hạ, mong Trần huynh nhận lấy!”
Trần Chẩn nhìn hòm chầu báu đầy ắp, không giấu nổi sửng sốt: “Chuyện này…”
Công Tôn Ưởng đứng dậy, vòng tay cáo từ: “Thượng đại phu bận trăm công nghìn việc, tại hạ không dám quấy rầy thêm. Hôm nay giữ được mạng sống, tại hạ cũng muốn quay về nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, không lại phụ sự vất vả của Trần huynh!”
Trần Chẩn cũng đứng dậy vòng tay nói: “Công Tôn huynh đã muốn về, tại hạ không dám giữ!”
Trần Chẩn tiễn Công Tôn Ưởng ra ngoài cửa, đợi Sư Lý Tật đánh xe ngựa đi khuất mới nhìn Thích Quang, thốt lên một câu cảm phục: “Người này quả thật tinh minh!”
Thích Quang vẻ khinh khinh nói: “Tinh minh cái gì? Nếu không phải nhờ chúa công cứu mạng, hắn đã lên đường tới suối vàng rồi!”
Trần Chẩn trừng mắt với Thích Quang, rồi căn dặn: “Đậy hòm kia lại, theo ta tới phủ thượng tướng quân!”
Thích Quang biết mình lại lỡ lời, “vâng” khẽ một tiếng, rồi vội vã đi chuẩn bị xe.
Chủ tớ hai người đánh xe thẳng tới phủ thượng tướng quân, song bị hai tên vệ sĩ cầm mác cản đường. Trần Chẩn vốn là khách thường xuyên lui tới phủ thượng tướng quân, các vệ sĩ đều quen mặt nên xưa nay ra vào thoải mái, chưa từng bị ngăn cản. Hôm nay xảy ra chuyện này, Trần Chẩn trong lòng hiểu rõ, lập tức xuống xe, vòng tay hành lễ: “Làm phiền tướng sĩ bẩm báo với thượng tướng quân, có thượng đại phu Trần Chẩn cầu kiến!”
Một tên vệ sĩ nói: “Bẩm thượng đại phu, thượng tướng quân có lệnh, nếu Trần Chẩn tới, bảo ông ta về! Thượng đại phu hãy mau về đi, đừng làm khó cho tiểu nhân!”
Trần Chẩn đưa mắt ra hiệu, Thích Quang hiểu ý, bước lên một bước, vừa cười hề hề vừa móc ra hai đĩnh vàng từ trong ống tay áo, dúi vào tay vệ sĩ: “Thượng tướng quân đùa đấy, các ngươi tưởng thật ư?”
Không ngờ tay vệ sĩ gạt đĩnh vàng đi, nghiêm mặt nói: “Thượng tướng quân có lệnh, tiểu nhân dùng tay nào cầm vàng của thượng đại phu thì sẽ chặt đứt tay đó!” Rồi nhìn Trần Chẩn với vẻ mặt bất đắc dĩ. “Thượng đại phu hãy mau về đi, tiểu nhân cầu xin ông đấy!”
Trần Chẩn thoáng ngạc nhiên, rồi gật đầu cười mà nói: “Được rồi, ta đi ngay đây, không làm khó hai vị nữa! Có điều, ta có chuyện riêng muốn nói với lão quản gia, hai vị có thể mời ông ta ra đây được không?”
Hai tên lính liếc nhìn nhau, rồi một tên nói: “Xin thượng đại phu đợi một lát!”
Loáng một cái, quản gia của phủ thượng tướng quân đã rảo bước đi ra. Trần Chẩn vái một vái rồi nói: “Trần Chẩn tham kiến lão quản gia!”
Lão quản gia đáp lễ: “Tiểu nhân không biết thượng đại phu tới, thất lễ không ra nghênh đón!”
“Trần Chẩn có vật này, phiền lão quản gia chuyển tới thượng tướng quân giúp!”
Trần Chẩn vừa nói dứt lời, Thích Quang lôi từ trong ống tay áo ra một túi lụa, đưa cho quản gia. Quản gia đỡ lấy, quay người trở bước vào trong. Trần Chẩn cũng không nói gì thêm, lên xe ngựa, ra rồi trở về.
Đi chưa được bao xa, Thích Quang quất mạnh một roi vào mông ngựa, con ngựa lập tức tung vó lao vút đi. Sau khi xả hết nỗi tức tối, Thích Quang quay lại nhìn Trần Chẩn nói: “Chúa công, thượng tướng quân thực chẳng ra sao. Chúng ta biếu lễ vật hậu hĩnh như vậy, đã chẳng cảm ơn, chẳng nói năng gì, còn không cho vào cửa, trên đời này lại có chuyện như thế chăng?”
Trần Chẩn cười nói: “Ngươi chạy nhanh như vậy, thượng tướng quân muốn mời ngươi vào cửa, e rằng cũng không đuổi kịp!”
Thích Quang nghe vậy vội ghìm ngựa, cho xe đi chậm lại. Quả nhiên, đi chưa được bao xa, bỗng thấy một con ngựa phi nước đại đuổi theo, dừng lại bên cạnh cỗ xe của họ. Người cưỡi ngựa vòng tay vái Trần Chẩn mà nói: “Thượng đại phu, thượng tướng quân có lời mời!”
Hai người liền quay trở lại phủ thượng tướng quân. Lão quản gia đã đứng đợi sẵn ở cửa, nghênh đón Trần Chẩn đưa vào phòng khách. Thượng tướng quân công tử Ngang ngồi ngay ngắn phía trước bàn thấp, trên bàn đặt chiếc túi vải lụa đã được mở ra. Trong túi lụa chỉ có một tấm thẻ tre, bên trên viết một hàng chữ nhỏ: “Không đánh chưa hẳn bất lợi”.
Trần Chẩn quỳ xuống, dập đầu nói: “Hạ quan Trần Chẩn khấu kiến thượng tướng quân!”
Công tử Ngang chẳng nói chẳng rằng, im lặng một lát rồi chỉ vào hàng chữ trên thẻ tre: “Thượng đại phu, bản công tử hỏi ông, thế này là có ý gì?”
“Đánh chưa chắc đã có lợi!”
Công tử Ngang trầm ngâm suy nghĩ, vẫn không hiểu ý: “Xin nói rõ!”
“Thượng tướng quân!” Không đợi công tử Ngang cho phép, Trần Chẩn đã tự động đứng dậy, ngồi xuống vị trí khách, chậm rãi nói. “Thứ mà thiên hạ tranh giành, người người theo đuổi, không gì ngoài một chữ ‘lợi’. Đối với công tử, tiền bạc châu báu không thiếu, địa vị tướng quốc cũng không phải là sở cầu của công tử, vị trí thái tử lại không dễ dàng tiếm việt trong chốc lát. Ngoài ra, công tử đã là chủ soái ba quân, có muốn thăng tiến nữa cũng không thể. Tại hạ xin hỏi, cho dù thảo phạt Tần thành công, công tử sẽ có được gì?”
Công tử Ngang ngẩn ra một lát, hồi lâu sau mới nói: “Chuyện này… bản công tử chưa từng nghĩ tới!”
Trần Chẩn mỉm cười: “Xin hỏi tiếp công tử, đánh hay không, quyết định đều ở chúa thượng. Công tử có hiểu tâm tư của chúa thượng chăng?”
Công tử Ngang nhìn Trần Chẩn, ngẩn ngơ không hiểu.
“Công tử có biết vì sao chúa thượng cho triệu Long Giả từ Hà Tây về không?”
“Tuyên thệ tế cờ trước khi xuất quân! Long Giả thân là phó tướng, triệu ông ta về đâu có gì lạ?”
“Không phải, không phải!” Trần Chẩn lắc đầu quầy quậy. “Tế cờ chẳng qua là nghi thức, chỉ cần có chủ tướng là công tử đã đủ rồi.”
Công tử Ngang chột dạ, đưa ánh mắt dò hỏi nhìn thẳng vào Trần Chẩn.
Trần Chẩn dõng dạc: “Chúa thượng triệu hồi Long Giả, lại tăng cường cho hắn năm vạn quân, chỉ có thể chứng tỏ một việc, đó là trong lòng chúa thượng vẫn lo lắng chuyện thảo phạt Tần. Còn vì sao lại lo lắng, công tử là người hiểu rõ, không cần hạ quan phải nói ra. Đúng vào lúc này, Tần Công lại sai Công Tôn Ưởng tới cầu hoà, nguyện được xưng thần. Không chiến mà kẻ địch đã khuất phục, chuyện hay như vậy chúa thượng đương nhiên vui mừng không hết, cớ sao lại phải mạo hiểm mà nhất quyết thảo phạt?”
Công tử Ngang trầm ngâm suy nghĩ, rồi lẩm bẩm: “Thảo nào phụ vương chậm trễ không tới tế cờ, hoá ra nguyên do là đây!” Một lát sau, ánh mắt từ từ di chuyển tới hàng chữ “không đánh chưa hẳn bất lợi” trên tấm thẻ tre, rồi lại tiếp tục nhìn sang Trần Chẩn, có ý dò hỏi.
Trần Chẩn đã hiểu ý, cười cười mà nói: “Công tử giờ đây có lẽ đã hiểu ra ý nghĩa sâu xa của câu này. Nếu thảo phạt Tần, dù chiến thắng, thứ công tử nhận được cũng chỉ là hư danh. Lỡ chẳng may chiến bại, công tử chỉ có thể lãnh kết cục ‘thân bại danh liệt, công lao toàn huỷ’.”
Nghe thấy tám chữ “thân bại danh liệt, công lao toàn huỷ”, công tử Ngang bất giác rùng mình ớn lạnh.
“Nói đi cũng phải nói lại, nếu không thảo phạt Tần, công tử ngược lại sẽ được nhiều cái lợi!”
Công tử Ngang mắt sáng rực: “Có lợi gì?”
Trần Chẩn vỗ tay. Lập tức hai người khiêng hòm lễ vật mà Công Tôn Ưởng dâng tặng vào, rồi lui ra ngoài.
Công tử Ngang đứng dậy mở nắp hòm, nhìn một lượt bên trong, cười khẩy mà nói: “Cái lợi mà thượng đại phu nói, chỉ là chút lễ vật cỏn con này thôi sao?”
Trần Chẩn khẽ lắc đầu.
Công tử Ngang thoáng ngạc nhiên, hỏi: “Không phải thứ này, còn có gì nữa?”
Trần Chẩn hơi ngả người ra phía sau, chậm rãi nói: “Người Tần tới đây, không chỉ quỳ gối xưng thần, mà còn ủng hộ chúa thượng xưng vương. Công tử có lẽ đã nhìn ra, chúa thượng sớm đã có ý muốn xưng bá thiên hạ, chẳng qua là không nói ra mà thôi. Nếu công tử thuận theo ý muốn của chúa thượng, giúp chúa thượng thành tựu vương nghiệp, sẽ trở thành trọng thần khai quốc, công lao sánh ngang Chu Công, Thiệu Công, ghi danh sử sách muôn đời. Chúa thượng xưng vương, công tử tự khắc sẽ được quy công phong hầu, cao thì có thể được ngôi thái tử, kế thừa đại nghiệp: thấp thì cũng sánh ngang với Triệu Hầu, Hàn Hầu! Đây là đại lợi trăm năm khôn gặp!”
Trần Chẩn nói xong, công tử Ngang hít sâu một hơi, vòng tay nói: “Trần huynh đúng là kỳ tài có một không hai, Ngụy Ngang xin thụ giáo!”
Trần Chẩn cũng vòng tay đáp lễ, nói: “Hạ quan chẳng qua là kẻ thất phu, còn phải cần cậy nhờ công tử cất nhắc.”
Công tử Ngang bật cười ha hả: “Trần huynh yên tâm, ta và huynh kết giao nhiều năm, tất nhiên có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia.”
“Cảm tạ công tử nâng đỡ. Buổi chiều hạ quan có gặp một người trên đường, hai bên trò chuyện rất tâm đầu ý hợp. Khi nhắc tới tài năng của công tử, người này vô cùng ngưỡng mộ, tỏ ý muốn bày một bữa rượu nhạt ở lầu Nguyên Hanh, mong được kết giao với công tử, không biết ý công tử thế nào?”
“Ồ, lầu Nguyên Hanh ư? Nghe nói ở đó vừa có quốc sắc thiên hương, lại có thức ngon rượu ngọt, bản công tử cũng đang muốn tới đó xem thử. Nhưng uống rượu cũng phải uống cho rõ ràng, bản công tử thực sự muốn biết người nào có nhã ý tốn kém như vậy?”
Trần Chẩn nói khẽ: “Công Tôn Ưởng!”
Công tử Ngang sững lại, ngẩng nhìn Trần Chẩn, một lát sau, mới bật cười vang “Không tốn tiền rượu, tội gì không đi!”
Ngay ngày hôm đó, trời vừa sẩm tối, xe ngựa của công tử Ngang, Trần Chẩn đã đỗ xịch trước lầu Nguyên Hanh. Hai người bước vào bên trong, ông chủ Lâm tất tả chạy ra nghênh đón, đưa lên nhã thất tầng hai. Công Tôn Ưởng và Sư Lý Tật đã đợi sẵn ở đó. Sau một hồi hàn huyên, Trần Chẩn gọi người bưng rượu và đồ ăn lên, Công Tôn Ưởng tay cầm bình rượu, đích thân rót liền ba chén cho công tử Ngang, rồi lần lượt nâng lên mời.
Công tử Ngang cũng không khách khí, uống liền một mạch ba chén, Công Tôn Ưởng lại rót thêm một chén nữa, tiếp tục nâng lên. Công tử Ngang đưa tay đỡ lấy, rồi nói: “Đại lương tạo, ba người các vị chưa động đến một giọt, bản công tử đã uống liền ba chén, lại còn rót tiếp, Nguyên do là đâu?”
“Đương nhiên là có nguyên do!” Công Tôn Ưởng cười vang rồi nói. “Ba chén rượu đầu, chén thứ nhất là Công Tôn Ưởng thay Tần Công kính công tử. Chén thứ hai là Công Tôn Ưởng thay điện hạ nước Tần kính công tử. Chén thứ ba là Công Tôn Ưởng thay ba trăm tám mươi vạn người dân nước Tần kính công tử. Chỉ có chén rượu này mới thực sự là Công Tôn Ưởng kính thượng tướng quân!”
Công tử Ngang khựng lại một thoáng, rồi từ chối: “Lý do của đại lương tạo không thoả đáng, nên phạt một chén!”
“Thượng tướng quân, vì sao lại nói vậy?”
“Chúng ta ở đây uống rượu, chẳng liên quan gì tới Tần Công, điện hạ nước Tần và bách tính nước Tần, hà cớ gì họ phải kính rượu?”
“Sao lại nói không liên quan? Nếu không phải thượng tướng quân đã động lòng trắc ẩn vào thời khắc quan trọng cuối cùng, thì nước Tần vài hôm nữa hẳn sẽ trở thành một trường đổ nát, xác chết ngổn ngang. Đại công đại đức như vậy, đừng nói là ba chén rượu, dù dựng bia công đức bằng vàng ròng cũng là xứng đáng!”
Nghe được lời này, công tử Ngang bỗng cảm thấy trong lòng rạo rực, bèn cướp lấy bình rượu, rót một chén cho Công Tôn Ưởng, nói: “Được Tần Công, điện hạ và bách tính nước Tần xem trọng, thực sự khiến bản công tử cảm thấy áy náy. Bản công tử hồi kính một chén, mời đại lương tạo thay họ nhận giúp.”
Công tử Ngang hai tay nâng chén rượu, Công Tôn Ưởng đỡ lấy, chạm chén với công tử Ngang, rồi cùng uống cạn.
Rượu hơn chục tuần, bốn người công tử Ngang, Trần Chẩn, Công Tôn Ưởng và Sư Lý Tật đều đã ngà ngà say. Chủ quán Lâm cho gọi nhạc công và vũ nữ lại biểu diễn mua vui.
Công Tôn Ưởng đầu lưỡi đã hơi tê dại, song vẫn nâng chén: “Từng nghe, thượng tướng quân thịnh nộ cả thiên hạ kinh tâm, hôm nay gặp mặt mới biết câu này quả không sai. Xin mời, Công Tôn Ưởng lại kính thượng tướng quân một chén!”
Công tử Ngang lưỡi cũng đã cứng lại, song vẫn nâng chén mà nói: “Đại lương tạo đã quá khen Ngụy Ngang rồi!”
“Người khen ngợi thượng tướng quân không phải Công Tôn Ưởng, mà là Tần Công!”
“Ồ!” Công tử Ngang ngạc nhiên. “Tần Công nói thế nào kia?”
Công Tôn Ưởng vẻ trịnh trọng: “Trong thiên hạ hiện nay, Tần Công khâm phục nhất chỉ có một người, chính là thượng tướng quân đây!”
“Đại lương tạo không nói quá đấy chứ?”
“Lời Ưởng nói đều là sự thực. Có một hôm, Ưởng đang ngồi bàn quốc sự với Tần Công, đột nhiên Tần Công hỏi Ưởng, có biết Ngụy Hầu dựa vào đâu mà hùng bá thiên hạ chăng? Ưởng suy nghĩ hồi lâu mà không biết trả lời ra sao. Tần Công nói, muốn hùng bá thiên hạ, trước hết ở nhân tài. Sở dĩ Ngụy Hầu độc chiếm thiên hạ, là vì bên cạnh có hai đại nhân tài. Một người là công tử Ngang, có thể coi là hào kiệt đương thế; một người là Trần Chẩn, có thể coi là anh tài đương đại.”
Công tử Ngang sắc mặt sáng bừng, tinh thần rạng rỡ: “Nghe nói Tần Công con mắt tinh đời, xem ra lời đồn quả không sai. Được, chén rượu này Ngụy Ngang xin uống!” Nói xong đỡ lấy chén rượu, một hơi uống cạn.
Công Tôn Ưởng liếc nhìn một mỹ nữ đang nhảy múa bên cạnh, nửa đùa nửa thực mà nói: “Tự cổ anh hùng yêu mỹ nữ, thượng tướng quân đây xét về hùng tài võ lược đương nhiên không cần phải bàn, không biết về phần mỹ sắc…”
Trần Chẩn mỉm cười nói: “Công Tôn huynh có điều không biết, thượng tướng quân ngoài tài võ lược, còn có hai kỳ tài nữa, một là tửu, hai là sắc!”
Công Tôn Ưởng buột miệng nói: “Ồ! Tại hạ tửu lượng tuy tệ, song rất hiếu sắc. Đáng tiếc là, tại hạ chỉ hiếu sắc mà không am hiểu sắc. Hôm nay may mắn gặp thượng tướng quân đây, mong thượng tướng quân chớ tiếc công dạy bảo!”
“Xin đại lương tạo chớ chê cười Ngụy Ngang!” Công tử Ngang vòng tay khách sáo một câu, rồi bắt đầu thao thao bất tuyệt: “Nếu nói về mỹ nữ trong thiên hạ, đương nhiên mỗi nơi có đặc sắc riêng. Nhìn chung, gái Sở hát hay, gái Triệu múa giỏi, gái Tề hiền thục, gái Yên đa tình, gái Hồ kiều mỵ…”
Công Tôn Ưởng gật đầu tán thành: “Khâm phục, khâm phục! Thượng tướng quân đúng là người sành sỏi. Vậy còn gái Ngụy và gái Tần thì thế nào?”
“Gái Ngụy ngắm lâu lại không thấy có gì đặc sắc. Còn gái Tần, ta chỉ dùng hai chữ, tuyệt diệu!”
Công Tôn Ưởng nghe tới đây, bật cười mà nói: “Công tử nói đùa rồi. Tại hạ sống ở đất Tần hơn chục năm, chưa nhận ra gái Tần có điểm nào tuyệt diệu!”
“Gái Tần tuyệt diệu, vì gái Tần khó cầu!”
Công Tôn Ưởng vừa cười vừa hỏi Sư Lý Tật: “Ngũ đại phu, Ưởng là người Vệ, không hiểu đất Tần. Ngũ đại phu là dân Tần chính gốc, hãy nói thử xem, gái Tần quả thực khó cầu lắm ư?”
Sư Lý Tật cười nói: “Sư Lý Tật từ thuở cha sinh mẹ đẻ sợ nhất là đàn bà, đến nhìn còn không dám, nói gì tới cầu?”
Công tử Ngang chỉ tay vào Sư Lý Tật, cười ha hả mà nói: “Thế nào, bản công tử nói không sai chứ! ‘Thi’ viết rằng: ‘Lau xanh ngăn ngắt, móc trắng làm sương. Người ta nói tới, cách dòng một phương. Ngược dòng tìm mãi, trắc trở đường trường’.(2) Bài này thuộc ‘Tần phong’, chẳng phải ý nói gái Tần khó cầu ư?”
Công Tôn Ưởng lại bật cười mà nói: “‘Người ta nói tới’, chắc hẳn là chỉ công tử đấy thôi. Con gái Tần dù có tâm tìm đến, e rằng cũng chỉ ‘trắc trở đường trường’ mà thôi!”
Công tử Ngang lờ đờ đôi mắt ngà ngà: “Công Tôn huynh đã nói vậy, bản công tử sẽ mở miệng cầu thật đấy!”
“Nếu có ai lọt vào mắt xanh công tử, tại hạ xin dốc lòng trợ giúp!”
Công tử Ngang nhìn sang bên cạnh, phẩy nhẹ tay một cái, đám nhạc công, vũ nữ lập tức lui ra hết. Công tử Ngang hơi ngả người về phía trước, hạ thấp giọng nói: “Thiên hạ đồn rằng, trên đời có hai bậc tuyệt sắc giai nhân, Công Tôn huynh đã từng nghe nói tới chưa?”
Công Tôn Ưởng cũng ngả người lại gần: “Tại hạ kiến thức nông cạn, xin công tử nói rõ!”
“Một người là công chúa nhà Chu, tên gọi Cơ Tuyết, nghe nói dung nhan chim sa cá lặn. Còn người kia là công chúa nước Tần, tên gọi Tử Vân, tương truyền nhan sắc tuyệt trần, hoa nhường nguyệt thẹn!”
Công Tôn Ưởng thầm kinh hãi trong lòng, song ngoài miệng vẫn nói: “Nghe lời công tử, lẽ nào đối với Tử Vân công chúa…”
Công tử Ngang vội vòng tay vái mà nói: “Đại lương tạo giúp được việc này, Ngụy Ngang tất có hậu báo!”
Công Tôn Ưởng đảo mắt, rồi cười ha hả mà nói: “Anh hùng biết mỹ nhân, mỹ nhân sánh anh hùng. Thượng tướng quân đã ưng Tử Vân công chúa, việc này cứ để Công Tôn Ưởng lo liệu.”
Công tử Ngang trong lòng thấp thỏm: “Không biết Tần Công…”
Công Tôn Ưởng lại cười lớn mà nói: “Tần Công có được rể tốt như thượng tướng quân đây, không biết sẽ vui mừng tới mức nào. Công tử yên tâm, đợi tại hạ tìm được cơ hội sẽ xin bệ hạ cho kết thông gia. Chỉ cần bệ hạ đồng ý, Công Tôn Ưởng Nguyện làm mai mối giúp công tử!”
Công tử Ngang đứng dậy, khấu đầu bái tạ: “Ngụy Ngang cảm tạ đại lương tạo giúp đỡ!”
Trên đường trở về dịch quán, Sư Lý Tật nhìn Công Tôn Ưởng, sắc mặt hết sức băn khoăn: “Công tử Ngang chơi bời nức tiếng, là phường vô dụng bất tài, vậy mà đại lương tạo còn hứa giúp hắn thành thân với Tử Vân công chúa, chẳng khác nào đem hoa nhài cắm bãi phân trâu!”
Công Tôn Ưởng khẽ thở dài một tiếng: “Việc này quả thực cũng là bất đắc dĩ!”
Sư Lý Tật càng nghe càng không hiểu: “Bất đắc dĩ?”
“Công tử Ngang đối với Ngụy là đồ vô dụng, song đối với Tần lại là bảo bối trời ban!”
Sư Lý Tật càng kinh ngạc hơn: “Bảo bối trời ban?”
Công Tôn Ưởng khẽ gật đầu.
Sư Lý Tật vò đầu bứt tóc hồi lâu mới nói: “Theo hạ quan được biết, công tử Ngang tiếng là thượng tướng quân, song trong tay lại không nắm thực quyền, ba quân tướng sĩ hầu như đều nằm trong tay Long Giả và Bùi Anh. Chức thượng đại phu lại càng là hư danh, tất cả quyền bính trong triều đều do Bạch tướng quốc nắm giữ.”
Công Tôn Ưởng cười nói: “Ngươi chỉ nhìn được bấy nhiêu thôi sao? Ngụy Anh đa nghi, thực quyền trong cung Ngụy trên danh nghĩa là do quyền thần Bạch Khuê, Long Giả nắm giữ, song kỳ thực đều thâu tóm cả trong tay ông ta. Trong lòng Ngụy Anh, xem ra nói lọt tai chỉ có Trần Chẩn, dùng thuận tay chỉ có công tử Ngang. Hai người này một trái một phải, một văn một võ, vừa hay là hai cánh tay trợ giúp đắc lực bên Ngụy Anh. Hai người này nếu dùng được cho ta thì Ngụy Anh có không muốn nghe cũng phải thuận theo.”
Sư Lý Tật vô cùng khâm phục: “Đại lương tạo quả có con mắt nhìn xa trông rộng, hạ quan thán phục! Song hạ quan lo rằng, liệu hai kẻ đó có thực sự nghe theo ta không?”
Công Tôn Ưởng cười tủm tỉm: “Nói thế này đi, chúng giống như hai con chó, chỉ cần chúng ta liên tục ném xương cho chúng, ngươi nói thử xem, liệu chúng có ngoan ngoãn nghe lời ta không?”
Sư Lý Tật sửng sốt: “Ném xương? Xương gì?”
Công Tôn Ưởng cười vang: “Thứ xương này, chúng ta cần phải cân nhắc kỹ càng!”
Hai người Công Tôn Ưởng vừa rời đi, Trần Chẩn bèn bố trí cho công tử Ngang sang một nhã phòng khác, dặn dò Thích Quang: “Hôm nay thượng tướng quân gặp may, ngươi bảo ông chủ Lâm sắp xếp hai tay chơi đến bồi tiếp thượng tướng quân vui chơi thoả thích!”
Thích Quang vâng một tiếng, rồi lui ra ngoài sắp xếp. Nhìn thấy trong phòng không còn ai, Trần Chẩn cười nói với công tử Ngang: “Thượng tướng quân, người đi nước cờ này quả nhiên tuyệt diệu!”
Công tử Ngang ngạc nhiên nhìn Trần Chẩn: “Nước cờ nào kia?”
Trần Chẩn lại cười, chậm rãi nói: “Nước cờ vừa rồi! Thượng tướng quân xem, một câu nói vu vơ, không những có được người đẹp, mà còn kết thân được với Tần Công. Thượng tướng quân có được Thái Sơn là Tần Công, thiên hạ liệt quốc còn ai không ngưỡng mộ?”
Công tử Ngang sực tỉnh, vội vòng tay vái: “Nói tới chuyện này, thực sự phải cảm tạ người mai mối là ông.”
Trần Chẩn nghe được câu này, không bỏ lỡ thời cơ, lập tức tiếp lời: “Nếu đúng thượng tướng quân muốn ban thưởng cho hạ quan, xin ban thưởng thứ gì thực dụng một chút!”
“Thượng đại phu muốn gì, xin cứ nói thẳng!”
Trần Chẩn thở dài một tiếng rồi nói: “Hạ quan không biết vì cớ gì mà đắc tội với Bạch tướng quốc, chỗ nào cũng bị tướng quốc chèn ép. Hạ quan trong lòng không cam chịu, song chức thấp lời mọn, có oán hờn cũng không biết bày tỏ cùng ai.”
Công tử Ngang gật đầu nói: “Thượng đại phu nói rất đúng. Một là lão Bạch Khuê, hai là lão Long Giả, trong triều sớm tối lượn lờ hai chòm râu trắng ấy, sao chẳng ấm ức bực bội?”
Trần Chẩn liếc nhìn công tử Ngang, lại thở dài một tiếng: “Hiện tại chúa thượng chỉ nghe lời hai người họ, dù hạ quan và thượng tướng quân muốn thi triển tài năng, cũng khó lắm thay!”
Công tử Ngang trầm ngâm một lúc, rồi nói: “Lão Bạch Khuê chiếm chỗ mà chẳng làm được cái thá gì, vị trí tướng quốc của lão có lẽ sắp kết thúc được rồi!”
Trần Chẩn lại thở dài thườn thượt: “Kết thúc cũng có ích gì? Hạ quan nghe nói tướng quốc sớm đã tìm được người thay thế!”
Công tử Ngang ngạc nhiên hỏi: “Ai?”
“Chu Uy!”
“Ông nói là Chu tư đồ ư?” Công tử Ngang bật cười. “Sao có thể là ông ta được? Trong mắt bản công tử, vị trí này chỉ có một người thích hợp, chính là thượng đại phu Trần Chẩn!”
Trần Chẩn khấu bái sát đất: “Hạ quan khấu tạ ân đức tái sinh của công tử!”
Công tử Ngang kéo Trần Chẩn đứng dậy: “Đứng lên! Đứng lên! Sao ông phải làm như vậy? Bản công tử còn có một chuyện muốn hỏi ông!”
“Thượng tướng quân có gì chỉ bảo, hạ quan xin được phụng mệnh!”
“Buổi chiều ông có nói tới chuyện xưng vương, có thực quân phụ muốn như vậy không?”
“Chúa thượng có ý đó hay không, hạ quan xin kể ra một chuyện, thượng tướng quân nghe xong khắc biết. Vào ngày tế cờ, sau khi thượng tướng quân rời đi, hạ quan cũng cáo lui. Chúa thượng đã giữ hạ quan lại, kể với hạ quan rằng trong khi ngủ gật, mơ thấy Chu thiên tử khoe khoang vương phục trên người. Sau đó, chúa thượng hào hứng bàn về các loại vương phục với hạ quan, phê phán nghi lễ Chu thất rườm rà phức tạp.”
Công tử Ngang ngẩn ra: “Vậy thì sao? Quân phụ xưa nay luôn chê bai nghi lễ Chu thất rườm rà. Những lời phê phán kiểu này, bản công tử đã nghe nhiều lần rồi!”
“Xin thượng tướng quân nhớ lại một chi tiết!” Trần Chẩn tiến lên trước một bước. “Hôm đó Công Tôn Ưởng vào triều, mở miệng đã gọi ‘bệ hạ’, rõ ràng là lời nói của loạn thần tặc tử, song chúa thượng lại không hề trách cứ, chỉ trách ông ta không hiểu lễ nghi. Sau đó, Công Tôn Ưởng hết lời ủng hộ chúa thượng xưng vương, chúa thượng ngoài miệng phản đối, song trong lòng lại rất vui vẻ.”
“Đã như vậy, vì sao quân phụ lại chọn hắn làm vật tế cờ vào ngày hôm đó?”
“Đó chính là vì thượng tướng quân! Tướng quân là người chúa thượng coi trọng, hôm đó thượng tướng quân một lòng muốn trị tội Công Tôn Ưởng, chúa thượng còn nói gì được nữa? Hơn nữa, doạ Công Tôn Ưởng một chút, cũng là ý muốn của chúa thượng. Vì người này, vài năm qua chúa thượng đã phải chịu không biết bao nhiêu muộn phiền, cũng phải nhân dịp để trút bỏ bực bội trong lòng!”
Công tử Ngang cười nói: “Suy nghĩ của quân phụ, ông đều thấu hiểu đến chân tơ kẽ tóc!”
Trần Chẩn cũng cười: “Thượng tướng quân nếu không tin, cứ thử khắc biết!”
“Thử như thế nào?”
“Chúa thượng chẳng phải mơ thấy vương phục ư? Hạ quan sẽ sai người may cho chúa thượng một bộ vương phục, nếu chúa thượng không mặc, cho thấy chúa thượng không có ý này. Còn nếu chúa thượng mặc…” Nói tới đây, Trần Chẩn chỉ cười hì hì.
Công tử Ngang ngẫm nghĩ một lát rồi gật đầu nói: “Được, cứ làm theo ý ông!”
***
Trên phố Tây Nhai thành An Ấp, ở gần ngã rẽ có một tiệm may. Ông chủ tiệm may tên gọi Bàng Hành, vợ mất sớm để lại một đứa con trai, tên là Bàng Quyên. Bàng Hành một lòng muốn truyền lại tuyệt kỹ cắt may cho con trai, nào ngờ Bàng Quyên lại chẳng để tâm tới kéo thước vải vóc, chỉ hứng thú với giáo mác côn đao. Thấy con trai sớm đã qua tuổi đội mũ(3) trong lòng Bàng Hành ngày càng lo lắng.
Buổi trưa hôm nay, nhìn thấy Bàng Quyên tay cầm kiếm nhăm nhăm lẻn ra ngoài, Bàng Hành gọi con lại, cầm kéo, thước lên, vẻ mặt rầu rĩ nói: “Quyên Nhi, con chẳng chú tâm tới kỹ nghệ nhà ta, từ sáng tới tối lúc nào cũng thấy khua đao múa giáo. Chỉ nghe nói người múa giáo chết dưới giáo, người múa đao chết dưới đao, chưa nghe ai nói thợ may chết dưới đường kim mũi chỉ. Con thử nghĩ xem, đã là người thì không thể để mình trần. Chỉ cần người ta không để mình trần, nghề may vẫn có thể kiếm cơm. Chỉ cần con giỏi nghề, tự khắc có danh tiếng. Chẳng nói đâu xa, trong cả An Ấp này, không ai không biết tới danh tiếng của cha con. Đó là vì sao? Bởi tay nghề của cha con rất khéo. Con biết đấy, ngay cả Chu thiên tử…”
Bỗng thấy Bàng Quyên mở to mắt, ngoảnh nhìn ra cửa, Bàng Hành nghiêm giọng quát: “Quyên Nhi!”
“Cha!” Bàng Quyên chỉ tay ra cửa, cười hì hì mà nói. “Có mối làm ăn tới kìa!”
Bàng Hành quay người nhìn ra, thì thấy quan hộ viện La Văn của phủ thượng đại phu đang bước vào. La Văn nhiều hơn Bàng Quyên vài tuổi, có quen biết Bàng Hành, thường giới thiệu mối làm ăn cho ông ta. Nhìn thấy khách quen, Bàng Hành lập tức bỏ Bàng Quyên, đon đả nghênh đón: “La Văn đấy ư? Sao hôm nay cậu lại phải đích thân tới tận đây thế?”
Bàng Quyên chớp thời cơ, xách kiếm chuồn luôn khỏi cửa. Bàng Hành phát giác ra, quát to: “Quyên Nhi, lại đi đâu đấy?”
Bàng Quyên vừa rảo bước vừa ngoảnh đầu đáp: “Cha, hai người cứ bàn chuyện làm ăn đi, con đi hóng mát một chốc, sẽ về ngay!”
Bàng Hành điên ruột, đang định lớn tiếng rày la thì La Văn ngăn lại: “Chú Bàng, cứ để cậu ấy đi, vãn sinh muốn bàn với chú một chuyện, có cậu ta ở đây cũng không tiện.”
Bàng Hành cười hỏi: “Chỉ là chuyện làm ăn, sao lại ra vẻ bí hiểm đến thế?”
La Văn chậm rãi nói: “Trong phủ muốn nhờ chú Bàng làm giúp một việc lớn!”
Bàng Hành phì cười mà nói: “Ngoại trừ chuyện may vương phục, trong thiên hạ đâu còn việc gì lớn cho một thợ may nữa?”
“Chú Bàng, có phải việc lớn hay không vãn sinh không dám chắc. Có điều, vãn sinh nghe lão quản gia nói, nếu chú Bàng làm tốt, trong phủ sẽ trả công gấp đôi!”
Bàng Hành lại cười: “Thế ư? Cậu nói xem, là việc lớn gì thế?”
“Cụ thể thế nào, vãn sinh cũng không rõ. Lão quản gia muốn chú đích thân đến phủ một chuyến!”
Bàng Hành suy nghĩ một lát rồi thu dọn qua loa cửa hàng, mang theo thước da, đóng cửa, đi theo La Văn tới phủ thượng đại phu. Hai người rẽ tới rẽ lui, tới trước một khu nhà nhỏ. Khi sắp tới cổng, La Văn dừng bước, khẽ căn dặn: “Chú Bàng, lão quản gia tính khí nóng nảy, chớ nên thất lễ!”
Bàng Hành không hiểu, nói huỵch toẹt: “Chỉ là một quản gia mà thôi, có gì mà thất lễ?”
La Văn suỵt khẽ một tiếng, vẻ mặt hết sức căng thẳng: “Chú Bàng chớ nói những lời như vậy! Nếu làm lão quản gia tức giận, không những việc làm ăn đổ bể, mà sống cũng không yên thân đâu!”
Bàng Hành cười nói: “Yên tâm đi, chú Bàng đây cũng hiểu chút lễ nghĩa!”
Hai người bước vào phòng, Thích Quang đã đợi sẵn ở đó. La Văn bước vào trước, quỳ xuống bái lạy: “Bẩm lão quản gia, tiểu nhân đã mời Bàng sư phụ tới!”
Thích Quang ngồi ngay ngắn trên đất, không buồn ngẩng đầu lên, nói: “Mời vào!”
Bàng Hành bước vào, liếc nhìn Thích Quang, thấy người này quả là ngạo mạn, chỉ hơi vòng tay cúi đầu mà nói: “Bàng Hành phố Tây Nhai xin chào gia lão!”
Thích Quang thấy Bàng Hành không lạy chào, sầm ngay mặt xuống, lia ánh mắt sắc như lưỡi kiếm nhìn ông từ đầu tới chân, rồi lạnh lùng hỏi: “Bàng sư phụ, Thích mỗ nghe La Văn nói, năm xưa Bàng sư phụ từng tới Chu thất may vương phục cho Chu thiên tử, có chuyện đó không?”
Bàng Hành không e dè cũng không kiêu ngạo, trả lời rành rọt: “Hồi bẩm gia lão, hai mươi năm trước tiểu dân từng là phùng nhân của Đại Chu.”
Thích Quang ra vẻ chưa nghe rõ, hỏi lại: “Phùng nhân của Chu thất? Là thợ may ư?”
“Không, là phùng nhân!”
“Thế nào là phùng nhân?”
“Phùng nhân là quan đại phu của Đại Chu, chuyên may vương phục cho Chu thất.”
Thích Quang bỗng bật ra một tràng cười sằng sặc, cười đã rồi liền hơi vòng tay hướng về phía Bàng Hành, cất giọng châm chọc: “Hoá ra sư phụ Bàng từng là đại phu của Đại Chu cơ đấy, thảo dân Thích Quang thất kính, thất kính!”
Bàng Hành mặt hơi đỏ lên, cúi đầu không nói. Thích Quang tiếp tục xếch mé: “Bàng sư phụ đã là phùng nhân của Đại Chu, chắc hẳn có biết may các loại trang phục của thiên tử chứ?”
Bàng Hành hít vào một hơi, chậm rãi nói: “Hiển nhiên! Các loại trang phục của thiên tử, Bàng Hành tôi không kiểu nào không biết!”
“Tốt lắm!” Thích Quang gật đầu nói. “Bàng phùng nhân, Thích mỗ muốn ông may cho ba bộ triều phục của thiên tử, một bộ biền phục, một bộ ti phục, một bộ ma phục, gồm đủ vương miện, giày hia, đai lưng, không được thiếu món nào, phải đủ tất cả mới tính là một bộ! Thích mỗ nghe nói, tiền công của một bộ trang phục như vậy thường là ba lượng vàng. Thích mỗ đã nói là làm, sẽ trả ông sáu lượng vàng, ba bộ tổng cộng mười tám lượng vàng. Nếu ông làm tốt, đảm bảo cuộc sống sau này sẽ vô cùng sung túc. Còn nếu làm không tốt…” Ánh mắt Thích Quang sắt lại, rồi không nói thêm gì nữa.
Bàng Hành cười nhạt nói: “Gia lão yên tâm, nếu là may vương phục, Bàng Hành sẽ may chuẩn xác không sai một ly một lai.”
Thích Quang lại cười lạnh lùng: “Không sai thì tốt! Bắt đầu từ hôm nay, Bành phùng nhân không được đi đâu nửa bước, chỉ được ở trong bản phủ. Cần thứ gì, người trong phủ sẽ lo liệu hết, ông cứ kê ra những vật liệu cần dùng! Đây là số đo!” Nói xong, liền lôi từ trong ống tay áo ra một tấm thẻ tre ném xuống đất.
Bàng Hành trong lòng kinh hãi, nhìn chằm chằm vào tấm thẻ tre trên đất, nhưng không cúi xuống nhặt lên. La Văn bước lại, nhặt tấm thẻ tre, nâng trên hai tay đưa cho Bàng Hành. Bàng Hành nhận lấy, nhìn qua một lượt rồi trả lại tấm thẻ tre cho La Văn, vòng tay hướng về phía Thích Quang nói: “Gia lão, thứ lỗi cho Bàng Hành vô lễ. Mấy bộ triều phục này, tiểu nhân không may được!”
Thích Quang kinh ngạc hỏi: “Ông không biết may ư?”
Bàng Hành lắc đầu: “Không phải không biết may, mà không thể may!”
Thích Quang càng kinh ngạc: “Tại sao không thể may?”
Bàng Hành lại liếc nhìn tấm thẻ tre, rồi nói lớn: “Bởi số đo trên thẻ không phải là của Chu thiên tử!”
Thích Quang giật mình: “Sao ông biết?”
“Chu thiên tử thân cao sáu thước chín, số đo này lại là bảy thước bảy, chênh nhau tám tấc! Ngoài ra kích thước ngực, eo, vai, bàn chân đều không khớp, Bàng Hành sao lại không biết?”
“Số đo đúng hay không, có can hệ gì?”
“Bẩm gia lão, nếu may vương phục cho thiên tử Đại Chu, Bàng Hành lập tức làm ngay. Còn nếu không phải cho thiên tử Đại Chu, Bàng Hành khó mà tuân lệnh!”
Thích Quang bật cười một tràng dài, cười xong liền thủng thẳng nói: “Ta lại cứ tưởng ông ba hoa nhăng cuội, tới lúc phải làm thật thì sợ rụt cổ lại, không ngờ lại là vì lý do này!” Ngừng lại một lát, sắc mặt trở nên hung dữ. “Họ Bàng kia, giờ đây ngươi đã không còn là phùng nhân của Đại Chu, chỉ là một tên thợ may quèn! Đã là thợ, tự khắc có quy định của thợ, ta trả công cho ngươi, ngươi bán nghề cho ta, hà cớ phải nhiều lời thừa thãi?”
Song Bàng Hành không phải người dễ khuất phục, nên chỉ mỉm cười, lạnh lùng nói: “Gia lão, dù là thợ, cũng là thợ của thiên tử Đại Chu.”
Thích Quang cười nhạt: “Nói như vậy, tức là ngươi nhất quyết không làm?”
“Ngoài thiên tử Đại Chu, Bàng Hành không may vương phục cho bất cứ người nào khác!”
Thích Quang lập tức thu nét cười lại, liếc mắt sang La Văn. La Văn rùng mình ớn lạnh, vội bước lên trước, hạ giọng thì thầm khuyên nhủ: “Chú Bàng, Thích gia bảo chú làm thì chú cứ làm đi!”
Bàng Hành nhìn La Văn, lắc đầu nói: “La Văn, không phải chú Bàng không làm, là chú Bàng không thể làm!”
Thích Quang nở một nụ cười nham hiểm, rồi gầm lên thật lớn: “Người đâu!”
Từ ngoài cửa chạy xộc vào vài hán tử to cao vạm vỡ. Thích Quang đưa mắt về phía họ, chỉ vào Bàng Hành nói:
“Đây là Bàng sư phụ ở phố Tây Nhai, chúa công mời ông ta tới may mấy bộ y phục, các ngươi nhớ hầu hạ cho tốt! Nếu Bàng sư phụ có gì sơ sảy, cẩn thận đầu của các ngươi!”
Cả đám đồng thanh đáp: “Tuân lệnh!”
Bàng Hành mặt giận tái xanh, lớn tiếng quát: “Giữa thanh thiên bạch nhật, trời đất sáng quang, mà các người dám… Mau thả ta ra!”
Thích Quang trừng mắt nhìn Bàng Hành, rồi sải bước đi luôn. La Văn vốn là người tốt bụng, không ngờ sự việc lại thành ra nông nỗi này, đứng ngẩn tò te tại chỗ, một lát sau mới định thần, hấp tấp chạy ra, đuổi theo Thích Quang, khẽ giọng cầu xin: “Thích gia… Thích gia…”
Thích Quang dừng bước, quay lại nhìn La Văn: “Trong nhà họ Bàng còn có ai không?”
La Văn hơi khựng lại: “Bẩm Thích gia, trong nhà chú Bàng không còn ai, chỉ có một cậu con trai mà thôi.”
“Ồ!” Ánh mắt Thích Quang sáng rỡ. “Hắn thế nào?”
“Cậu ta tên là Bàng Quyên, đã qua tuổi đội mũ!”
Thích Quang trầm ngâm một lát, cười nham hiểm rồi gật đầu nói: “Được, ngươi nói hay lắm!”
La Văn rùng mình ớn lạnh, lắp bắp hỏi: “Thích… Thích gia hỏi… hỏi Bàng… Bàng Quyên có việc gì?”
Thích Quang lừ mắt nhìn La Văn, đanh giọng mắng: “Thích gia ta muốn hỏi gì, ngươi bất tất phải xen vào!” Nói xong, lập tức quay người, phẩy tay áo bước đi.
La Văn đứng sững sờ hồi lâu mới từ từ ngồi thụp xuống, đập nắm đấm vào đầu than thở. Ngồi một lát, bỗng sực nhớ ra một chuyện, liền đứng bật dậy co cẳng chạy vội ra ngoài.
La Văn chạy liền một mạch tới nhà họ Bàng, nhìn thấy cửa chính vẫn khoá, hiển nhiên là Bàng Quyên chưa về. La Văn suy nghĩ một lát, lại quay người chạy đi.
Lại nói về Bàng Quyên, sau khi lẩn khỏi nhà, bèn ra khỏi cổng thành bắc, đi thẳng tới cánh rừng ngoại ô, tìm đến một khu đất rộng rãi. Sau khi luyện qua một lượt vài bài quyền pháp và kiếm pháp mới học được từ một phường võ ở Bắc Nhai, cảm thấy hài lòng, bèn quay về thành, định tới thăm sư phụ. Không ngờ vừa bước chân vào phố Bắc Nhai, đã bị một kẻ xông ra chặn đường.
Kẻ này mình hổ lưng gấu, cao to lực lưỡng, song khoé mắt bên phải hơi xếch lên, khiến người khác nhìn vào đã thấy khó ưa. Bàng Quyên vòng tay hành lễ, đang định hỏi duyên do thì người này đã rút soạt kiếm ra, đặt ở bên đường, thủ thế giữa phố, nhìn bộ dạng này, rõ ràng là muốn thi thố với Bàng Quyên.
Thời bấy giờ võ thuật thịnh hành, các đường phố trong thành An Ấp đều có võ quán, đấu võ giữa đường lại càng là chuyện bình thường. Bàng Quyên mỉm cười, cũng không nói gì, tháo bỏ bảo kiếm, hơi vòng tay thi lễ, rồi cũng thủ thế giống kẻ kia. Nhiều khách qua đường nhìn thấy có người tỉ võ, xúm đông xúm đỏ lại xem, không khí nhanh chóng trở nên náo nhiệt.
Hai người di chuyển vòng tròn, rình thế tấn công. Một lúc sau, Bàng Quyên chớp được sơ hở của đối phương, thình lình vung chân, tung cước đá thẳng vào bắp chân đối thủ. Kẻ kia đã đề phòng từ trước, liền đưa tay đỡ. Nào ngờ cước này chỉ là hư chiêu, khi sắp sửa đá đến nơi, đột ngột biến chiêu, quét đất phóng đi. Đối phương trọng tâm hạ thấp, không mảy may đề phòng, hứng trọn cú đá quét của Bàng Quyên, chỉ nghe “huỵch” một tiếng, đã ngã nhào xuống đất. Đám đông xung quanh hò la như sấm dậy.
Kẻ này như thể diều hâu lật mình, đứng bật trở dậy, lao thẳng tới Bàng Quyên, song Bàng Quyên đã tránh kịp. Hai người đòn qua miếng lại, nháy mắt đã đấu thêm vài hiệp nữa, Bàng Quyên lại chớp được thời cơ, quật ngã đối phương. Năm lần bảy lượt như vậy, đối phương bị quật ngã hết lần này đến lần khác, đã phải tâm phục khẩu phục, ôm quyền mà nói: “Nhân huynh võ nghệ cao cường, Đinh Tam bội phục!”
Bàng Quyên cũng ôm quyền đáp lễ: “Đinh huynh nhường nhịn, tại hạ Bàng Quyên mạo phạm, mong Đinh huynh lượng thứ!”
Đinh Tam cười nói: “Bàng huynh chớ nói vậy! Người mạo phạm phải là Đinh Tam mới phải. Thế này đi, giờ đã gần trưa, tại hạ muốn mời Bàng huynh chén rượu nhạt coi như tạ tội, mong Bàng huynh nể mặt!”
Bàng Quyên vốn người hào phóng, tuy thấy Đinh Tam tướng tá khó ưa, song nói năng hào sảng, trong lòng cũng thấy cảm mến vài phần, lập tức ôm quyển mà nói: “Bữa rượu hôm nay, tại hạ xin mời Đinh huynh!”
Đinh Tam tỏ vẻ không vui, cặp mắt tam giác lập tức xếch ngược lên, Bàng Quyên đành phải nhận lời. Lúc này đám đông đã giải tán, hai người bèn nhặt kiếm lên, Đinh Tam đi trước dẫn đường, tiến về phía lầu Nguyên Hanh.
Lầu Nguyên Hanh tuy gọi là tửu lầu, song kỳ thực là ổ bạc. Khai trương chưa đầy nửa tháng, đã có vài người trong thành An Ấp chỉ qua một đêm trở nên giàu có, nhưng mặt khác, vài hộ khác lại nhanh chóng khuynh gia bại sản. Hai loại tin đồn trái ngược này mau chóng lan truyền khắp nơi, tửu lầu đã trở thành đề tài bàn tán trong những lúc trà dư tửu hậu, người trong thành gần như không ai không biết.
Hai người bước vào đại sảnh, vừa tìm được chỗ ngồi vừa ý thì tiểu nhị đã lăng xăng chạy tới. Đinh Tam gọi đồ nhắm và một hũ rượu lâu năm. Đợi một khắc, vẫn chưa thấy rượu và đồ ăn mang lên, Đinh Tam liếc nhìn khách khứa ra vào tấp nập, nói: “Hôm nay đông khách quá, chắc rượu thịt của chúng ta chưa có ngay được đâu. Bàng huynh, chúng ta thử lên tầng trên xem sao!”
Bàng Quyên từ lâu đã nghe đồn trên lầu có sòng bạc, trần thiết rất đỗi xa hoa, nghe Đinh Tam hỏi vậy, cũng nảy lòng hiếu kỳ, không nghĩ ngợi gì nhiều, bèn đứng ngay dậy theo hắn lên lầu.
Đinh Tam có vẻ rất thông thạo nơi đây, bèn dẫn Bàng Quyên lên tầng trên. Bàng Quyên vui vẻ theo sau Đinh Tam, ngoặt trái rẽ phải vài lần, thì tới trước cửa một đại sảnh. Vừa nhìn, Bàng Quyên bỗng thấy trước mắt sáng loà, cảnh tượng lộng lẫy hoa quý chưa từng thấy bày ra trước mắt. Giữa đại sảnh là một bàn đánh bạc màu vàng sẫm rất lớn, vài công tử nhà giàu ăn mặc lịch sự ngồi quây quanh bàn, mỹ nữ nhà cái hai mắt lúng liếng, tay lắc xúc xắc dẻo quẹo. Hơn chục con bạc hoặc đứng hoặc ngồi, mắt mở trừng, nhìn chằm chằm như dán chặt vào con xúc xắc trong tay mỹ nữ.
Bàng Quyên ngó nghiêng một hồi, rồi hỏi Đinh Tam: “Ngồi quanh chiếu là những ai thế?”
Đinh Tam suỵt khẽ một tiếng, nói: “Nói nhỏ thôi, đều là nhân vật tầm cỡ cả đấy! Đã thấy chưa? Người mặc áo trắng ngồi ở giữa kia là Bạch công tử của phủ tướng quốc, người mặc áo màu xanh ngồi bên trái là Ngô công tử của phủ tư nông, còn người mặc áo tím bên phải là Lương công tử của phủ tư mã.”
“Đinh huynh, ta lại xem đi!”
Đinh Tam gật đầu. Hai người bước lại gần bên bàn, vừa dừng lại, hộp xúc xắc trong tay mỹ nữ nhà cái “cạch” một tiếng đã nằm yên trên bàn. Hộp được nhấc lên trong tiếng kêu ré của đám con bạc, Bạch công tử cười hả hê, rú lên: “Ha ha ha, bản công tử lại thắng nữa rồi!”
Ngô công tử, Lương công tử ngồi bên cạnh nét mặt lộ rõ vẻ tiếc nuối, đẩy số vàng trước mặt về phía Bạch công tử. Bàng Quyên liếc mắt nhìn, thấy vàng đã chất thành một đống lớn vàng rực, sáng loá phía trước Bạch công tử.
Ngô công tử lắc đầu than thở: “Bạch công tử, tại hạ không chơi nữa đâu. Hôm nay vận may không tới, nếu lại để thua nữa thì đến manh quần cũng chẳng còn mà về!”
Đám người cười ồ lên, mỹ nữ nhà cái mặt đỏ ửng, người mềm nhũn, ngả vào lòng Bạch công tử, thỏ thẻ: “Ngô thiếu gia, thiếu gia ăn nói đáng xấu hổ chưa kìa!”
Ngô công tử liếc nhìn mỹ nữ, cười hì hì mà nói: “Này Tiểu Đào Hồng, ngươi vừa gặp Bạch công tử, xương khớp toàn thân đã mềm nhũn hết lượt, đứng không vững nữa rồi phải không?”
Tiểu Đào Hồng “hứ” một tiếng về phía Ngô công tử, lại uốn éo mấy cái nữa trong lòng Bạch công tử, tiếp tục nũng nịu: “Ngô thiếu gia, tiểu tỳ biết miệng thiếu gia không bao giờ nói được lời tử tế. Thiếu gia còn nói nữa, tiểu tỳ không thèm nhìn đến thiếu gia nữa đâu!”
Lương công tử đứng cạnh đó cũng dang rộng hai tay, nói với Bạch công tử: “Bạch công tử hôm nay gặp vận đào hoa, đến thần bạc như ta đây cũng chịu lép vế, càng chơi càng thua.”
Bạch công tử nhẹ nhàng đẩy Tiểu Đào Hồng ra khỏi lòng, vòng tay hướng về phía Lương công tử: “Nhờ Lương công tử nhường nhịn, Bạch Hổ thực sự thấy hổ thẹn trong lòng, đâu dám nhận.”
Lương công tử đang định đáp lễ, bỗng nhìn thấy Đinh Tam và Bàng Quyên, liền chau mày hỏi: “Hai kẻ này là ai?”
Đám người nghe vậy, đều đồng loạt nhìn về phía họ.
Ngô công tử chỉ Đinh Tam nói: “Đây chẳng phải là tên lưu manh Đinh Tam ở phố Đông Nhai sao?”
Đinh Tam vội tươi cười tiến lại, quỳ xuống dập đầu nói: “Tiểu nhân Đinh Tam khấu kiến thiếu gia, khấu kiến các vị đại gia!”
Bàng Quyên không ngờ Đinh Tam khí phách kém cỏi đến thế, hừ mũi một tiếng, đang định bỏ đi thì Ngô công tử gọi: “Khách nhân, khoan đã!”
Bàng Quyên đứng hiên ngang tại chỗ, mắt nhìn thẳng vào Ngô công tử. Hai mắt giao nhau một lát thì Ngô công tử quay sang hỏi Đinh Tam: “Này tên lưu manh phố Đông Nhai kia, người này là bạn ngươi ư?”
Đinh Tam lại dập đầu: “Bẩm thiếu gia, người này chính là bạn của tiểu nhân, họ Bàng tên Quyên!”
Bàng Quyên lạnh lùng ném một cái nhìn về phía Đinh Tam, rồi nói dứt khoát: “Không, Bàng mỗ không hề quen biết hắn!”
Bàng Quyên vừa dứt lời, mọi người đều ngạc nhiên, Đinh Tam đứng bật ngay dậy, nói với Bàng Quyên: “Bàng huynh, huynh…”
Bàng Quyên lại hừ mũi một tiếng, cất giọng sang sảng: “Bàng Quyên không có loại bạn như ngươi!” Nói xong, liền quay người bỏ đi luôn.
Ngô công tử ngăn lại: “Khoan đã!”
Bàng Quyên dừng bước, từ từ quay người lại.
Ngô công tử ôm quyền nói: “Bàng công tử, tại hạ Ngô Đức Tài, dòng dõi quý tộc thế tập, gia phụ là đại tư nông đương triều. Vị này là Lương công tử của phủ tư mã đương triều, vị này là…” lại chỉ tay vào Bạch công tử, giọng nói càng ngạo nghễ, “chính là Bạch thiếu gia của phủ tướng gia đương triều! Xin hỏi Bàng công tử xuất thân ra sao?”
Bàng Quyên thấy hắn khoe khoang gia thế, hiểu rằng nơi đây không thích hợp để lộ thân phận, nên chỉ hừ khẽ một tiếng, quay người định bước đi. Đinh Tam vội vã bẩm báo: “Thưa thiếu gia, nhà Bàng huynh mở tiệm cắt may trên phố Tây Nhai, là công tử nhà thợ may Bàng.”
Bàng Quyên trước đó không hề quen biết Đinh Tam, lúc này lại nghe Đinh Tam kể vanh vách gia cảnh nhà mình, rõ ràng hắn đã biết về Bàng gia từ trước, khiến Bàng Quyên hết sức bất ngờ. Bởi vậy, Bàng Quyên lập tức nhận ra mình đã bị lừa, mặt đỏ phừng phừng, giận dữ trừng mắt nhìn Đinh Tam. Ngô công tử nghe xong, cười sằng sặc mà nói: “Họ Bàng kia, ta cứ tưởng là quý nhân phương nào, chẳng ngờ lại là giống hạ tiện của một tên thợ may hèn mọn!” Nói đoạn, thu nụ cười lại, khinh khinh nhìn Bàng Quyên hỏi: “Ngươi có biết đây là nơi nào không?”
Bàng Quyên chưa kịp đáp lời, Lương công tử đã nói: “Thảo nào bản thiếu gia hôm nay vận đen thế, hoá ra là có tiện nhân tới ám! Tên họ Bàng kia, ngươi dám phá hỏng vận may của ta, phải xử thế nào đây?”
Bàng Quyên đặt tay lên chuôi kiếm, cười nhạt mà nói: “Lương công tử, thử nói xem nên thế nào?”
Lương công tử nhảy dựng lên: “Tên tiểu tử kia, thân phận thấp hèn mà miệng lưỡi cứng gớm! Còn dám đôi co với bản công tử!”
Hai mắt Bàng Quyên lửa giận bừng bừng, tay cầm chuôi kiếm từ từ di chuyển, giọng rít qua kẽ răng: “Ngươi nói ai thân phận thấp hèn?”
Lương công tử mắt lộ hung quang: “Đương nhiên là nói giống đê tiện nhà ngươi!”
Bàng Quyên mắt vằn tia máu, xông lên phía trước, vận đủ khí lực, thình lình hất tung bàn đánh bạc. Chốc lát, tiền vàng trên bàn bắn tung tứ phía tựa mưa rào, Tiểu Đào Hồng kinh hãi, mặt hoa biến sắc, kêu ré một tiếng, chui tọt vào lòng Bạch thiếu gia.
Chớp mắt, hơn chục hán tử cường tráng phục sẵn ngoài cửa nhất loạt xông vào, Bàng Quyên chưa kịp phản ứng, đã bị đám người đè chặt xuống đất, trói nghiến lại. Đúng lúc này, ông chủ Lâm hay tin chạy vào trong sảnh, lớn tiếng quát hỏi: “Kẻ nào gây rối ở đây?”
Lương công tử chỉ tay vào Bàng Quyên, cao giọng trách móc: “Ngươi là ông chủ kiểu gì mà để giống hạ tiện này đến đây giở thói ngang tàng?”
Ông chủ Lâm cười giả lả nói: “Đều trách tiểu nhân quản lý không nghiêm, làm các vị thiếu gia đây mất hứng. Tiểu nhân thực đắc tội!” Nói rồi ôm quyền hành lễ với từng vị công tử, sau đó chuyển ánh mắt qua Bàng Quyên, chỉ tay vào chiếc bàn bị hất đổ, từ tốn hỏi: “Tiểu tử, là ngươi hất đổ ư?”
Bàng Quyên gật đầu.
Ông chủ Lâm cười nhạt, lại hỏi khẽ: “Là dùng tay nào hất đổ?”
Bàng Quyên nín thinh, ông chủ Lâm đanh giọng quát: “Ta hỏi ngươi, là dùng tay nào hất đổ?”
Bàng Quyên chỉ nhìn chằm chằm vào ông chủ Lâm, không nói một lời. Ông chủ Lâm cười khẩy một tiếng, nhìn về phía Đinh Tam: “Đinh Tam, thằng oắt kia đã dùng tay nào hất đổ bàn?”
Đinh Tam trả lời: “Hồi bẩm ông chủ, dùng cả hai tay!”
Ông chủ Lâm cười thâm hiểm, quay sang đám thuộc hạ, ra lệnh: “Lôi ra ngoài, băm nát hai tay hắn cho chó ăn!”
Vừa nghe thấy nói “băm nát hai tay”, Tiểu Đào Hồng lại rú lên một tiếng kinh hoàng, càng nép sát vào lòng Bạch công tử.
Bàng Quyên trong lòng cũng thầm kinh hãi, lúc này nhận lỗi không xong, mà liều lĩnh giằng ra cũng không được, đang không biết phải làm thế nào thì Bạch công tử xen ngang: “Ông chủ Lâm, nể mặt bản công tử, tha cho hắn một lần đi!”
Ông chủ Lâm nhìn Bạch công tử cười cười, rồi quay sang Bàng Quyên nói: “Được, Bạch công tử đã nói vậy, ta sẽ tha cho ngươi lần này. Có điều, không băm nát hai tay, song phá hỏng việc kinh doanh của ta thì không thể không phạt. Lôi hắn ra, nhốt vào phòng tối mười ngày để hắn tự sám hối quy tắc làm người!”
Đám thuộc hạ lôi Bàng Quyên ra khỏi sòng bạc. Bàng Quyên giận dữ vùng ra, lừ lừ nhìn xoáy vào Đinh Tam: “Đồ lang sói mắt xếch kia, ngươi dám hãm hại ta?”
Đinh Tam rúm người lại, sợ hãi ngoảnh mặt đi. Bàng Quyên lại đưa mắt nhìn thẳng vào Ngô công tử, Lương công tử, gằn từng chữ: “Hai vị công tử nghe cho rõ, việc ngày hôm nay, Bàng Quyên tạm nhớ trong lòng!” Nói xong liền quay người, sải bước xuống dưới lầu.
La Văn đoán chừng Bàng Quyên tới phường võ, song cụ thể là phường nào thì không biết, nên đi dò hỏi khắp nơi, mãi mới tìm được đúng phường võ, thì võ sư lại nói Bàng Quyên không tới. La Văn cáo từ ra về, khi đi qua lầu Nguyên Hanh bỗng thấy đói bụng, bèn bước vào trong. La Văn vừa tìm được chỗ ngồi, bỗng thấy đám thuộc hạ xúm xít áp giải Bàng Quyên xuống khỏi cầu thang, khiến khách khứa đều nháo nhác.
Đám thuộc hạ lôi Bàng Quyên xuống lầu, đẩy vào trong một gian phòng rồi đóng sập cửa, khoá chặt lại. La Văn tận mắt chứng kiến cảnh tượng này, lại dò hỏi kẻ phục vụ trong lầu, biết được toàn bộ sự việc, chẳng kịp ăn uống lập tức chạy thẳng ra khỏi cửa.
La Văn trở về phủ thượng đại phu, vội vã tìm tới nơi giam giữ Bàng sư phụ, từ xa đã nhìn thấy Thích Quang, Đinh Tam cũng đang từ một con đường khác tiến lại. La Văn lập tức náu mình vào trong góc khuất.
Thích Quang, Đinh Tam bước tới trước cửa. Mấy hán tử cao lớn liền nghênh đón vào trong. Thích Quang đưa mắt nhìn khắp lượt trong viện, lớn tiếng hỏi: “Bàng sư phụ thế nào rồi?”
Một hán tử chỉ vào trong phòng, khẽ bẩm báo: “Bẩm Thích gia, ngồi lì trong phòng, không ăn không uống, luôn miệng đòi về nhà!”
Thích Quang chậm rãi bước vào trong phòng, quả nhiên thấy Bàng Hành ngồi bệt dưới đất, hai mắt nhắm hờ. Bát cháo và đĩa thức ăn để ở bên cạnh đều đã nguội ngắt.
Thích Quang tiến lại, ngồi khoanh chân xuống trước mặt Bàng Hành, khẽ đặng hắng một tiếng: “Bàng sư phụ!”
Bàng Hành từ từ hé mắt, lạnh lùng nói: “Nói đi, gia lão, ông muốn làm gì tôi?”
Thích Quang cười giả lả: “Bàng sư phụ sao lại nói thế? Thích mỗ không có ý gì, chỉ muốn nhờ sư phụ may cho vài bộ quần áo, ai ngờ sư phụ nóng giận, đến một chút thể diện cũng không chịu nể nang.”
Bàng Hành im lặng một lát rồi nói: “Gia lão! Không phải Bàng Hành không chịu, mà là thợ may có quy tắc của thợ may. Với thợ may, tự ý may vương phục chính là mưu phản. Bàng Hành đầu có thể đứt, máu có thể chảy, song việc mưu phản nhất định không thể làm!”
Thích Quang cười cười nói: “Bàng sư phụ, Thích mỗ cũng không muốn làm khó người khác, mua bán phải thuận tình! Thế này đi, ông muốn làm thì làm, nếu thực sự không muốn làm thì Thích mỗ sẽ thả ông về.”
Bàng Hành nhìn Thích Quang với ánh mắt nghi ngờ, lát sau bèn đứng dậy, vòng tay mà nói: “Bàng Hành cảm tạ gia lão!” Nói đoạn phủi mông mấy cái, quay người bước ra cửa phòng, băng qua sân đi thẳng ra phía cổng.
Đúng lúc Bàng Hành chuẩn bị bước ra khỏi cổng, tiếng Thích Quang lại vang lên phía sau: “Bàng sư phụ dừng bước!” Bàng Hành dừng lại, ngoảnh đầu nhìn. Thích Quang từ từ đứng dậy, bước ra khỏi phòng, đứng ở giữa sân.
Bàng Hành lại vòng tay hỏi: “Gia lão còn chuyện gì ư?”
“Đúng vậy! Ở đây có một thứ, nghe nói là của nhà ông, ông hãy nhìn thử xem. Nếu đúng thì tiện thể mang về luôn!” Thích Quang nói xong, bèn ra hiệu cho Đinh Tam. Đinh Tam lập tức quăng thanh bảo kiếm đánh “cạch” một tiếng xuống đất. Bàng Hành là thợ may, mắt đã quen việc xâu kim xe chỉ, rất mực tinh tường, bởi vậy nhìn từ xa đã lập tức nhận ra đó là vật tuỳ thân của con trai, trong lòng kinh hãi: “Đây là kiếm của Quyên Nhi, sao lại ở đây?”
Thích Quang mỉm cười nói: “Đúng là của nhà ông thì mang về đi!”
Bàng Hành vội vã quay lại, nhặt bảo kiếm lên quan sát một lượt, rồi nhìn thẳng vào Thích Quang, quát lớn: “Họ Thích kia, ngươi đã làm gì Quyên Nhi nhà ta?”
Thích Quang quay về phía Đinh Tam nói: “Đinh Tam, hãy bẩm báo mọi chuyện với Bàng sư phụ.”
Bàng Hành lập tức chiếu ánh mắt về phía Đinh Tam, Đinh Tam bèn vòng tay nói: “Bàng sư phụ, vãn sinh cùng lệnh công tử tỉ võ kết bạn, trò chuyện rất tâm đầu ý hợp, đến khoảng bữa trưa ngày hôm nay, vãn sinh mời lệnh công tử tới lầu Nguyên Hanh uống rượu, nào ngờ, công tử…”
“Nó… nó làm sao?”
“Công tử uống vài ngụm rượu, mượn hơi rượu xông bừa lên lầu trên, xô xát với mấy vị công tử quan gia, chuyện này chưa tính đến, song lại gây náo loạn lầu Nguyên Hanh, hất tung bàn đánh bạc, bị đám thuộc hạ của ông chủ bắt giữ, nói là theo luật giang hồ phải xử phạt băm nát hai tay và hai chân lệnh công tử. Vãn sinh khổ sở cầu xin không được, vội tới nhà Bàng sư phụ báo tin, lại thấy cửa khoá. Vãn sinh dò la xung quanh, mới biết Bàng sư phụ tới phủ thượng đại phu, nên vội vã tới đây!”
Bàng Hành nghe xong, ngồi phịch xuống đất.
Thích Quang cười ha hả rồi hỏi: “Bàng sư phụ, sao ông không về đi?”
Bàng Hành suy nghĩ một lát, rồi đứng phắt dậy, nhìn trừng trừng vào Thích Quang, gằn từng tiếng: “Họ Thích kia, thả Quyên Nhi nhà ta ra!”
Thích Quang cười lạnh lẽo: “Bàng sư phụ thật không biết điều! Con trai ông say rượu gây chuyện ở lầu Nguyên Hanh, chẳng liên quan gì tới Thích mỗ, vì sao lại bảo ta thả hắn ra?”
Bàng Hành nghiến răng nói: “Ba bộ vương phục của ngươi, Bàng Hành đồng ý làm!”
“Ồ!” Thích Quang cười gằn, rồi gọi lớn: “Người đâu!” Một người từ bên ngoài nhanh chóng bước vào, cúi đầu đứng bên cạnh. Thích Quang liếc mắt nhìn hắn: “Nghe nói, công tử của Bàng sư phụ đây gây chuyện ở lầu Nguyên Hanh, ngươi đi nghe ngóng xem sự việc thế nào?”
Người này vâng một tiếng rồi vội vã đi ra!
Thích Quang quay sang phía Bàng Hành, vòng tay thi lễ: “Bàng sư phụ, ông chịu giúp Thích mỗ việc lớn này thì đã là bạn của Thích mỗ. Việc của lệnh công tử, đương nhiên cũng là việc của Thích mỗ. Bàng sư phụ yên tâm, Thích mỗ sẽ lập tức bẩm báo lên chúa công, nể mặt chúa công, ông chủ Lâm kia sẽ không dám tuỳ tiện làm xằng đâu!”
Bàng Hành lạnh lùng đáp: “Làm phiền lão quản gia!”
Thích Quang cười hô hố: “Bàng sư phụ, Thích mỗ đã chuẩn bị giúp ông hai mươi gia nô, kẻ nào cũng thạo cắt may, Bàng sư phụ muốn làm gì cứ sai bảo chúng!” Rồi lại quay sang ba hán tử trong sân, ra lệnh. “Ba người các ngươi nghe đây, từ ngày hôm nay, các ngươi đều là người hầu của Bàng sư phụ, Bàng sư phụ muốn gì, các ngươi đều phải tuân theo. Nếu để lỡ chuyện lớn của Bàng sư phụ, sẽ xử phạt theo gia pháp.”
Ba người khấu đầu vâng lệnh. La Văn nấp trong chỗ khuất nghe rõ mọi chuyện, biết được cha con Bàng gia tạm thời bình yên vô sự, thở phào một tiếng, quyết định không gặp Bàng sư phụ nữa.
Bàng Hành miệt mài làm việc thâu đêm suốt sáng, chưa tới mười ngày, đã may xong ba bộ vương phục, sai người đi gọi Thích Quang. Thích Quang cho gọi La Văn tới, hai người cùng đến chỗ Bàng Hành, quả nhiên nhìn thấy ba bộ vương phục treo trên giá, tinh xảo tuyệt luân. Thích Quang thưởng cho mỗi người một lượng vàng, mọi người đều hoan hỷ tạ ân.
Duy có Bàng Hành ném đĩnh vàng xuống đất, trừng mắt nhìn Thích Quang: “Thích quản gia, Quyên Nhi đâu?”
Thích Quang cười giả lả, nói: “Bàng sư phụ, Thích mỗ suýt nữa quên mất, chuyện của quý công tử, chúa công sớm đã tới gặp mặt người ta rồi. Ông chủ Lâm quả nhiên đã nể mặt, quý công tử không chút thương tổn, giờ có lẽ đã về tới nhà rồi.”
Bàng Hành đưa mắt nhìn La Văn, thấy La Văn gật đầu, bèn vòng tay nói: “Cảm tạ lão quản gia! Ba bộ trang phục mà lão quản gia cần đều đã xong cả rồi, Bàng Hành xin cáo từ!” Nói xong, liền quay người bước đi.
“Bàng sư phụ dừng bước!”
Bàng Hành đứng lại, ngờ vực ngoái nhìn Thích Quang.
“Bàng sư phụ, Thích mỗ lại suýt quên một việc quan trọng nữa. Là thế này, chúa công thấy sư phụ tay nghề giỏi, có ý muốn giữ sư phụ ở lại vài ngày, may thêm vài bộ trang phục nữa!”
Bàng Hành kinh ngạc: “Thích gia, ông… ông nói mà chẳng giữ lời?”
“Bàng sư phụ!” Thích Quang lại cười nhăn nhở. “Không phải Thích mỗ nói không giữ lời, quả thực tay nghề của sư phụ quá tuyệt diệu!” Ông ta lại móc từ trong ống tay áo ra một đĩnh vàng. “Chúa công có nói, tuyệt đối không được để sư phụ phải thiệt thòi. Tiền công vẫn là sáu lượng, bởi sư phụ làm rất tốt, thưởng thêm ba lượng, tổng cộng chín lượng. Sư phụ may tất cả ba bộ, chín nhân ba hai mươi bảy. Đây là hai mươi bảy lượng. Tiền công may mấy bộ tiếp theo, để lúc nào xong tính tiếp.”
“Ta không cần tiền công của các người, chỉ cầu xin các người mau thả ta về!”
Thích Quang sầm mặt xuống: “Bàng sư phụ, mối làm ăn tốt như vậy, ông còn muốn chối ư? Nể mặt Thích mỗ, nể mặt chúa công, ông cũng nên biết điều một chút!”
Bàng Hành thở dài một tiếng, im lặng không nói gì. Thích Quang giao vàng cho La Văn, dặn dò: “La Văn, ngươi tới phủ Bàng sư phụ một chuyến, thứ nhất xem Bàng công tử thế nào, thứ hai, đưa tiền cho công tử, nói là mấy hôm nữa Bàng sư phụ sẽ về!”
La Văn nhận vàng, đưa mắt nhìn Bàng Hành. Bàng Hành trong lòng hiểu rõ, mình tự ý may vương phục, rất có khả năng sẽ không thể trở về. Suy nghĩ một lát, ông bèn nói với La Văn, lời đầy ẩn ý: “La Văn, gặp Quyên Nhi, nhắn rằng ba ngày nữa ta sẽ về. Lỡ có chuyện gì, hãy bảo nó đi tìm chú ba nhờ giúp đỡ!”
La Văn gật đầu, rồi bước đi.
***
Ngụy Huệ Vương khởi binh đánh Tần, công tử Ngang lo gom lương thảo. Bốn nước nhỏ Vệ, Lỗ, Tống, Trung Sơn không dám chậm trễ, mỗi nước đã chuẩn bị một vạn thạch quân lương. Lương thực đã chuẩn bị đủ, song cụ thể là vận chuyển tới đâu, lại chưa nói rõ. Bốn nước nhất thời lo lắng, phái sứ thần tới An Ấp hỏi dò. Đám sứ thần sau khi tới An Ấp, không tìm thấy thượng đại phu Trần Chẩn, đành phải đi tìm tư đồ Chu Uy.
Thấy sự việc liên quan tới quân sự liệt quốc, Chu Uy vội vã vào cung bái kiến quân chủ. Chu Uy vào tiền cung, ra hậu cung, người trong cung đều nói quân chủ không có mặt. Chu Uy đang băn khoăn lo lắng, bỗng gặp tỳ nhân nói rằng quân chủ đang thưởng lãm chim cảnh ở hậu cung. Chu Uy vội vã theo tỳ nhân tới hậu cung, quả nhiên thấy Huệ Hầu đang cùng phu nhân chơi đùa với một con sáo mỏ vàng đậu trên cây lựu. Nhìn thấy Chu Uy quỳ dưới bậc thềm phía xa, Huệ Hầu khẽ phẩy tay, phu nhân bèn tránh vào phía sau bình phong. Huệ Hầu cười vang, nói: “Chu ái khanh, ái khanh tới vừa đúng lúc, quả nhân muốn cho ái khanh xem một bảo bối!”
Chu Uy bái lạy lần nữa rồi đứng dậy. Huệ Hầu bước lại gần, hồ hởi nắm tay Chu Uy kéo tới dưới gốc cây lựu, chỉ vào con sáo nói: “Ái khanh xem, đây là con sáo Nghĩa Cừ Quân tiến cống, rất tinh khôn!” Nói đoạn, quay về phía nó, “xuỳ” khẽ hai tiếng. Con sáo nhìn chăm chú, rồi há mỏ kêu lên: “Tiểu nhân bái kiến đại vương!” Sau đó là ba tiếng khấu đầu, “cộp, cộp, cộp!”
Chu Uy trong lòng kinh ngạc. Nghĩa Cừ Quân xưa nay theo Tần. Hễ Tần, Ngụy khai chiến, Nghĩa Cừ tất xuất người xuất ngựa cho Tần, do vậy bị nước Ngụy liệt vào hàng kẻ thù, xưa nay không có sứ thần lai vãng. Nghĩa Cừ Quân vô duyên vô cớ, đột nhiên vào chầu, lại còn tiến cống lễ vật, quả thực không thể hiểu nổi.
Huệ Hầu lại trêu đùa chim sáo một hồi, mới ngoái lại hỏi: “Ái khanh tới có việc gì?”
Chu Uy bẩm báo: “Hồi bẩm chúa thượng, các nước Triệu, Hàn, Trung Sơn, Vệ, Lỗ, Tống mấy hôm nay liên tiếp phái sứ giả tới, nói là lương thực, binh mã thảo phạt Tần đã chuẩn bị xong xuôi, nóng lòng muốn hỏi chúa thượng lúc nào trưng dụng?”
Ngụy Huệ Hầu hỏi lại: “Theo ái khanh, lúc nào trưng dụng thì thích hợp?”
“Vi thần cho rằng, nếu phạt Tần, ngay lúc này có thể trưng dụng!”
Ngụy Huệ Hầu ngẫm nghĩ một lát, rồi nhìn chim sáo, nói: “Ái khanh cũng thấy rồi đó, mấy năm qua người Tần nay đã khác xưa, không chỉ là khúc xương cứng, mà còn là khúc xương lớn. Nếu chúng ta cứ khăng khăng đòi gặm, gặm không được, không chừng lại gãy răng. Mấy hôm nay quả nhân suy nghĩ kỹ rồi, Tần Công đã biết sai, mong muốn thần phục, cớ sao quả nhân lại không thuận theo, lấy sức mạnh của họ mà dùng cho ta?”
Dù Chu Uy đã đoán chừng từ trước, song vẫn cảm thấy ngạc nhiên trước sự thay đổi đột ngột của Huệ Hầu. Ngẩn ra một lát, Chu Uy mới chậm rãi nói: “Chúa thượng thánh minh. Có điều vi thần vẫn có một mối lo canh cánh trong lòng, không biết có nên nói ra không?”
“Ái khanh cứ nói!”
Chu Uy liếc mắt nhìn con chim sáo mỏ vàng, rồi nói: “Chúa thượng, nếu người Tần chỉ đơn thuần quy phục thì không có gì đáng nói. Tuy nhiên, Công Tôn Ưởng hẳn là muốn dấn thêm một bước, cực lực thôi thúc chúa thượng xưng vương, hẳn là có chuyện. Vi thần cho rằng, nhìn vào thái độ của Công Tôn Ưởng, hành động của người Tần hẳn là còn có dụng ý khác.”
Ngụy Huệ Vương nét mặt không vui, chẳng thèm quay đầu lại, chậm rãi nói: “Ái khanh nhắc nhở rất đúng! Về đi, hãy báo lại với sứ thần liệt quốc, nói là quả nhân cảm tạ họ!”
“Vi thần tuân chỉ!”
Chu Uy vừa đi, tỳ nhân bèn bước vào bẩm báo: “Chúa thượng, thượng tướng quân cầu kiến.”
“Cho vào!”
Ngoài cửa vang lên tiếng bước chân, hai cung nhân khiêng theo hai chiếc hòm gỗ bước vào trong sân. Huệ Hầu đang ngạc nhiên thì công tử Ngang đã tiến vào, dập đầu sát đất: “Nhi thần khấu kiến quân phụ!”
Ngụy Huệ Hầu nhìn chằm chằm vào hòm gỗ, hồi lâu mới lên tiếng hỏi: “Ngang Nhi, đây là gì vậy?”
Công tử Ngang lại dập đầu: “Chỉ là mấy bộ trang phục, nhi thần muốn kính dâng lên quân phụ!”
Ngụy Huệ Hầu thấy công tử Ngang đột nhiên tặng trang phục, vô cùng sửng sốt, nhìn công tử Ngang với vẻ nghi ngờ: “Trang phục ư? Ngang Nhi, mau mở ra xem!”
Công tử Ngang đứng dậy, mở một chiếc hòm ra, chỉ vào vương phục, vương miện cùng đai hia trong hòm, nói khẽ: “Nhi thần may cho quân phụ vài bộ trang phục theo kiểu cách triều phục của Chu thiên tử, xin quân phụ xem thử!”
Ngụy Huệ Hầu sững sờ, hết nhìn đám trang phục trong hòm, lại nhìn công tử Ngang, vẫn không nói năng gì.
Công tử Ngang nhấc vương phục và vương miện lên đang định nói tiếp thì Ngụy Huệ Hầu đột nhiên sắc mặt sa sầm, quát lớn: “Bỏ xuống!”
Công tử Ngang điếng người kinh hãi, vội vã buông bộ trang phục xuống, hai gối mềm nhũn, quỳ phục xuống đất. Ngụy Huệ Hầu chỉ tay ra cửa: “Đi ngay!”
Công tử Ngang mặt cắt không còn hạt máu, cứ quỳ tại chỗ, không biết phải làm sao.
Ngụy Huệ Hầu quát lên với tỳ nhân: “Đuổi hắn ra ngay!”
“Nhi thần cáo lui!” Công tử Ngang cũng đã choàng tỉnh, dập đầu liền vài cái, cuống quýt thoái lui.
Công tử Ngang hai chân lẩy bẩy, hoang mang rời khỏi cung thành, đánh xe đến phủ thượng đại phu, xông thẳng vào trong, quát lên với Trần Chẩn: “Ông… ông… ông hại ta rồi!
Trần Chẩn đứng ngẩn ra: “Thượng tướng quân, mau nói xem đã xảy ra chuyện gì?”
“Chuyện gì cái gì?” Công tử Ngang đầy vẻ hối hận. “Bản công tử làm theo lời ông, dâng tặng vương phục lên quân phụ, cứ tưởng thế nào cũng được khen ngợi, nào ngờ lại bị trách mắng!”
Trần Chẩn hỏi rõ đầu đuôi sự việc, rồi thở phào một tiếng, vòng tay hướng về công tử Ngang, cười nói: “Đại sự đã thành công, hạ quan chúc mừng công tử!”
Công tử Ngang sửng sốt: “Chúc mừng ư?”
Trần Chẩn cười nói: “Đi nào, tới lầu Nguyên Hanh, hạ quan xin được chúc mừng công tử!”
Đến lúc chập tối, Ngụy Huệ Hầu trở về tẩm cung, cung nữ liền hầu hạ cởi bỏ áo mũ cho ông ta. Tỳ nhân đưa tay ra hiệu, một tên thái giám tay bê khay đồng quỳ xuống trước mặt, trên khay bày các thẻ bài ghi tên phi tần.
Ngụy Huệ Hầu chẳng buồn nhìn, phẩy tay một cái. Thái giám hiểu ý, mau chóng bê khay đồng lui ra ngoài. Ngụy Huệ Hầu đi đi lại lại hai vòng trong cung, như có điều gì nghĩ ngợi, rồi nhìn tỳ nhân, hỏi: “Hai chiếc hòm đâu rồi?”
Tỳ nhân lập tức hiểu ra, bèn quay người bước đi. Một lát sau quay lại, dẫn theo vài tên thái giám khiêng theo hai chiếc hòm mà công tử Ngang vừa tặng. Tỳ nhân mở nắp hòm, Ngụy Huệ Hầu rảo bước lại gần, lấy ra một bộ vương phục, vương miện và đôi hài, cẩn thận lật lên lật xuống ngắm nghía hồi lâu, miệng không ngớt lời khen ngợi: “Cha chả! Từ chất liệu tới đường may đều tinh xảo tuyệt vời, đúng là hàng thượng phẩm!”
Tỳ nhân cười nói: “Chúa thượng, sao không thử mặc xem có vừa vặn không?”
Ngụy Huệ Hầu vẻ trễ nải, hất cằm về phía chiếc hòm. Tỳ nhân hiểu ý, bèn nhấc vương phục, vương miện, đai hia lên, lần lượt mặc, đội vào cho Huệ Hầu, sau đó dẫn ông lại trước gương. Ngụy Huệ Hầu hết quay phải lại quay trái, tự ngắm mình trong gương. Tỳ nhân ngắm nghía một lượt từ đầu tới chân Huệ Hầu, tán dương: “Chúa thượng, không chật cũng không rộng, thực vừa vặn!”
Đám thái giám cũng khen ngợi nức nở. Ngụy Huệ Hầu lại xoay qua xoay lại vài lần trước gương, sắc mặt hoan hỷ, tấm tắc khen ngợi: “Quả nhân luôn nghĩ Ngang Nhi là kẻ lỗ mãng, không ngờ cũng có lúc suy nghĩ tinh tế đến vậy, ha ha ha!”
Ngay sau khi Huệ Hầu lên giường đi ngủ, một trong số thái giám liền thay thường phục, âm thầm lẻn khỏi cung nhanh chân chạy tới lầu Nguyên Hanh, ông chủ Lâm vội vã dẫn hắn lên lầu vào gian nhã thất, chỉ thấy đàn sáo dìu dặt, mỹ nữ thướt tha, công tử Ngang, Trần Chẩn đang say sưa thưởng thức ca vũ. Thích Quang liếc mắt ra cửa, thấy có người đứng đó, vội vã đi ra. Thái giám thì thầm vào tai Thích Quang vài câu, rồi mau chóng đi ngay.
Thích Quang quay người bước lại phía Trần Chẩn, ghé sát tai thì thầm truyền lại những lời vừa nghe được. Trần Chẩn cười vang, nhìn công tử Ngang nói: “Thật đúng như hạ quan đã nói! Trong cung có người tới báo, chúa thượng vừa thử vương phục, luôn miệng tấm tắc khen thượng tướng quân đây hành sự tinh tế!”
Công tử Ngang cũng thở phào một tiếng, gật đầu khen: “Thượng đại phu mưu sự, bản công tử thực lòng thán phục! Hiện tại, coi như đã đoán được tâm tư của quân phụ, chỉ có điều… bước tiếp theo nên làm thế nào đây, thượng đại phu hẳn đã suy nghĩ tới?”
Trần Chẩn cười cười rồi nói: “Hạ quan sớm đã sắp xếp ổn thoả, vài ngày nữa sẽ bẩm báo với công tử.”
Hồi Thứ 3
Phượng hót rồng ngâm, Huệ Vương tin lời sàm tấu
Tan nhà nát cửa, Bàng Quyên lưu lạc tha hương
Chuyện Ngụy Huệ Hầu thử vương phục trong cung mau chóng truyền tới tai tư đồ Chu Uy. Chu Uy sai người kín đáo dò la, biết được chuyện vương phục liên quan tới thượng đại phu Trần Chẩn và thượng tướng quân công tử Ngang. Nhớ tới lời nói của con sáo trong cung và việc Công Tôn Ưởng tới cầu hoà, tôn vương, Chu Uy bất giác rùng mình ớn lạnh, nghĩ đi nghĩ lại, càng nghĩ càng thấy không ổn, bèn vội vã tới phủ tướng quốc.
Bạch Khuê đi vắng, phủ tướng quốc thường ngày huyên náo như chợ hôm nay tĩnh lặng khác thường. Chu Uy đi ra sân sau, Công Tôn Diễn đang thay Bạch Khuê xử lý mọi chuyện trong phủ, nghe thấy tiếng bước chân gấp gáp, vội chạy ra cửa nhìn thấy Chu Uy, đang định hành lễ thì Chu Uy đã phẩy tay nói: “Công Tôn huynh, mau tới Đại Lương một chuyến, mời Bạch tướng quốc về ngay!”
Công Tôn Diễn ngạc nhiên hỏi: “Xảy ra chuyện gì ư?” Chu Uy thuật lại sơ qua toàn bộ sự việc, Công Tôn Diễn trầm ngâm suy nghĩ, sắc mặt mỗi lúc càng thêm trầm trọng, thở dài một tiếng: “Than ôi, chúa thượng thực sự muốn xưng vương, nước Ngụy nguy rồi!”
Chu Uy vốn chỉ cho rằng có điều không ổn, chưa nghĩ tới mối nguy, nghe Công Tôn Diễn nói vậy, kinh hãi mà hỏi: “Công Tôn huynh, dựa vào đâu mà nói như vậy?”
“Người Tần quy phục là giả, muốn tranh giành Hà Tây với ta mới là thực. Chu thất tuy suy, song danh nghĩa vẫn còn. Triều hội Mạnh Tân lần này, chúa thượng tuy nhất hô bách ứng, hiệu lệnh thiên hạ, song cờ giương lên vẫn là cờ hiệu tôn Chu. Tần không tôn Chu, chúa thượng cổ vũ thiên hạ thảo phạt, chư hầu cùng hưởng ứng. Kết quả, còn chưa khởi binh phạt nghịch, bản thân đã trở thành nghịch tặc, ắt đánh mất lòng thiên hạ. Hiện nay, thiên hạ ủng hộ hay quay lưng sẽ quyết định thành công hay thất bại, chúa thượng làm vậy, chẳng khác gì tự huỷ trường thành!”
Chu Uy vẫn như không hiểu, lẩm bẩm nhắc lại: “Tự huỷ trường thành?”
“Đúng vậy! Chỉ cần đánh mất lòng dân, nước Tần ắt sẽ lấy danh nghĩa phạt nghịch để khiêu chiến với ta, ta sẽ rơi vào thế cô lập không ai trợ giúp, trở thành giặc chung của thiên hạ!”
Chu Uy nghe xong, toát mồ hôi lạnh, vội vàng hỏi: “Công Tôn huynh, có cách gì cứu vãn không?”
Công Tôn Diễn lắc đầu nói: “Chúa thượng sớm đã có ý xưng vương, lại có công tử Ngang, Trần Chẩn ở hai bên hô ứng, chuyện này e rằng đã định, khó lòng cứu vãn.”
Chu Uy trầm tư suy nghĩ, rồi kiên quyết nói: “Công Tôn huynh, huynh mau tới Đại Lương một chuyến, mời Bạch tướng quốc trở về, còn ta ở đây gấp rút triệu tập bá quan. Chỉ cần tướng quốc trở về, bá quan có người cầm đầu, họa may có thể thay đổi suy nghĩ của chúa thượng!”
Công Tôn Diễn gật đầu: “Cũng chỉ còn cách này!”
“Sự việc không thể chậm trễ, xin Công Tôn huynh mau chóng lên đường!”
Công Tôn Diễn tới tàu ngựa, chọn ra hai con ngựa tốt, cưỡi một con, dẫn theo một con, phi như bay về phía Đại Lương.
Từ An Ấp tới Đại Lương, đi đường tắt cũng phải hơn nghìn dặm. Công Tôn Diễn phi ngựa suốt ngày đêm, trên đường liên tục đổi ngựa. Khi đã thấm mệt, đành phải dừng lại nước Hàn nghỉ ngơi hai canh giờ. Đến buổi trưa ngày thứ ba thì tới Đại Lương.
Phủ quan của Đại Lương không một bóng người. Công Tôn Diễn hỏi thăm mãi mới biết Bạch tướng quốc và thú thừa Đại Lương đang ở chỗ thi công kênh lớn, bèn vội vàng quất ngựa tới đó.
Lúc này, ở gần Phùng Trạch, phía đông Đại Lương, đoạn cuối cùng của con kênh đào đã gần thông suốt. Khắp một vùng, dân công đi lại nhộn nhịp, đâu đâu cũng thấy kẻ khuân người vác.
Bạch Khuê và thú thừa Đại Lương khắp người lấm lem đất cát, tay xách theo cây thuổng, hăm hở bước về phía mái lều dựng tạm trên một bãi đất cao. Trong lều kê vài chiếc bàn dính đầy bùn đất, trên bàn bày sơ đồ và sa bàn thi công.
Bạch Khuê tinh thần phấn chấn, không hề có vẻ mệt mỏi, vừa uống nước vừa cắm cúi lật xem bản sơ đồ, nói với thú thừa Đại Lương bên cạnh: “Cứ tình hình này, chỉ một tháng nữa kênh lớn có thể thông suốt toàn bộ!”
Thú thừa Đại Lương gật gù tán đồng: “Hạ quan đã tra kỹ rồi, ngày vọng(1) tháng tới là ngày cất lợi, có thể phóng thuỷ!”
Bạch Khuê phấn chấn: “Tốt lắm! Tới lúc đó bản tướng sẽ đích thân tới dự lễ phóng thuỷ!”
Lời vừa dứt, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, mỗi lúc một gần. Công Tôn Diễn tới trước lều, xoay người xuống ngựa, chạy tới trước mặt Bạch Khuê khấu đầu phủ phục dưới đất: “Công Tôn Diễn khấu kiến chúa công!”
Nhìn thấy Công Tôn Diễn, Bạch Khuê càng thêm phấn khởi: “Công Tôn Diễn đấy ư? Mau đứng lên, lão hủ cũng vừa nghĩ tới ngươi. Báo cho ngươi một tin vui, vào ngày vọng tháng sau sẽ khai thông kênh lớn!”
Công Tôn Diễn đứng dậy, người hầu liền đưa lại một tấm khăn ướt, Công Tôn Diễn cầm lấy, lau mặt qua quýt rồi đỡ lấy bát nước lạnh, uống ừng ực vài ngụm đã hết.
Bạch Khuê đứng dậy, hồ hởi chỉ tay về phía đoạn kênh đang thi công bên ngoài, nói: “Ngươi xem, Phùng Trạch lũ lụt triền miên, dân chúng gần xa lầm than cơ cực. Lần này kênh lớn khai thông, nước Phùng Trạch có thể biến hại thành lợi, nối liền một mạch với mười sông hai mươi tám đầm. Công Tôn Diễn, ngươi đừng xem nhẹ con kênh này. Với thương nhân, phía đông có thể qua, phía nam có thể tới; với nhà nông, hạn hán có thể tưới ruộng, mưa lũ có thể tiêu úng, chỉ thấy trăm lợi mà không có lấy một hại, quả là người Ngụy có phúc!”
Công Tôn Diễn đứng ngây người nhìn Bạch Khuê. Bạch Khuê thấy lạ, nhưng vẫn nói tiếp: “Công Tôn Diễn, lão hủ còn muốn nói cho ngươi biết, trị quốc cần lấy nông làm gốc, lấy thương làm hồn, hai thứ này không thể thiên vị bên nào. Trọng thương khinh nông, nước không thể mạnh; còn trọng nông khinh thương, dân không thể giàu.”
Công Tôn Diễn chẳng còn tâm trí đâu để nghe những lời giáo huấn, mặt mũi nhăn nhó mà nói: “Chúa công, xảy ra chuyện lớn rồi!”
Bạch Khuê thoáng sững sờ: “Chúa thượng xuất binh ư?”
“Không phải!”
Bạch Khuê thở phào nhẹ nhõm, thủng thẳng hỏi: “Vậy chuyện gì khiến ngươi hoảng hốt đến thế?”
“Chuyện này còn tệ hại hơn cả xuất binh!”
Bạch Khuê bình thản bưng một bát nước lạnh lên, khẽ nhấp một ngụm, nói: “Chỉ cần không phải là khởi binh phạt Tần, nước Ngụy hẳn không có chuyện gì nghiêm trọng! Nói đi!”
“Công Tôn Ưởng vào triều, dập đầu xưng thần, chuyện này tạm không nói tới, song lại cực lực xúi bẩy chúa thượng xưng vương!”
Bạch Khuê sửng sốt: “Sao? Hắn xúi bẩy chúa thượng xưng vương? Chúa thượng có đồng ý không?”
“Trần Chẩn đã may ba bộ vương phục để công tử Ngang dâng tặng chúa thượng, chúa thượng lần lượt mặc thử, không ngớt lời khen ngợi!”
Bạch Khuê đứng ngây như khúc gỗ, bát nước trong tay rớt xuống đất vỡ tan tành.
Công Tôn Diễn kinh hãi gọi: “Chúa công!”
Bạch Khuê giật mình bừng tỉnh, lớn tiếng sai bảo: “Mau chuẩn bị xe!”
Thú thừa Đại Lương nghe vậy, vội vã truyền lệnh chuẩn bị xe. Bạch Khuê lập tức lên xe, Công Tôn Diễn bất chấp mệt mỏi, ra roi thúc ngựa, lại phi thẳng về An Ấp.
Hiện thời đã sắp sang hè, sau trưa nắng như thiêu như đốt. Ngụy Huệ Hầu dùng xong cơm trưa, được đám cung nữ xúm xít theo hầu đưa tới hậu hoa viên, nằm hóng mát trên võng trong đình.
Cánh võng được ghép từ các mảnh trúc nhỏ, vô cùng tinh xảo. Lúc này muỗi không nhiều, nhưng tỳ nhân vẫn sai người mắc màn phòng xa.
Ngụy Huệ Hầu rất chú trọng đạo dưỡng sinh. Đã thành thói quen, một ngày không thể thiếu hai giấc ngủ đêm và ngủ trưa. Với Huệ Hầu, giấc ngủ đêm không thành vấn đề, do đã quen cứ giờ Nhân định(2) là lên giường, nên tới giờ Tý, đã chìm vào giấc ngủ say. Còn giấc ngủ trưa không dễ dàng như vậy, thường xuyên bị quấy rầy, không phải thời tiết nóng lạnh thất thường, cũng là các chuyện phiền toái trong triều.
Ngụy Huệ Hầu hai mắt lim dim, nằm im trên võng. Cung nữ nhẹ nhàng đung đưa cánh võng, một sủng phi tay cầm quạt phe phẩy một bên. Nằm một lát rồi mà Ngụy Huệ Hầu vẫn không ngủ được, đành phải trở mình nghiêng sang bên kia. Sủng phi nhanh trí, vừa quạt, vừa hát ru khe khẽ. Chiêu này quả nhiên hiệu nghiệm, chỉ một lát sau, Ngụy Huệ Hầu đã ngáy pho pho.
Ngụy Huệ Hầu vốn to béo đẫy đà, mỗi khi cất tiếng ngáy, nghe trầm bổng du dương, khá là vui tai. Những người hầu hạ quanh Ngụy Huệ Hầu đều hiểu rõ, nghe thấy tiếng ngáy là biết quân chủ đã ngủ say. Sủng phi có lẽ đã thấm mệt nên dừng tay quạt, chỉ để cung nữ thay phiên nhau đưa võng.
Đúng lúc này, mặt Ngụy Huệ Hầu bỗng căng lên, toàn thân run bắn, miệng ú ớ không thốt thành lời, hai chân run bần bật, song không quẫy đạp. Cung nữ sợ hãi thất sắc, song sủng phi có vẻ đã quen, ra sức lay gọi quân chủ: “Chúa thượng! Chúa thượng!”
Sau một hồi lay gọi, Ngụy Huệ Hầu mới choàng tỉnh, hoảng hốt ngồi bật dậy, mồ hôi vã ra như tắm khắp người.
Sủng phi ân cần hỏi: “Chúa thượng mơ thấy ác mộng ư?”
Ngụy Huệ Hầu dường như không nghe thấy, chỉ ngồi đờ đẫn một hồi mới hoàn hồn, quát lớn: “Người đâu!”
Tỳ nhân đang ngồi ngủ gà gật cách đó không xa, nhận ra có chuyện bất thường, đã đứng dậy sẵn từ lúc nãy, nghe thấy tiếng gọi, vội vã chạy lại.
Ngụy Huệ Hầu không buồn ngẩng đầu, nói: “Mau triệu thượng đại phu vào gặp ta!”
Tỳ nhân “vâng” một tiếng, rồi vội vã bước xuống đình. Ngụy Huệ Hầu tắm gội xong xuôi, thay đổi lễ phục, vừa ngồi xuống thư phòng thì thượng đại phu Trần Chẩn đã tới. Trần Chẩn tiến vào cửa dập đầu nói: “Vi thần Trần Chẩn khấu kiến chúa thượng.”
Ngụy Huệ Hầu xua tay nói: “Ái khanh mau bình thân!”
Đối với Ngụy Huệ Hầu, gấp rút triệu kiến đại thần vào giữa trưa là chuyện hiếm thấy. Trần Chẩn không hiểu duyên do, chỉ biết cười cười, hạ giọng thăm dò: “Bẩm chúa thượng, có câu ‘tâm có giao cảm’, vi thần vốn không tin, hôm nay thì đã tin rồi!”
Ngụy Huệ Hầu không nói gì, chỉ nhìn Trần Chẩn. Trần Chẩn chột dạ, sợ mình đoán sai, lại toét miệng cười, giải thích: “Vi thần nằm ở trên giường, trong lòng đang nghĩ tới chúa thượng thì khẩu dụ của chúa thượng đã tới! Chúa thượng thấy có kỳ lạ không?”
Ngụy Huệ Hầu vẫn như không nghe thấy Trần Chẩn nói gì, đảo con ngươi vài vòng, rồi nhìn thẳng vào ông ta, nói: “Trần ái khanh, quả nhân gấp rút triệu khanh tới, song không phải có chuyện gì quan trọng, chỉ là vừa rồi đột nhiên ngủ mơ, quả là ly kỳ, giật mình tỉnh giấc đầu óc rối bời, suy nghĩ mãi không thể lý giải, muốn nhờ ái khanh giải giúp!”
Trần Chẩn thở phào: “Vi thần xin được lắng nghe!”
Ngụy Huệ Hầu khép mắt, tựa như chìm vào giấc ngủ: “Quả nhân đang ngủ trong đình hóng mát, trong lúc mơ màng, nhìn thấy từ trên trời cao có một con chim lớn bay lại. Chim lớn quắp lấy quả nhân, bay thẳng lên tầng mây trắng. Quả nhân vô cùng kinh sợ, muốn kêu không được, muốn giãy không xong, toàn thân bất lực. Đột nhiên mây trắng biến thành mây lành bảy sắc, mây lành bảy sắc hợp thành một dải cầu vồng. Chim lớn bay về phía cầu vồng, đỗ lại trên đỉnh. Quả nhân nhìn khắp tứ phía, thấy khí lành bốc lên cuồn cuộn, mây tía lớp lớp, thật là khung cảnh tuyệt mỹ chốn nhân gian! Tiếp đến nhạc tiên cất lên, từ phía xa một bầy mỹ nữ giống hệt thiên thần bay lại. Mỹ nữ bay vào trong mây ngũ sắc, múa lượn dịu dàng. Quả nhân đang say sưa thưởng thức, bỗng nhiên chim lớn đạp vuốt, quả nhân sợ hãi đứng không vững nữa, rơi thẳng từ trên đỉnh cầu vồng xuống!” Huệ Hầu dừng lại một lát, vẻ như chưa hết kinh sợ. “Quả nhân rơi xuống tựa như chiếc lá, vô tình nhìn xuống phía dưới. Phía dưới tối đen thăm thẳm, hun hút không thấy đáy! Quả nhân hồn xiêu phách lạc, liếc nhìn xung quanh thấy bên cạnh chẳng có một ai, vội hét lên kêu cứu, song chỉ ú ớ trong họng mà không thành tiếng. Muốn nhảy lên, song hai chân không thể cử động, đang kinh hãi thì may được sủng phi lay gọi tỉnh dậy. Ái khanh, quả nhân giật mình tỉnh giấc, toàn thân vã mồ hôi lạnh toát!”
Trần Chẩn đảo con ngươi một vòng, rồi đứng bật dậy, tiến lại trước mặt Ngụy Huệ Hầu, quỳ phịch xuống đất, cất giọng sang sảng: “Vi thần chúc mừng bệ hạ! Chúc mừng bệ hạ!”
Nghe Trần Chẩn hô to hai chữ “bệ hạ”, Ngụy Huệ Hầu sững sờ hồi lâu mới lắp bắp: “Trần ái khanh, khanh… ý khanh là…”
Trần Chẩn lại lạy ba lạy: “Bệ hạ đã mơ thấy một giấc mơ tốt lành, vi thần chúc mừng bệ hạ!”
Ngụy Huệ Hầu bán tín bán nghi: “Tốt lành thế nào, còn nhờ ái khanh giải thích rõ!”
“Nước Tần xưa nay được gọi là đất nước của hắc điêu, tức giống ưng đen. Mơ gặp chim lớn, đương nhiên là Tần Công. Chim lớn mang bệ hạ bay thẳng lên trời cao, chính là Tần Công phò tá bệ hạ xưng vương. Bệ hạ bay lên phía trên mây lành bảy sắc, tức bệ hạ sẽ trở thành thiên tử. Mây lành có bảy màu, là chỉ liệt quốc trong thiên hạ đều hết lòng thần phục, giống như muôn sao chầu về mặt trăng. Mỹ nữ vây quanh bệ hạ nhảy múa hát ca là chỉ thần dân thiên hạ quy thuận, muôn người vui vẻ. Bệ hạ muốn kêu không được, muốn động không xong là chỉ bệ hạ có tấm lòng đại đức, không chịu nhận lấy vị trí này.”
Ngụy Huệ Hầu trầm ngâm một lúc, rồi khẽ gật đầu: “Ái khanh nói cũng có lý. Tuy nhiên, chim lớn lại hất ta xuống vực thẳm, chuyện này nên giải thích ra sao?”
Trần Chẩn sớm đã nghĩ ra lời ứng phó: “Theo vi thần biết, cõi mộng đa phần hư ảo, giống như gương vậy. Hình trong gương là ngược lại, cõi mộng cũng là ngược lại. Mơ đen là trắng, mơ trắng là đen; mơ dữ là lành, mơ lành là dữ. Bệ hạ cuối cùng bị chim lớn hất xuống vực thẳm, tưởng hung mà lại là cát. Rơi xuống dưới tức là hướng lên trên, vực sâu không đáy ngụ ý nền móng kiên cố sâu dày. Bệ hạ, giấc mơ này đại cát đại lợi, cho thấy bệ hạ ắt sẽ hoàn thành vương nghiệp!”
Ngụy Huệ Hầu thở hắt ra một hơi sảng khoái: “Nói như vậy, quả nhân đã tự chuốc muộn phiền vào mình ư?”
Trần Chẩn khẽ liếc nhìn Ngụy Huệ Hầu: “Sự việc khéo trùng hợp, cách đây không lâu vi thần nghe được một lời đồn trong thiên hạ, vừa hay phù hợp với giấc mơ của bệ hạ.”
“Ồ!” Ngụy Huệ Hầu hào hứng. “Lời đồn thế nào?”
Trần Chẩn hít sâu một hơi, chậm rãi nói: “Cách Đại Lương một trăm dặm về phía đông nam có một đầm nước tên gọi Phùng Trạch. Bên đầm có núi gọi là Long Sơn. Một tháng trước, có tiều phu nghe thấy tiếng chim phượng hót trên núi, có ngư dân nghe thấy tiếng rồng ngâm trong đám. Phượng hót rồng ngâm là điềm may mắn nghìn năm mới gặp một lần. Năm xưa phượng hót ở Kỳ Sơn, Vũ Vương phạt Trụ. Ngày nay phượng hót ở Long Sơn, bệ hạ quay mặt về nam xưng vương cũng là thuận theo ý trời!”
“Có chuyện kỳ lạ như vậy ư?” Ngụy Huệ Hầu mắt bỗng sáng rực. “Trần ái khanh, khanh hãy cấp tốc đi điều tra, nếu là tin đồn thì thôi; song nếu đúng là thật, quả nhân sẽ đích thân tới Phùng Trạch, tế lễ trời đất!”
“Khởi bẩm bệ hạ,” không biết từ lúc nào, Trần Chẩn đã thay đổi cách xưng hô, “khi nghe được chuyện này, vi thần liền tức tốc cử người đi điều tra ngay, và đã tìm được hai người đó!”
Ngụy Huệ Hầu vô cùng phấn chấn: “Ồ, hiện họ ở đâu?”
“Ở trong phủ của vi thần!”
“Mau mời họ vào cung yết kiến!”
“Vi thần tuân chỉ!”
Trần Chẩn bước ra khỏi ngự thư phòng, đưa ống tay áo lên lau mồ hôi lạnh rịn trên trán, thở phào một tiếng, nghĩ thầm trong bụng: Thật may, nếu chúa thượng không mời mình tới giải thích giấc mơ, nếu mình không khéo tuỳ cơ ứng biến thì mọi nỗ lực mấy ngày qua đều đã xôi hỏng bỏng không. Sự việc đã tới nước này, đại sự hẳn đã thành công!
Trần Chẩn sải bước ra khỏi cửa cung, phu xe đã đợi sẵn bên cửa đỡ ông ta lên xe, gấp rút quay trở về phủ.
Tại một gian phòng bên trong một khu nhà ba dãy, Thích Quang đang trò chuyện với hai gã đàn ông trung niên. Hai người này quỳ dưới đất, một người trong trang phục tiều phu, còn một người trong trang phục ngư dân, hai người đang trợn mắt lẩm nhẩm gì đó. Thích Quang ngồi trước bàn, đôi mắt lim dim vẻ đang ngưng thần lắng nghe. Đôi tai thính như thỏ của Thích Quang chỉ nghe thấy tiếng chân bước đã biết là chủ nhân trở về, vội vã đứng bật dậy khỏi chiếu chạy ra cửa nghênh đón, đỡ Trần Chẩn ngồi xuống chiếu chủ nhân, còn mình đứng hầu bên cạnh.
Trần Chẩn quay sang Thích Quang: “Chúng đều thuộc lòng rồi chứ?”
Thích Quang liếc nhìn hai người, lớn tiếng hỏi: “Hai người các ngươi mau bẩm báo chúa công, những lời vừa rồi, đã ghi nhớ cả chưa?”
Hai người lại lạy ba lạy: “Bẩm chúa công, tiểu nhân đã thuộc làu như lòng bàn tay, một chữ cũng không bỏ sót.”
“Được, nhớ hết thì tốt!” Trần Chẩn cười nói. “Có điều, thuộc làu ở đây cũng vô ích. Lát nữa tới gặp bệ hạ, nếu các ngươi cũng thuộc làu không sót một chữ mới là quan trọng!”
Hai người đồng thanh nói: “Chúa công yên tâm, đừng nói là bệ hạ, dù trước mặt thần linh cũng không bỏ sót một chữ!”
Trần Chẩn ra hiệu với Thích Quang, rồi khép hờ mắt lại. Thích Quang bước tới bên cạnh bê một chiếc hòm tới trước bàn Trần Chẩn, mở nắp hòm ra, lần lượt lấy ra từng đĩnh vàng lấp lánh xếp thành hai đống nhỏ. Động tác của Thích Quang còn cố ý phô trương, khiến hai kẻ kia nhìn không chớp mắt.
Thích Quang xếp xong, nghiêm giọng nói với hai người: “Hai tên kia, nghe rõ đây! Đợi sau khi bái kiến bệ hạ, nếu nói hay nói tốt, mỗi người sẽ được nhận một phần. Nếu nói sót một chữ, không những không được vàng, mà toàn bộ người trong nhà từ già tới trẻ của các ngươi đều…” Thích Quang dừng lại, chỉ cười nham hiểm.
Ngư dân và tiều phu sợ tái mặt, dập đầu liên tục, lắp bắp: “Tiểu… tiểu nhân… đã hiểu!”
Trần Chẩn gật đầu, đứng dậy nói: “Đi thôi!”
Đúng lúc Trần Chẩn dẫn ngư dân và tiều phu vào cổng chính của cung thành, thì ở cổng thành phía đông An Ấp, Công Tôn Diễn mặt sưng húp vì thiếu ngủ nhiều ngày cũng quất ngựa hô to một tiếng, lao qua cổng thành.
“Chúa công, đã tới An Ấp rồi! Chúng ta nên về phủ tướng quốc trước, dù sao chúa công cũng nên nghỉ ngơi một lát!” Công Tôn Diễn quay người lại nói.
Bạch Khuê hai mắt lim dim, chẳng buồn ngẩng đầu, chỉ nói hai tiếng: “Vào cung!”
Công Tôn Diễn do dự một lát, rồi quất roi thúc ngựa, lao băng băng về phía cung thành.
Khi lão tướng quốc bước vào cửa cung, thì ngư dân và tiều phu đã dập đầu bái kiến ở thiên điện. Tiều phu đã nói xong, ánh mắt Huệ Vương đang chiếu sang ngư dân. Ngư dân sắc mặt lấm lét, đứng đực ra một lát, húng hắng vài tiếng, mới đọc ê a: “Thảo… thảo dân dậy sớm tới Phùng Trạch quăng lưới, đột… đột nhiên nghe thấy tiếng nước ở phía trước, tiếp đến nhìn… nhìn thấy trong nước có một vật đang bơi lội, thân dài vài trượng. Thảo dân chưa từng nhìn thấy giống vật đó bao giờ, vô cùng ngạc nhiên, bèn mở to mắt nhìn kỹ. Con vật ấy càng bơi càng nhanh, sau đó đột nhiên từ dưới nước bay… bay vút lên không trung vài… vài trượng, cất lên tiếng ngâm vừa vang vừa dài, như thế này…” hắn lấy hơi, phồng má, “u… hu…”
Ngụy Huệ Hầu miệng há hốc, ngả hẳn người về phía trước, vội vã hỏi: “Ngươi có nhìn kỹ vật đó chăng?”
Ngư dân lắc đầu nói: “Hôm đó sương mù dày đặc, thảo dân nhìn không rõ, chỉ thấy cơ thể nó to không gì bằng, hình thù giống mãng xà lớn, miệng nhả lửa hừng hực, cuồn cuộn lên xuống…”
Trần Chẩn đặng hắng khẽ một tiếng, ngư dân bèn im bặt. Ngụy Huệ Hầu mừng rỡ ra mặt, quay sang Trần Chẩn nói: “Quả nhân nghe nói rồng phượng theo nhau, trong núi có phượng, vậy thì vật này ắt là thiên long rồi!”
Trần Chẩn vòng tay tán đồng: “Bẩm chúa thượng, long phượng hiện thế, quả là may mắn khác thường!”
Ngụy Huệ Hầu ngoảnh sang phía tỳ nhân, vuốt râu nói: “Ồ, trời hiện điềm lành, hai vị hương dân đây trình báo có công, thưởng cho mỗi người ba mươi lượng vàng!”
Tỳ nhân ra hiệu, một hoạn quan liền bưng tới hai khay vàng. Ngư dân, tiều phu một lần nữa lại được nhìn thấy những thỏi vàng lấp lánh, vội vã dập đầu lia lịa, còn chưa kịp nói lời tạ ơn thì một hoạn quan khác chạy vào bẩm báo: “Khởi bẩm chúa thượng, Bạch tướng quốc cầu kiến!”
Nghe thấy ba chữ “Bạch tướng quốc”, Trần Chẩn bất giác giật mình đánh thót, ngư dân và tiều phu hai chân run lên bần bật. Song Ngụy Huệ Hầu lại rất đỗi vui mừng: “Ồ, lão ái khanh trở về rồi ư! Mau mời tướng quốc vào!”
Tỳ nhân dõng dạc hô: “Chúa thượng có chỉ, vời Bạch tướng quốc yết kiến!”
Bạch Khuê vội vã rảo bước vào, khấu đầu hô: “Vi thần khấu kiến chúa thượng!”
Ngụy Huệ Hầu tươi cười, chìa tay ra nói: “Lão ái khanh mau bình thân, ngồi đi, ngồi đi!”
Bạch Khuê lạy thêm một lạy: “Tạ ơn chúa thượng!” Vừa đứng dậy, nhìn thấy Trần Chẩn đang ngồi lù lù ở chỗ của mình, Bạch Khuê lập tức sầm mặt xuống. “Chúa thượng, ở đây hình như không có chỗ của lão thần!”
Trần Chẩn lập tức mặt mày biến sắc.
Ngụy Huệ Hầu quay sang Trần Chẩn, cười ha hả mà nói: “Trần ái khanh, khanh ngồi nhầm chỗ rồi, mau đổi chỗ đi!”
Trần Chẩn lúng túng đứng dậy, đi sang ngồi xuống hàng bên phải, vòng tay hướng về phía Bạch Khuê: “Hạ quan thất lễ, mong tướng quốc lượng thứ!”
Bạch Khuê chậm rãi bước tới chỗ của mình, ngồi xuống, khinh khỉnh nói: “Không phải thượng đại phu thất lễ, mà là lão hủ đây tới không đúng lúc!”
Trần Chẩn càng luống cuống: “Không phải, không phải, hạ quan không có ý này!”
Bạch Khuê còn định nói nữa thì Ngụy Huệ Hầu đã cắt ngang: “Lão ái khanh, đừng chấp việc này nữa, quả nhân đang có chuyện muốn kể cho khanh nghe đây!”
Bạch Khuê quay người lại, vòng tay cung kính: “Lão thần xin được lắng nghe!”
Ngụy Huệ Hầu chỉ tay vào ngư dân và tiều phu đang quỳ dưới đất, nói: “Hai vị hương dân đây vừa từ Phùng Trạch tới, nói là đích thân nghe thấy tiếng phượng hót rồng ngâm. Điềm may mắn này quả là nghìn năm có một!”
Bạch Khuê liếc nhìn hai kẻ kia, lòng đã sáng tỏ như gương, sắc mặt sa sầm, chiếu thẳng ánh mắt vào ngư dân và tiều phu, thấy hai kẻ này đều cúi gằm đầu, cố gắng nâng ống tay áo rộng che kín mặt, lại càng hiểu rõ, bèn chậm rãi nói: “Hai vị hương dân đây thật là có phúc, hãy ngẩng đầu lên để bản tướng nhìn rõ mặt!”
Ngư dân và tiều phu càng vùi mặt sâu hơn vào ống tay áo, toàn thân run bần bật, hai mông đít rung lắc hệt như hai cái sàng đang sàng thóc, Bạch Khuê nhìn rõ mồn một, bèn nghiêm giọng quát: “Hai vị hương dân, bản tướng muốn hai người ngẩng đầu lên, đã nghe rõ chưa?”
Ngư dân và tiều phu chẳng còn cách nào khác, đành phải ngẩng lên. Bạch Khuê vừa liếc nhìn lập tức nhận ra bọn họ, bèn nện mạnh nắm đấm xuống án, giận dữ quát lớn: “Điêu dân to gan, hẳn đã từng gặp bản tướng?”
Hai người mặt xám ngoét, toàn thân run rẩy.
Bạch Khuê cười nhạt: “Phượng hót rồng ngâm cái gì? Hai ngươi làm xằng làm bậy ở quê nhà còn chưa kể, lại dám tìm cách vào cung bày chuyện điêu trá, khi quân phạm thượng, các ngươi có biết đây là tội tru di cửu tộc?”
Nghe thấy bốn chữ “tru di cửu tộc”, hai kẻ gần như rũ liệt dưới đất.
Bạch Khuê chậm rãi quay sang phía Ngụy Huệ Hầu: “Bẩm chúa thượng, sau khi từ Mạnh Tân trở về, vi thần luôn sống ở Phùng Trạch, chưa từng nghe thấy phượng hót rồng ngâm, cũng chưa từng nghe ai nói tới chuyện này. Còn hai kẻ kia, vốn không phải là ngư dân hay tiều phu gì hết. Một tên là Câu Tam, chơi bời lêu lổng, nổi tiếng côn đồ. Tên kia là Chu Tứ, ham mê cờ bạc thành tính, lừa gạt cả cha mẹ vợ con. Mấy năm gần đây đào khơi kênh lớn, hai kẻ này nhiều lần trốn tránh lao dịch, đã bị thú thừa Đại Lương phạt đánh bốn mươi roi. Đúng hôm xử phạt, vi thần vừa hay đến đó, nên vẫn nhớ mặt! Điêu dân lại dám vào tận đây dối lừa chúa thượng, hẳn là có kẻ xui khiến, mong chúa thượng minh xét!”
Sắc mặt Ngụy Huệ Hầu chốc lát tối sầm, từ từ dịch chuyển ánh mắt sang Trần Chẩn: “Trần ái khanh, có chuyện này chăng?”
Trần Chẩn sớm đã trấn tĩnh trở lại, đảo con ngươi vài vòng, từ từ đứng dậy nhìn thẳng vào Bạch Khuê, cố gắng nói thật chậm rãi: “Những lời này của Bạch tướng quốc, rõ ràng là muốn kết tội hạ quan. Bạch tướng quốc xưa nay nhất ngôn cửu đỉnh, hạ quan dù có mười miệng cũng khó lòng biện hộ. Hôm nay trước mặt chúa thượng, hạ quan không dám nói bừa, nhất định phải làm sáng tỏ chuyện này!”
Ngụy Huệ Hầu nghe Trần Chẩn nói vậy, mặt vẫn tối sầm, song cũng gật đầu mà nói: “Trần ái khanh cứ nói!”
Trần Chẩn quay sang tiều phu, ung dung dẫn dắt: “Xin hỏi tiều phu, tướng quốc đại nhân đây nói, đại nhân đã từng gặp ngươi ở Đại Lương, có chuyện này không?”
Thấy tiều phu liếc nhìn lại, Trần Chẩn lừ mắt ra hiệu.
Tiều phu lập tức hiểu ý, vội lắc đầu quầy quậy: “Tiểu nhân sống ở Long Sơn, quanh năm kiếm sống bằng nghề đốn củi, hơn chục năm qua chưa rời khỏi núi một lần, chưa từng gặp tướng quốc đại nhân!”
Trần Chẩn hết sức hài lòng, lại quay sang phía ngư dân: “Xin hỏi ngư dân, đã từng gặp tướng quốc đại nhân chưa?” Ngư dân đương nhiên cũng lắc đầu.
“Trông hai ngươi bộ dạng thực thà, chắc cũng không dám dối trá!” Trần Chẩn khẽ cười một tiếng, lại nhìn sang tiều phu. “Vậy ta hỏi tiếp, ngươi nghe thấy phượng hót lúc nào, ở đâu?”
Tiều phu ngẩng lên, chạm phải ánh mắt nghiêm nghị của Bạch Khuê, vội vã cúi đầu né tránh.
Trần Chẩn lớn tiếng hỏi: “Tiều phu, đây là triều đường, không phải Đại Lương, ngươi nghe thấy gì thì nói thế ấy! Nếu có nửa lời giả dối, bản quan tất xử ngươi tru di cửu tộc.”
Tiều phu nghe vậy, vội vàng nói thật mạch lạc: “Vào một buổi chiều nọ, tiểu dân đang đi đốn củi, đột nhiên nghe thấy tiếng chim hót trong núi.”
Trần Chẩn sầm mặt: “Là chim hót, hay là phượng hót?”
Tiều phu vội vã sửa lại: “Là… là phượng hót!”
“Sao ngươi biết đó là phượng hót?”
Tiều phu đã lấy lại bình tĩnh, dõng dạc nói: “Tiểu dân nhìn thấy hàng nghìn hàng vạn con chim kết thành đàn bay vòng quanh đỉnh núi, một lát sau lại đột nhiên biến mất, ngay sau đó thì nghe thấy một tiếng hót dài vọng lại từ đỉnh núi, âm thanh vang động tới hơn chục dặm, tựa như tiên nữ ca hát. Tiểu dân từ nhỏ đã được nghe chuyện trăm chim chầu phượng hoàng, do vậy đoán rằng tiếng hót ngân dài kia chắc chắn là tiếng hót của chim phượng!”
Trần Chẩn từ từ đứng dậy, bước tới phía trước Ngụy Huệ Hầu, dập đầu sát đất nói: “Trắng đen phải trái đã rõ, mong chúa thượng minh xét!”
Ngụy Huệ Hầu khẽ gật đầu, chậm rãi nhìn về phía Bạch Khuê, trầm giọng nói: “Lão ái khanh, khanh trở về khi nào?”
“Chúa thượng!” Bạch Khuê nôn nóng, quên bẵng cả tôn ti. “Lời kể của tiều phu có rất nhiều sơ hở, rõ ràng là muốn giở trò gian xảo lừa gạt chúa thượng!”
Ngụy Huệ Hầu nghiêm mặt, rồi đột ngột cao giọng: “Bạch Khuê, quả nhân hỏi khanh, khanh từ Đại Lương trở về khi nào?”
Bạch Khuê trong lòng giật thột, bèn từ từ đứng dậy, dập đầu sát đất: “Khởi bẩm chúa thượng, vi thần vừa trở về, còn chưa kịp hồi phủ!”
“Lão ái khanh!” Giọng Ngụy Huệ Hầu chậm rãi, “khanh đã có tuổi, đi đường xa xôi hẳn đã mệt mỏi, mau trở về phủ nghỉ ngơi ba ngày rồi hãy lên triều!”
Bạch Khuê trong lòng ớn lạnh, liếc sang Trần Chẩn, lại nhìn hai kẻ lưu manh và số vàng bày trước mặt chúng, thở dài một tiếng, khấu đầu nói: “Vi thần lĩnh chỉ!”
***
Bàng Quyên bị giam vào ám thất tối tăm dưới lòng đất, không biết đã qua mấy ngày, mỗi ngày chỉ được húp một bát cháo loãng, đói lả người toàn thân rệu rã.
Buổi sáng hôm nay, bỗng thấy hai hán tử mở cửa phòng, chẳng nói chẳng rằng xốc nách Bàng Quyên kéo lê ra ngoài lầu Nguyên Hanh rồi đẩy mạnh ra phố. Bàng Quyên không còn chút hơi sức, lại bị hai hán tử thình lình xô đẩy nên theo đà lăn lông lốc ra ngoài, rồi nằm phơi mặt trên đất.
Hai hán tử liếc hắn một cái, phủi tay quay trở vào sân. Bàng Quyên nằm một lát thì nghiến răng bò dậy, nhìn trừng trừng vào tấm biển hiệu lầu Nguyên Hanh, gắng hết sức bò tới bên tường, vịn tay vào đó, khó nhọc lê đi.
Bàng Quyên trở về phố Tây Nhai thì thấy cửa nhà khoá trái. Bàng Quyên hết sức ngạc nhiên, không kịp mở cửa, vội vã đi sang tiệm bán giá đỗ bên cạnh. Người bán hàng vui vẻ mời Bàng Quyên ngồi. Bàng Quyên bèn hỏi cha mình đã đi đâu, song anh ta lắc đầu, nói không biết, chỉ biết tiệm may đã đóng cửa cả tuần(3) trời.
Bàng Quyên chợt nhớ ra La Văn có đến nhà mình vào chục ngày trước, trong lòng cũng thấy yên tâm, bèn bảo người bán hàng làm cho hai bát mì. Anh ta thấy Bàng Quyên đã đói lử, nhanh nhẹn vào bếp nổi lửa, một lát sau đã bưng ra hai bát mì nóng hổi. Bàng Quyên ăn xong, thấy khoẻ hơn hẳn bèn vòng tay vái tạ rồi trở về nhà. Mở cửa ra, quan sát một lượt, thấy mọi thứ vẫn như cũ thì thở phào một tiếng, ngồi xuống dưới chiếu phía trước quầy hàng, trấn tĩnh tinh thần, vừa điều chỉnh lại tâm tư hỗn loạn mấy ngày qua, vừa đợi thể lực phục hồi, chờ đợi tin tức của cha.
Bàng Quyên cứ thế ngồi trong tiệm tới khi trời tối thì có người đẩy cửa bước vào. Bàng Quyên ngẩng đầu nhìn, chính là La Văn. Bàng Quyên nhảy phắt dậy, túm lấy La Văn, tức giận kêu lên: “Họ La kia, ta đang định đi tìm ngươi thì ngươi lại dẫn xác tới!”
La Văn không giằng co, cứ để Bàng Quyên túm lấy. Bàng Quyên lôi hắn tới trước quầy hàng, hằm hằm chỉ tay vào quầy hỏi lớn: “Nói mau, cha ta ở đâu?”
La Văn đáp: “Bàng huynh buông tay ra, tại hạ tới đây cũng là vì chuyện này.”
Bàng Quyên thả tay ra, song mắt vẫn nhìn trừng trừng vào La Văn. La Văn thở hắt ra một hơi, rồi kể lại toàn bộ sự việc xảy ra trong những ngày qua, song giấu nhẹm chuyện vương phục, chỉ nói trong phủ mời Bàng sư phụ may vài bộ quần áo quý giá, đồng thời lấy từ trong ống tay áo ra hai mươi bảy lượng vàng, xếp lên mặt bàn, nói: “Đây là tiền công của Bàng sư phụ trong mười ngày qua, lão quản gia bảo tại hạ tiện thể mang qua cho Bàng huynh trước.”
Mười ngày đã kiếm được tới hai mươi bảy lượng vàng, quả là chuyện khó tin! Bàng Quyên đưa mắt nhìn đống vàng xếp trên bàn, cười nhạt một tiếng: “Dù có may vương phục cho thiên tử cũng không được nhiều vàng như vậy! Họ La kia, ngươi muốn lừa ta ư?”
“Bàng huynh chớ nghi ngờ, đây đúng là số tiền công của Bàng sư phụ. Do làm gấp nên trong phủ trả công cao hơn một chút, nghe lão quản gia nói, thù lao cao gấp ba lần bình thường.”
Bàng Quyên truy hỏi: “Là trang phục gì mà tiền công đắt đến thế?”
La Văn ngẩn ra chốc lát, rồi lắc đầu nói: “Chuyện này… tại hạ cũng không biết!”
“Họ La kia!” Bàng Quyên rít qua kẽ răng, “dù ngươi có biết hay không, thì cha ta đã đi theo ngươi, ta chỉ biết tìm ngươi đòi người. Nhà ta đối xử với ngươi không đến nỗi tệ, hôm nay không nói nhiều lời, ngươi mau về bảo Trần Chẩn thả cha ta ra, nếu không…” Nói tới đây thì ngừng lời, nắm đấm siết lại răng rắc.
La Văn gật đầu nói: “Bàng huynh không phải nói nữa, tại hạ sẽ về bẩm báo với lão quản gia!”
La Văn đi được vài bước thì ngoảnh đầu lại nói: “Còn một việc nữa, tại hạ suýt quên mất! Bàng sư phụ dặn, nếu có việc gấp, đi tìm chú ba!”
Bàng Quyên lạnh lùng đáp: “Ta chẳng tìm ai, chỉ muốn cha ta trở về!”
La Văn ra khỏi cửa, thấy trời đã tối, vội vã sải bước về phủ thượng đại phu. Bước vào cửa phủ, La Văn nghĩ ngợi một lát, quyết định tới gặp Bàng sư phụ trước để báo với ông Bàng Quyên vẫn bình an vô sự. La Văn rảo bước tới khu nhà nhỏ nơi Bàng Hành đang bị nhốt, từ xa đã nhìn thấy cổng ngoài khoá chặt, bên trong tối đen như mực không có lấy chút ánh đèn. La Văn trong lòng hoang mang, sải bước nhanh hơn, tới trước cổng gõ liên hồi, song không ai lên tiếng. Gắng sức đẩy cổng, cũng không đẩy được.
La Văn vô cùng sốt ruột, vừa hay nhìn thấy một tên hầu đi lại, bèn chặn đầu hỏi: “Bàng sư phụ đâu?”
Tên hầu hỏi lại: “Bàng sư phụ là ai?”
“Là lão sư phụ may quần áo trong khu nhà này!”
“À! Lúc sẩm tối, tôi thấy mấy người đưa ông ta đi rồi!”
La Văn kinh hãi hỏi: “Đưa đi đâu?”
Tên hầu lắc đầu.
La Văn đứng ngây ra một lát, rồi quay người bước tới khu nhà của Thích Quang, song không thấy lão quản gia đâu. La Văn hỏi người hầu trong viện, được biết Thích Quang vừa đi, hình như là tới thư phòng của chúa công.
La Văn thoáng do dự, rồi cuối cùng cũng cất bước hướng về phía thư phòng của Trần Chẩn.
Thư phòng của Trần Chẩn là khu nhà thứ sáu, cũng là khu nhà cuối cùng, vô cùng bí ẩn, ngoài đám người hầu thân cận, những thuộc hạ khác nghiêm cấm ra vào. Do đang gấp gáp, La Văn quên bẵng mất điều này, sải bước tiến thẳng tới cổng.
Bên trong khu nhà tĩnh mịch không một tiếng động, chỉ có vầng trăng lưỡi liềm toả sáng dìu dịu. Không có ánh đèn có nghĩa là không có người. La Văn đứng lại, nhìn vào bên trong lần nữa, đúng là họ không có bên trong. Đang định bỏ đi, đột nhiên nghe thấy tiếng nói: “Chúa công, vừa rồi hai gã lưu manh kia lại làm ầm lên, khăng khăng đòi trả vàng, thả người!”
La Văn nhận ra giọng của Thích Quang, vô cùng sửng sốt, vội vã nín thở ngưng thần lắng nghe. Câu trả lời của Trần Chẩn cũng vang lên ngay sau đó: “Sự việc đã xong, nếu như muốn đi, hãy tiễn chúng lên đường!”
“Tiểu nhân đã rõ!”
La Văn điếng người. Rõ ràng, Trần Chẩn và Thích Quang đang bàn chuyện cơ mật, nếu để họ biết La Văn nghe thấy, tuyệt đối không phải chuyện tốt đẹp. La Văn đang định len lén bỏ đi thì giọng Trần Chẩn lại vang lên chậm rãi: “Thế còn… chuyện của Bạch gia, làm đến đâu rồi?”
Nghe thấy hai chữ “Bạch gia”, lòng hiếu kỳ bỗng trỗi dậy khiến La Văn dừng bước.
Ngay sau đó là giọng Thích Quang: “Khởi bẩm chúa công, Bạch công tử đã bị Lương công tử, Ngô công tử và cô ả kia làm cho điên đảo thần hồn, mấy ngày nay, hôm nào cũng đánh bạc, tối tối hưởng lạc, ngày ngày thắng bạc, sảng khoái chẳng khác gì thần tiên, lúc này chắc vẫn đang tiêu dao trong lầu Nguyên Hanh!”
“Không được để hắn ngày ngày thắng bạc, phải để hắn có thắng có thua. Thắng thì phải để hắn thắng sung thắng sướng, còn thua thì phải để hắn thua thảm thua hại. Chỉ có vậy, hắn mới thấy thú vị!”
“Tiểu nhân ghi nhớ lời dạy của chúa công!”
Trần Chẩn thở dài một tiếng, hậm hực nói: “Lão già Bạch Khuê thật đáng ghét! Ta chỉ ngồi vào chỗ của lão có một lúc mà lão đã khiến ta mất mặt không để đâu cho hết! Cơn giận này ta đã nhẫn nhịn mấy năm rồi, đã đến lúc cần phát tiết rồi đấy!”
Thích Quang nịnh bợ: “Chúa công yên tâm, chỉ cần nắm trong tay bảo bối sống này, không tới nửa năm, tiểu nhân chắc chắn sẽ chuyển hết mớ gia tài kếch xù của lão ta vào kho lẫm của chúa công, để rồi xem lão ta có tức chết hay không!”
La Văn nghe thấy tất cả, toàn thân nổi da gà, vội vàng bỏ đi, chẳng may vấp phải vật gì đó, lảo đảo suýt ngã. Thích Quang nghe thấy tiếng động lạ, vội vã chạy lao ra ngoài cổng, quát lớn: “Ai?”
Đã không kịp nữa rồi, La Văn đành phải đánh liều tiến lại, quỳ xuống khấu đầu nói: “Bẩm… bẩm Thích gia, là tiểu nhân, La… La Văn!”
Thích Quang mặt không biến sắc, bước lại gần, nghiêm giọng mắng: “Thằng oắt này, lén la lén lút, chạy tới đây làm gì?”
La Văn tinh thần hoảng loạn, lắp bắp nói: “Tiểu nhân… nhà họ Bàng… có việc gấp, muốn gọi chú Bàng về… về nhà một chốc. Tiểu nhân tìm khắp nơi không thấy Thích gia đâu, nghe nói Thích gia tới đây, nên vội… vội tới tìm!”
Thích Quang ngẫm nghĩ một lát, thái độ mềm mỏng trở lại: “Ngươi về trước đi, đợi ta ở phòng sổ sách!”
“Tiểu nhân tuân lệnh!” La Văn vội đứng dậy, ba chân bốn cẳng chạy đi.
Nghe tiếng bước chân xa dần, Trần Chẩn cũng bước ra, nhìn theo bóng La Văn, rồi lại nhìn Thích Quang, gật gật đầu.
La Văn hồn xiêu phách lạc chạy tới phòng sổ sách, đợi một hồi lâu Thích Quang mới tới, nhìn thấy La Văn, thì cười ha hả mà nói: “Thằng oắt này, vừa rồi ta còn tưởng là kẻ trộm, sợ hết cả hồn!”
La Văn cũng đã lấy lại bình tĩnh, lên tiếng thanh minh: “Tiểu nhân cũng vậy. Tiểu nhân vừa bước vào trong viện, thấy bên trong không có ánh đèn, đang định bỏ đi, không ngờ bị Thích gia gọi lại!”
“La Văn!” Thích Quang nhìn hắn cười cười, rồi chậm rãi nói. “Mấy ngày qua trong phủ nhiều việc bận rộn, nhiệm vụ của ngươi là bảo vệ trạch viện, phải hết sức cẩn trọng mới được. Sao, Bàng gia có chuyện gì gấp?”
“Bàng Quyên đột nhiên mắc bệnh nặng, đau bụng tới chết đi sống lại!”
Thích Quang ngẫm nghĩ một lát rồi lấy từ trong hòm ra ba lượng vàng đưa cho La Văn: “Thanh niên đau bụng chắc tại ăn bậy bạ, không tính là bệnh nặng. Ba lượng vàng này ngươi cầm đi, mời đại phu về khám bệnh cho hắn!”
La Văn nhận lấy vàng, nhân tiện hỏi: “Chuyện này hẳn cũng nên nói với Bàng sư phụ một tiếng. Không biết Bàng sư phụ… đâu rồi?”
Thích Quang lại bật cười: “Bàng sư phụ gặp vận may rồi! Hồi sẩm tối, trong cung bỗng có người tìm đến, nói là Bàng sư phụ tay nghề khéo léo, muốn mời ông ta vào cung vài ngày, e rằng chưa thể trở về ngay được. Nếu ngươi gặp Bàng Quyên, hãy báo tin vui này cho hắn.”
“Vậy… vậy…”
“Vậy vậy cái gì?” Thích Quang sầm mặt xuống. “Lẽ nào việc nhà quan trọng hơn việc nước?”
La Văn run bắn, vội lúng búng: “Tiểu nhân tuân lệnh!”
La Văn cầm vàng, vừa định đi, Thích Quang lại nói: “Bàng sư phụ có một tay nải muốn nhờ ngươi mang về giúp!”
“Tay nải? Ở đâu kia?”
“Tại chỗ ở của Bàng sư phụ!”
La Văn lui ra khỏi phòng sổ sách, trong lòng hoang mang thấp thỏm, đi tới khu nhà nơi Bàng Hành may quần áo, trống ngực vẫn đập thình thịch, đưa mắt nhìn khắp một lượt tứ phía, thấy không có gì bất thường mới chậm rãi bước vào trong. La Văn chỉ chú ý quan sát động tĩnh xung quanh, không ngờ chân vấp phải một vật, bèn ngã sõng soài xuống đất.
La Văn sờ soạng, thấy là hai xác chết. Dưới ánh trăng lờ mờ, hắn định thần nhìn kỹ, thì ra chính là tiều phu và ngư dân. Rõ ràng họ mới bị giết chết tức thời, máu tươi vẫn đang tuôn ồng ộc. Giờ La Văn mới hiểu ra câu nói “tiễn chúng lên đường” của Trần Chẩn, bất giác run lên cầm cập.
Xung quanh tĩnh lặng đến chết chóc. La Văn nằm rạp dưới đất, đảo mắt nhìn quanh một vòng, rồi thình lình rút kiếm, lăn tròn trên đất, tung mình lao vọt lên đỉnh tường, chỉ vài bước nhảy đã tót lên nóc nhà.
Các động tác liền tiếp một mạch, hoàn thành trong nháy mắt, sát thủ ẩn phục trong bóng tối vốn cứ ngỡ rằng giết La Văn dễ như bắt ba ba trong hũ, nên chưa vội vàng ra tay, song sự việc diễn biến quá bất ngờ khiến chúng chết sững mất một chốc. Đến khi định thần lại, La Văn đã tung người nhảy xuống khỏi mái hiên rồi.
Có người hô lớn: “Giết người! Mau bắt lấy hung thủ!”
Tiếng hô hoán rộ lên râm ran khắp phủ thượng đại phu, đám sát thủ rầm rập chạy ra sau nhà truy đuổi. La Văn thân nhẹ đường quen, rẽ ngoặt liên hồi, một lát sau đã vọt qua tường biến mất.
Sau khi La Văn đi khỏi, Bàng Quyên vẫn ngồi đợi ở trong nhà. Đợi suốt hai canh giờ, vẫn không thấy bóng dáng La Văn đâu. Bàng Quyên thấy đói bụng, bèn ra ngoài kiếm chút đồ ăn, sau đó trở về nhà đợi tiếp. Đợi mãi, liền ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Khi Bàng Quyên giật mình tỉnh dậy, đã là sáng hôm sau. Mặt trời đã lên cao quá ngọn cây, trên phố chốc chốc lại vang lên tiếng rao bán đồ ăn sáng. Bàng Quyên múc một chậu nước, rửa mặt qua loa, đang định ra phố thì nhìn thấy một người bán bánh nướng tiến lại, vừa đi vừa rao: “Bánh nướng đây, bánh nóng hổi mới ra lò đây!”
Đợi anh ta tới gần, Bàng Quyên móc ra một đồng tiền đưa cho anh ta, nói: “Này anh, cho hai cái!”
Người bán bánh nướng lấy ra ba cái từ dưới đáy làn đưa cho Bàng Quyên, song lại không cầm tiền, hỏi vì sao thì anh ta nói: “Có người trả tiền rồi! Người này muốn nhờ tiểu nhân đưa ba chiếc bánh nướng này cho tiệm may nhà họ Bàng, còn yêu cầu tiểu nhân giao tận tay Bàng công tử.”
Người bán bánh nướng nói xong bèn quay người bước đi luôn, tiếng rao lại cất lên vang vang dọc theo con phố. Bàng Quyên cầm bánh nướng lên, bụng đầy ngờ vực, bước vào trong tiệm, đặt bánh nướng lên trên bàn, quan sát kỹ thì thấy có một chiếc bánh bị rạch một đường, tách đôi ra, quả nhiên thấy bên trong có một mảnh lụa. Bàng Quyên trải ra xem, mặt thoắt biến sắc, vội nhét hai mươi bảy lượng vàng La Văn đưa vào trong ống tay áo, cầm bánh nướng lên, vừa ăn vừa vội vã đi ra khỏi cửa tiệm.
Bàng Quyên đi tới phố Bắc Nhai, dừng lại trước cửa tiệm rèn, mua một thanh kiếm thượng đẳng. Quay trở ra phố, ngó quanh không thấy ai, bèn đi thẳng tới cổng bắc.
Bàng Quyên ra khỏi cổng bắc, tới ngoại ô, nhìn thấy phía trước có vạt rừng rậm rạp, bèn chạy thẳng vào. Một lát sau, nghe thấy có tiếng người gọi khẽ, quay đầu lại, hoá ra là La Văn.
La Văn chào hắn một tiếng rồi đi luôn, bước chân băng băng, Bàng Quyên vội vã đuổi theo, vòng vo một hồi thì tới một cánh rừng bạch dương còn rậm rạp hơn nữa.
La Văn dừng bước, nhìn ngó xung quanh, thấy không một bóng người, mới đứng dựa lưng vào một thân cây, mặt trắng bệch nhìn Bàng Quyên.
Bàng Quyên sửng sốt hỏi: “Họ La kia, ngươi làm trò quỷ gì thế?”
La Văn gắng trấn tĩnh nói: “Có người muốn giết tôi!”
Bàng Quyên kinh ngạc hỏi: “Ai muốn giết ngươi?”
La Văn đáp: “Chúa công và Thích gia!”
Tiếp đến, La Văn kể lại toàn bộ ngọn nguồn sự việc cho Bàng Quyên nghe, không thiếu một chi tiết nào, bắt đầu từ chuyện may vương phục, tới chuyện mình suýt bị ám sát. Bàng Quyên nghe xong, ôm đầu ngồi thụp xuống đất, đau đớn thốt lên: “Cha ơi, giờ thì hẳn cha đã biết, không phải chỉ có người múa giáo mới chết dưới giáo, người múa đao mới chết dưới đao!”
La Văn cũng ngồi xuống, thở dài sườn sượt: “Bàng huynh, việc này đều trách tại hạ. Tại hạ cứ tưởng đã mang lại mối làm ăn cho chú Bàng, nào ngờ đã làm hại chú ấy, còn gây liên luỵ cho Bàng huynh!”
Bàng Quyên trầm ngâm một lát, ngẩng đầu nhìn La Văn: “Vừa rồi ngươi nói, Trần Chẩn còn muốn hãm hại Bạch tướng quốc phải không?”
La Văn gật đầu.
Bàng Quyên như chợt bừng tỉnh: “Thảo nào hôm đó chúng cung kính với Bạch thiếu gia đến vậy!” Dừng lại một lát, sắc mặt bừng bừng giận dữ. “Bạch tướng quốc giúp dân thông thương, một lòng tận tuỵ vì đất nước, lại mang tiền bạc trong nhà đi làm thuỷ lợi, sửa sang đường sông, thiên hạ có ai không biết tiếng? Trần Chẩn bất chấp thủ đoạn mưu hại tướng quốc, đúng là không bằng giống súc sinh!”
“Bàng huynh nói rất đúng!” La Văn tiếp lời. “Lão quản gia không biết tìm đâu ra hai tên tiều phu và ngư dân, nói là nghe thấy phượng hót rồng ngâm, là điềm may mắn nghìn năm có một! Ngư dân, tiều phu cái nỗi gì? Rõ ràng là hai gã lưu manh!”
“Phượng hót rồng ngâm?” Bàng Quyên không giấu nổi kinh ngạc.
La Văn lại kể tường tận về hai tên tiều phu và ngư dân. Bàng Quyên nghe xong, trầm ngâm suy nghĩ, một lát sau, ngẩng đầu lên chậm rãi nói: “La huynh, tại hạ đã hiểu ra chút ít rồi!”
La Văn ngẩn người nhìn Bàng Quyên, miệng khẽ “ồ” lên một tiếng.
Bàng Quyên vẻ như đã suy đoán thông suốt: “Trần Chẩn lén bắt cha ta may vương phục, lại còn diễn trò phượng hót rồng ngâm, mục đích chỉ có một, chính là xúi bẩy quân chủ xưng vương!”
“Xưng vương?” La Văn kêu lên thất thanh. “Chẳng phải là mưu phản ư? Thảo nào chú Bàng nhất quyết không chịu làm.”
Bàng Quyên đi tới đi lui trong rừng, một lát sau, ngẩng đầu lên hỏi: “La huynh biết chúng giam cha tôi ở đâu không?”
La Văn lắc đầu nói: “Nghe Thích Quang nói, quân chủ mời Bàng sư phụ vào cung, nhưng theo suy đoán của tôi, hiện tại chú Bàng hẳn vẫn đang trong phủ.”
Bàng Quyên ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: “La huynh, giống gian tặc kia đang truy sát huynh, huynh mau trốn đi!”
“Chú Bàng thì sao?”
“Tại hạ sẽ tự đi cứu ông ấy!”
“Bàng huynh sao lại nói ra những lời như thế?” La Văn vội nói. “Chú Bàng vì tại hạ mà gặp kiếp nạn, sống chết chưa rõ, nếu tại hạ một mình bỏ trốn, sau này sao có thể làm người?”
Bàng Quyên vô cùng cảm động, gật đầu nói: “La huynh có lòng đại nghĩa, Bàng Quyên xin nhận huynh làm huynh đệ! Hiện giờ chúng đang truy đuổi huynh, huynh hãy tạm thời ẩn nấp ở đây. Đêm nay vào giờ Nhân định, hai ta sẽ gặp nhau trước phủ gian tặc, trước là cứu gia phụ, sau tiện thể chém chết gian tặc, trừ hại cho đất nước!”
“Được, tại hạ xin nghe theo Bàng huynh!”
Cùng lúc này, một bóng người vội vã bước vào trong phủ Thượng đại phu, rẽ vào khu nhà của Thích Quang. Thích Quang nghe thấy tiếng bước chân, nhận ra Đinh Tam, vội bước ra hỏi: “Có động tĩnh gì không?”
Đinh Tam tiến lại gần, thì thầm vài câu vào tai Thích Quang, Thích Quang hỏi ngay: “Ngươi nhìn rõ chứ?”
“Tiểu nhân không nhìn sai. Trời còn chưa sáng, tiểu nhân đã tới gần Bàng gia, mắt không rời khỏi thằng oắt họ Bàng. Vừa rồi thằng oắt đó vội vã ra khỏi nhà, tới phố Bắc Nhai mua một thanh kiếm, sau đó vòng vèo một hồi, tới cánh rừng ở ngoại ô phía bắc, loáng cái đã mất tích trong rừng sâu. Tiểu nhân đuổi theo không kịp, lại không dám nấn ná ở đó quá lâu, lập tức quay về bẩm báo Thích gia!”
Thích Quang gập ngón giữa lại, gõ nhịp xuống mặt bàn: “Hai người bọn chúng đã bắt tay nhau thì cứ để chúng đi chung một đường!” Miệng nói, tay lôi ra một chiếc túi từ trong hòm. “Chút tiền này để các huynh đệ mua rượu uống! Nói với các huynh đệ, sự việc thành công, Thích gia ta sẽ trọng thưởng!”
Đinh Tam nhận lấy: “Tạ ơn Thích gia!”
Thích Quang trợn mắt hỏi: “Có biết thế nào là để chúng đi chung một đường không?”
“Chính là tiểu nhân dẫn theo vài đệ tử, trừ khử hai thằng oắt đó!”
Thích Quang khẽ lắc đầu: “Công phu của La Văn thì ngươi đã biết, nghe nói thằng oắt họ Bàng kia võ nghệ cũng rất rất cao cường. Dựa vào mấy miếng võ quèn của các ngươi, trừ khử chúng thế nào?”
“Việc này… Việc này…”
Thích Quang dằn mạnh từng tiếng: “Nghe nói thằng oắt Bàng gia rất có hiếu, chuyện này đúng không?”
“Thưa phải. Bàng Quyên mồ côi mẹ từ nhỏ, trong nhà chỉ có hai cha con hắn nương tựa vào nhau mà sống!”
Thích Quang vẫy tay: “Lại đây!”
Đinh Tam ghé sát lại, Thích Quang thì thầm vào tai hắn, Đinh Tam gật đầu lia lịa.
Vào giờ Nhân định, La Văn lặng lẽ tới trước phủ thượng đại phu, quả nhiên đã thấy Bàng Quyên đứng đợi sẵn ở đó. Vừa trông thấy La Văn, Bàng Quyên nói nhỏ: “Tại hạ đã thăm dò kỹ rồi, trong hậu hoa viên nhà gian tặc có một hầm ngầm, gia phụ bị nhốt ở đó!”
La Văn gật đầu nói: “Tại hạ cũng đoán là ở đó. Bên trong quanh co ngoắt ngoéo, nếu không thông thạo đường đi, đã vào trong rồi đừng hòng thoát ra được!”
“Có vẻ như La huynh đã từng vào đó?”
“Đúng vậy! Ông lão trông coi hầm ngầm chơi thân với tại hạ, thường mời tại hạ xuống hầm uống rượu!”
“Vậy thì tốt quá! Đi thôi!”
Hai người tìm một chỗ khuất, nhảy qua tường vây vào trong, chưa đầy một canh giờ đã tới trước hầm ngầm. Quan sát xung quanh không thấy ai, La Văn bèn mở khoá, bước vào bên trong.
Trong hầm rất cao lớn, rộng thênh thang. Hai người đi chưa được bao xa, thấy phía trước có đuốc cháy, vừa đưa mắt nhìn, quả nhiên thấy Bàng Hành bị nhốt trong cũi, hình như không có ai canh giữ.
Bàng Quyên vội chạy lại, khẽ gọi: “Cha!”
Bàng Hành bị trói giật cánh khuỷu ra phía sau, trói chặt vào một cọc gỗ, miệng nhét đầy bông, nghe thấy tiếng Bàng Quyên gọi, ú ớ muốn nói, song không thành tiếng.
Bàng Quyên giận dữ, máu huyết sôi lên sùng sục, xông lên định đạp cửa cũi thì La Văn kêu lên thất thanh: “Bàng huynh, chúng ta mắc lừa rồi!”
Lời vừa dứt, bỗng nghe sau lưng ồn lên từng chặp, cửa ngầm sập lại đánh rầm một tiếng. Cùng lúc, đuốc trong hầm vụt sáng, hơn chục sát thủ tay lăm lăm đao kiếm lao tới vây kín, kẻ cầm đầu chính là Đinh Tam.
Bàng Quyên quét mắt nhìn khắp lượt, hỏi La Văn: “La huynh, liều mạng với chúng chứ?”
La Văn đảo mắt một vòng, lập tức thì thầm: “Mau, chạy theo tại hạ!” Nói xong, hét vang một tiếng, cầm kiếm lao vào một góc. Bàng Quyên cấp tốc bám theo, đâm chém hỗn loạn, gấp rút mở ra một đường máu, rẽ vào một ngách hầm. La Văn cắm đầu chạy hết tốc lực, rẽ ngoặt liên hồi, vừa đánh vừa chạy, đám Đinh Tam bám sát sau lưng không rời. Sắp tới cuối đường, La Văn bị một đao chém trúng chân, bước đi có phần lảo đảo.
Bàng Quyên kinh sợ kêu lên: “La huynh!”
Đám Đinh Tam đã đuổi theo sát nút, Bàng Quyên bèn xông lên chặn chúng lại. Tuy phía Đinh Tam số người đông đảo, song lại không thể phát huy lợi thế số đông trong đường hầm, hơn nữa lại có Bàng Quyên dũng mãnh chặn đầu, nên không ai dám xông lên. Hai bên giằng co tại chỗ. La Văn chống kiếm, gắng gượng đứng dậy, tiến lên vài bước, sờ thấy cửa ngầm, xoay mạnh chốt sắt, mở ra một cánh cửa, hét lớn: “Bàng huynh, mau lên, chạy ra bên ngoài sẽ gặp một vạt trúc, rẽ phải là tới tường vây!”
Bàng Quyên vừa đánh vừa lùi, đáp: “Huynh đi trước đi, tôi ngăn cản chúng!”
La Văn vội nói: “Còn không đi, chúng ta chết chắc!”
Bàng Quyên đã lùi tới cửa, La Văn thình lình xô mạnh Bàng Quyên ra ngoài, còn mình tiện tay đóng sập cửa, cài chốt lại. Bàng Quyên gắng sức đẩy mạnh vào trong, song cánh cửa vẫn trơ trơ không hề nhúc nhích. La Văn ở bên trong quát lên: “Bàng huynh, mau chạy đi!”
Tiếp đến, chỉ nghe thấy tiếng đao kiếm loảng xoảng, tiếng gào rú thảm thiết, sau đó là tiếng rên rỉ, rồi tiếng người rút chốt cửa.
Bàng Quyên không còn cách nào khác, vội cắm đầu chạy thục mạng, quả nhiên gặp một vạt trúc, vội rẽ sang phải thì tới tường vây. Khi đám Đinh Tam đuổi tới thì Bàng Quyên vừa hay đã nhảy vọt qua tường. Đợi đám Đinh Tam qua được tường vây, đã không thấy bóng dáng Bàng Quyên đâu nữa. Cả bọn lùng sục một thôi một hồi, chẳng tìm thấy gì, đành tiu nghỉu quay về phủ.
Đang ngồi trong viện chờ tin, thấy Đinh Tam hộc tốc chạy về, quỳ phục xuống đất, Thích Quang đã hiểu nguồn cơn, lạnh lùng nói: “Lại để chúng chạy thoát rồi ư?”
“Tiểu nhân vô dụng, đã trừ khử được tên họ La, để thằng oắt Bàng gia chạy thoát!”
Thích Quang sầm mặt xuống.
Đinh Tam vội nói: “Thích gia yên tâm, thằng oắt đó chưa thể chạy xa được!”
“Cái gì?”
“Chỉ cần chúng ta vẫn giam lão già, lo gì thằng oắt không quay lại!”
Thích Quang lừ mắt nhìn hắn: “Lũ xuẩn ngốc các ngươi, đến việc cỏn con này cũng làm không xong, bảo ta ăn nói thế nào với chúa công đây?”
Đinh Tam dập đầu nói: “Xin Thích gia dạy bảo!”
Thích Quang đứng dậy, đi tới đi lui một hồi, rồi nói: “Ngươi nghe đây, hai tên lưu manh hôm qua, cộng với La Văn, cả thảy ba mạng, cứ đổ hết tội lỗi cho Bàng Quyên. Các ngươi sắp xếp hiện trường rồi báo lên phủ tư đồ!”
Đinh Tam đảo mắt một vòng: “Quả là diệu kế! Bẩm Thích gia, tiểu nhân sẽ làm ngay!”
“Còn nữa!” Thích Quang chậm rãi nói. “Sắp xếp vài người canh chừng Bàng sư phụ, không để ông ta có chuyện sơ sảy!”
“Tiểu nhân tuân lệnh!”
Đinh Tam quay ra, sai người đưa Bàng Hành đi, dàn xếp hiện trường, bảo người viết cáo trạng ngay trong đêm, tố rằng Bàng Quyên tham tiền của tiều phu và ngư dân, đã giết họ cướp tiền, bị vệ sĩ trong phủ phát hiện, bèn giết chết vệ sĩ rồi bỏ trốn, quả là đầu đuôi liền mạch, nghe rất hợp tình hợp lý. Thích Quang xem xong cáo trạng vô cùng hài lòng, sai người tới phủ tư đồ báo án.
Đường đường kinh đô Đại Ngụy, lại ngay trong phủ thượng đại phu canh gác thâm nghiêm, liên tiếp xảy ra hai án mạng, hơn nữa kẻ bị giết còn là con dân mẫu mực vừa được quân chủ đích thân triệu kiến, ban thưởng hậu hĩnh, khiến phủ tư đồ không khỏi bàng hoàng. Chu Uy cảm thấy sự việc nghiêm trọng, bèn sai người tới phủ thượng đại phu kiểm tra hiện trường, xác định hung thủ là Bàng Quyên, bèn lập tức viết cáo thị truy nã, đóng quan ấn, gửi đi khắp nơi.
Bàng Quyên trốn chạy vào rừng, lòng đau như bào, cắm phập lưỡi kiếm xuống đất, nước mắt giàn giụa, quay về phía kinh thành, dập đầu lia lịa, giọng lạc đi trong tiếng nấc nghẹn: “La huynh… cha…”. Bái xong, lại nghiến răng ken két. “Gian tặc Trần Chẩn nghe đây, thù này không báo, Bàng Quyên sẽ như cây này!” Nói đoạn, đứng phắt dậy, vung kiếm phạt đứt ngang một thân cây cỡ bắp tay bên cạnh.
Bàng Quyên vốn không phải là kẻ lỗ mãng. Thề độc xong, hắn ngồi xuống dựa lưng vào gốc cây, để đầu óc bình tĩnh trở lại, bắt đầu nghĩ cách báo thù. Hiện tại báo thù ngay chắc chắn không được. Thứ nhất, An Ấp là thiên hạ của Trần Chẩn; thứ hai, Bàng Quyên thân cô thế cô, dù có vào được trong phủ, e rằng cũng khó thành công.
Đại trượng phu báo thù, mười năm không muộn. Bàng Quyên suy đi tính lại, quyết định tạm thời ẩn náu, tìm cơ hội báo thù sau. Thế nhưng, tới đâu lánh nạn Bàng Quyên không biết, bởi lẽ từ nhỏ Bàng Quyên lớn lên ở An Ấp, ngoài An Ấp chẳng có họ hàng thân thích nào ở nơi khác.
Đang chưa biết phải làm sao, Bàng Quyên chợt nhớ La Văn đã từng nhắn lại, cha dặn nếu có chuyện gấp hãy tìm gặp chú ba. Bàng Quyên phấn chấn hẳn lên, bởi gần đây hắn từng nghe cha kể, ông vốn sống ở Đại Lương, cha mẹ đều sớm qua đời, chỉ còn một người em tên gọi Bàng Thanh sống ở phố Nam Nhai, là thợ đóng thùng, Bàng Quyên bèn quyết định tới Đại Lương tìm chú.
Sáng sớm hôm sau, Bàng Quyên tìm đến nếp nhà của người gác rừng, thấy trong nhà không có ai, bèn tự vào bếp lục đồ ăn, lại tìm được một bộ quần áo vải thô, bèn lấy mặc lên người. Thấy trên tường treo một chiếc mũ cỏ, lại lấy xuống đội lên đầu, sau đó móc vài đồng tiền đặt bên cạnh bếp, rồi lần ra khỏi rừng, đi về phía Đại Lương.
Đi chưa được bao lâu, Bàng Quyên tới một thị trấn nhỏ, nhìn thấy ở ngã tư có một đám người xúm đông xúm đỏ đang xem gì đó, cũng chen lên trước xem. Hoá ra có hai nha lại đang dán cáo thị, chân dung vẽ trên cáo thị rành rành là hắn, phía dưới còn ghi rõ quê quán, họ tên và tội trạng.
Bàng Quyên đọc kỹ tội trạng trên tờ cáo thị, cười khẩy một tiếng, kéo sụp vành mũ xuống rồi quay người bước đi.
***
Ngụy Huệ Hầu từ sau khi được công tử Ngang dâng tặng vương phục, ngày nào trước khi đi ngủ cũng mang ra thử, tham vọng xưng vương đã dâng cao hừng hực. Vào ngày đại triều mồng chín tháng năm, chính là ba hôm sau khi ngư dân và tiều phu kể lại chuyện nghe thấy phượng hót rồng ngâm, Huệ Hầu càng thấy trong người bứt rứt như lửa đốt. Chuông thượng triều đã ngân vang ba lượt, Ngụy Huệ Hầu vẫn mặc nguyên áo ngủ ngồi xếp bằng trong tẩm thất, trầm tư nhìn ra ngoài cửa, không hề có ý trở dậy.
Thái giám tư phục tay nâng triều phục, cúi đầu đợi sẵn bên cạnh, khẽ nhắc nhở: “Muôn tâu chúa thượng, chuông thượng triều đã ngân ba lần!”
Ngụy Huệ Hầu không thèm để ý, từ từ quay sang phía tỳ nhân, lẩm bẩm: “Hôm nay là đại triều ư?”
Tỳ nhân đáp: “Khởi bẩm chúa thượng, hôm ngay ngày mồng chín tháng năm, là đại triều, triều thần từ chức hạ đại phu trở lên đều đang đợi chúa thượng trong triều!”
Ngụy Huệ Hầu từ từ đứng dậy, đi tới đi lui vài bước, đột nhiên ngẩng đầu hỏi: “Sứ Tần Công Tôn Ưởng lên triều chưa?”
“Công Tôn Ưởng là ngoại thần, nếu không được chúa thượng triệu kiến, không thể lên triều!”
“Bảo ông ta lên triều ngay!”
“Lão nô lĩnh chỉ!” Tỳ nhân hiểu ý, cất giọng lanh lảnh truyền chỉ: “Chúa thượng có chỉ, truyền sứ Tần Công Tôn Ưởng lên triều nghe lệnh!”
Ngụy Huệ Hầu lại đợi thêm một lát, mới liếc nhìn thái giám tư phục. Thái giám vội vã đem triều phục lại, đang định thay cho Ngụy Huệ Hầu thì Ngụy Huệ Hầu trừng mắt quát: “Không phải bộ này!”
Thái giám tư phục ngạc nhiên, đứng ngẩn ra tại chỗ, tay nâng triều phục, mặt mũi ngơ ngác. Tỳ nhân thoáng ngẫm nghĩ một lát, rồi vội rảo bước tới tủ quần áo ở bên cạnh, lấy ra vương phục, vương miện và đai hia. Ngụy Huệ Hầu khẽ gật đầu, bước tới phía trước gương đồng.
Tỳ nhân đích thân mặc vương phục, đội vương miện, đi hia cho Huệ Hầu. Huệ Hầu đứng trước gương, ngắm nghía một hồi, gật gù hài lòng, lẩm bẩm như nói một mình, cũng lại như nói với tỳ nhân: “Quả nhân phục sức thế này thượng triều, liệu có khiến mọi người kinh hãi?”
Tỳ nhân lập tức phủ phục sát đất: “Lão nô khấu kiến bệ hạ!”
Thái giám tư phục và đám thái giám còn lại thấy vậy cũng đồng loạt quỳ xuống: “Khấu kiến bệ hạ!”
Ngụy Huệ Hầu ngắm nghía trước gương, tự tay chỉnh sửa vương miện, rồi nói với tỳ nhân: “Thượng triều!”
Trong sự hộ tống của đám thái giám, Ngụy Huệ Hầu mình mặc vương phục, bước tới cửa bên của đại điện, dừng lại ngoài cửa. Bá quan văn võ sớm đã đợi sẵn đứng đông nghịt trong triều.
Tỳ nhân bước lại bên ngai vàng, khẽ hắng giọng, rồi cất tiếng lanh lảnh: “Bệ hạ giá lâm!”
Vừa nghe thấy hai chữ “bệ hạ”, quần thần kinh hãi, ai nấy đều đứng ngây tại chỗ. Vẫn chưa hết ngỡ ngàng thì thấy Ngụy Huệ Hầu mình mặc vương phục, đầu đội vương miện, chân đi hia rồng từ sau điện bước ra, bước lên ngai vàng, từ từ ngồi xuống.
Toàn bộ triều đình im phăng phắc, không nghe thấy một hơi thở. Ngụy Huệ Hầu quét mắt khắp lượt quần thần, đặng hắng một tiếng, cất giọng sang sảng: “Chư vị ái khanh, từ thời Xuân Thu đến nay, Chu thất thất đức, lễ băng nhạc hoại, chư hầu không thể yên vị, bách tính không thể lạc nghiệp. Cho tới hôm nay, thiên hạ hỗn loạn, dân chúng khổ cực, bách tính chẳng khác nào chìm trong biển lửa. Nay có phượng hót ở Long Sơn, rồng ngâm ở Phùng Trạch, là điềm lành mà trời ban cho Đại Ngụy. Quả nhân quyết định thuận theo ý trời, chuẩn theo thỉnh cầu của Tần Công, từ hôm nay quay mặt về nam xưng vương, bên trong an định trăm dân, bên ngoài vỗ về bốn biển, tái tạo đời thịnh thượng cổ!”
Quần thần ngỡ ngàng như chưa hiểu, ai nấy vẫn đứng trân trân như khúc gỗ. Đám thái tử Thân, Chu Uy, Long Giả đưa mắt nhìn nhau, không biết phải làm gì.
Công Tôn Ưởng đứng cạnh Trần Chẩn, liếc mắt nhìn khắp quần thần một lượt, biết thời khắc hệ trọng đã tới, bèn bước lên một bước, dập đầu sát đất, hô lớn: “Sứ Tần Công Tôn Ưởng chúc mừng bệ hạ, chúc bệ hạ vạn thọ vô cương!”
Trần Chẩn, công tử Ngang thấy vậy, cũng đều bước lên một bước, dập đầu sát đất: “Vi thần (nhi thần) khấu kiến bệ hạ, chúc bệ hạ vạn thọ vô cương!”
Văn võ bá quan giờ mới định thần, cũng đều ngoan ngoãn dập đầu, đua nhau tung hô: “Vi thần khấu kiến bệ hạ!”
Ngụy Huệ Hầu khẽ gật gù, đưa ánh mắt lạnh lùng lần lượt quét qua mấy vị đại thần vẫn còn đứng nguyên tại chỗ. Thái tử Thân bước lên một bước, quỳ xuống. Hai người Chu Uy, Long Giả thấy vậy cũng quỳ xuống bái lạy, đồng thanh hô chúc mừng.
Ngụy Huệ Hầu phẩy khẽ hai tay: “Các khanh bình thân!”
Quần thần đồng thanh: “Tạ ơn bệ hạ!”
Quần thần đứng dậy, lần lượt trở về vị trí.
Ngụy Huệ Hầu lại nhìn khắp lượt quần thần: “Chư vị ái khanh, ai có tấu?”
Công Tôn Ưởng lại bước lên: “Vi thần Công Tôn Ưởng có tấu!”
“Ái khanh cứ nói!”
Công Tôn Ưởng dõng dạc nói: “Bệ hạ thương xót thiên hạ khổ nạn, quay mặt về nam xưng tôn, dốc sức xoay ngược làn sóng dữ, quả là may mắn cho muôn dân thiên hạ. Theo thiển nghĩ của vi thần, bệ hạ nên truyền hịch các nước, hội minh chư hầu trong thiên hạ, lựa chọn nơi tốt ngày đẹp, tế trời bái đất, minh thệ đăng cơ, chiếu cáo thiên hạ, khiến khắp gầm trời đều hoan hỷ. Bệ hạ cũng nên căn cứ vào vương chế các đời, mở rộng cung thành, tu sửa điển chương, quảng bá nhân đức, ban ân trạch cho muôn dân!”
Ngụy Huệ Hầu gật đầu lia lịa, quay sang Trần Chẩn: “Trần ái khanh!”
Trần Chẩn bước lên đáp: “Có vi thần!”
“Việc Công Tôn ái khanh vừa tấu là việc cấp bách trước mắt. Quả nhân phong khanh làm thượng khanh, tạm giữ chức đại tông bá, lo liệu các sự vụ nghi lễ điển chương.”
Trần Chẩn khấu đầu đáp: “Vi thân lĩnh chỉ! Đa tạ long ân của bệ hạ!”
Công Tôn Ưởng cũng tiến lên một bước dập đầu nói: “Vi thần còn có một thỉnh cầu.”
“Nói đi!”
“Tần Công có người con gái là Tử Vân công chúa, đã tới tuổi cập kê, rất mực ngưỡng mộ uy danh của thượng tướng quân. Tần Công mong ước được kết thông gia cùng bệ hạ, muốn nhờ Công Tôn Ưởng mai mối, vi thần khấu đầu mong bệ hạ ân chuẩn!”
Ngụy Huệ Hầu cười vang mà nói: “Tốt, tốt, tốt! Quả nhân chấp thuận thỉnh cầu của Tần Công! Năm xưa Tần Tấn kết thông gia, ngày nay Ngụy Tần kết thông gia, quả là giai thoại thiên cổ!”
“Công Tôn Ưởng khấu tạ long ân của bệ hạ!”
“Ái khanh miễn lễ!”
Công Tôn Ưởng cảm tạ xong, liền trở về chỗ.
Tin Ngụy Huệ Hầu mặc vương phục thượng triều mau chóng lan ra ngoài cung, Công Tôn Diễn biết tin, bàng hoàng sửng sốt, ba chân bốn cẳng chạy về phủ tướng quốc.
Lão tướng quốc đã thức giấc từ lúc gà gáy. Nghe thấy tiếng chuông thượng triều ngân vang lần thứ nhất, vội vội vàng vàng mặc triều phục, định ra khỏi cửa mới sực nhớ ra quân chủ có lệnh trong vòng ba ngày không được thượng triều, đành thở dài một tiếng, buồn bã đi đi lại lại trong sân.
Tiếng chuông ngân tới lần thứ ba, lão quản gia thấy Bạch Khuê vẫn quanh quẩn trong sân thì nhắc nhở: “Chúa công, tiếng chuông thượng triều đã ngân lần thứ ba rồi!”
Bạch Khuê khẽ thở dài: “Chúa thượng muốn ta nghỉ ngơi ba ngày, hôm nay lại đúng vào ngày thứ ba, lên triều thế nào đây?”
Lão quản gia bèn an ủi: “Chúa công, người cũng đã mệt mỏi quá độ, có lẽ cũng nên nghỉ ngơi vài ngày!”
Bạch Khuê nhìn về phía cung thành, than thở: “Từ thời tiên quân Văn Hầu, Bạch gia nhận ân sủng của Đại Ngụy mới có được vinh hoa phú quý như ngày nay. Khi tiên phụ lâm chung, dặn đi dặn lại ta phải một lòng phò tá chúa thượng, báo đáp đất nước. Than ôi, Bạch Khuê vô dụng, chỉ biết giương mắt đứng nhìn gian thần mê hoặc lòng chúa thượng, gây họa cho đất nước mà chẳng biết phải làm sao, đã phụ sự uỷ thác của tiên phụ rồi!” Đột nhiên, ông sực nhớ ra một điều, bèn ngẩng nhìn quản gia. “Lần này trở về, sao không thấy Bạch Hổ đâu?”
Lão quản gia giật bắn mình, ngập ngừng một lúc mới nói: “Hồi… hồi bẩm chúa công, thiếu gia có lẽ… có lẽ đi học kỹ nghệ với người ta rồi!”
Bạch Khuê thấy ông ta ấp úng thì sinh nghi, gặng hỏi: “Học kỹ nghệ? Kỹ nghệ gì?”
Lão quản gia càng cuống quýt: “Có lẽ… có lẽ là học võ!”
Bạch Khuê đang truy hỏi, Công Tôn Diễn đã bước vào, không kịp hành lễ, vội vàng nói ngay: “Bẩm chúa công, trong cung có người nói rằng, vừa rồi chúa thượng mặc vương phục lên triều!”
Bạch Khuê kinh hãi thất sắc, tay chân rụng rời, người lảo đảo đến đứng không vững, Công Tôn Diễn phải vội vàng đỡ lấy. Bạch Khuê đặt tay lên ngực, thở hắt vài cái, một lúc sau mới trấn tĩnh lại được, vội giục giã Công Tôn Diễn: “Mau lên, theo ta vào cung!”
Công Tôn Diễn cùng Bạch Khuê mau chóng vào cung. Vừa tới bên ngoài điện, đã nghe thấy Ngụy Vương, lúc này vừa tuyên bố xưng vương xong, đang hỏi quần thần: “Còn ai có tấu?”
Câu hỏi vừa dứt, giọng nói trầm đục của Bạch Khuê đã vang lên từ ngoài điện: “Lão thần có tấu!”
Cả triều đình kinh ngạc, không ai bảo ai đồng loạt nhìn ra cửa, thấy Công Tôn Diễn đang dìu Bạch Khuê bước thấp bước cao qua cửa cung. Bạch Khuê chỉnh sửa trang phục, hất tay Công Tôn Diễn ra, vừa bước được một bước thì lảo đảo suýt ngã. Công Tôn Diễn vội chạy lại, đỡ lấy Bạch Khuê, hai người chuệnh choạng bước tới trước điện.
Khắp điện lặng ngắt như tờ.
Khi tới trước mặt Công Tôn Ưởng, ánh mắt sắc nhọn của Bạch Khuê chiếu thẳng vào ông ta, như thể đã nhìn thấu lục phủ ngũ tạng đối phương. Công Tôn Ưởng run bắn người, cảm thấy dường như có một luồng sát khí đang chiếu thẳng tới, vội vã vận khí thu thần.
Đối với Công Tôn Ưởng, đại chiến thực sự chính là trước mắt. Tới lúc này, mọi việc đều tiến triển theo đúng kế hoạch của ông ta, chỉ còn một đối thủ duy nhất chính là Bạch Khuê.
Bạch Khuê từ từ quỳ xuống, khấu đầu sát đất: “Lão thần Bạch Khuê khấu kiến chúa thượng!”
Ngụy Huệ Hầu đương nhiên biết Bạch Khuê tới đây làm gì, khẽ chau mày, hỏi thẳng: “Lão ái khanh muốn tấu việc gì?”
Bạch Khuê dõng dạc nói: “Chúa thượng nhất thiết không được nghe lời gian tặc, bất chấp lễ nghi thiên hạ, tự huỷ hoại cơ nghiệp tiên tổ!”
Bạch Khuê ung dung tự tại, hoàn toàn gạt hết sự an nguy của bản thân sang một bên, vừa mở miệng đã cất lời trầm trọng. Tất thảy triều thần đều kinh hãi, song Ngụy Huệ Hầu không lấy làm thẹn, chỉ lạnh lùng nói: “Lão ái khanh, quả nhân chẳng phải đã bảo ái khanh nghỉ ngơi ba ngày ư? Sao dám trái lệnh lên triều?”
“Bẩm chúa thượng, xin để lão thần được nói vài lời!” Rồi Bạch Khuê nói liền một mạch. “Ngôi vị thiên tử không thể tuỳ tiện ngồi vào. Chu thất tuy suy, song vương quyền là do thần linh giao phó, cửu đỉnh là do trời cao đúc ra. Từ thời Xuân Thu, dẫu thiên hạ rối ren hỗn loạn, chư hầu tranh hùng tranh bá, cậy thế bức bách thiên tử hiệu lệnh chư hầu, song chúa thượng đã từng thấy nước nào chiếm đoạt ngôi vị thiên tử chăng? Tuy có Man Sở xưng vương ở phía nam, song xét về gốc gác, Man Sở suy cho cùng vẫn là dị tộc, không phải dòng mạch Chu thất. Vi thần dám hỏi chúa thượng, các nước Trung Nguyên đã chịu thừa nhận Sở Vương chưa?”
Lời của Bạch Khuê, khí phách hừng hực, tựa như một bát nước lạnh giội thẳng xuống đầu. Ngụy Huệ Hầu trong lòng kinh hãi, miệng há ra mấy lần, song không biết đối đáp thế nào mới phải.
Cả triều đình lặng phắc như tờ.
“Không, từ xưa đến nay đều không có!” Bạch Khuê dừng lại một lát, giọng nói càng như chém đinh chặt sắt. “Các nước Trung Nguyên chỉ tôn Chu thiên tử! Chúa thượng kế thừa cơ nghiệp của tiên quân đã nhiều năm, đương nhiên hiểu rõ lý do trong đó.”
Cả triều đường chết lặng. Bạch Khuê ngẩng đầu, vuốt chòm râu trắng như tuyết, ánh mắt nghiêm nghị liếc nhìn một lượt quần thần. Chư thần trong triều đều kinh sợ trước chính khí và đức vọng của Bạch Khuê, ngay cả Ngụy Huệ Hầu cũng không biết nói gì.
Công Tôn Ưởng biết lúc này nếu không lên tiếng, hẳn là việc sắp thành tất hỏng, bao công lao sẽ đổ xuống sông xuống biển, ông ta đặng hắng khẽ một tiếng, từ từ mở to mắt, di chuyển ánh nhìn tới Bạch Khuê, giọng nói tuy ôn tồn, song sát khí lại cực kỳ bức bách: “Vương quyền là do thần linh giao phó, nói hay lắm! Xin hỏi Bạch tướng quốc, thời Thương Thang thay ngôi nhà Hạ, vương quyền ở đâu? Thời Vũ Vương phạt Trụ, thần linh giao phó ở đâu? Lễ nghi thiên hạ sớm đã thay đổi, Bạch tướng quốc vẫn ôm thói cũ không buông, chẳng phải là ‘khắc thuyền tìm kiếm’ hay sao?”
Công Tôn Ưởng từng lời sắc sảo tựa mũi dùi, từng câu viện dẫn sự thực, đến Bạch Khuê cũng thấy trong lòng chấn động, chòm râu rung lên bần bật, không biết đối đáp ra sao.
Triều đường càng thêm lặng phắc như tờ. Đúng lúc này, bỗng vang lên một tiếng cười nhạt. Tiếng cười tuy khẽ, song trong một bầu tĩnh lặng lại trở nên rất âm vang. Quần thần sửng sốt, nhìn về phía phát ra tiếng cười, hoá ra là Công Tôn Diễn đang quỳ bên cạnh Bạch Khuê.
Công Tôn Diễn quay sang Công Tôn Ưởng, nhìn thẳng vào mắt ông ta, nói rành rọt từng chữ: “Đại lương tạo cưỡng từ đoạt lý, hùng hổ doạ người, là khinh Đại Ngụy ta không có người ư?”
Bạch Khuê làm loạn triều đường tuy là rắc rối bất ngờ, song vẫn nằm trong dự đoán của Công Tôn Ưởng. Nhưng lúc này đột nhiên xuất hiện thêm một kẻ khác cản đường, lại là nằm ngoài dự kiến, bởi vậy trong lòng bất giác hoang mang, mắt nhìn Công Tôn Diễn, ngờ vực hỏi: “Các hạ là…”
Công Tôn Diễn ôm hờ quyền mà nói: “Tại hạ tiểu bối vô danh, chẳng qua là nhìn thấu dụng ý của đại lương tạo khi cố tình quỳ gối trước Ngụy.”
Công Tôn Ưởng trong lòng kinh ngạc, nét mặt thoáng vẻ hốt hoảng: “Các hạ… thử nói xem, Công Tôn Ưởng ta có dụng ý gì?”
“Đại lương tạo cực lực khuyên chúa thượng xưng vương, trên danh nghĩa là thần phục, thực chất là để Đại Ngụy ta trở thành mục tiêu công kích của các nước Sơn Đông!”
Công Tôn Ưởng ngấm ngầm vận khí, cười gượng gạo: “Các hạ quá lời rồi! Bệ hạ uy đức song toàn, quay mặt về nam xưng vương, các nước Sơn Đông không ai không thần phục, dựa vào đâu mà nói là ‘mục tiêu công kích’?”
Công Tôn Diễn lại cười nhạt một tiếng: “Đạo lý giản đơn này đến đứa trẻ con còn biết, đại lương tạo lẽ nào không hiểu? Ngụy và liệt quốc đều là chư hầu, tuy phân mạnh yếu lớn nhỏ, song không phân tôn ti trên dưới. Nếu Ngụy xưng vương, khác nào phân tôn ti trên dưới, liệt quốc sao có thể cam lòng? Ngụy xưng vương, liệt quốc tất sinh lòng cứu chủ, làm gì có chuyện thần phục? Liệt quốc đã không cam lòng, lại không thần phục, sẽ coi Ngụy là kẻ thù, ắt hợp sức chống lại Ngụy, chẳng phải nước Ngụy sẽ trở thành mục tiêu công kích ư? Ngụy tranh giành với các nước Sơn Đông, đại lương tạo còn có thể cam tâm thần phục không? Dù đại lương tạo có cam tâm thần phục, Tần Công liệu có cam tâm thần phục không? Dù Tần Công cam tâm thần phục, liệu người Tần vốn có mối thù trăm năm với Ngụy, lại thêm mối nhục Hà Tây, liệu có cam tâm thần phục không?”
Công Tôn Diễn dồn dập đưa ra một loạt câu hỏi, chỉ ra hậu quả đáng sợ của việc xưng vương, khiến toàn triều chấn động. Ngay cả Ngụy Huệ Hầu cũng kinh hãi trong lòng, hai mắt nheo lại, liếc nhìn Công Tôn Diễn qua khoé mắt.
Bạch Khuê dõng dạc nói tiếp: “Muôn tâu chúa thượng, Công Tôn Ưởng mê hoặc chúa thượng xưng vương, mục đích là muốn chúa thượng rước họa vào thân, trở thành kẻ thù của liệt quốc. Hơn nữa muốn nước Ngụy ta và liệt quốc thành ‘cò nghêu tranh hùng’, còn nước Tần hắn là ‘ngư ông đắc lợi’. Công Tôn Ưởng dụng tâm ác độc, tội không thể dung tha. Lão thần khẩn cầu chúa thượng xử trảm hắn, để cảnh cáo những kẻ có ý đồ bất trắc sau này.”
Ngụy Huệ Hầu sắc mặt tím tái, hơi ngả người ra phía sau, ánh mắt từ từ di chuyển về phía Công Tôn Ưởng.
Chu Uy biết thời cơ đã tới, bèn chậm rãi bước tới bên Bạch Khuê, quỳ xuống dập đầu nói: “Bẩm chúa thượng, vi thần đồng ý với Bạch tướng quốc, khẩn cầu chúa thượng tính kế lâu dài!”
Long Giả cũng dập đầu nói: “Bẩm chúa thượng, dã tâm cướp lại Hà Tây của người Tần chưa bao giờ phai nhạt. Vào lúc đại quân của ta sắp sửa chinh phạt, thì Công Tôn Ưởng đột nhiên xưng thần, lại cực lực khuyên chúa thượng xưng vương, ý đồ hết sức khả nghi, vi thần khẩn cầu chúa thượng minh xét!”
Rất nhiều lão thần đua nhau bước lên, quỳ xuống sau lưng Bạch Khuê, nhao nhao cầu xin xử chém Công Tôn Ưởng. Nhìn đám lão thần đua nhau dập đầu bái lạy dưới đất, Ngụy Huệ Hầu chau tít đôi mày. Huệ Hầu đã hiểu, vừa rồi họ quỳ hô bệ hạ là không thật lòng, còn lời khẩn cầu này mới chính là mong muốn thực sự. Thấy quần thần không ủng hộ việc làm của mình, Ngụy Huệ Hầu trầm ngâm suy nghĩ, một lát sau ngẩng lên, nhìn về phía Công Tôn Ưởng.
Mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Công Tôn Ưởng.
Công Tôn Ưởng từ từ mở to đôi mắt đang khép hờ, khoé mắt liếc về phía Công Tôn Diễn, châm biếm: “Đường đường là triều đình Đại Ngụy, sao hạng người nào cũng có thể tuỳ tiện ra vào?”
Chiêu dịch chuyển trọng tâm của Công Tôn Ưởng quả nhiên thâm độc, cũng may ông ta đã phát hiện ra tiểu tiết này vào đúng thời khắc ngàn cân treo sợi tóc. Giống như Công Tôn Ưởng năm xưa ở trong phủ Công Thúc Toạ, Công Tôn Diễn tuy là sĩ tử trong phủ tướng quốc, song lại không có chức quan, chỉ là môn khách. Vừa rồi lên triều, là vì dìu tướng quốc vào. Công Tôn Diễn xưa nay hành vi phóng túng, vốn không chú ý tới phục sức, càng không ngờ mình sẽ lên triều, do vậy chưa hề thay trang phục sĩ tử, vẫn ăn mặc kiểu môn khách. Thời đó các nước đều có quy định bất thành văn, chỉ có sĩ, đại phu mới có thể lên triều, môn khách cũng ngang với nô bộc, không thể tham triều.
Sơ suất nhỏ này đã bị Công Tôn Ưởng phát giác. Nghe ông ta nhắc nhở, mọi ánh mắt trên triều đường lập tức chuyển hướng sang Công Tôn Diễn và trang phục tuỳ tiện trên người ông ta.
Bạch Khuê và Công Tôn Diễn xuất hiện thình lình, gây rối loạn triều đường, vốn dĩ đang khiến Ngụy Huệ Hầu đau đầu không biết phải xử trí ra sao. Song ngặt vì họ nói năng hợp tình hợp lý, nên tuy trong lòng nộ hoả bừng bừng mà không thể bộc phát. Giờ thấy Công Tôn Ưởng chỉ ra điểm này, Huệ Hầu lập tức chau mày, quay sang Trần Chẩn hỏi: “Người này là ai?”
Trần Chẩn cũng chộp ngay lấy cơ hội: “Khởi bẩm bệ hạ, người này là môn khách trong phủ tướng quốc, tên gọi Công Tôn Diễn. Hôm thiên tử ban tiệc rượu ở Mạnh Tân, hắn chính là kẻ hầu rượu!”
Ngụy Huệ Hầu đùng đùng nổi giận, đập bàn quát lớn: “Môn khách cũng dám huyên náo chốn triều đường? Thực khiến liệt quốc chế nhạo!”
Đám thị vệ nghe vậy, lập tức xông lên bắt lấy Công Tôn Diễn.
Bạch Khuê thấy vậy thì hoảng hốt, dập đầu sát đất, nước mắt giàn giụa kêu xin: “Chúa thượng!”
Đám Chu Uy, Long Giả đang quỳ dưới đất cũng vội vã dập đầu cầu xin Huệ Hầu tha thứ. Ngụy Huệ Hầu nhìn lướt một lượt qua Bạch Khuê, Long Giả và Chu Uy, sắc mặt từ từ dịu lại, lạnh lùng nói: “Công Tôn Diễn, quả nhân nể tình ngươi là môn khách của phủ tướng quốc, tạm tha cho ngươi tội làm loạn triều cương lần này! Đuổi hắn ra!”
Công Tôn Diễn đưa mắt nhìn khắp triều đình một lượt, hất đám thị vệ ra, ngửa mặt cười một tràng dài, rồi quay người ngẩng đầu bước đi.
Bạch Khuê nhìn theo bóng Công Tôn Diễn rời khỏi cửa cung, lòng đau như dao cắt, run giọng gọi lớn: “Công Tôn Diễn!” Rồi quay phắt người lại, toàn thân run rẩy, chỉ tay thẳng mặt Công Tôn Ưởng. “Công Tôn Ưởng, ngươi… tên gian tặc nước Ngụy kia, dám lập mưu tính kế bán Ngụy cầu vinh, tiếp tay cho giặc, muốn hại chúa thượng mang tiếng bất trung bất nghĩa, đẩy Đại Ngụy vào biển lửa rừng gươm, ngươi… ngươi…”
Lão tướng quốc phẫn nộ tới đỉnh điểm, khiến cả triều đường đều bàng hoàng kinh hãi.
Thấy lão Bạch Khuê nói năng bất chấp, Công Tôn Ưởng càng thần thanh khí định, nắm chắc phần thắng, từ tốn mà rằng: “Bạch tướng quốc cả đời thông minh sáng suốt, vì sao càng già lại càng hàm hồ đến vậy? Xin hỏi Bạch tướng quốc, Ưởng vốn là người Vệ, vì sao lại nói là gian tặc nước Ngụy? Ưởng khi ở Ngụy một lòng vì Ngụy, khi ở Tần một lòng vì Tần, vì sao lại nói bán Ngụy cầu vinh? Tần Hiếu Công trong lòng chỉ nghĩ tới bách tính, dùng Ưởng thay cũ đổi mới, mưu lợi cho dân, vì sao nói là tiếp tay cho giặc? Ưởng dốc lòng vì Tần hơn mười năm, một lòng kết tình hữu hảo với Ngụy, chưa từng sai một binh một tốt nước Tần xâm phạm lãnh thổ Ngụy, vì sao lại nói mưu hại người Ngụy, hãm hại bệ hạ bất trung bất hiếu?”
Bạch Khuê vốn dĩ là một nhà buôn thực thà trung hậu, trong lúc tức giận nói năng bất chấp, đương nhiên không thắng nổi biện luận sắc sảo của Công Tôn Ưởng, nhất thời cứng họng, bàn tay già nua nổi đầy gân xanh run rẩy chỉ về phía Công Tôn Ưởng: “Ngươi… ngươi…” Rồi quay sang Huệ Vương dập đầu lia lịa. “Bẩm chúa thượng, giữa Ngụy với Tần có mối huyết hải thâm thù đã mấy chục năm, Tần Công sao có thể dễ dàng quên được? Công Tôn Ưởng đã giăng bẫy liên hoàn, mục đích không phải ở láng giềng hoà mục, không phải ở tôn vương, chỉ là đoạt lại Hà Tây mà thôi! Chúa thượng!”
Công Tôn Ưởng đang định phản bác thì công tử Ngang đã tiến lên một bước: “Khởi tấu bệ hạ, Tần Công thật lòng kết liên minh, còn muốn kết thông gia, chúng ta lại ở đây bán tín bán nghi, nhi thần cho rằng sẽ tổn hại đến khí phách của đại quốc!”
Trần Chẩn cũng bước lên nói: “Tâu bệ hạ, lời của thượng tướng quân rất có lý. Ngụy, Tần như môi với răng, chiến tranh tất hai bên đều thương tổn, hoà hữu tất hai bên đều thịnh vượng. Tần Công đã tỏ lòng thần phục, muốn tôn bệ hạ làm vương, lại kết giao tình nghĩa Tấn Tần. Nếu bệ hạ một mực xem Tần là thù, sao có thể uy phục liệt quốc trong thiên hạ?”
Bạch Khuê đứng bật dậy, đưa cánh tay run rẩy chỉ vào Trần Chẩn, giận dữ chửi rủa: “Ngươi… ngươi… các ngươi, giang sơn Đại Ngụy sớm muộn gì cũng bị chôn vùi trong tay đám sâu mọt các ngươi!”
Lời mắng chửi của Bạch Khuê hiển nhiên bao gồm cả công tử Ngang, thậm chí còn bao gồm cả Ngụy Huệ Hầu trong đó. Ngụy Huệ Hầu nổi giận đùng đùng, đập bàn quát lớn: “Bạch Khuê nghe chỉ!”
Bạch Khuê cũng cảm thấy hơi quá lời, lập tức quay người lại, dập đầu sát đất: “Có lão thần!”
“Thân là trọng thần mà coi thường quả nhân, dám gây rối chốn triều đường, đã biết tội chưa?”
“Lão thần biết… biết tội!”
“Nể tình ông là tướng quốc bao năm, có công lao trị quốc, quả nhân tạm tha cho lần này! Song ông có tuổi rồi, không còn thích hợp với ngôi tướng quốc nữa. Quả nhân cho phép ông cáo lão về quê, an hưởng tuổi già!”
Bạch Khuê nghe mà chết lặng, đau đớn tột cùng, thét lên lạc giọng: “Chúa thượng, lão thần… lão thần…”
Rồi thình lình, ông gắng gượng đứng phắt dậy, loạng choạng mấy bước, rồi cắm đầu lao thẳng vào cây cột gần đó. Lão tướng Long Giả đứng cạnh quá đỗi bất ngờ không kịp trở tay, tới lúc định thần muốn chặn lại thì đã muộn rồi, Bạch Khuê lao đầu đánh “bịch” vào cột, đổ vật xuống đất.
Sự việc quá ư đột ngột, khiến văn võ bá quan trong triều thảy đều sững sờ kinh hãi. Ngụy Huệ Hầu đứng bật dậy, kêu lên thất thanh: “Lão ái khanh!”
Long Giả cuống quýt chạy lại đỡ lấy Bạch Khuê, thấy ông đã ngất lịm.
Buổi đại triều mau chóng kết thúc bởi sự việc lão tướng quốc Bạch Khuê đập đầu tự vẫn, lấy cái chết khuyên can Ngụy Huệ Hầu.
Bạch Khuê tuy có lòng muốn chết, song do tuổi cao sức yếu, bước chân không vững, lực đâm không mạnh, bởi vậy vẫn chưa chết ngay tại chỗ. Long Giả vội bấm nhân trung, một lát sau, Bạch Khuê khẽ thở hắt ra một hơi yếu ớt. Ngụy Huệ Hầu thấy Bạch Khuê chưa chết, thở phào nhẹ nhõm, sai tỳ nhân gọi ngự y tới khám chữa cho ông ta, rồi phẩy tay áo mặt tối sầm lui ra khỏi triều.
Đám Long Giả xúm xít đưa Bạch Khuê về phủ tướng quốc. Đến tận khi trời tối, Bạch Khuê vẫn hôn mê chưa tỉnh. Công Tôn Diễn mời mấy vị đại phu nổi tiếng trong An Ấp tới xem mạch, tuy nhiên, Bạch Khuê lúc này đã như ngọn đèn cạn dầu, dù là thần y cũng chẳng thể làm được gì hơn. Thấy trời đã tối, tướng quốc vẫn chưa tỉnh, quần thần đành cáo từ, bên cạnh Bạch Khuê chỉ còn lại bốn người Công Tôn Diễn, lão quản gia, Long Giả và Chu Uy. Cô con dâu Khởi Y mới về nhà chồng chưa đầy một năm, đứng sau cánh cửa khóc sụt sùi.
Vào giờ Nhân định, ngự y do Ngụy Huệ Hầu phái tới hấp tấp đến bắt mạch cho Bạch Khuê. Bắt mạch một lát, lão quản gia thấy ngự y chau tít đôi mày, biết rằng lành ít dữ nhiều, vội vã hỏi: “Mạch của chúa công thế nào?”
Ngự y lắc đầu nói: “Chuẩn bị hậu sự!”
Lão quản gia bật khóc thất thanh: “Chúa công!”
Công Tôn Diễn ngẩng lên hỏi: “Chúa công có tỉnh lại được chăng?”
Ngự y lấy ra một viên thuốc từ trong chiếc hộp sơn đen, chậm rãi nói: “Cho tướng quốc uống viên thuốc Cứu tầm này, có thể tỉnh lại. Song cầm cự được bao lâu, tại hạ cũng không dám chắc.”
Công Tôn Diễn bưng một bát nước lại, ngự y đỡ Bạch Khuê ngồi dậy, cạy miệng nhét viên thuốc vào, sau đó đổ cho ông một thìa nước ấm. Cổ họng Bạch Khuê khẽ trồi thụt, viên thuốc đã được nuốt xuống.
Ngự y lại đặt Bạch Khuê xuống giường, mọi người nhìn ông không chớp mắt. Sau đó khoảng chừng một bữa cơm, Bạch Khuê quả nhiên đã tỉnh lại, từ từ mở mắt.
Công Tôn Diễn nghẹn ngào nói: “Chúa công, người tỉnh lại rồi!”
Bạch Khuê nhắm mắt lại, một lát sau, lại mở mắt ra nhìn thẳng vào Công Tôn Diễn, sau đó chuyển ánh nhìn sang Long Giả và Chu Uy, cuối cùng dừng lại ở lão quản gia, khó nhọc lên tiếng: “Mọi người đều có mặt! Tốt quá!”
Long Giả khấu đầu nói: “Lão tướng quốc, người có gì căn dặn, xin cứ nói với chúng tôi!”
Bạch Khuê gật đầu, mắt vẫn nhìn vào lão quản gia: “Thằng nhóc kia đâu rồi, cũng… cũng gọi nó lại đây!”
Lão quản gia hơi khựng lại, rồi ấp úng nói: “Vừa nãy còn ở đây, thoắt cái đã biến đâu rồi, để lão nô đi tìm!” Nói xong, vội vã chạy đi, trách cứ viên hộ viện. “Đã bảo các ngươi đi gọi thiếu gia về, vậy người đâu?”
Hộ viện đáp lời: “Bẩm lão quản gia, tiểu nhân đã hai lần tới lầu Nguyên Hanh gọi, thiếu gia đánh bạc đang hứng, nhất quyết không chịu về!”
Lão quản gia sốt ruột nói: “Chúa công chẳng còn sống được bao lâu nữa, không gọi thiếu gia về không được!”
Hộ viện “vâng” một tiếng, dắt ra một con ngựa khoẻ, nhảy phắt lên yên, phi băng băng về phía lầu Nguyên Hanh.
Trong sòng bạc, tiếng người ồn ào như sóng, Bạch Hổ đang cùng đám Lương công tử, Ngô công tử sát phạt kịch liệt. Bạch Hổ trán nổi gân xanh, mồ hôi ròng ròng, mắt dán chặt vào ống xúc xắc trong tay Tiểu Đào Hồng, miệng gào thật lớn: “Tài! Tài! Tài”
Tiểu Đào Hồng vừa lắc xúc xắc, vừa liếc nhìn Bạch Hổ, hai mắt lúng liếng, rồi hai tay khẽ khàng hạ xuống sòng bạc. Kết quả là Xỉu. Bạch Hổ thất vọng tràn trề, than ngắn thở dài không ngớt. Tiểu Đào Hồng vươn cánh tay ngọc ngà, vơ lấy số vàng trước mặt hắn đẩy về phía người thắng, rồi thân người lả lướt ngả vào Bạch Hổ, giơ bàn tay nuột nà vừa lắc xúc xắc lên trước mặt Bạch Hổ, thẽ thọt: “Bạch thiếu gia, hãy nhìn bàn tay của thiếp…”
Bạch Hổ nhẹ nhàng nắm lấy tay ả, ghé sát bên miệng thổi một hơi, cười nói: “Lần này sẽ được, nàng lắc tiếp đi, chắc chắn sẽ thắng!” Nói xong, phẩy tay một cái, thằng hầu phía sau lập tức mở hòm lấy vàng ra xếp thành vài đống lên bàn. “Đặt cược năm mươi lượng!”
Lúc này, hộ viện hớt hải chạy tới bên Bạch Hổ, kéo áo hắn: “Thiếu gia, lão gia… lão gia…”
Bạch Hổ bực mình đẩy hộ viện ra: “Tránh ra, vận may sắp tới, ngươi muốn phá bĩnh ư?”
Hộ viện sốt ruột: “Thiếu gia, lão gia… không ổn rồi! Thật đấy!”
Tiểu Đào Hồng níu tay Bạch Hổ, thỏ thẻ: “Cái gì không ổn vậy, Bạch thiếu gia?”
“Ổn! Ổn! ổn! Bảo bối của ta!” Bạch Hổ ôm lấy cô ả dỗ dành, trợn mắt nhìn hộ viện, lớn tiếng trách cứ. “Không ổn cái gì? Dám ở đây nói lời xui xẻo, thật đáng chết! Cút ngay, còn lải nhải thêm nữa, ta đặt cược ngươi luôn!”
Hộ viện thấy Bạch Hổ nổi giận, lại thấy đám đông đổ dồn ánh mắt bực dọc về phía mình, chỉ biết thở dài bất lực, vội vã bỏ về.
Trong căn phòng đối diện, Thích Quang ngồi sau tấm rèm, đã quan sát thấy tất cả, khoé miệng lộ nụ cười nham hiểm, bước tới bên ông chủ Lâm gật đầu một cái, dặn khẽ: “Tiểu Đào Hồng quả là khéo léo, thưởng cho cô ta năm lượng vàng!”
Ông chủ Lâm cúi gập người nói: “Tiểu nhân đã nhớ!”
“Quả là thú vị!” Thích Quang cười nói. “Lão cha già ở nhà sắp về chầu trời, mà thằng con quý tử lại ở đây ôm gái đẹp đánh bạc, thật là một màn kịch thú vị!”
Ông chủ Lâm cười nói: “Nếu gọi đây là kịch thì Thích gia chính là người soạn kịch!”
Thích Quang cười vang, nói: “Ngươi quá tâng bốc Thích gia rồi! Người soạn kịch, chỉ có thể là chúa công!”
Hộ viện nhảy xuống ngựa, hộc tốc lao vào trong phủ tướng quốc, chạy vội tới phòng Bạch Khuê, đang định tiến vào thì bị một nữ tỳ đứng canh ngoài cửa chặn lại. Hộ viện vội nói: “Tôi có việc gấp muốn gặp lão quản gia!”
Nữ tỳ hất hàm vào phía trong, hộ viện liếc nhìn theo, rồi vội vã lùi sang một bên.
Phía trước giường bệnh, Bạch Khuê đang dặn dò hậu sự. Chỉ nhìn thấy ông nhấc bàn tay già nua, nắm chặt lấy tay Long Giả, run run gọi: “Long tướng quân!”
Long Giả sụt sùi: “Bạch tướng quốc!”
Bốn bàn tay già nua nắm chặt lấy nhau như không muốn rời. Bạch Khuê giọng run rẩy: “Chúa thượng mê muội, mù quáng xưng vương, cơ nghiệp trăm năm của Đại Ngụy sắp phải huỷ hoại trong chốc lát! Lão hủ vô dụng, thật hổ thẹn với tiên quân!”
“Lão tướng quốc,” Long Giả sụt sùi, “người đã cố gắng hết sức rồi! Ngụy có ngày hôm nay là ý trời. Ngụy không còn trong ngày mai cũng là ý trời. Ý trời khó cưỡng!”
Bạch Khuê thở dài: “Đại Ngụy được như hôm nay không phải dễ dàng, lão hủ thật không… không nhắm mắt!”
Long Giả cũng thở dài sườn sượt, cúi thấp đầu, nước mắt tuôn trào.
Bạch Khuê dừng lại chốc lát, rồi chậm rãi nói: “Từ ngày Ngô Khởi chiếm được Hà Tây đến nay, đã trải qua một vòng Giáp Tý, vì bảy trăm dặm đất này mà Tần, Ngụy chiến tranh liên miên, xác chết ngổn ngang khắp Hà Tây. Long tướng quân, ông trấn giữ Hà Tây nhiều năm, có lẽ đã hiểu điều này. Người Tần ân oán phân minh, có thù tất báo. Mối thù Hà Tây, họ không dễ dàng quên được!”
“Lời tướng quốc nói, Long Giả hiểu rõ. Những năm qua, Long Giả bên ngoài tu bổ trường thành, bên trong tích trữ lương thảo, đâu đâu cũng canh phòng nghiêm ngặt, thận trọng cẩn mật, không lúc nào dám lơ là với người Tần.”
Bạch Khuê gật đầu: “Những việc ông làm, lão hủ đây đều thấy. Tuy nhiên, đó là chuyện hôm qua và hôm nay, nhưng còn ngày mai?”
Long Giả khẽ chau mày lại, nắm chặt tay Bạch Khuê: “Lão tướng quốc…”
Bạch Khuê nhìn Long Giả: “Lão hủ sắp ra đi, có một chuyện muốn nhờ cậy tướng quân!”
Long Giả vội quỳ xuống: “Long Giả xin được lắng nghe!”
“Mưu của Công Tôn Ưởng, tất nhằm tới Hà Tây! Nếu lão hủ đoán không lầm, không đầy năm nữa, Hà Tây ắt có đại chiến. Thứ mà lão hủ muốn giao lại cho tướng quân, chính là bảy trăm dặm giang sơn Hà Tây!”
Long Giả nghẹn ngào nói: “Long Giả xin ghi nhớ!”
“Long tướng quân, ta biết, sự uỷ thác này đã làm khó cho tướng quân. Nhà ta mấy đời buôn bán, có tích cóp được chút của cải. Lão quản gia?”
Lão quản gia vẫn quỳ ở bên cạnh liền lên tiếng: “Có lão nô!”
“Trong kho còn bao nhiêu vàng?”
“Khởi bẩm chúa công, tu bổ kênh lớn dùng hết tám nghìn lượng, đắp đê dùng hết ba nghìn lượng. Năm kia hạn hán, cứu tế cho dân một nghìn năm trăm lượng, trong kho hiện còn bảy nghìn ba trăm lượng!”
Bạch Khuê trầm ngâm một lát, run run nói: “Đều giao hết cho Long tướng quân! Phòng ngự Hà Tây, không thể thiếu số vàng này!”
“Lão nô tuân lệnh!”
Công Tôn Diễn, Chu Uy nhất loạt quỳ trước giường bệnh, nước mắt rơi lã chã: “Chúa công…”
Bạch Khuê chuyển ánh mắt sang Chu Uy, chậm rãi nói: “Chu tư đồ, kênh lớn định vào ngày vọng tháng sau phóng thuỷ, lão hủ đã đồng ý tới dự lễ, xem ra việc này giờ phải làm phiền tư đồ!”
Chu Uy nói trong nước mắt: “Hạ quan… tuân lệnh…”
Bạch Khuê bỗng ho dữ dội, Công Tôn Diễn vội vã bước lại, khe khẽ vuốt lưng cho ông. Bạch Khuê thở hổn hển một lúc, rồi quay sang Long Giả nói tiếp: “Long tướng quân, hiền tài là gốc rễ lập nước, hiện tại người Ngụy đối đầu được với Công Tôn Ưởng, chỉ có Công Tôn Diễn. Lão hủ đã nhiều lần tiến cử hắn lên chúa thượng. Than ôi… Ngụy trước mất Ngô Khởi, sau lại mất Công Tôn Ưởng, không thể lại mất Công Tôn Diễn! Hãy để Công Tôn Diễn đi theo tướng quân, hắn tất sẽ giúp ích cho việc phòng ngự Hà Tây.”
“Long Giả xin ghi nhớ!”
Bạch Khuê lại chuyển ánh mắt sang Công Tôn Diễn: “Công Tôn Diễn…”
Công Tôn Diễn nghẹn ngào: “Chúa công!”
Bạch Khuê nhìn lên vách tường. Công Tôn Diễn đưa mắt nhìn theo, thấy trên tường treo một thanh bảo kiếm, vội vàng gỡ xuống, đặt lên trên giường. Bạch Khuê vuốt nhẹ thanh bảo kiếm, nói: “Công Tôn Diễn, đây chính là thanh bảo kiếm mà Ngô Vương Phù Sai ban cho Ngũ Tử Tư thời Xuân Thu, Tử Tư đã dùng nó cứa cổ tự vẫn. Nghĩ tới Ngũ Tử Tư cả đời dốc hết tâm huyết lập nên công lao hiển hách cho nước Ngô, không ngờ lại phải đánh đổi lấy thanh kiếm này. Lão hủ tự ví cuộc đời mình với Tử Tư, mỗi khi nhìn thanh kiếm trên tường, lại có mối cảm hoài sâu sắc. Lão hủ vốn dĩ muốn giữ nó lại đến khi cấp thiết sẽ bắt chước Tử Tư, nhưng hôm nay xem ra không cần phải dùng đến nó nữa. Bảo kiếm nhường này, Tử Tư tiên sinh còn không mang theo, lão hủ đương nhiên không dám hưởng thụ một mình. Giờ ta sắp ra đi, tặng lại thanh kiếm này cho ngươi!”
Công Tôn Diễn đưa hai tay đỡ lấy bảo kiếm, mắt lệ rưng rưng khấu bái: “Chúa công…”
Bạch Khuê lại ho sặc sụa, Công Tôn Diễn vội vuốt lưng cho ông. Cơn ho vừa dứt, ánh mắt Bạch Khuê lại nhìn quanh, vẻ như đang tìm kiếm. Quản gia biết ông đang tìm Bạch Hổ, vội chạy ra ngoài cửa, nhìn thấy hộ viện đứng đợi ở đó, hỏi ngay: “Thiếu gia đâu?”
Hộ viện khấu đầu nói: “Thiếu gia nhất quyết không chịu về, tiểu nhân chạy lại lôi kéo thì thiếu gia doạ sẽ gán luôn tiểu nhân cho ván bạc!”
Lão quản gia giận run người, giậm chân bình bịch, chỉ thẳng vào mặt hộ viện trách mắng: “Ngươi… ngươi đúng là vô dụng, mau dẫn vài người đi theo, gô cổ thiếu gia về đây!”
“Tiểu nhân tuân lệnh!” Hộ viện vội vã gọi vài tên gia đinh đi theo. Một lát sau, cả đoàn ngựa đã phi rầm rập trên phố, cuốn theo cát bụi mù mịt.
Lão quản gia quay trở lại phòng, Bạch Khuê hỏi: “Tiểu tử đã về chưa?”
Lão quản gia quỳ xuống: “Bẩm lão gia, thiếu gia theo người đi học võ, lão nô đã sai người đi gọi rồi, chắc… chắc cũng sắp về!”
Bạch Khuê nhìn chằm chằm vào lão quản gia: “Nói thực đi, nó ở đâu?”
Lão quản gia lại nghẹn ngào: “Lão gia…”
“Nói mau!”
Lão quản gia khóc nấc lên không thành tiếng: “Đánh bạc ở… ở lầu Nguyên Hanh!”
Bạch Khuê nhắm nghiền mắt lại, hai giọt lệ ứa ra từ hai bên khoé mắt. Một lát sau, Bạch Khuê từ từ mở mắt, nói với lão quản gia: “Gọi… gọi Khởi Y lại đây!”
Lão quản gia vội chạy đi, một lát sau, dẫn Khởi Y lại. Khởi Y năm nay mới mười sáu tuổi, vốn là con gái của đại phu nước Triệu Chung Sở. Chung Sở do trách mắng tướng quốc quyền thần nước Triệu là Phụng Dương Quân ngay giữa triều đình, không lâu sau bị tịch biên tài sản, khép tội phản quốc rồi xử tử. Chung Sở không có con trai, chỉ có một mụn con gái là Khởi Y, năm đó mới hai tuổi. Chung Sở biết đại nạn sắp giáng xuống đầu, bèn sai bà vú bế Khởi Y chạy trốn. Bà vú nghe theo lời dặn của Chung Sở, trải qua bao ngày tháng khổ cực, cuối cùng đã đưa được Khởi Y đến nước Ngụy, tìm tới nương nhờ Bạch Khuê. Bà vú không lâu sau bệnh nặng qua đời, từ đó Khởi Y chẳng còn ai thân thích ngoài cha con Bạch Khuê. Khởi Y ít hơn Bạch Hổ sáu tuổi, song lớn lên cùng nhau, là đôi thanh mai trúc mã, sớm ngày không rời nhau nửa bước. Khởi Y dần trưởng thành, trở thành một thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp, Bạch Khuê rất ưng thuận trong lòng. Sau khi Khởi Y tới tuổi cập kê vào năm ngoái, đã tổ chức hôn lễ cho hai người.
Khởi Y bước vào, quỳ xuống trước giường, gục đầu xuống, khóc nấc lên từng hồi. Bạch Khuê đưa bàn tay già nua nhăn nheo, nhẹ nhàng vuốt mái tóc của Khởi Y, nói: “Con ơi, thực không ngờ Bạch Hổ lại tệ đến vậy, lão hủ đã hại con rồi!”
Khởi Y vừa khóc vừa nói: “Là Y Nhi tự nguyện. Y Nhi sống là người họ Bạch, chết làm ma họ Bạch, cho dù chàng trở thành người ra sao, Y Nhi cũng tuyệt không hối hận!”
Bạch Khuê nhìn Khởi Y mà nói: “Nghe nói con đã mang thai, nếu sinh con trai, hãy đặt tên là Bạch Khởi, để thằng bé bắt đầu từ đầu, bắt đầu từ chính mình!”
Khởi Y nuốt lệ gật đầu.
Bạch Khuê lại ho vài tiếng, rồi nhìn sang Công Tôn Diễn: “Khuyển tử vô dụng, đều tại lão hủ quá nuông chiều. Công Tôn Diễn, thằng nhóc này cậy nhờ ngươi dạy dỗ giúp. Hãy nhận lời ta, đưa nó về Hà Tây, để nó chết… chết trên chiến trường, không được để nó chết… trên chiếu bạc…”
Bạch Khuê lại ho lên dữ dội. Công Tôn Diễn vội vã vuốt lưng cho ông, nhưng đã muộn, một khối đờm đặc đã tắc nghẽn trong họng. Sau một hồi co giật, đầu Bạch Khuê đổ vật sang một bên.
Đám người đồng loạt gào khóc nức nở: “Chúa công!”
Trong ngoài phủ tướng quốc bao trùm trong bầu không khí tang thương, tiếng khóc than rền rĩ. Đúng vào lúc này, hộ viện dẫn theo đám gia đinh áp giải Bạch Hổ bị trói giật cánh khuỷu bước vào. Bạch Hổ bị đẩy vào trong sân, vừa vùng vẫy, vừa giậm chân chửi rủa: “Thả ta ra, lũ khốn kiếp chết tiệt! Thả ta ra… xem ta làm thịt các ngươi!”
Công Tôn Diễn mình mặc tang phục bước ra, lừ mắt nhìn hắn, lạnh lùng nói: “Thả thiếu gia ra!”
Đám gia đinh liền thả Bạch Hổ ra.
Bạch Hổ kinh hãi nhìn bộ tang phục trên người Công Tôn Diễn, bật kêu lên thất thanh: “Công Tôn huynh… chuyện gì…”
Giọng Công Tôn Diễn vẫn lạnh tanh: “Chúa công quy tiên rồi!”
Bạch Hổ dường như không tin vào tai mình: “Sao? Huynh lảm nhảm gì thế?”
“Chúa công dành lại hơi thở cuối cùng để chờ gặp cậu, mà cậu không chịu về. Chúa công đợi không được, đã quy tiên nửa canh giờ trước!”
Bạch Hổ lúc này mới nhận ra sự việc nghiêm trọng, mặt mũi tái nhợt, gào lên thảm thiết: “Cha ơi!” Rồi lao thẳng vào trong phòng.
Hồi Thứ 4
Ngụy Hầu xưng vương đánh nước Vệ
Tôn Tân rời nhà ra sa trường
Chính vào lúc Long Giả, Chu Uy, Công Tôn Diễn bận rộn trong phủ tướng quốc lo tang sự cho Bạch tướng quốc thì đám Công Tôn Ưởng, Trần Chẩn cũng không hề nhàn rỗi, suốt ngày đêm bàn bạc việc kết liên minh Tần Ngụy, điển chương lễ nghĩa, điển lễ xưng vương. Vài ngày sau, hiệp ước kết minh Tần Ngụy đã thảo xong, sau khi soát lại một lượt, thấy không còn chỗ nào vướng mắc, Trần Chẩn và Công Tôn Ưởng bèn sai người chép thành hai bản trên da dê, rồi vào cung trình lên Ngụy Huệ Hầu xem xét.
Ngụy Huệ Hầu sau khi đọc kỹ, nói với tỳ nhân: “Mang vương tỷ lại đây!”
Tỳ nhân vào trong mật thất, mang ra một hộp gỗ đàn hương tinh xảo, mở ra trước mặt Ngụy Hầu. Ngụy Hầu đích thân nâng ngọc tỷ vừa khắc xong ra khỏi hộp, ngắm nghía sắc ngọc trắng muốt vẫn còn mới nguyên, cười nói với Công Tôn Ưởng và Trần Chẩn: “Ha ha, đây là lần đầu tiên quả nhân dùng đến vương tỷ!”
Công Tôn Ưởng nghe vậy bèn quỳ xuống, khấu đầu nói: “Bệ hạ lần đầu dùng vương tỷ cho việc của người Tần, người Tần quả là may mắn!”
Huệ Hầu lại cười vang: “Ái khanh hãy bình thân! Chỉ cần đóng lên vương tỷ, việc của người Tần cũng chính là việc của quả nhân.”
“Vi thần thay Tần Công khấu tạ ơn che chở của bệ hạ!”
Ngụy Huệ Hầu đích thân chấm vương tỷ vào mực son, rồi đóng ngay ngắn lên từng tấm da dê. Tỳ nhân thu lại, giao cho Công Tôn Ưởng. Công Tôn Ưởng hai tay đỡ lấy, lại dập đầu liền ba cái, cất giọng sang sảng: “Hôm nay có vương tỷ của bệ hạ, hiệp ước kết minh này đã có hiệu lực. Vi thần sẽ lập tức mang hiệp ước về Tần, đợi Tần Công đóng lên ấn tỷ, vi thần lập tức phái sứ giả trình lên bệ hạ!”
“Tốt lắm!” Ngụy Huệ Hầu khẽ gật đầu, rồi ngoảnh sang Trần Chẩn. “Trần ái khanh, sự việc tông bá làm đến đâu rồi?”
Trần Chẩn khấu đầu nói: “Khởi bẩm bệ hạ! Triều đình mới đã bắt đầu, điển chương nghi lễ đang soạn thảo, chẳng bao lâu nữa sẽ ban bố. Còn về điển lễ chúc mừng, đã mời thầy vu chọn được ngày tháng và địa điểm cát lợi!”
“Ồ!” Ngụy Huệ Hầu vui mừng ra mặt. “Là ngày nào, nơi nào?”
“Ngày cát là ngày vọng tháng năm, nơi cát là Phùng Trạch.”
Ngụy Huệ Hầu ngẫm nghĩ một lát, gật đầu nói: “Ồ, Phùng Trạch là nơi phượng hót rồng ngâm, quả nhân nên tới đó tế bái! Tốt lắm, việc này cứ quyết định như vậy, ái khanh hãy khởi thảo hịch văn, truyền hịch tới công hầu liệt quốc, thông báo cho họ vào ngày vọng tháng sau hội tụ ở Phùng Trạch! Còn nữa, hịch văn nhất thiết phải ý tứ rõ ràng, ngôn từ minh xác, nói rõ lần này quả nhân quay mặt về nam xưng vương, làm đại lễ đăng cơ tại Phùng Trạch, tránh để liệt quốc hiểu sai, cho rằng lại vào chầu Chu thiên tử!”
“Vi thần tuân chỉ!”
Sau khi cáo lui, rời khỏi cung thành, Trần Chẩn và Công Tôn Ưởng tới lầu Nguyên Hanh. Vẫn là Công Tôn Ưởng đứng ra làm chủ, mời thêm công tử Ngang tới, ba người uống rượu ăn mừng, chúc cho liên minh Ngụy Tần thành công.
Sau tiệc rượu, Công Tôn Ưởng cáo từ về Tần. Do phải gấp rút chuẩn bị truyền hịch tới liệt quốc, Trần Chẩn chỉ tiễn tới cổng thành tây thì cáo từ về phủ. Công tử Ngang cũng có việc riêng, tiễn khoảng hơn mười dặm nữa thì quay về. Công Tôn Ưởng quay người, vòng tay vái mà nói: “Thượng tướng quân dừng bước, Công Tôn Ưởng xin từ biệt tại đây!”
Công tử Ngang vái đáp lễ, lại nói: “Việc Tử Vân công chúa, còn phải làm phiền đại lương tạo!”
Công Tôn Ưởng cười vang mà nói: “Thượng tướng quân yên tâm, chén rượu mừng này, Công Tôn Ưởng kiểu gì cũng phải uống bằng được!”
Công Tôn Ưởng thắng lợi trở về, Tần Hiếu Công ra ngoài thành tận ba mươi dặm nghênh đón, nắm tay Công Tôn Ưởng cùng lên xe về cung. Trên đường đi, Công Tôn Ưởng kể lại vắn tắt đầu đuôi cuộc đi sứ Ngụy cho Hiếu Công nghe. Về tới cung, Công Tôn Ưởng trình hiệp ước liên minh Tần Ngụy lên Hiếu Công. Hiếu Công vội vã mở xem, rồi đưa cho nội thần đóng ngọc tỷ. Nội thần vừa bước ra khỏi nội điện, Công Tôn Ưởng đã phịch một tiếng quỳ sụp xuống, hai tay ôm đầu phủ phục dưới đất, hạ giọng mà tâu: “Chúa thượng, vi thần có tội!”
Hiếu Công ngạc nhiên hỏi: “Ái khanh cứu vãn nguy cục, công lao còn chưa kể hết, lại có tội gì?” Vừa nói vừa đưa tay đỡ Công Tôn Ưởng dậy.
Nhưng dù Hiếu Công lôi kéo thế nào, Công Tôn Ưởng cũng không chịu đứng lên, nhất quyết quỳ dưới đất, miệng chỉ lặp đi lặp lại bốn chữ: “Vi thần có tội!”
Hiếu Công cảm thấy quái lạ, bèn buông tay ra, lùi tới trước bàn, từ từ ngồi xuống: “Công Tôn ái khanh, nói đi, khanh có tội gì?”
“Vi thần to gan, dám hứa gả Tử Vân công chúa!”
“Khanh nói gì?” Tần Hiếu Công hết sức ngỡ ngàng, dường như chưa nghe rõ. “Tử Vân công chúa làm sao? Hứa gả cái gì?”
Công Tôn Ưởng dập đầu sát đất, nói rành rọt từng chữ: “Vi thần đã tự ý chủ trương, hứa gả Tử Vân công chúa cho thượng tướng quân nước Ngụy công tử Ngang!”
Tần Hiếu Công nghe rõ từng lời, há miệng cứng lưỡi, ngây người chết lặng. Hồi lâu sau, Hiếu Công mới nhấc mình đứng dậy, đi tới đi lui trong đại điện, sau đó dừng lại, run run chỉ tay vào Công Tôn Ưởng, lớn tiếng trách cứ: “Ái khanh ơi ái khanh, khanh… khanh bảo quả nhân phải ăn nói thế nào đây? Trước khi đi, khanh chưa từng nhắc tới chuyện Tử Vân, sao vô duyên vô cớ nói gả là gả được? Khanh… chẳng phải khanh thừa biết Tử Vân công chúa là… là… là… Than ôi, việc này khác nào khanh cầm dao cắt thịt trong tim gan quả nhân!”
“Công Tôn Ưởng biết tội!”
Hiếu Công lắc đầu than thở: “Trời ơi, biết tội… biết tội thì làm được gì đây? Việc quan trọng như vậy, khanh cũng nên bàn bạc trước mới phải chứ! Khanh có thể không nói với Tử Vân, không nói với quả nhân, khanh cũng có thể không nói với phu nhân, nhưng còn lão phu nhân, khanh… khanh cũng nên né mặt ít nhiều chứ! Trong ngoài cung, ai cũng biết Tử Vân là khúc ruột của lão phu nhân, hôn sự của Tử Vân, nếu lão phu nhân chưa đồng ý, dù là quả nhân cũng không dám tuỳ tiện hứa gả. Thế mà khanh… khanh lại hứa gả công chúa cho một kẻ vô dụng bất tài!” Nói đoạn, lại thở dài sườn sượt.
“Chúa thượng!” Công Tôn Ưởng càng dập đầu sát đất, nín thở một lát, rồi nói khẽ. “Vô dụng mới là đại dụng! Mất một công chúa, song được toàn cục!”
Hiếu Công sửng sốt, chau mày hỏi lại: “Vô dụng mới là đại dụng?” Nói xong lại đi tới đi lui trong đại điện.
Bước chân của Hiếu Công cứ thế chậm dần, rồi chợt dừng hẳn, quay về trước bàn, từ từ ngồi xuống, mắt nhìn thẳng vào Công Tôn Ưởng: “Nói đi! Theo ý ái khanh, bao giờ Tử Vân xuất giá là thích hợp?”
“Việc này không thể chậm trễ, buổi triều hội ở Phùng Trạch chính là ngày đẹp. Ngụy Vương đăng cơ, Tần Ngụy kết thông gia, Ngụy Vương song hỷ lâm môn, tất không có ý đề phòng ta nữa!”
“Lúc nào ái khanh khởi hành tới hội?”
“Ba ngày nữa!”
Hiếu Công trầm ngâm một lát, rồi lớn tiếng gọi: “Người đâu!”
Nội thần vừa đóng xong ngọc tỷ, tay cầm hiệp ước liên minh vội vã chạy lại: “Có lão nô!”
“Truyền chỉ hậu cung, chuẩn bị đồ lễ vu quy cho Tử Vân công chúa!”
Nội thần sững sờ mất một lúc mới đáp: “Lão nô tuân chỉ!”
Nội thần đi khỏi, Công Tôn Ưởng lại dập đầu khấu bái, nước mắt giàn giụa: “Chúa thượng thánh minh!”
Hiếu Công chậm chạp đứng dậy, thở dài một tiếng rồi nói: “Công Tôn ái khanh, khanh đi đường vất vả, hãy mau về nghỉ ngơi. Quả nhân… quả nhân cũng mệt rồi!”
“Vi thần cáo lui!”
Trên đường tới hậu cung, nội thần trong lòng băn khoăn, không biết nên truyền ý chỉ như thế nào, bước chân mỗi lúc một chậm. Tới trước cửa cung, nội thần trù trừ một lát, rồi quyết định tới chính cung, bái kiến phu nhân trước.
Phu nhân của Hiếu Công là em gái ruột của Hàn Chiêu Hầu. Năm xưa, Hiến Công vì muốn cướp lại Hà Tây từ nước Ngụy, đã kết minh với Hàn, xin cưới con gái Hàn thất làm vợ thái tử Cừ Lương, sinh được Doanh Tứ. Trong cuộc chiến Hà Tây, Hiến Công tử trận, Hiếu Công tức vị, lập Hàn nữ làm phu nhân, năm sau sinh ra Tử Vân. Tử Vân là con của chính thất, lại là em gái ruột thái tử, đương nhiên địa vị cao nhất trong số các công chúa. Lại thêm nhan sắc tuyệt trần, ăn nói khôn khéo, không chỉ được Hiếu Công hết mực yêu thương, mà còn là viên ngọc quý trong tay lão phu nhân, tức mẹ Hiếu Công, phu nhân của Hiến Công.
Khi nội thần truyền chỉ, Tử Vân công chúa vừa hay tới thăm mẫu hậu nên cũng nghe được tin này. Tần Ngụy xưa nay thù sâu như biển, Tử Vân công chúa nghe nói công phụ gả mình cho người Ngụy, mặt hoa biến sắc, lập tức quay người chạy thẳng tới cung lão phu nhân, quỳ xuống trước mặt, ôm lấy hai chân bà khóc lóc thảm thiết đến chết đi sống lại. Lão phu nhân vô cùng kinh ngạc, hỏi đến năm lần bảy lượt, Tử Vân vẫn khóc, nghẹn ngào không nói nên lời. Lão phu nhân lòng đau như cắt, ôm công chúa vào lòng, hết lời vỗ về an ủi, Tử Vân vẫn khóc nức nở, lão phu nhân chỉ biết lau nước mắt cho công chúa, đang không biết phải làm gì, chợt thấy phu nhân của Hiếu Công đang tiến lại. Từ xa nhìn thấy hai bà cháu đang ôm nhau khóc, Hiếu Công phu nhân vội vã bước tới, quỳ xuống khấu bái, khóc nấc lên từng tiếng.
Lão phu nhân càng hốt hoảng, vội lau nước mắt, vừa dỗ dành Tử Vân, vừa quay sang hỏi Hiếu Công phu nhân: “Trông hai người kìa… Trời sắp sập rồi ư? Mau nói xem, đã xảy ra chuyện gì?”
Hiếu Công phu nhân nghẹn ngào kể lại đầu đuôi sự việc. Lão phu nhân kinh ngạc đến chết sững, một lúc sau mới hoàn hồn, lập tức đùng đùng nổi giận, đứng phắt dậy, quờ lấy cây gậy đầu rồng, nện cồm cộp xuống đất, vừa nện vừa gọi: “Người đâu!”
Cung chính vội vã bước lại: “Có nô thần!”
“Mau gọi Doanh Cừ Lương lại đây! Gọi cả Kiền Nhi, Tứ Nhi lại đây hết cho ta!”
Một lát sau, ba người Tần Hiếu Công, Doanh Kiền, Doanh Tứ đều chạy tới. Doanh Kiền, Doanh Tứ nghe nói lão phu nhân nổi trận lôi đình, song không rõ nguyên nhân, mặt mày hớt hải bước vào cửa cung. Từ xa đã nhìn thấy lão phu nhân ngồi ngay ngắn trên chiếu, bên cạnh không có một ai, còn Tần Hiếu Công quỳ dưới đất, hai người đứng nghệt ra một lát, rồi vội vã bước lại, trong lòng hoang mang, cũng quỳ xuống phía sau Hiếu Công.
Lão phu nhân ngồi trước án, mặt đỏ phừng phừng đưa mắt nhìn ba người một lượt, sau đó gõ mạnh cây gậy xuống nền gạch, nghiêm giọng quát lên: “Chó Ngụy chiếm đoạt Hà Tây của ta, giết hại phu quân ta, có mối thù không đội trời chung với ta. Doanh Cừ Lương… ngươi là đứa con bất hiếu, đã không báo thù thì chớ, sao lại còn gả Tiểu Vân Nhi của bà già này cho chó Ngụy?”
Doanh Kiền, Doanh Tứ đã hiểu ra, bèn đưa mắt nhìn nhau. Tần Hiếu Công dập đầu sát đất, mông chổng lên trời, chỉ lặng im không nói.
Lão phu nhân cười nhạt: “Doanh Cừ Lương, ngươi tưởng không nói là xong chuyện ư? Bà già này hỏi ngươi, nghe nói là Công Tôn Ưởng tự tung tự tác, bán Tiểu Vân Nhi đi phải không?”
Tần Hiếu Công cuối cùng cũng phải lên tiếng, ấp úng: “Hồi bẩm mẫu hậu, chuyện này không liên quan tới Công Tôn Ưởng, mà là chủ ý của Cừ Lương, đã dặn dò Công Tôn Ưởng tới Ngụy xin kết thông gia. Mẫu hậu muốn đánh muốn phạt gì, Cừ Lương xin nhận!”
Lão phu nhân trong lòng tức uất, nước mắt giàn giụa: “Ngươi bao che cho tên khác giống đó?” Rồi chỉ vào Doanh Kiền, Doanh Tứ. “Ngươi mở mắt nhìn chúng đi, Công Tôn Ưởng nay trách đứa này, mai phạt đứa kia, chỉ e không biết hôm nào hắn sẽ động tới thân già này. Doanh Cừ Lương, ngươi mở miệng là rêu rao chữ hiếu làm đầu, hôm nay, tại đây, hãy nói rõ ràng cho thân già này biết!”
Tần Hiếu Công lại dập đầu sát đất, mặc cho lão phu nhân trách cứ, một câu cũng không hé răng. Công Tôn Ưởng đặt ra biến pháp, dốc sức cải chế, những người bị liên luỵ đa phần là cựu thần thế tộc, mà trong số những người này hầu hết đều có quan hệ thân thiết với lão phu nhân, do vậy lão phu nhân từ lâu đã không hài lòng. Hôm nay nhân sự việc này, lão phu nhân càng khóc lóc mắng chửi thậm tệ, kể lể một loạt “tội ác” của Công Tôn Ưởng từ khi tới đất Tần.
Doanh Kiền từng chịu tội thay thái tử, bị Công Tôn Ưởng xử phạt xẻo mũi, càng nghe càng thấy đau lòng, lê lên vài bước, ôm lấy chân lão phu nhân khóc thảm thiết, giọng lạc đi: “Mẫu thân…”
Tần Hiếu Công càng vùi đầu sâu hơn vào ống tay áo, dù có tức giận cũng không dám để lộ ra mặt. Lão phu nhân chửi mắng một hồi thì thấm mệt, bèn lau nước mắt, quay sang Tần Hiếu Công nói lớn: “Doanh Cừ Lương, ngươi nghe cho kỹ, không có ý chỉ của mụ già này, ngươi không được phép gả Tiểu Vân Nhi cho ai hết!”
Lời nói vừa dứt, từ phía nội cung vọng lại tiếng khóc của Tử Vân công chúa và Hiếu Công phu nhân. Lão phu nhân trong lòng lo lắng, đứng bật dậy, hừ mũi một tiếng, nhấc gậy lên, gõ cồm cộp xuống đất, phăm phăm bước đi.
Thấy lão phu nhân đã đi xa, Tần Hiếu Công mới đứng dậy, nét mặt nặng nề, liếc nhìn Doanh Kiền, Doanh Tứ đang hoang mang quỳ dưới đất, sau đó quay người rảo bước đi luôn. Nội thần đứng đợi sẵn ngoài cửa chạy vội theo sau. Khi sắp tới thư phòng, Hiếu Công mới chậm bước lại. Nội thần, bước lên một bước, khẽ nói: “Chúa thượng, chuyện của Tử Vân công chúa, hay là… để thư thư đã?”
Tần Hiếu Công đứng khựng lại, quay phắt sang nhìn nội thần, đùng đùng nổi giận, quát lớn: “Thư thư cái gì? Truyền chỉ, việc Tử Vân xuất giá, phải gấp rút tiến hành! Còn nữa, từ nay về sau bất luận trong triều đình hay hậu cung, ngoại trừ lão phu nhân, ai dám đả động tới chuyện này, chém ngay không tha!”
“Lão nô lĩnh chỉ!”
***
Ngụy Huệ Hầu truyền hịch tới liệt quốc, mời công hầu các nước vào ngày vọng tháng năm tới Phùng Trạch dự lễ xưng vương. Do thời gian quá gấp, với những nước khá xa như Yên, Sở, Việt, Trần Chẩn chỉ báo tin cho họ biết; còn những nước lân cận như Tần, Tề, Hàn, Triệu, Trung Sơn, Nghĩa Cừ và bốn nước nhỏ là Vệ, Lỗ, Trần, Tống, đều gửi hịch văn tận tay. Để thêm phần long trọng, Ngụy Huệ Hầu còn gửi kèm thiệp mời tự tay viết, có đóng dấu son từ vương tỷ mới.
Để đảm bảo điển lễ được suôn sẻ, không gặp sơ suất, cũng đề phòng gặp phải phản kháng, Ngụy Huệ Hầu đã điều động năm vạn binh sĩ do đích thân thượng tướng quân thống lĩnh tới Đại Lương trước. Bản thân Ngụy Huệ Hầu cũng xuất phát trước mười ngày, ngồi xe ngựa, bừng bừng khí thế, thẳng tới Phùng Trạch.
Ngựa truyền hịch của Ngụy Hầu mau chóng tới kinh đô Đế Khâu nước Vệ. Vệ Thành Công đọc xong hịch văn, vô cùng kinh hãi. Sau khi sắp xếp ổn thoả cho sứ thần, Vệ Thành Công cấp tốc tuyên gọi lão thần Tôn Cơ tới bàn kế sách ứng phó.
Tôn Cơ là cháu đời thứ tư của binh gia Tôn Vũ thời Xuân Thu, vốn là tể phụ nước Tống, do bất hoà với Tống Công, hai mươi năm trước đã dắt theo hai con trai tới nước Vệ, được Thành Công trọng dụng làm tể phụ, sau gọi là tướng quốc.
Tôn Cơ xem qua truyền hịch, lại đọc thiệp mời do đích thân Ngụy Huệ Hầu viết, đôi mày chau tít, hồi lâu mới ngẩng lên nhìn Thành Công: “Chúa thượng…”
“Lão ái khanh,” Vệ Thành Công nhìn thẳng vào khuôn mặt dạn dày sương gió của Tôn Cơ. “Theo ý khanh, đại hội Phùng Trạch lần này, quả nhân có nên đến dự?”
“Lão thần cho rằng, chúa thượng đi cũng không được, mà không đi cũng không xong!”
“Trước tiên thử nói xem, không đi có gì không được!”
“Ba nước Tề, Hàn, Triệu có thể không đi, song chúa thượng không thể không đi! Hành vi của Ngụy Anh tuy là mạo phạm thiên hạ, song nước nhỏ như ta lại không có khả năng chống đối.”
Vệ Thành Công khép hờ hai mắt, trầm ngâm suy nghĩ, rất lâu sau mới ngẩng lên hỏi: “Ý của lão ái khanh là, ba nước Tề, Hàn, Triệu có thể sẽ không đi?”
Tôn Cơ đáp: “Theo lão thần, không chỉ ba nước lớn Tề, Triệu, Hàn không đi, mà các nước nhỏ ở lưu vực sông Tứ cũng chưa chắc đã đi.”
Vệ Thành Công đăm chiêu suy nghĩ.
Tôn Cơ tiếp tục nói: “Các nước nhỏ khác có thể không đi, chỉ riêng chúa thượng không thể không đi!”
Vệ Thành Công ngạc nhiên: “Tại sao?”
“Lượng thứ cho lão thần nói bừa, trong số những nước nhỏ ở lưu vực sông Tứ, duy có ta là gần Đại Ngụy nhất, lại rất dễ bị công phá. Nếu không đi, dựa vào tính khí của Ngụy Anh, tất sẽ khai đao với ta trước, nhằm mục đích giết gà doạ khỉ!”
Vệ Thành Công cúi đầu, tiếp tục trầm tư, một lát sau, lại ngẩng lên hỏi: “Đấy là ‘không đi cũng không được’. Thế còn nếu quả nhân đi, lại có gì không được?”
“Ba nước Tề, Triệu, Hàn có thể đi, song chúa thượng lại không thể đi!”
Vệ Thành Công kinh ngạc: “Dựa vào đâu mà nói vậy?”
“Ngụy Hầu xưng vương, là mưu nghịch soán ngôi. Ba nước Tề, Hàn, Triệu cũng giống như Ngụy, đều là đại phu soán ngôi, chứ không phải chư hầu do Chu thất phong tặng từ xưa, sớm đã không còn chính danh. Song chúa thượng lại khác. Tiên tổ của chúa thượng là em trai của Vũ Vương, cùng chung huyết mạch với Chu thất. Nếu chúa thượng đi, chẳng phải đã tán thành mưu đồ phản nghịch lần này? Tuy có thể giữ được an toàn nhất thời, song sẽ để lại tiếng nhơ trong sử sách, ít nhất cũng bị người đời sau chê cười!”
Vệ Thành Công gật đầu: “Lão ái khanh nói rất đúng! Quả nhân suy đi tính lại, cũng chưa thể đưa ra quyết đoán! Hẳn là lão ái khanh đã có kế sách song toàn?”
Tôn Cơ trầm ngâm suy nghĩ, rồi chậm rãi nói: “Chúa thượng xem thế này có được không? Đại hội Phùng Trạch, hãy để lão thần dẫn thái tử tới ứng phó. Chỉ cần chuẩn bị nhiều lễ vật, nói năng lọt tai, Ngụy Hầu chắc cũng không đến nỗi trút giận lên ta.”
Vệ Thành Công nhắm hờ đôi mắt, tiếp tục trầm ngâm suy nghĩ. Một lúc lâu sau mới mở bừng mắt ra, lắc đầu mà nói: “Làm thế khác nào kẻ chạy năm chục bước chê người chạy trăm bước, không thể được!”
Tôn Cơ thở dài thườn thượt: “Đúng là kẻ chạy năm chục bước chê người chạy trăm bước, song lão thần thực sự không còn kế nào hay hơn!”
Vệ Thành Công trán đã giãn ra, cất giọng kiên quyết: “Đi cũng không được, không đi cũng không xong, sai thái tử đi không biết có được việc không, quả nhân đành phải đánh liều một phen vậy! Lão ái khanh, hãy sắp xếp sứ thần, chuẩn bị lễ vật hậu hĩnh, lần lượt tới thăm hỏi chư hầu các nước Tề, Hàn, Triệu! Chỉ cần họ không đi, Ngụy Anh còn dám làm gì quả nhân!”
“Lão thần tuân chỉ!”
Tôn Cơ trở về phủ tướng quốc, lập tức sắp xếp vài đại phu, chuẩn bị hậu lễ, xuất phát ngay trong đêm tới ba nước Tề, Hàn, Triệu, danh nghĩa là thăm hỏi, thực chất là nghe ngóng thực hư.
Tiễn xong các sứ thần, đã tới giờ Nhân định. Tôn Cơ tắm gội sạch sẽ, thay quần áo ngủ, vừa nằm xuống giường chưa được bao lâu, lại ngồi bật dậy, bần thần chốc lát, bèn mặc lại quần áo, ra khỏi phòng ngủ, rảo bước tới thư phòng của cháu trai là Tôn Tân.
Tôn Cơ có hai con trai, con cả Tôn Thao là quận thú trấn Bình Dương, một trọng trấn vùng biên giới nước Vệ. Con thứ Tôn An là tư mã quận Bình Dương, phụ trách phòng ngự Bình Dương. Tôn Tân là con trai cả của Tôn Thao, đã qua tuổi đội mũ, Tôn Cơ giữ cháu lại trong phủ, thứ nhất là để giúp đỡ các việc trong phủ tướng quốc, thứ hai là muốn đích thân dạy cháu thành tài.
Khi Tôn Cơ bước vào cửa, Tôn Tân đang ngồi ngay ngắn trước bàn, say sưa đọc sách dưới ánh nến, vẻ như muốn đọc thâu đêm. Tôn Cơ tiến lại gần mà Tôn Tân vẫn không hay biết, hai mắt vẫn dán chặt vào thẻ tre, miệng lẩm nhẩm đọc. Tôn Cơ khẽ đặng hắng, Tôn Tân ngẩng đầu lên, nhìn thấy Tôn Cơ, vội vã xoay người dập đầu chào: “Tân Nhi khấu kiến ông nội!”
Tôn Cơ ngồi xuống đối diện với bàn, đưa mắt nhìn xuống cuộn thẻ tre trên tay Tôn Tân: “Tân Nhi, đọc sách gì mà say mê đến vậy?”
“Thưa ông, Tôn Nhi vừa có được một cuốn sách quý, là ‘Kiêm ái’ của Mặc Tử!”
Tôn Cơ gật gù: “Ồ, Mặc gia là trường phái nổi tiếng thời nay, đa phần là cao sĩ thông hiểu đạo lý, sách này rất đáng đọc. Tân Nhi, theo cháu, những điều viết trong sách này có đạo lý chăng?”
“Thưa ông!” Tôn Tân ngồi thẳng lại, sửa ngay vạt áo, chậm rãi nói. “Lời tiền bối Mặc Tử nói ra đều là chí lý trong thiên hạ. ‘Chư hầu không yêu thương nhau tất xảy ra chiến tranh, gia chủ không yêu thương nhau tất nảy sinh toan tính, người với người không yêu thương nhau tất xảy ra cướp bóc, vua tôi không yêu thương nhau tất xảy ra bất trung, cha con không yêu thương nhau tất xảy ra bất hiếu, anh em không yêu thương nhau tất xảy ra bất hoà. Người trong thiên hạ không yêu thương nhau, mạnh tất ắt nạt yếu, giàu ắt ức hiếp nghèo, sang ắt ngạo mạn với hèn, gian trá ắt lừa dối ngu ngốc…’ Tiền bối Mặc Tử từng câu từng chữ đều nhắm trúng chỗ tệ hại đương thời! Ngày nay thiên hạ chiến loạn, dân chúng lầm than, nguyên nhân trong đó, chính là không thương yêu nhau. Nếu con người biết thương yêu nhau, thiên hạ sẽ không có chuyện ‘mạnh ắt bắt nạt yếu, giàu ắt ức hiếp nghèo, sang ắt ngạo mạn với hèn, gian trá ắt lừa dối ngu ngốc’, mà sẽ đạt tới cảnh giới thánh nhân!”
Tôn Cơ thở dài: “Tân Nhi, ông mong cháu nhớ kỹ rằng, tất cả những điều này, chỉ là ‘nếu như’ mà thôi!”
Tôn Tân kinh ngạc hỏi: “Tại sao ông lại nói vậy?”
Tôn Cơ lại thở dài sườn sượt, rồi chậm rãi nói: “Vì sói thường muốn ăn thịt dê, dê thường muốn ăn cỏ!”
“Thưa ông,” Tôn Tân trầm ngâm một lát, ngẩng đầu nhìn Tôn Cơ, “hình như hôm nay ông có tâm sự gì, có thể nói với Tân Nhi chăng?”
Tôn Cơ gật đầu: “Tân Nhi, ông muốn cháu mau chóng tới Bình Dương, nhắn với cha và chú cháu hãy cấp tốc tích thảo đồn lương, dự trữ nước uống, củng cố thành trì, chuẩn bị ứng chiến!”
“Ứng chiến?” Tôn Tân kinh ngạc. “Thưa ông, giờ đây thiên hạ thái bình, sao lại phải ứng chiến?”
Tôn Cơ chậm rãi đứng dậy: “Sói muốn ăn thịt dê, dê sao chịu cam lòng! Tân Nhi, mau đi ngủ sớm, sáng sớm mai lập tức lên đường! Còn nữa, bảo với cha cháu, lúc này vẫn còn thời gian, nên gấp rút chiêu binh mãi mã, đào hào thêm sâu, tháo nước thật đầy!”
Tôn Tân gật đầu, vẻ mặt trầm xuống.
***
Nhân sự việc khai thông kênh lớn, quận thú Đại Lương đã chuẩn bị chu đáo cho đại lễ diễn ra bên bờ Phùng Trạch. Chưa nói đến cờ quạt rợp trời, lễ đài chót vót, vạn người thưởng lãm, chỉ riêng những màn ca múa muôn hồng nghìn tía đã đủ khiến dân chúng đến xem trầm trồ không ngớt.
Thượng khanh kiêm đại tông bá Trần Chẩn tới Phùng Trạch đầu tiên, nhìn thấy quang cảnh nơi đây, trong lòng mừng thầm, bảo họ diễn tập một lượt. Quả là chiêng trống rộn rã, cờ quạt tưng bừng, muôn dân reo hò, quang cảnh vô cùng náo nhiệt, không thua kém gì triều hội Mạnh Tân. Thượng tướng quân công tử Ngang dẫn theo năm vạn binh lính giáp trụ đường đường cũng đã tới nơi. Từ ngoại ô thành Đại Lương tới Phùng Trạch, đâu đâu cũng thấy lính Đại Ngụy mình mang giáp trụ, tay thương lăm lăm, càng tăng thêm vẻ long trọng uy nghiêm của đại lễ Phùng Trạch.
Sau khi quan sát, Trần Chẩn hết lời khen ngợi quận thú Đại Lương chuẩn bị chu toàn, giúp khung cảnh càng thêm tráng lệ. Đồng thời, Trần Chẩn cũng sắp xếp một việc mới mẻ cho lễ khai thông kênh lớn. Đó là, khi đại lễ kết thúc, bệ hạ sẽ đích thân mở cửa tháo nước, sau đó dẫn quân chủ liệt quốc cưỡi ngựa đuổi theo con sóng cuồn cuộn đổ xuống. Trần Chẩn tin rằng, khung cảnh này không những hùng tráng, mà còn khiến các quân hầu liệt quốc tận mắt chứng kiến kỳ tích nhân gian do quân chủ Đại Ngụy sáng tạo ra, để lại ấn tượng khó quên.
Quận thú Đại Lương không dám lơ là, tích cực huy động nhân lực vật lực, chuẩn bị chu đáo cho đại lễ xưng vương. Trước khi Ngụy Huệ Hầu tới nơi, mọi thứ đều đã sẵn sàng.
Ngụy Huệ Hầu tới Đại Lương trước ba ngày. Đám Trần Chẩn, công tử Ngang, quận thú Đại Lương vốn định sắp xếp chỗ nghỉ ngơi trong phủ quận thú Đại Lương, song Huệ Hầu khăng khăng đòi tới Phùng Trạch, nên đã ở trong hành dinh của Đại Ngụy vốn đã được bố trí chu đáo.
Hai bên trái phải hành dinh Đại Ngụy là hành dinh của liệt quốc, giữa các hành dinh cách nhau chừng trăm bước, vị trí cũng được Trần Chẩn sắp xếp chu toàn, lần lượt từ trái sang phải là Tần, Tề, Triệu, Nghĩa Cừ, Trung Sơn, Tống, Lỗ, Vệ. Phàm là các quân hầu được gửi hịch văn đều sắp xếp cho riêng một chỗ, xung quanh cắm cờ nhỏ đủ màu, ở giữa là một lá cờ lớn gắn quốc hiệu.
Ngụy Huệ Hầu chẳng hề có vẻ mệt mỏi sau chuyến đi dài, vừa tới hành dinh đã sai người gọi Trần Chẩn lại, nghe ông ta bẩm tấu tình hình công việc. Trần Chẩn tâu rõ một lượt, Huệ Hầu gật gù, tươi cười hớn hở, khen ngợi luôn miệng: “Tốt, tốt lắm! Quả nhân có được ái khanh, khác nào Vũ Vương có được Khương Thượng!”
Huệ Hầu tự ví mình với Vũ Vương, lại ví Trần Chẩn giống như Khương Tử Nha, quả thực là điều Trần Chẩn trong mơ cũng không dám nghĩ tới, nên ông ta sững sờ mất một lúc mới định thần lại được, vội vã quỳ xuống, dập đầu lia lịa, sung sướng đến trào nước mắt: “Bệ hạ…”
Ngụy Huệ Hầu cười ha hả mà nói: “Ái khanh mau đứng dậy, quả nhân còn có việc quan trọng muốn hỏi khanh!”
Trần Chẩn vội đứng dậy, khom lưng nhìn Huệ Hầu. “Còn ba ngày nữa là tới đại lễ, phía liệt quốc có tin tức gì chăng?”
“Lúc này thì chưa, hẳn là họ đều đang trên đường tới. Bệ hạ yên tâm, không đến hai ngày nữa, vi thần tin rằng các hành dinh đều sẽ đông đủ cả.”
Huệ Hầu chậm rãi nói: “Phùng Trạch sông nước nhiều, đường đi phức tạp, không dễ qua lại, khanh hãy sắp xếp người đứng đón dọc đường từ cách đây năm mươi dặm, đảm bảo không xảy ra sơ suất trên đường đi!”
“Vi thần tuân chỉ!”
Sớm hôm sau, Trần Chẩn sắp xếp vài đại phu đứng đón khách ở các ngả đường cách đó năm mươi dặm. Nhưng tới tận tối, vẫn chẳng thấy bóng một ai. Trần Chẩn bắt đầu sốt ruột, tới ngày thứ ba, lại sai người đi đón khách, song chỉ đón được Nghĩa Cừ Quân, Trung Sơn Quân và Tống Công. Giờ hẹn đã tới, hôm sau sẽ cử hành đại lễ. Trần Chẩn không dám chậm trễ, đành phải muối mặt đi tới hành dinh của Huệ Hầu.
“Trần ái khanh!” Ngụy Huệ Hầu ngẩng lên, nhìn Trần Chẩn, hào hứng hỏi. “Chư hầu đã tới đông đủ rồi ư?”
Trần Chẩn quỳ sụp xuống đất, khẽ lắc đầu.
Ngụy Huệ Hầu ngạc nhiên, vội hỏi: “Có những ai đã tới?”
“Khởi bẩm bệ hạ, là Tống Công, Trung Sơn Quân và Nghĩa Cừ Quân!”
Nghe thấy chỉ có ba nước nhỏ, Ngụy Huệ Hầu lập tức chau tít đôi mày, khép hờ hai mắt, hít vào một hơi thật sâu, sắc mặt sầm xuống. Quần thần bên cạnh đưa mắt nhìn nhau, không ai dám nói câu nào.
Ngụy Huệ Hầu dường như sực nhớ ra điều gì, bèn ngẩng đầu hỏi Trần Chẩn: “Vệ Hầu bao giờ sẽ tới?”
Bao nhiêu chư hầu đều không tới, vì sao Ngụy Huệ Hầu chỉ hỏi Vệ Thành Công, điều này thực nằm ngoài dự liệu của Trần Chẩn. Ngẩn ra một thoáng, ông ta lập tức trấn tĩnh trở lại, khẽ giọng bẩm báo: “Theo tin báo về, Vệ Công hiện đang ở Đế Khâu, cũng chưa phái người tới đại lễ!”
Nét mặt Ngụy Huệ Hầu lộ vẻ hung hãn, ngay sau đó, bật ra một tràng cười lớn nghe rợn tóc gáy.
Trong hành dinh lặng im phăng phắc.
Ngụy Huệ Hầu dừng cười, đập mạnh tay xuống bàn: “Đến con chó già gan bé như chuột này cũng dám kháng lệnh ư?”
“Bệ hạ!” Trần Chẩn bẩm tấu, “theo suy đoán của vi thần, Vệ Công dám kháng lệnh không tới, e là có nước lớn hậu thuẫn.”
Ngụy Huệ Hầu ngẩng đầu, nhìn Trần Chẩn: “Ái khanh muốn nói đến Điền Nhân Tề!”
“Bệ hạ thánh minh! Theo vi thần biết, mấy năm gần đây, Vệ Công hàng năm đều sai người tới thăm Tề quốc, cống tiến Tề Công, gần như đã là nước phụ thuộc Tề.”
Ngụy Huệ Hầu trầm ngâm suy nghĩ, một lát sau mới chậm rãi nói: “Vào ngày triều hội Mạnh Tân, Điền Nhân Tề cáo bệnh không tới, chỉ phái một thằng oắt con đi thay lấy lệ. Quả nhân cho rằng hắn có dã tâm, chưa tính toán với hắn, không ngờ lão già này lại được đằng chân lân đằng đầu, ngày càng không coi ai ra gì.”
“Bệ hạ, theo vi thần, chúng ta có thể giết gà doạ khỉ, Vệ Công chính là gà đó. Nước Vệ ở sát nước ta, nếu phạt Vệ, không tới mười ngày, đại quân có thể đánh tới Đế Khâu!”
Công tử Ngang bước lên một bước: “Nhi thần xin đi phạt Vệ, trong vòng mười ngày, nhất định sẽ bắt sống Cơ Tốc giao cho phụ vương trị tội!”
Ngụy Huệ Hầu liếc nhìn công tử Ngang, khép mắt lại. Đúng vào lúc này, tỳ nhân chạy vào bẩm báo: “Bệ hạ! Thái tử nước Tần Doanh Tứ, đại lương tạo Công Tôn Ưởng đang đợi ngoài cửa hành dinh.”
Ngụy Huệ Hầu mở bừng mắt, tinh thần phấn chấn trở lại: “Truyền!”
Từ “truyền” vừa thoát ra khỏi miệng, Ngụy Huệ Hầu đã vội phẩy tay: “Khoan!”
Tỳ nhân đứng khựng tại chỗ.
Ngụy Huệ Hầu nhìn sang Trần Chẩn: “Sao không thấy Tần Công?”
Trần Chẩn cũng sửng sốt: “Vi thần không biết!”
Sắc mặt Ngụy Huệ Hầu lại sầm xuống, khẽ chau mày, rồi chậm rãi đứng dậy, hạ thấp giọng nói: “Mở cổng hành dinh, theo quả nhân ra đón thái tử nước Tần!” Nói xong, sửa lại vương miện, bước ra cổng hành dinh.
Đột nhiên thấy Ngụy Huệ Hầu mỉm cười đứng ngay trước cửa hành dinh, Doanh Tứ, Công Tôn Ưởng đều giật mình kinh ngạc, rồi hai người gần như cùng lúc quỳ thụp xuống đất, dập đầu liền ba cái.
Bái lạy xong, Doanh Tứ dõng dạc bẩm báo: “Thái tử nước Tần Doanh Tứ khấu kiến bệ hạ thiên tử Đại Ngụy, cung chúc bệ hạ long thể an khang, vạn thọ vô cương!”
Công Tôn Ưởng cũng hô theo: “Đại lương tạo nước Tần Công Tôn Ưởng khấu kiến bệ hạ thiên tử Đại Ngụy, cung chúc bệ hạ uy phục tứ hải, giang sơn bền vững!”
Ngụy Huệ Hầu bước lại, đưa hai tay đỡ hai người dậy: “Hai vị ái khanh, hãy mau bình thân!”
Doanh Tứ, Công Tôn Ưởng cùng vòng tay nói: “Tạ ơn bệ hạ!”
Ngụy Huệ Hầu chìa tay ra: “Hai vị, mời!”
Doanh Tứ, Công Tôn Ưởng khúm núm đáp: “Bệ hạ xin đi trước!”
Trong tiếng nhạc đón khách, Ngụy Huệ Hầu bước đi phía trước, Doanh Tứ, Công Tôn Ưởng mỗi người một bên, phía sau là ba người thái tử Thân, công tử Ngang và Trần Chẩn.
Vào đến hành dinh, mọi người phân ngôi chủ khách ngồi xuống, Ngụy Huệ Hầu từ từ đưa ánh mắt về phía Doanh Tứ, giọng đầy ẩn ý: “Tần Công khoẻ chứ?”
Doanh Tứ đứng dậy, bước tới trước Huệ Hầu, dập đầu nói: “Doanh Tứ tạ ơn bệ hạ đã hỏi thăm! Công phụ một lòng chỉ mong được tới triều kiến bệ hạ, không ngờ trước ngày lên đường lại bị trúng gió, nằm bẹp trên giường suốt mấy ngày trời, sốt cao không giảm, khó lòng khởi hành. Công phụ vô cùng tiếc nuối, lệnh cho Doanh Tứ thỉnh tội với bệ hạ.”
Ngụy Huệ Hầu khẽ gật đầu: “Tần Công quý thể bất tiện, đương nhiên không nên đi lại. Khanh về chuyển lời tới Tần Công, tâm ý của Tần Công, quả nhân xin nhận!”
Doanh Tứ lại dập đầu: “Doanh Tứ thay mặt công phụ khấu tạ ân đức của bệ hạ đã không phạt tội!”
Ngụy Huệ Hầu phất tay: “Ái khanh miễn lễ, ngồi đi!”
Doanh Tứ đứng lên, ngồi vào chỗ. Nhìn thấy công tử Ngang cứ nhìn mình chằm chằm, Công Tôn Ưởng hiểu ý, mỉm cười gật đầu với hắn, rồi quay sang Ngụy Huệ Hầu, vòng tay nói: “Khởi bẩm bệ hạ, Tần Công biết chuyện bệ hạ đồng ý kết thân, vui mừng quá đỗi, lập tức chuẩn bị cho công chúa xuất giá. Tần Công còn đích thân lựa chọn của hồi môn cho Tử Vân công chúa, cũng vì chuyện này mà thân thể mệt mỏi, mới trúng gió nằm liệt giường. Trước lúc chúng thần khởi hành, Tần Công bất chấp cơ thể bệnh tật, gắng gượng ra khỏi cửa cung, gạt nước mắt tiễn công chúa lên xe. Hiện tại công chúa đã được ngũ đại phu Sư Lý Tật hộ tống tới An Ấp, chỉ đợi sau khi đại lễ hoàn thành, sẽ lập tức thành hôn với thượng tướng quân.”
Nghe được lời này, Ngụy Huệ Hầu mới thở phào một tiếng, hết nhìn sang trái lại nhìn sang phải, cảm khái thốt lên: “Hôm nay, xem ra người thực sự yêu mến Ngụy Anh đây, chỉ có Tần Công mà thôi!”
Công tử Ngang lập tức tiếp lời: “Phụ vương, chỉ cần Ngụy Tần kết liên minh, còn sợ gì liệt quốc thiên hạ?”
“Thượng tướng quân nói rất đúng!” Công Tôn Ưởng gật đầu lia lịa tán đồng. “Trước khi lên đường, Tần Công đã nắm tay Ưởng, nói với Ưởng rằng, Công Tôn ái khanh, khanh nhất thiết phải chuyển lời tới bệ hạ, Tần Ngụy đã kết thông gia thì sẽ là đồng minh sống chết. Nếu bệ hạ muốn khởi binh chinh phạt, dù cần quân hay cần lương, cứ sai bảo một tiếng, quân thần Tần quốc sẽ dốc lòng giúp sức!”
Ngụy Huệ Hầu càng thêm cảm kích: “Tốt quá, Tần Công có tấm lòng trung thành, quả nhân vô cùng an ủi!”
“Bệ hạ!” Công Tôn Ưởng hỏi đầy hàm ý. “Ngày mai cử hành đại lễ, công hầu liệt quốc hình như vẫn chưa tới đủ, chắc hẳn không phải vì chưa nhận được hịch văn?”
Ngụy Huệ Hầu mỉm cười nói: “Công Tôn ái khanh, họ sẽ tới đủ!”
Công Tôn Ưởng cố làm ra vẻ kinh ngạc: “Ồ!”
Ngụy Huệ Hầu mặt sắt lại, rít qua kẽ răng: “Mời một lần không tới, sẽ mời hai lần! Trong thiên hạ ngày nay, tin rằng không có vị khách nào mà quả nhân không mời đến được!” Dừng một lát, lại quay sang công tử Ngang, dịu giọng gọi. “Thượng tướng quân!”
Công tử Ngang bước lên một bước: “Có nhi thần!”
“Y theo lời tấu của Trần ái khanh, xuất năm vạn binh, chinh phạt Vệ Công!”
Công tử Ngang tinh thần phấn chấn: “Mạt tướng tuân lệnh!”
“Hừm!” Ngụy Huệ Hầu khẽ gật đầu, lầm bầm tự nhủ. “Giết gà doạ khỉ! Quả là tỉ dụ tuyệt vời! Giết chết con gà này, quả nhân muốn xem đám khỉ kia còn dám nhảy nhót nữa hay không!”
Công Tôn Ưởng, Doanh Tứ hiểu ý, bèn cười, đứng dậy khấu bái: “Bệ hạ thần võ!”
Đại lễ Phùng Trạch đã kết thúc chóng vánh do đa phần chư hầu không tới. Màn ca vũ mà quận thú Đại Lương dốc lòng chuẩn bị và màn rượt sóng trong lễ phóng thuỷ kênh lớn do Trần Chẩn dày công sắp đặt, cuối cùng đã được thay thế bằng tiếng chiến xa rầm rập của đại quân Ngụy lên đường chinh phạt.
Vào buổi sáng ngày thứ ba sau đại lễ Phùng Trạch, công tử Ngang dẫn theo năm vạn đại quân, âm thầm tiến tới biên giới Ngụy Vệ.
Lúc này đang mùa thu hoạch, lại gặp đúng năm mùa màng bội thu, những cánh đồng lúa mạch vàng rộ trải dài trên khắp nước Vệ. Đông đảo nông dân nhân lúc sớm mai mát mẻ, hồ hởi gặt lúa. Từ xa nhìn lại, dưới ánh nắng sớm, đâu đâu cũng thấy bóng người nhấp nhô, các bó lúa mới gặt dựng la liệt trên đồng ruộng.
Trái ngược với khung cảnh yên bình này, quân lính Đại Ngụy đội ngũ chỉnh tề, nắng ban mai hắt loa loá trên những bộ mặt đang thèm khát cảnh sát phạt tanh máu, háo hức lập công.
Chủ tướng công tử Ngang mình mặc áo giáp, uy phong lẫm liệt đứng trên chiến xa, ánh mắt lạnh lẽo lướt qua cánh đồng lúa mạch, rồi nhìn về phía thành Bình Dương cách đó vài chục dặm, hai đầu lông mày từ từ chau tít lại, tay phải đưa lên hông, đặt lên chuôi thanh bảo kiếm mà Ngụy Huệ Hầu đích thân ban tặng.
Tiên phong tả quân Bùi Anh ngẩng cao đầu đứng trên một cỗ chiến xa khác, ánh mắt không rời khỏi bàn tay phải đang đặt trên chuôi kiếm của công tử Ngang.
Một lát sau, công tử Ngang từ từ rút bảo kiếm, giơ thẳng lên trời, vẻ mặt sắt lại dữ tợn. Rồi đột ngột vung kiếm, hô rành rọt từng tiếng: “Tướng sĩ! Tiến quân vào biên giới Vệ!”
Bùi Anh giật mạnh cương ngựa, vung trường thương, hô lên thật lớn: “Xung phong!”
Hàng trăm cỗ chiến xa, hàng vạn kỵ mã lập tức theo sát Bùi Anh, rầm rập lao thẳng tới biên giới Vệ. Ngay lập tức, trong ngoài biên giới Vệ lửa khói ngùn ngụt, tiếng kêu khóc thấu trời xanh. Quân lính Đại Ngụy chẳng tốn bao nhiêu sức lực đã quét sạch binh lính ở Đột Khâu, Lâm Khâu nơi biên cương nước Vệ, thẳng tiến tới trọng trấn Bình Dương.
Trên tường thành Bình Dương, năm nghìn tướng sĩ nước Vệ đã bày trận đợi sẵn. Trên lầu thành phía tây, thú thừa Tôn Thao lạnh lùng nhìn màn khói bụi đang cuồn cuộn tới gần, đôi mày rậm nhíu chặt. Một lát sau, quay sang nói với Tôn An: “Tôn tướng quân, ở đây đã có bản tướng, tướng quân hãy tới cổng đông, địa thế ở đó dễ phá khó giữ, vô cùng khẩn yếu!”
Tôn An gật đầu, vội bước xuống bậc thang, tức tốc tới cổng thành đông.
Tôn Tân sớm đã thay quân phục, tay cầm trường thương, đứng bên cạnh cha. Đây là lần đầu tiên Tôn Tân ra trận, trong lòng vô cùng kích động, tay cầm thương khẽ run run.
Tôn Thao nhìn Tôn Tân, rồi lấy ra một bức chiến báo hoả tốc từ trong ống tay áo, chậm rãi nói: “Tân Nhi, quân Ngụy đã đánh tới nơi! Con hãy mau chóng quay về Đế Khâu, dâng thư lên chúa thượng!”
Tôn Tân dõng dạc đáp lời: “Mạt tướng tuân lệnh!”
Tôn Tân mang theo chiến báo, cấp tốc xuống lầu, nhảy lên ngựa chiến, phi tới cổng đông, gọi người mở cổng, rồi lao như tên bắn về Đế Khâu. Cung Vệ nhận được chiến báo, toàn cung bỗng chốc hỗn loạn, quần thần đều kinh hãi, mọi ánh mắt đổ dồn vào Vệ Thành Công.
Song Vệ Thành Công lại điềm tĩnh khác thường, đưa mắt nhìn khắp lượt quần thần, khẽ đặng hắng một tiếng, rồi chậm rãi hỏi: “Chư vị ái khanh, cường địch đã tới, ai có kế sách ngự địch?”
Quần thần đưa mắt nhìn nhau. Một lát sau, thái sư đương triều, cũng là em trai khác mẹ của Vệ Thành Công bước lên, dõng dạc tấu bày: “Khởi bẩm Tần quân huynh, vi thần cho rằng, nước Ngụy thế lớn, ta không nên chống cự trực diện!”
“Ái khanh cho rằng, rút lui là kế hay?”
Thái sư đáp lời: “Binh pháp có câu, không thể chiến thì hàng! Nay địch mạnh ta yếu, chỉ còn cách mở cổng thành, dâng biểu xin hàng!”
Quần thần hùa theo: “Chúa thượng, chúng thần tán thành ý kiến của thái sư. Lúc này, kế dâng biểu xin hàng là thượng sách!”
Thái sư lại tấu: “Chúa thượng, ta thân cô thế yếu, không thể lấy trứng chọi đá!”
Vệ Thành Công sắc mặt trầm trọng, hai đầu lông mày chau tít lại thành một khối, ngẫm ngợi một lát, rồi chuyển ánh mắt sang Thái miếu lệnh: “Ý ái khanh thế nào?”
Thái miếu lệnh bước lên một bước: “Khởi bẩm chúa thượng, mười ngày trước, ban đêm thần quan sát thiên văn, thấy có sao chổi mọc ở phía tây, đuôi sao chổi quét ngang qua sao Trường Canh(1) bay thẳng về hướng tây nam. Sao chổi quét qua sao Trường Canh là điềm không may mắn. Thần sai đại vu chúc(2) lập đàn làm phép, dùng tâm nhãn quan sát, quả nhiên thấy khí tàn sát bốc lên ở phía tây nam, Bình Dương, Sở Khâu tiềm tàng sát khí. Thần bàng hoàng kinh hãi, đã dâng tấu lên chúa thượng mấy hôm trước!”
Vệ Thành Công gật đầu: “Bản tấu đó, quả nhân đã đọc. Xem ra, giặc Ngụy xâm phạm biên cương, có lẽ là ý trời. Hiện tại, thái sư muốn quả nhân dâng biểu xin hàng, ái khanh thấy thế nào?”
Thái miếu lệnh đáp: “Ý trời muốn tàn sát, không thể kháng cự, vi thần tán thành ý kiến của thái sư đại nhân!”
Vệ Thành Công cúi đầu, trầm ngâm suy nghĩ, sắc mặt càng thêm sa sầm. Triều đường lặng im phăng phắc, mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Vệ Thành Công.
Thành Công từ từ ngẩng đầu, nhìn tướng quốc Tôn Cơ: “Lão ái khanh, vì sao không thấy khanh nói gì?”
“Khởi bẩm chúa thượng,” Tôn Cơ vòng tay tấu, “vi thần đã nói từ trước!”
Vệ Thành Công thở dài: “Tình thế quả nhiên đúng như lão ái khanh đã nói, Ngụy Anh thực sự muốn giết gà dọa khỉ! Hiện tại người Ngụy đã kéo quân tới thành, lão ái khanh có kế sách gì ứng phó?”
“Chúa thượng, binh tới tướng đỡ, nước tới đất chặn. Lão thần cho rằng, chúa thượng chỉ có thể chiến, không thể hàng!”
Mắt Vệ Thành Công vụt sáng: “Lão ái khanh, khanh thử nói xem, vì sao không thể hàng?”
“Ý trời đã muốn tàn sát, chúng ta còn tránh được ư? Lão thần nghe nói, có thể đoạt soái của ba quân, nhưng không thể đoạt chí của kẻ thất phu. Người Ngụy cậy mạnh hiếp yếu, vô cớ thảo phạt, sát hại dân chúng biên cương, ức hiếp đàn bà trẻ nhỏ, tàn phá ruộng vườn nhà cửa, cướp bóc lương thực của ta. Ta không đánh lại chúng, lại ở đây run sợ, chưa chiến đã hàng, lão thần dám hỏi, thiên lý ở đâu?”
Lão tướng quốc lời lời đều nhắm vào thái sư và đám triều thần chủ hàng. Mọi người đưa mắt nhìn nhau, cả đại điện không một tiếng động. Vệ Thành Công ngả người về phía trước, nhìn Tôn Cơ đầy cảm kích.
Tôn Tân đứng bên cạnh Tôn Cơ, trong lòng kích động, bước lên tấu rằng: “Khởi bẩm chúa thượng, mạt tướng Tôn Tân nguyện dẫn đội quân cảm tử quyết liều chết một phen với quân Ngụy!”
Vệ Thành Công sắc mặt cương nghị, liên miệng khen ngợi: “Tốt lắm, tốt lắm, hai vị ái khanh nói rất hay!” Rồi đưa ánh mắt nhìn khắp lượt quần thần, dừng lại ở thái sư, vung mạnh cánh tay, cất giọng hào hùng: “Vệ thất là huyết mạch họ Cơ của Đại Chu, thuỷ tổ Khang Thúc là em ruột của Vũ Vương, nước Vệ là công quốc do đích thân Vũ Vương phong cho, tới nay đã trải qua bảy trăm năm, hai mươi ba đời, ba mươi ba quân chủ. Còn nước Ngụy của hắn, hai trăm năm trước chẳng qua là gia nô của Tấn thất, sau đó làm phản, cướp đoạt hầu vị. Nay Ngụy Anh lại lộ thói hung hăng ngang ngược, lần trước ở Mạnh Tân ức hiếp thiên tử, nay lại xưng vương ở Phùng Trạch, đã trở thành quốc tặc của Đại Chu. Vua tôi Vệ thất ta đã không chinh phạt, lại còn dâng biểu xin hàng, sau khi khuất núi, các ngươi bảo quả nhân còn mặt mũi nào khấu kiến liệt tổ liệt tông?”
Thái sư nghe vậy, im lặng cúi đầu.
Vệ Thành Công hạ thấp giọng, rồi nhấn mạnh từng chữ: “Nước Vệ tuy yếu, song chí không khuất! Quả nhân đã quyết, thà làm ngọc vỡ còn hơn ngói lành, từ hôm nay trở đi, Vệ thất trên dưới tuyệt đối không được nói tới chuyện đầu hàng! Trong số chư vị, ai có hai lòng, quả nhân quyết không ép. Ai muốn ra khỏi thành, có thể đi ngay lúc này, từ đây dứt nghĩa quân thần, mỗi người một hướng!” Nói xong, vung tay ra phía ngoài cửa, như muốn mời đi.
Đám bề tôi xin hàng, bao gồm cả thái sư, Thái miếu lệnh và tất cả triều thần thảy đều cảm động, nhất loạt quỳ xuống khấu bái: “Chúng thần nguyện theo chúa thượng, thề cùng tồn vong cùng nước Vệ.”
“Tốt!” Vệ Thành Công lại nhìn khắp lượt quần thần, rồi dừng lại ở quan ngự sử, cất giọng sang sảng: “Ngự sử đại phu!”
Ngự sử đại phu bước lên một bước, dõng dạc đáp: “Có vi thần!”
“Chiếu cáo cho thần dân toàn quốc, người còn thành còn, thề huyết chiến đến cùng với giặc Ngụy.”
Ngự sử đại phu “vâng” một tiếng, lập tức bước sang bên cạnh, khởi thảo chiếu thư. Vệ Thành Công nhìn sang Tôn Tân, tiếp tục truyền lệnh: “Tôn tướng quân!”
Tôn Tân bước lên đáp lời: “Có mạt tướng!”
“Khanh dẫn theo ba nghìn quân, mau chóng tới Bình Dương chi viện!”
“Mạt tướng tuân chỉ!”
Lời của Tôn Tân vừa dứt, ngự sử đại phu đã thảo xong chiếu thư, Vệ Thành Công đọc xong, lược bỏ bớt phần rườm rà, chỉ giữ lại mười hai chữ: “Người còn thành còn, thề huyết chiến đến cùng với giặc Ngụy”, rồi đích thân đóng ngọc tỷ, giao cho Tôn Tân.
Tôn Tân dẫn ba nghìn quân, gấp rút tới Bình Dương. Khi Tôn Tân tới nơi, trời đã sẩm tối, ngoài thành Bình Dương, đại quân Ngụy bao vây tầng tầng lớp lớp. Quân Ngụy đã công thành hai đợt, song đều bị quân giữ thành đẩy lui. Bùi Anh hao tổn chừng nghìn binh, vừa gióng chiêng thu quân thì Tôn Tân dẫn một cánh quân dũng mãnh thình lình xông tới. Người Ngụy chỉ nghe thấy hô giết vang trời, bụi bay mù mịt, trong lúc hoảng loạn, không rõ có bao nhiêu người ngựa tập kích, sợ hãi cuống cuồng bỏ chạy, chưa đầy một canh giờ, đã bị Tôn Tân dồn tới tận cổng thành phía đông. Tôn An thấy quân chi viện đã tới, vội vã mở cổng thành. Đến khi quân Ngụy kịp định thần, thì đám Tôn Tân đã vào cả trong thành.
Tôn Tân chạy tới phủ quận thú, Tôn Thao vội ra đón. Tôn Tân lấy chiếu thư ra, cao giọng truyền lệnh: “Quân chủ có chỉ, người còn thành còn, thề huyết chiến đến cùng với giặc Ngụy!”
Tôn Thao bái lạy chiếu thư, sai Tôn An chia người truyền dụ tới mọi tướng sĩ giữ thành, còn sai quan lệnh sứ truyền dụ tới toàn bộ thần dân trong thành. Lệnh sứ mau chóng cho gọi lão tuần canh tới, truyền lại ý chỉ của quân chủ. Lão tuần canh nghe xong ý chỉ, tay cầm chiêng đồng, đi dọc phố xá, vừa gõ chiêng, vừa cao giọng hô lớn: “Toàn dân trong thành nghe đây! Người Ngụy ỷ thế ức hiếp dân ta, đã đánh tới tận cổng thành! Quân chủ có chỉ, người còn thành còn, thề huyết chiến đến cùng với giặc Ngụy. Tôn tướng quân hạ lệnh, có tiền góp tiền, có sức góp sức!”
Tôn Thao nghe tiếng ông lão văng vẳng xa dần, suy nghĩ một lát, quay sang nói với Tôn Tân: “Tân Nhi, con tới thật đúng lúc. Người Ngụy đã hai lần công thành, dự kiến sáng mai hẳn sẽ có một trận tử chiến. Ta đã thương vong ước chừng nghìn quân. Trong ba nghìn quân của con, hãy cắt cử hai nghìn tham gia giữ thành, còn một nghìn để lại phòng bị, do con chỉ huy, cố thủ quận phủ và từ đường, đề phòng bất trắc. Ở đâu thành bị phá, thì tới đó trợ chiến.”
Tôn Tân vội bước lên một bước, dõng dạc đáp: “Khởi bẩm tướng quân, tướng quân là quận thú, nên ngồi trong phủ chỉ huy. Chuyện giữ thành, hãy giao cho mạt tướng!”
“Tôn Tân!” Tôn Thao sắc mặt trầm trọng, nói, “con vừa tới nơi, chưa nắm rõ tình thế, không thể lỗ mãng. Hai quân gặp nhau, kẻ mạnh tất thắng. Hôm nay địch mạnh ta yếu, tướng sĩ đều có tâm lý sợ hãi, có bản tướng ở đây, dũng khí của họ sẽ lên cao gấp chục lần. Hơn nữa trong lúc này, bảo vệ thành tuy cấp bách, song quân dự phòng mới thực sự cần thiết. Tôn Tân, Bình Dương an nguy thế nào, trông cả vào con!”
Tôn Tân nghe xong, đành gật đầu đồng ý, đưa mắt nhìn theo Tôn Thao nhảy lên ngựa chiến, phi tới cổng tây.
Vùng đất Bình Dương màu mỡ phì nhiêu, là một trọng trấn vùng biên ải phía tây nước Vệ, vị trí chiến lược vô cùng quan trọng, do vậy, Vệ Thành Công giao cho Tôn Thao thông thạo việc quân đảm đương chức quận thú. Sau khi nhiệm chức, Tôn Thao nhiều năm dốc sức xây dựng, thành luỹ được đắp cao thêm ba thước, dày thêm ba thước so với thành cũ, hào nước quanh thành cũng nới rộng thêm một trượng, sâu thêm ba thước, đồng thời khai thông một kênh lớn, dẫn nước chảy vòng quanh thành. Mấy ngày trước, nghe lời Tôn Cơ căn dặn, Tôn Thao đã điều động thêm người, tu sửa toàn bộ những chỗ tường thành nứt vỡ, đêm ngày cắt quân tuần tra, tăng cường phòng thủ, có thể nói là đã bày trận chờ sẵn.
Tuy nhiên, dù cộng thêm ba nghìn quân chi viện do Tôn Tân dẫn tới, thì số binh sĩ có thể tham chiến trong thành Bình Dương cũng không quá tám nghìn, hiển nhiên yếu thế so với năm vạn đại quân Ngụy hung hăng dũng mãnh, khí giới đầy đủ, lương thảo sung túc. Ban đầu, công tử Ngang chẳng coi thành trì nhỏ bé này ra gì, chỉ phái tướng quân Bùi Anh dẫn tả quân công thành, còn mình ngồi trong doanh trại cách thành không xa chờ tin thắng trận, và sắp xếp kế sách tấn công Đế Khâu tiếp theo.
Thế nhưng, trong hai ngày qua, Bùi Anh trước sau đã tiến hành sáu cuộc công thành, song chẳng thu được kết quả gì ngoài ba nghìn xác chết để lại dưới chân thành và trong hào nước. Công tử Ngang vô cùng tức giận, điều thêm một vạn quân tiếp tục tấn công. Trải qua một ngày hỗn chiến, dưới thành Bình Dương lại chất thêm hơn nghìn xác quân Ngụy, mà tường thành Bình Dương vẫn trơ trơ.
Công tử Ngang thẹn quá hoá giận, gọi đám tướng lĩnh lại, nhìn trừng trừng vào tiên phong Bùi Anh, đập bàn chan chát, gầm lên: “Chỉ một thành Bình Dương cỏn con mà chặn được đội quân thiết giáp của ta suốt ba ngày trời, quả là sỉ nhục!”
Bùi Anh quỳ xuống dập đầu nói: “Là mạt tướng vô dụng, xin thượng tướng quân trị tội!”
Công tử Ngang cười nhạt: “Hừm, biết thì tốt! Lôi ra ngoài, chém đầu làm gương!”
Đám tướng lĩnh hoảng vía, mặt cắt không còn hạt máu, đồng loạt quỳ xuống cầu xin: “Thượng tướng quân…”
Công tử Ngang nhìn khắp lượt chư tướng, rồi chậm rãi nói: “Nể tình chư tướng cầu xin, bản tướng tạm tha ngươi một mạng, lệnh cho ngươi lấy công chuộc tội, công phá Bình Dương!”
Bùi Anh khấu đầu cảm tạ: “Mạt tướng khấu tạ ân tha mạng của thượng tướng quân!”
Công tử Ngang lại nhìn đám tướng lĩnh, nói: “Các tướng nghe lệnh!”
Đám tướng quân rào rào đứng dậy, xếp thành một hàng nghiêm trang.
“Chư vị tướng quân, truyền lệnh của bản tướng, bất kể là ai, hễ công phá Bình Dương đầu tiên, bản tướng sẽ thưởng công cho người đó một trăm lượng vàng, thăng tước ba cấp!”
Chư tướng đồng thanh hô lớn: “Mạt tướng nhận lệnh!”
“Còn nữa!” Công tử Ngang sầm mặt xuống, rít qua kẽ răng. “Sau khi phá thành, tiền của và đàn bà trong thành đều dùng để khao thưởng tướng sĩ. Hễ ai chống cự, giết chết không hỏi!”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Lại là một buổi sáng sớm.
Trên đường phố một lần nữa vẳng lại tiếng chiêng và tiếng hô của lão tuần canh: “Toàn dân trong thành nghe đây! Người Ngụy ỷ thế ức hiếp dân ta, đã đánh tới tận cổng thành! Quân chủ có chỉ, người còn thành còn, thề huyết chiến đến cùng với giặc Ngụy. Tôn tướng quân hạ lệnh, có tiền góp tiền, có sức góp sức!” Giọng hô tuy đã khản đặc, song tiếng chiêng vẫn tiếp tục rền vang.
Từ phía các cổng thành, một lần nữa vang vọng tiếng trống trận và tiếng hô xung sát của quân Ngụy công thành. Vài ngày qua, toàn dân trong thành dường như đã quen với âm thanh này, do vậy, không hề có sự hoảng loạn giống như hôm đầu khai chiến. Mọi người vẫn bình thản như không, đàn ông lẳng lặng cầm vũ khí chạy lên tường thành, đàn bà rửa tay ngồi quanh bếp lò nấu bữa sáng.
Phủ tư mã cách từ đường không xa. Từ lúc khai chiến, trong phủ chỉ còn lại vợ của Tôn An là Lưu thị và hai đứa trẻ. Đám nô bộc trong nhà, gồm cả quản gia, đều đã theo Tôn An đi giữ thành, đàn ông lo phòng ngự, đàn bà lo chăm sóc thương binh, nấu nướng, vận chuyển quân nhu.
Nghe thấy tiếng ông lão tuần canh đã xa dần, Lưu thị tất bật nhặt chiếc bánh cuối cùng trong nồi cho vào làn tre, xách ra khỏi cửa. Đi chưa được vài bước, cô con gái Ni Tử vừa tròn tám tuổi dắt tay đứa em trai Tôn Hân bốn tuổi chạy đuổi theo mẹ. Hai đứa trẻ đứng ở trước cổng, đưa mắt dõi theo Lưu thị. Một lát sau, Ni Tử khẽ gọi: “Mẹ ơi…”
Lưu thị dừng chân, bước trở lại, xoa đầu con gái, nói: “Con gái, cha và các bác các chú đang ở cổng đông đánh đuổi bọn người xấu. Mẹ mang thức ăn tới cho mọi người, con dắt em chơi ở trong nhà, đừng đi đâu nhé!”
Cô bé gật đầu.
Hai mắt Tôn Hân nhìn chằm chằm chiếc làn trong tay mẹ: “Mẹ ơi, con muốn ăn bánh nướng!”
Lưu thị vỗ nhẹ lên đầu cậu bé, nói: “Con ngoan, bánh này mẹ nướng cho các chú bác, đợi mẹ về sẽ nướng bánh cho con ăn!”
Tôn Hân nuốt nước bọt xuống cổ, “vâng” một tiếng. Lưu thị quay người bước đi, được vài bước, lại quay trở lại, lấy ra một chiếc bánh từ trong làn, dúi vào tay Tôn Hân, thơm nhẹ lên má cậu bé, rồi rảo bước đi luôn không ngoảnh lại nữa.
Ni Tử lại kéo Tôn Hân chạy đuổi theo, được vài bước thì dừng lại, nhìn theo bóng mẹ xa dần. Tôn Hân thèm quá, cắn luôn một miếng bánh, nhưng rồi lại dừng lại, bẻ chiếc bánh làm đôi, đưa cho chị một nửa: “Chị ơi, chị cũng ăn đi!”
Ni Tử đưa lại miếng bánh cho em: “Chị không đói, em ăn đi!”
Tôn Hân cầm một nửa miếng bánh nướng trong tay: “Nếu chị không đói, em cầm hộ chị!”
Ni Tử gật đầu nói: “Được rồi, Tiểu Hân, chúng ta vào trong từ đường chơi đi, ở đó đông người!”
Tôn Hân gật đầu.
Khi Lưu thị đi tới cổng thành đông, quân Ngụy đang công thành quyết liệt. Phía dưới cổng thành, lính Ngụy đông nghịt như kiến ào ào xông lên, hào nước ngoài thành đã bị chúng lấp bằng, trên tường thành vô số thang mây đã được bắc lên. Cả trăm tên lính hè nhau khiêng một súc gỗ tròn to tướng, liên tiếp nện uỳnh uỳnh vào cổng thành. Lính giữ thành bắn tên xuống như mưa, đến cuối cùng, tên cũng không còn để bắn. Những lính tráng còn sống sót bèn đập, gỡ gạch đá trên ụ thành, ném thẳng xuống dưới.
Người cầm đầu cánh quân công thành ở cổng đông là Bùi Anh đang sốt sắng lập công chuộc tội. Chỉ thấy hắn vai trần trùng trục, mặt mày hung tợn, đứng ở một bên phát hiệu lệnh, chỉ huy sĩ tốt công phá cổng thành. Súc gỗ lớn cứ thế giáng vào cánh cổng thành dày nặng hết lần này đến lần khác, vọng lên những tiếng vang kinh động. Cổng thành bắt đầu rung chuyển.
Lính giữ thành không còn nổi vài người, Tôn An thấy tình thế nguy cấp, một mặt sai người phi ngựa về báo cho Tôn Thao, mặt khác lệnh cho hơn chục lính còn lại chạy tới bên trong cổng thành, liều mạng chống chọi.
“Rầm” một tiếng vang trời, cổng thành đổ sập, đám lính đang chống đỡ phía trong lập tức bị đè bẹp dưới cổng thành. Quân Ngụy reo hò dậy đất, ùa vào cổng thành như ong vỡ tổ.
Trên lầu cổng thành, Tôn An khắp người đẫm máu, nhìn thấy đại thế đã mất, bèn rút bảo kiếm, lau máu trên kiếm lên áo, lại đưa tay áo lên chùi mắt, đang định xông lên liều mạng giữa loạn quân, chợt nhìn thấy vợ là Lưu thị đang gắng sức leo lên lầu thành.
Lưu thị đã bị trúng tên vào chân và lưng, sắc mặt trắng bệch, đã không còn đủ sức để leo lên nữa. Trên tay Lưu thị vẫn cầm khư khư làn tre, trong làn đựng đầy những chiếc bánh nướng mới làm xong.
Tôn An vô cùng kinh hãi, chạy vội lại gần, đỡ lấy vợ, đưa Lưu thị đến ngồi xuống sau một ụ thành, thống thiết kêu lên: “Phu nhân!”
Lưu thị nhìn chồng, chỉ xuống dưới thành, giọng đứt quãng: “Phu quân, người… người Ngụy đã… vào thành rồi!”
Lời vừa dứt, Bùi Anh đã dẫn hàng chục lính Ngụy xông lên lầu thành. Nhìn thấy trên lầu thành không còn lính canh, chỉ còn hai vợ chồng Tôn An, Bùi Anh bèn vẫy tay ra hiệu, đám lính lập tức xông đến bao vây. Bùi Anh nhếch mép cười nhạt, vỗ tay một tiếng, năm sáu tên lính lập tức giương cung, nhằm thẳng vào hai người.
Tôn An một tay ôm Lưu thị, thản nhiên nhìn đám lính Ngụy đang giương cung, khẽ nói: “Phải, phu nhân, người Ngụy đã vào thành!”
Lưu thị gượng cười, đẩy chiếc làn về phía Tôn An: “Phu quân ăn bánh nướng đi… Bánh vừa mới làm xong!”
Tôn An gật đầu, thò tay vào trong làn, lấy ra một chiếc, đưa lên miệng. Lưu thị tha thiết nhìn chồng, rồi từ từ khép mắt. Tôn An nhẹ nhàng đặt vợ xuống, lại cắn thêm một miếng bánh nữa, rồi cầm bảo kiếm lên.
Thình lình, Tôn An hú lên một tiếng, nhảy vọt lên không, lao thẳng về phía Bùi Anh. Tên lập tức bắn ra rào rào, cắm chi chít lên người Tôn An. Tôn An gục ngã, rơi phịch xuống đất, chết ngay tức khắc.
Nhận được tin báo cổng đông nguy cấp, Tôn Tân cấp tốc dẫn quân chạy tới. Sau mấy ngày qua, đội quân dự bị một nghìn người của Tôn Tân cũng chỉ còn lại vài chục, ai cũng mệt mỏi rệu rã. Họ còn chưa tới nơi, cổng thành đông đã thất thủ, quân Ngụy ồ ạt xông vào trong thành, đánh thẳng tới trước mặt. Tôn Tân dẫn quân vừa đánh vừa lùi, vừa hay gặp Tôn Thao cũng đang thúc ngựa rút chạy từ cổng nam lại.
Hai cha con hợp quân một chỗ, liều chết chống cự. Quân Vệ hoảng loạn, tan tác tứ phía. Quân Ngụy cũng chia quân các hướng, bất kể già trẻ gái trai đều thẳng tay đâm chém không thương tiếc. Cha con Tôn Thao chạy tới cổng bắc, quân lính đi theo chỉ còn vài người sống sót. Tôn Thao bị thương rất nặng, lại bị một mũi tên găm trúng ngực, ngã khỏi yên ngựa. Ba tên lính Ngụy đuổi sát phía sau, tình thế vô cùng nguy ngập. Tôn Tân đang liều mạng chém giết, thấy vậy thì gầm lên một tiếng, vung thương xông tới, uy mãnh như thần, đánh bạt cả ba tên lính Ngụy, đỡ lấy Tôn Thao: “Cha!”
Tôn Thao chỉ về phía cổng bắc: “Mau lên… xông… xông… ra cổng bắc… cổng bắc!”
Tôn Tân nói trong nước mắt: “Cha, Tân Nhi không thể bỏ cha lại đây!”
Tôn Thao khó nhọc thều thào: “Mau… mau chạy! Bẩm… lên chúa thượng, quân… quân Ngụy… tàn sát toàn thành…” Nói xong, đưa tay lên nắm lấy mũi tên, gắng sức ấn mạnh, lập tức tắt thở.
Tôn Tân ôm chặt Tôn Thao gào khóc: “Cha…”
Lại thấy quân Ngụy ào ào xông tới. Tôn Tân không kịp nghĩ ngợi, xốc vội thi thể cha đặt lên lưng ngựa, rồi cũng nhảy phắt lên mình ngựa, hét lớn một tiếng, cầm thương xông ra khỏi cổng bắc, biến mất trong khói bụi mịt mù.
Lính Ngụy liên tục công thành, song thất bại hết lần này đến lần khác, ai nấy đều bực bội khó chịu trong lòng, lại được công tử Ngang cho phép thẳng tay giết chóc, vì thế chẳng kiêng kỵ gì, hễ thấy người là giết, bất luận già trẻ gái trai. Trong thành Bình Dương, tiếng kêu thét xé trời, tiếng gào khóc liên miên không dứt.
Từ đường là thành luỹ cuối cùng mà người Vệ còn canh giữ. Từ lúc quân Ngụy công thành tới giờ, nơi đây đã trở thành một trạm cứu thương tạm thời, binh lính bị thương ước chừng vài trăm người đều tập kết về đây, được đám đàn bà trong thành chăm sóc. Khi đại quân Ngụy xông tới, quân Vệ còn sống sót và thương binh đều liều mình chống cự. Đám đàn bà kinh hoàng bạt vía, túm tụm nấp trong một góc, run như cầy sấy.
Hai chị em Ni Tử và Tôn Hân ôm lấy nhau, đang không biết trốn vào đâu thì ông lão tuần canh vội vã chạy lại, dẫn hai chị em nấp vào sau đống củi ở một góc từ đường, dặn dò hai đứa bé sống chết gì cũng không được lên tiếng, rồi lại chạy đi.
Quân Ngụy xông tới, nhìn thấy nơi này chỉ có một đám binh lính bị thương không còn sức kháng cự thì điên cuồng đâm chém, ông lão tuần canh và vài chục phụ nữ, trẻ nhỏ bị dồn vào một góc.
Tôn Hân trợn trừng hai mắt, kinh hãi nhìn trân trối vào thảm cảnh đang diễn ra bên ngoài đống củi. Ni Tử ôm cứng lấy em trai, toàn thân run bắn.
Trong những tiếng gào rú thảm thiết của đám thương binh bị tàn sát, máu tươi chảy thành từng dòng ngoằn ngoèo, lách qua đống củi, tới tận trước mặt hai đứa trẻ. Tôn Hân kinh hoàng nhìn chết trân vào dòng máu đen đặc đang chảy tới gần, run lên bần bật: “Chị ơi… chị ơi…”
Ni Tử vội ôm em vào lòng, dịch vào trong góc tường, nói khẽ: “Đừng sợ… đừng sợ, chị đây!”
Một tên lính Ngụy nghe loáng thoáng có tiếng nói, liền chạy lại, đạp tung đống củi, nhìn thấy hai đứa trẻ, đang định xông lên thì một tên khác nói: “Không phải tốn sức, để tao!”
Hắn vào trong từ đường, cầm ra một bó đuốc, ném về phía đống củi khô trong tiếng kêu thét xé tai của đám phụ nữ. Thật đáng thương cho hai đứa trẻ, chỉ một lát sau, đã trở thành hai cái xác cháy đen trong lửa ngút trời.
“Quân súc sinh!” ông lão tuần canh căm phẫn tột độ, lớn giọng mắng chửi.
Quân Ngụy nghe thấy tiếng chửi, quay đầu lại nhìn, thấy vài chục người đàn bà đang quây kín quanh một lão già, bèn coi lão là mục tiêu duy nhất. Vài tên lính Ngụy xông lại, rẽ đám đàn bà ra, đang chuẩn bị cầm thương đâm lão, thì phía sau vang lên một giọng nói: “Khoan!”
Người vừa tới là Bùi Anh, hai mắt vằn đỏ, từ từ tiến lại phía trước đám đàn bà con gái, nhìn thấy lão già ở giữa thì cười khẩy, gằn giọng mỉa mai: “Lão già kia, ra mau! Chui vào giữa đám đàn bà con gái, còn mặt mũi gì?”
Ông lão cầm lấy chiêng đồng, đứng dậy, sắc mặt đau thương, bước chân run rẩy, từ từ tiến về phía Bùi Anh. Đột nhiên, ông lão vung dùi gỗ, dồn sức gõ mạnh chiêng đồng, cất cao giọng: “Toàn dân trong thành nghe đây! Người Ngụy ỷ thế ức hiếp dân ta, đã đánh tới cổng thành! Quân chủ có chỉ, người còn thành còn, thề huyết chiến đến cùng với giặc Ngụy…”
Đám lính Ngụy đứng gần vung trường thương định đâm thì Bùi Anh lại phẩy tay ngăn lại, chỉ vào đám đàn bà con gái, nói với đám lính: “Lão ta chẳng phải muốn huyết chiến đến cùng với Ngụy ư? Các ngươi hãy cho lão ta tận mắt chứng kiến đám đàn bà kia huyết chiến với người Ngụy ra sao!” Nói xong, nở một nụ cười độc địa, rồi quay người bước ra khỏi sân.
Tên bách phu trưởng(3) nãy giờ đã bị lửa dục thiêu đốt, nghe vậy lập tức rú lên: “Anh em, tướng quân đã cho phép, chúng ta còn chần chừ gì nữa!”
Chớp mắt, đám lính Ngụy như một bầy sói đói lao vào vài chục người đàn bà chân yếu tay mềm. Ông lão giơ cao chiêng đồng, lao vào đám lính. Chúng dễ dàng né tránh, rồi túm lấy lão, bẻ quặt tay ra phía sau, trói gô lại, bắt lão tận mắt chứng kiến cảnh tượng cầm thú.
Trời xanh nức nở, đại địa thảm thương!
Khi Tôn Tân khắp người đẫm máu, mang theo xác Tôn Thao chạy vào cửa cung, toàn bộ triều thần đều kinh hoàng thất sắc.
Tôn Tân chạy tới trước mặt Thành Công, đặt thi thể cha xuống, dập đầu mà nói: “Quận thú Bình Dương Tôn Thao, mạt tướng Tôn Tân khấu kiến chúa thượng!”
Vệ Thành Công nhìn xác Tôn Thao mà há miệng cứng lưỡi, hồi lâu mới định thần lại được: “Tôn… Tôn tướng quân!”
Tôn Tân lại dập đầu: “Quận thú Bình Dương Tôn Thao, tư mã Tôn An và hai vạn thần dân nam nữ Bình Dương đã theo đúng ý chỉ của chúa thượng, huyết chiến tới cùng với giặc Ngụy, đều đã xả thân vì nước! Quận thú Tôn Thao trước lúc lâm chung có dặn mạt tướng bẩm báo tình hình lên chúa thượng, giặc Ngụy đã tàn sát toàn thành!”
Nghe nói hai vạn dân Bình Dương đều quyết chí xả thân vì nước, lại biết giặc Ngụy tàn sát toàn thành, quần thần thảy đều rùng mình ớn lạnh. Tôn Cơ nước mắt đầm đìa, bước chân loạng choạng, lao tới bên xác Tôn Thao. Tôn Tân đỡ lấy ông, hai ông cháu cùng quỳ xuống bên thi thể. Tôn Cơ đưa bàn tay gân guốc lên lau vết máu trên mặt con trai, hai hàng lệ ròng ròng tuôn chảy.
Tôn Tân quỳ ở một bên, lặng lẽ nhìn thi thể cha.
Vệ Thành Công từ từ đứng dậy, đến trước thi thể của Tôn Thao, quỳ xuống. Đám triều thần cũng đua nhau quỳ xuống, khóc rống lên.
Trên triều đường, duy có Tôn Tân không khóc. Một lát sau, mới đột ngột ngẩng đầu, đưa ống tay áo lau máu trên mặt, dập đầu sát đất, cất giọng sang sảng: “Khởi tấu chúa thượng, mạt tướng Tôn Tân xin lệnh xuất quân, quyết chiến chống lại giặc Ngụy, để báo thù cho những người đã chết vì Bình Dương!”
Mắt Vệ Thành Công như toé lửa, quát lớn: “Một lũ súc sinh!” Rồi ngẩng nhìn quan tư mã Đế Khâu Lật Bình. “Lật tướng quân, lũ súc sinh kia hiện đang ở đâu?”
Lật Bình dõng dạc đáp: “Khởi bẩm chúa thượng, thám mã vừa báo về, quân Ngụy đã tới sát Sở Khâu!”
Vệ Thành Công đứng bật dậy, gằn mạnh từng chữ: “Quả nhân tấn phong khanh làm thú thừa Sở Khâu, thay quyền quận thú Bình Dương, dẫn năm nghìn binh lính, tới chi viện Sở Khâu. Khanh hãy truyền với thần dân Sở Khâu, họ đang phải đối mặt với một bầy súc sinh, chứ không phải kẻ địch! Chiếu cáo thần dân, quả nhân sẽ cùng họ xả thân chiến đấu vì nước giống như hai vị tướng quân Tôn Thao, Tôn An và thần dân Bình Dương. Sống phải sống cho hiên ngang, chết phải chết có khí phách.”
Quần thần chưa bao giờ thấy Vệ Thành Công phẫn nộ như lúc này, cũng cảm thấy lửa bốc trong lòng, căm phẫn tột đỉnh. Lật Bình khấu đầu bái lạy, giọng nói nghẹn ngào: “Mạt tướng nhận lệnh! Mạt tướng thề cùng tồn vong với Sở Khâu.”
Vệ Thành Công ra hiệu, nội thần mang hổ phù tới, Thành Công đích thân giao cho Lật Bình. Lật Bình bái lĩnh hổ phù, lập tức rời cung, tới thao trường nhận năm nghìn binh mã, gấp rút tới Sở Khâu.
Lật Bình đi khỏi, Vệ Thành Công sai người đưa xác Tôn Thao ra ngoài mai táng theo nghi lễ công khanh.
Đám triêu thần lần lượt nhận lệnh, rồi cùng tản đi. Vệ Thành Công giữ thái sư, Tôn Cơ và ngự sử lại, chậm rãi nói: “Quả nhân giữ ba vị ái khanh lại, là có việc lớn cần làm! Ba vị ái khanh nghe chỉ!”
Ba người khấu lạy: “Vi thần đợi chỉ!”
Vệ Thành Công lấy ra ba bức thư đặt lên trên bàn, thở dài mà nói: “Ngụy Anh đã ngang ngược tới nước này mà liệt quốc vẫn lặng thinh, xem ra, họ đang đợi lễ vật, họ muốn quả nhân tới cầu cứu họ! Lão tướng quốc, khanh hãy đi sứ sang Tề. Thái sư, khanh hãy đi sang Hàn. Ngự sử, khanh hãy đi sứ sang Sở, lập tức lên đường!” Dừng lại một lát, rồi gằn mạnh từng chữ. “Chư vị ái khanh, Vệ thất đã tới thời khắc sinh tử tồn vong, quả nhân khẩn cầu các vị, nhất thiết phải chuyển thư tới tận tay Tề Công, Hàn Hầu và Triệu Hầu, không cần nói nhiều, chỉ cần nói quần thần Vệ thất vì đại nghĩa thiên hạ, liều chết với kẻ thù!”
Ba vị đại thần đều bật khóc, dập đầu mà nói: “Vi thần tuân chỉ!”
Ba người vội vã lui ra. Khi sắp ra khỏi cửa, Vệ Thành Công lại gọi với theo: “Tướng quốc, khoan đã!”
Tôn Cơ dừng bước, quay người lại.
Vệ Thành Công nói với nội thần: “Truyền Tôn Tân bái kiến!”
Một lát sau, Tôn Tân bước vào, bái lạy sát đất.
Vệ Thành Công nhìn Tôn Tân, chậm rãi nói: “Tôn ái khanh, khanh đã có tuổi, đi lại khó khăn, hãy để cháu nội Tôn Tân đi cùng!”
Tôn Tân do dự nhìn Tôn Cơ: “Ông!”
“Hơn nữa,” Vệ Thành Công tiếp lời, “lão ái khanh bao năm qua đã dốc sức vì Vệ thất, quả nhân chưa thể báo đáp. Quả nhân sớm đã sai người mua cho ái khanh một trang viên ở kinh đô Lâm Truy nước Tề, lần này đi sứ, gặp gỡ Tề Công, lão ái khanh… không phải trở về nữa, hãy ở đó mà an hưởng tuổi già cùng cháu nội!”
Tôn Cơ quỳ xuống, dập đầu liền ba cái: “Lão thần khấu tạ long ân của chúa thượng! Trước mắt, đất nước đang lâm nguy, chính là lúc cần dùng đến người, lão hủ khẩn cầu chúa thượng thu hồi mệnh lệnh, cho phép Tân Nhi ở lại dốc sức vì đất nước!”
Nghe thấy lời này, Tôn Tân lập tức dập đầu mà nói: “Mạt tướng khẩn cầu chúa thượng, hãy để mạt tướng ở lại để báo thù cho cha, tận trung với nước!”
“Tôn tướng quân mau bình thân!” Vệ Thành Công lau nước mắt, đích thân đỡ Tôn Tân đứng dậy. “Tốt lắm! Quả nhân tấn phong khanh là tư mã Đế Khâu, thay thế vị trí của Lật tướng quân, thống lĩnh thần dân toàn thành, gồm cả quả nhân, thề chết chiến đấu chống giặc Ngụy tới cùng.”
Tôn Tân nước mắt giàn giụa bái lạy: “Vi thần lĩnh chỉ!”
***
Tôn Cơ bái lạy từ biệt Vệ Thành Công, gọi người chuẩn bị xe ngựa, mau chóng tới kinh đô Lâm Truy. Người đánh xe là lão quản gia đã theo ông nhiều năm. Ông không mang theo bất kỳ một thanh niên trai tráng hay vệ sĩ nào trong phủ, tất cả đều để lại cho cháu trai bảo vệ Đế Khâu.
Lão quản gia ra roi thúc ngựa, đi suốt ngày đêm, từ Đế Khâu tới Lâm Truy một nghìn hai trăm dặm đường, không tới ba ngày đã tới cổng thành Lâm Truy.
Khi chủ tớ hai người tới cung Tề, Tề Uy Công và vài vị trọng thần trong triều đang bàn luận về chiến sự Ngụy Vệ. Các trọng thần nước Tề có mặt gồm thái tử Điền Tích Cương, tướng quốc Trâu Kỵ, thượng đại phu Điền Anh, thượng tướng quân Điền Kỵ
Thượng đại phu Điền Anh khom lưng tấu rằng: “Thật không nằm ngoài dự đoán của chúa thượng, Ngụy Anh quả nhiên giết gà doạ khỉ, lấy cớ Vệ Công không tới đại lễ, khinh thường Đại Ngụy, sai thượng tướng quân công tử Ngang dẫn năm vạn binh lính, vài ngày trước bất ngờ xâm chiếm nước Vệ! Vệ Công chiếu lệnh thần dân toàn quốc chống giặc tới cùng, đại quân năm vạn của công tử Ngang đang vây đánh Bình Dương nước Vệ.”
“Quái lạ!” Điền Tích Cương thoáng chau mày, vẻ đầy khó hiểu. “Vệ Công xưa nay gan như thỏ đế, phiến lá rụng xuống cũng hốt hoảng né tránh, sợ rơi trúng đầu, tổn thương tới tóc! Trong triều hội Mạnh Tân lần trước, Ngụy Anh mới hô một tiếng, ông ta đã hồn xiêu phách lạc, đánh đổ cả rượu thưởng xuống đất! Vậy mà…”
Tề Uy Công mỉm cười, nhìn Tích Cương, ý muốn giục nói tiếp.
Điền Tích Cương tiếp tục: “Triều hội Phùng Trạch lần này, Vệ Công lại đổi khác hoàn toàn, cứ như hai con người khác biệt, không những không tới triều hội, mà trong trận chiến với cường địch, còn một mình cầm cự, tới giờ vẫn chưa thấy cầu cứu nước lớn.”
Tích Cương vừa dứt lời, nội thần đã bước vào: “Khởi bẩm chúa thượng, sứ thần nước Vệ Tôn Cơ bái kiến!”
Tề Uy Công cười nói: “Cương Nhi, con nói hơi sớm đấy!” Rồi quay sang nội thần. “Truyền sứ Vệ bái kiến!”
Tôn Cơ mình mặc áo vải sô, run lẩy bẩy bước vào trong đại điện, dập đầu bái lạy: “Sứ giả nước Vệ Tôn Cơ khấu kiến Tề Công. Người Ngụy ngang ngược xuất binh, xâm phạm bờ cõi nước Vệ. Vệ Công phái lão hủ đến báo tin lên Tề Công, quân thần Vệ thất vì đại nghĩa thiên hạ, liều chết với kẻ thù!” Nói xong, lấy từ trong ngực áo ra bức thư của Vệ Công. “Đây là thư do đích thân Vệ Công viết, kính trình Tề Công ngự lãm!”
Nội thần bước lên, nhận lấy lá thư, đang định trình lên, Tề Uy Công bèn xua tay nói: “Đọc đi!”
Nội thần cất giọng sang sảng: “Ngụy Anh ỷ mạnh phạm thượng, trước lấy danh nghĩa triều kiến Chu thất để đùa giỡn thiên tử ở Mạnh Tân, sau lại tự lập làm vương, gây hấn chư hầu thiên hạ ở Phùng Trạch. Nay lại khởi binh xâm phạm bờ cõi ta, giết hại thần dân ta, điều này mà nhịn được, thì còn điều gì không nhịn được đây? Vệ thất tuy yếu, song chí không thể đoạt, quân thần Vệ thất quyết tâm xả thân vì nghĩa, huyết chiến với giặc Ngụy tới cùng! Con dân Đại Chu, quân chủ đời thứ hai mươi ba của Vệ thất là Cơ Tốc huyết lệ bẩm cáo!”
Quần thần nghe xong, im lặng không nói. Tề Uy Công ngẫm nghĩ một lát rồi ngẩng đầu nhìn Tôn Cơ: “Tôn tướng quốc cớ sao phải mặc áo sô?”
“Hồi bẩm Tề Công,” Tôn Cơ chậm rãi nói, “con trai trưởng Tôn Thao, con trai thứ Tôn An của lão hủ bốn ngày trước đây vừa xả thân vì đại nghĩa trong lúc bảo vệ vùng biên giới Bình Dương của Vệ!”
Tề Uy Công sửng sốt: “Bình Dương thất thủ rồi ư?”
Tôn Cơ trầm giọng nói: “Hồi bẩm Tề Công, thần dân Bình Dương thề chết chống giặc, thượng tướng quân công tử Ngang nước Ngụy công phá nhiều lần không được, thẹn quá hoá giận, sau khi hạ được thành, đã ra lệnh thảm sát toàn thành. Hai vạn thần dân Bình Dương, cho đến cả đàn bà trẻ nít, toàn bộ chết thảm!”
Tề Uy Công từ sửng sốt chuyên sang phẫn nộ: “Đúng là phường đồ tể!” Dừng lại một lát, trấn tĩnh trở lại. “Lão tướng quốc lặn lội đường xa hẳn đã mệt rồi, hãy tạm về dịch quán nghỉ ngơi vài hôm đã.”
“Đa tạ ý tốt của Tề Công!” Tôn Cơ vòng tay bẩm. “Nước Vệ đang trong cảnh dầu sôi lửa bỏng, lão hủ sao có thể một mình hưởng an lành?” Bái lạy xong, bèn đứng dậy, chậm rãi lui ra.
Nhìn theo dáng đi run rẩy của Tôn Cơ, Tề Uy Công từ từ đứng dậy, vòng tay vái theo sau lưng Tôn Cơ, nói lớn một câu tiễn biệt: “Điền Nhân Tề cung tiễn Tôn lão tiên sinh!” Rồi lại ngồi xuống, nhìn sang chư thần bên cạnh. “Trung lương đến vậy, quả không hổ danh là hậu duệ của Tôn Vũ Tử.”
Điền Tích Cương sửng sốt: “Ông ta… là hậu duệ của Tôn Vũ Tử ư?”
Tề Uy Công gật đầu: “Đúng vậy, ông ta chính là cháu đời thứ tư của binh gia Xuân Thu Tôn Vũ Tử. Nếu xét đến ngọn nguồn, ông ta còn là người nước Tề chúng ta!” Nói đoạn, liếc nhìn bức thư của Vệ Thành Công đặt trên bàn, muốn nhân dịp dạy dỗ thái tử. “Cương Nhi, sự việc hôm nay, có cảm ngộ gì chăng?”
“Nhi thần có một chuyện không hiểu, mong quân phụ chỉ bảo!”
“Nói đi!”
“Vệ Công lần trước khúm núm sợ sệt, nhát như thỏ đế, hôm nay lại thề chết không hàng, dũng mãnh như gà chọi. Thật là trước sau trái ngược hoàn toàn, khiến nhi thần không khỏi kinh ngạc!”
Tề Uy Công gật đầu nói: “Hiện nay thời thế loạn lạc, nước lớn tranh bá, nước nhỏ chỉ mong được sinh tồn. Nước Vệ nhỏ yếu vừa hay kẹp giữa bốn nước mạnh Ngụy, Triệu, Tề, Sở. Cương Nhi, nếu con là Vệ Công, con sẽ làm thế nào?”
Điền Tích Cương trâm ngâm một lát rồi đáp: “Không thể liều mạng!”
“Đúng vậy!” Tề uy Công mỉm cười. “Đừng chỉ thấy Cơ Tốc vâng vâng dạ dạ, khúm núm khiếp nhược, ông ta có một điểm không thể không phục. Hai mươi năm qua, thiên hạ không lúc nào ngừng khói lửa, song nước Vệ tuy yếu, vẫn quốc thái dân an, chưa từng gặp họa chiến tranh!”
Điền Tích Cương vội nói: “Nhưng lần này…”
“Đây chính là điều quả nhân muốn nói với con!” Tề Uy Công đưa tay ra hiệu cho Điền Tích Cương im lặng. “Vệ Công tuyệt đối không phải hạng tầm thường, ông ta trước việc nhỏ thì khúm núm vâng dạ, song với việc lớn, luôn suy xét phân minh. Nhìn bề ngoài, Ngụy Anh xưng vương, có ý muốn thay triều đổi đại, lật đổ Chu thất, mà Vệ Công thân là con cháu Chu thất, đương nhiên không thể tới dự đại lễ. Xét về sâu xa, Ngụy Anh coi nước Vệ yếu ớt là món ngon trên đĩa, đã muốn thôn tính từ lâu. Vệ Công đã nhìn thấu tâm can hắn, do vậy ngoài mặt cung kính Ngụy thất, bên trong ngấm ngầm kết thân với Triệu, Hàn, càng qua lại thân thiết với quả nhân. Ngụy Anh lần này khởi binh xâm phạm biên cương, trên danh nghĩa là trừng phạt Vệ Công, thực chất là mượn cớ diệt Vệ. Vệ Công sinh tử tổn vong chỉ trong một đường tơ kẽ tóc, vẫn không liều mạng, thì còn đợi tới lúc nào?”
Điền Tích Cương như bừng tỉnh: “Nhi thần hiểu rồi. Song Vệ Công lấy trứng chọi đá, cũng là thiếu sáng suốt!”
“Không phải, không phải!” Tề Uy Công lắc đầu. “Vệ Công không ngốc nghếch đến vậy! Ông ta sớm đã đoán được rằng, quả nhân sẽ không ngồi yên phó mặc: Hàn Hầu, Triệu Hầu cũng sẽ không khoanh tay đứng nhìn.”
Điền Tích Cương trợn tròn hai mắt, kinh ngạc khôn xiết: “Quân phụ nói vậy là có ý gì?”
“Là vì liên quan tới lợi hại!” Tề Uy Công chậm rãi nói. “Từ thời Xuân Thu đến nay, giữa liệt quốc đều là kẻ mạnh ỷ thế tranh bá, kẻ yếu nhún nhường tìm cách sinh tồn. Ngụy Anh cậy mạnh xưng bá, chư hầu còn có thể nhẫn nhịn, bởi lẽ bất luận hắn phách lối đến đâu, cũng chỉ là một chư hầu, mọi người vẫn có thể chấp nhận danh nghĩa ấy. Song Ngụy Anh xưng vương, sự việc lại khác, bởi lẽ lúc này, hắn tự cho mình là vương, ngự trên chư hầu, tuỳ ý sắp đặt thiên hạ. Đương nhiên chư hầu đều cảm thấy mối nguy đang tới, ắt sẽ liên kết với nhau cùng phản kháng.”
Điền Tích Cương lúc này mới hiểu ra: “Thảo nào Vệ Công trong thư chỉ nói vì đại nghĩa thiên hạ, đến một câu van xin cầu cứu cũng không!”
“Đây cũng vẫn chỉ là bề ngoài!” Tề Uy Công tiếp tục giảng giải. “Đại nghĩa thiên hạ chẳng qua là hư danh mà thôi. Hiện nay, người coi trọng đạo nghĩa trong thiên hạ ngày càng hiếm hoi, người ta chỉ chú tâm tới lợi hại. Lợi hại của việc này là ở chỗ, các nước vùng lưu vực sông Tứ, xét về độ giàu có trù phú, không nước nào hơn được Vệ. Nói cách khác, nước Vệ là một miếng thịt thơm, ai cũng muốn ăn. Ngụy Anh muốn một mình tận hưởng, sao có thể được?”
Điền Tích Cương nào có suy nghĩ được sâu xa đến vậy, nghe tới đây, không khỏi thán phục trước suy xét tinh tường của công phụ, gật đầu lia lịa.
“Cương Nhi!” Tề Uy Công than thở. “Giờ con đã hiểu chưa, Cơ Tốc kia quả là nhân tài, chỉ tiếc là sinh ra ở nước Vệ yếu ớt, thực sự đã làm khó cho ông ta!”
Điền Tích Cương thực lòng cảm thán: “Nhi thần đã được mở mang tầm mắt! Nếu đã nhất thiết phải cứu Vệ, quân phụ dự định bao giờ khởi binh?”
Tề Uy Công trầm ngâm một lúc, rồi chậm rãi nói: “Dựa theo tính khí của Hàn Hầu, người Hàn chỉ trong vòng ba ngày sẽ khởi binh, Triệu Hầu có chậm chạp cũng không quá năm ngày! Cương Nhi, con thử nói xem, quả nhân nên khởi binh lúc nào là thích hợp?”
“Nhi thần cho rằng, nếu như Vệ Công đã là một kẻ tinh khôn đến vậy, chúng ta cứ đợi vài ngày nữa hãy xuất binh, để ông ta nếm trải cảm giác liều mạng là thế nào!”
Tề Uy Công khẽ lắc đầu, quay sang Điền Kỵ: “Điền ái khanh!”
Điền Kỵ đáp lời: “Có vi thần!”
“Quả nhân giao cho khanh năm vạn bộ binh, ba trăm cỗ xe chiến, ngày mai xuất phát, dàn quân tại biên giới Vệ.”
Điền Kỵ không giấu nổi ngạc nhiên: “Dàn quân tại biên giới Vệ? Chúa thượng, chúng ta tới đó, lẽ nào không giải vây cho Đế Khâu?”
Tề Uy Công mỉm cười nói: “Đúng là để giải vây cho Đế Khâu. Có điều, chúng ta xuất binh, phần nhiều là vì nể mặt Vệ Công. Nếu quả đúng như suy đoán của quả nhân, tự khắc sẽ có người tới giải vây cho Đế Khâu.”
Hai người đều ngơ ngác: “Tự có người giải vây? Ai kia?”
Tề Uy Công cười cười, nói: “Đi đi, tới lúc đó tự khắc sẽ biết!”
Tướng quốc Tôn Cơ ra tới ngoài cửa cung, lão quản gia vội chạy lại đón, đỡ ông lên xe ngựa.
“Chúa công,” lão quản gia khẽ hỏi, “bây giờ đi đâu?”
Tôn Cơ chỉ về phía trước: “Về Đế Khâu!”
Lão quản gia sụt sùi nói: “Chúa công… người không thể nghỉ ngơi lấy một đêm ư?”
Tôn Cơ khẽ thở dài một tiếng, từ từ khép mắt lại: “Lên xe nghỉ ngơi cũng được!”
***
Trên thành Bình Dương, ánh tà dương đỏ bầm như máu, khắp nơi đổ nát hoang tàn, khói bốc nghi ngút. Vài chỗ, lửa vẫn cháy rừng rực, khói đen cuồn cuộn tuôn ra qua cổng thành tây.
Một đoàn hơn chục người mặc quần áo nâu, chân đi giày cỏ, sắc mặt nặng nề, lẳng lặng sải bước vào trong cổng thành không một bóng người. Bốn phía lặng bặt đến đáng sợ. Trên phố, xác người ngổn ngang, nam có nữ có, già có trẻ có, cảnh tượng tang thương đến không nỡ nhìn. Máu loang tứ phía phần nhiều đã khô quánh, dưới ánh chiều tà tháng năm, sắc máu càng ngả màu tím sẫm, trông rùng rợn dị thường.
Đoàn người áo nâu lách qua những xác chết chồng chất, không ai nói câu nào, chẳng khác gì một đoàn người câm. Lão già râu bạc dẫn đầu đoàn người bước chân mỗi lúc một chậm, khi sắp tới từ đường, bỗng dừng bước, từ từ nhắm mắt lại, hai giọt lệ trào ra bên khoé mắt, nhỏ xuống đất.
Đây là đoàn người Mặc gia nhận được tin dữ, vội tìm tới nơi, ông lão râu bạc chính là cự tử(4) Mặc gia nổi tiếng Tuỳ Sào Tử. Mấy ngày trước, ở trong đại viện Mặc gia sâu hút trên núi Tung Sơn, thình lình nghe tin người Ngụy đột kích nước Vệ, tin tức vừa truyền về, tức tốc tìm tới nơi, song đã muộn rồi. Quân Ngụy đều đã rút đi, Bình Dương chỉ còn là một hoang thành chết chóc. Đoàn người Mặc gia chia khắp tứ phía, tìm kiếm người sống sót. Chưa đầy một canh giờ, đã có một hán tử trung niên Mặc gia chạy lại bẩm báo: “Bẩm cự tử, trong từ đường có người sống sót!”
Ông lão râu bạc mở choàng mắt: “Mau lên!”
Tuỳ Sào Tử và đám người vội vã tới từ đường, cảnh tượng thảm thương đập vào trước mắt khiến cả đoàn người chết lặng. Toàn bộ từ đường bị thiêu trụi, vài đám khói vẫn bốc lên ngùn ngụt. Trong sân có tới hơn hai trăm xác người ngổn ngang, mỗi người một tư thế. Ở góc bên trái, có hai xác chết cháy đen ôm chặt lấy nhau, nhìn qua đã biết là hai đứa trẻ. Chếch sang bên phải, la liệt vài chục cái xác đàn bà con gái đủ mọi lứa tuổi, áo quần tơi tả, thân thể loã lồ, rõ ràng đã bị làm nhục trước khi sát hại.
Bên cạnh đám xác chết đàn bà, một lão già tay cầm chiêng đồng quỳ dưới đất, quay mặt về phía những xác chết, trơ trơ như pho tượng đất. Không hề gào khóc, mặt không cảm xúc, cũng không thấy chảy nước mắt. Bóng tà dương đỏ quạch như máu hắt lên vầng trán chằng chịt những nếp nhăn sâu như dao cứa của lão.
Chứng kiến cảnh tượng thú tính đáng ghê tởm, đám người Mặc gia đứng ngây tại chỗ, chẳng khác nào ông lão gõ chiêng trước mặt. Lúc này, đừng nói là căm phẫn, dù có buồn thương cũng chỉ là thừa thãi, ông lão râu bạc thở dài một tiếng, khép mắt lại. Vài đệ tử Mặc gia tiến lại, nhặt những manh áo vương vãi trên đất, đắp lên người cho họ, che đi những phần trống trải.
Một đệ tử Mặc gia trung niên chậm rãi tiến về phía ông lão tuần canh, gọi khẽ: “Lão trượng!”
Ông lão tuần canh vẫn không hề nhúc nhích. Đệ tử Mặc gia lại gọi thêm câu nữa, song lão vẫn bất động. Người này lấy làm lạ, ngỡ lão đã chết, bèn đưa tay lên mũi, vẫn thấy hơi thở, mới yên tâm, lấy túi nước giắt bên thắt lưng, đưa cho lão: “Lão trượng, uống nước đi!”
Ông lão tuần canh vẫn như không nghe thấy, cũng như không nhìn thấy. Vị Mặc gia trung niên đang không biết phải làm thế nào, thì lão đột nhiên nhúc nhích, chậm chạp đứng dậy, nhấc cao chiêng đồng, gõ mạnh một tiếng, há miệng hô lên. Song đôi môi lão đã nứt nẻ, giọng nói khàn đặc, chỉ thấy miệng lưỡi mấp máy, song không phát ra được tiếng nào, tựa như đã bị cắt mất lưỡi.
Ông lão tuần canh nhìn những người mặc áo nâu trước mặt mà như không thấy, tay gõ chiêng, miệng hô lớn, cố gắng lê đôi chân, nặng nhọc bước về phía cổng chính từ đường. Đám đệ tử Mặc gia đưa mắt nhìn nhau, một nam thanh niên hỏi vị Mặc gia trung niên: “Đại sư huynh, nghe được lão ấy nói gì không?”
Vị Mặc gia trung niên lắc đầu, đưa ánh mắt về phía Tuỳ Sào Tử.
Tuỳ Sào Tử chậm rãi nói: “Lão hô rằng, Toàn dân trong thành nghe đây, quân chủ có chỉ, người còn thành còn, thề huyết chiến tới cùng với giặc Ngụy.”
Đám người Mặc gia thảy đều xúc động. Nhìn theo bóng lão bước vào trong viện, vị Mặc gia trung niên sải bước định đuổi theo, thì Tuỳ Sào Tử ngăn lại: “Cứ để lão đi!”
Vị Mặc gia trung niên dừng bước, băn khoăn nhìn ông già râu bạc: “Cự tử, lão…”
Tuỳ Sào Tử trầm ngâm nói: “Lão đã phát điên rồi!”
Bầu không khí lập tức chùng xuống. Đám người Mặc gia đều đứng như chôn chân tại chỗ, dõi mắt nhìn theo bóng dáng ông lão gõ chiêng xa dần.
Tuỳ Sào Tử thở dài một tiếng, dặn người trung niên: “Cáo Tử, triệu tập người Mặc gia và những dân chúng quanh đây, mau chóng lo hậu sự cho những thi thể xấu số này! Bây giờ thời tiết nóng nực, không chôn cất ngay, e rằng dễ gây dịch bệnh!”
“Đệ tử tuân lệnh!”
“Còn nữa, phái vài người mau tới Sở Khâu và Đế Khâu, giúp người Vệ giữ thành! Người Ngụy đã phát cuồng rồi!”
“Ác độc nhường này, đúng là không bằng loài cầm thú!”
“Chao ôi!” Tuỳ Sào Tử thở dài một tiếng, lắc đầu, “mới chỉ là khởi đầu mà thôi!”
Đám Mặc gia đều kinh hãi: “Chỉ là khởi đầu?”
“Đúng vậy!” Tuỳ Sào Tử đưa mắt nhìn một sân xác chết ngổn ngang. “Đây là một sợi dây xích, vòng nọ lồng với vòng kia. Ngụy Hầu xưng vương là vòng đầu tiên. Cáo Tử, việc ở đây, ta giao cả cho con!” Rồi quay về phía gã thanh niên, “Tống Kiển, con hãy theo ta tới An Ấp một chuyến!”
“Đệ tử tuân lệnh!”
Cáo Tử nhìn Tuỳ Sào Tử với ánh mắt ngờ vực: “Cự tử đi thuyết khách Ngụy Hầu ư?”
Tuỳ Sào Tử gật đầu.
“Ngụy Hầu liệu có chịu nghe lời cự tử chăng?”
Tuỳ Sào Tử im lặng, một lát sau, từ từ ngẩng đầu lên, vừa như tự nhủ, lại như trả lời: “Tuỳ theo ý trời!”
***
Sau cuộc thảm sát thành Bình Dương, công tử Ngang rút ra bài học, quyết định không tập trung một chỗ, mà chia quân hai lộ. Một lộ do tiên phong Bùi Anh dẫn một vạn năm nghìn quân vây đánh Sở Khâu, một lộ đích thân công tử Ngang dẫn số quân còn lại đánh thẳng vào kinh đô Đế Khâu nước Vệ.
Công tử Ngang sau khi bao vây Đế Khâu, đã viết một bức thư khuyên hàng, lời lẽ vô cùng sắc bén, rồi sai người bắn vào lầu thành. Vệ Thành Công không thèm bóc thư, lệnh cho người bắn trả lại, đồng thời bắn xuống một bức chiến thư, mắng kẻ nhận thư là “cầm thú”. Công tử Ngang thẹn quá hoá giận, ra lệnh đồng thời công phá Sở Khâu và Đế Khâu.
Sở Khâu vốn có bốn nghìn binh mã, lại thêm năm nghìn quân chi viện của Lật Bình, tổng cộng có cả thảy chín nghìn tướng sĩ. Binh lực tuy yếu, song trước hung tin dân chúng Bình Dương bị thảm sát, quân dân Sở Khâu liền đoàn kết một lòng, quyết chiến tới cùng, thà chết trận còn hơn đứng đợi người tàn sát. Đế Khâu cũng vậy. Do đó, quân Ngụy tuy kiêu dũng thiện chiến, song đối diện với đông đảo dân chúng cùng đường, cũng đành bó tay hết cách. Công tử Ngang vốn định phá thành trong vòng năm ngày, không ngờ tấn công liền tám ngày trời mà hai thành trì vẫn kiên gan đứng vững.
Đường đường là thiết quân Đại Ngụy, đến một thành trì cỏn con dường như không kham nổi một đòn của nước Vệ cũng chẳng làm gì nổi, công tử Ngang mất mặt không để đâu cho hết, giận dữ hạ lệnh cho bộ tướng lập quân lệnh trạng, hạn trong ba ngày, hoặc phá được thành, hoặc xách đầu về gặp.
Vào ngày thứ chín, trời vừa rạng sáng, quân Ngụy một lần nữa hùng hổ lao lên đánh thành, cuộc chiến diễn ra vô cùng khốc liệt, binh sĩ hai bên đều sát khí hừng hực.
Dưới thành Sở Khâu, trống trận dồn dập, tiếng hò la chấn động đất trời, đại quân Ngụy lớp lớp xông lên như sóng vỗ bờ. Song lính Vệ trên thành lại tuyệt không động tĩnh, thậm chí không có lấy một tiếng trống, quân sĩ, nhân dân đều tiết kiệm sức lực, lặng lẽ bắn tên, ném đá, lăn gỗ và quăng tất cả những thứ có thể gây tổn thương quân địch xuống dưới tường thành. Lớp trước vừa ngã xuống, lớp sau lại xông lên thay thế. Lật Bình khắp mình máu me bê bết, cánh tay trái trúng tên cũng không kịp nhổ ra, múa thương vùn vụt tấn công đám lính Ngụy vừa leo lên tường thành.
Dưới thành Đế Khâu, công tử Ngang đích thân đánh trống, quân Ngụy hò nhau rầm rập xông lên. Trên lầu thành, Vệ Thành Công mình mặc giáp trụ, tay cầm trường mâu, mạo hiểm tuần sát dọc theo tường thành dưới mưa tên vùn vụt. Bốn lực sĩ khiêng theo cỗ quan tài quét sơn đen chạy sát sau lưng ông. Tướng sĩ giữ thành nhìn thấy quốc quân khiêng quan tài đi theo, thảy đều gạt nước mắt xông lên giết địch.
Trận kịch chiến kéo dài tới tận hoàng hôn, quân Ngụy vẫn không thể đột phá được chỗ nào, đành phải gõ chiêng thu quân. Trời đã tối sẩm, ở một đoạn tương đối khuất phía dưới tường thành, có mấy bóng người áo đen khẽ gọi vọng lên trên thành. Binh sĩ trên thành cấp tốc báo với Tôn Tân, Tôn Tân hỏi qua, biết là đệ tử của Mặc gia, lập tức thả dây thừng xuống cho họ leo lên.
Đệ tử Mặc gia xưa nay vốn nổi tiếng liệt quốc vì tài phòng ngự, nhìn thấy họ, Vệ Thành Công và đám Tôn Cơ như thể uống được một liều thuốc tiên. Tôn Tân lập tức dẫn họ đi quan sát các điểm phòng ngự trên thành, sau đó gấp rút điều động toàn bộ thợ mộc chế tạo máy móc, vũ khí hộ thành theo bản vẽ của đệ tử Mặc gia, đồng thời căn cứ vào kích thước cổng thành Đế Khâu, chế tạo ra các loại binh xa chuyên chắn giữ cổng thành.
Chế tạo xong binh xa, Vệ Thành Công dẫn triều thần lại xem diễn tập. Phía trước và phía trên binh xa lắp chi chít đao nhọn mâu sắc, phía sau lắp thêm một thiết bị có thể xoay tròn. Đệ tử Mặc gia xoay chuyển bánh xe phía sau cỗ binh xa, các loại lưỡi nhọn mũi sắc phía trước lập tức chuyển động, hoặc xoay tít, hoặc đâm thẳng, người bình thường không thể lại gần. Dù cổng thành bị phá, chỉ cần dùng loại xe này chặn đường quân địch, cũng chẳng khác gì thành đồng vách sắt.
Vệ Thành Công thấy vậy, phấn khởi ra mặt, lập tức truyền lệnh lắp vào trong bốn cổng thành, sai binh sĩ ngày đêm canh giữ. Tướng sĩ không còn lo lắng chuyện cổng thành, nên rất vững tâm, chỉ lo dốc sức lực bảo vệ mặt thành.
Kỳ hạn ba ngày đã qua, Sở Khâu, Đế Khâu vẫn vững như thành đồng. Vào chập tối ngày thứ ba, công tử Ngang gióng chiêng thu quân, đám tướng lĩnh chẳng khác gì gà chọi bại trận, ai cũng khóc lóc rầu rĩ, cúi gằm mặt trở về doanh trại, xếp thành một hàng quỳ xuống trước mặt công tử Ngang, đồng thanh nói: “Mạt tướng vô dụng, xin thượng tướng quân trừng phạt!”
Luật không trách số đông, huống hồ là toàn bộ tướng lĩnh của ba quân! Công tử Ngang mặt nặng như chì, trừng mắt nhìn khắp lượt các tướng, đập bàn quát: “Nhìn bộ dạng các ngươi, khác gì một lũ đần, còn đâu khí phách của tướng quân Đại Ngụy?”
Đám tướng lĩnh đưa mắt nhìn nhau, quả nhiên trông ai cũng đầu bù tóc rối, mặt mày lấm lem đất cát, giáp trụ trên người không ai còn nguyên vẹn, có hai người bị trúng thương, một người bị thương ở trán, một người bị thương ở cánh tay, may mà vết thương không nặng, vừa được thầy thuốc băng bó qua loa, vội vã trở về doanh trại phục mệnh. Nếu chiến thắng, bị thương là chuyện đáng tự hào, nhưng hiện tại lại là chiến bại, ở trong doanh trại trung quân, nhìn những dải băng trắng toát thật vô cùng chướng mắt.
Công tử Ngang ném ánh nhìn về phía hai người họ, đang định trách mắng thì lính thám mã chạy vào bẩm báo: “Bẩm thượng tướng quân, quân chi viện của ba nước Triệu, Hàn, Tề đã vào biên giới Vệ, đang tiến tới Đế Khâu!”
Đám tướng lĩnh đều kinh hãi, không hẹn mà cùng nhìn về phía công tử Ngang.
Công tử Ngang nghe được tin này, đã không sửng sốt, lại còn bật cười ha hả. Chư tướng không hiểu ra sao, chỉ biết đưa mắt nhìn nhau.
Công tử Ngang dứt tiếng cười, cất giọng sang sảng: “Ta phạt Vệ lần này, chẳng qua là giết gà dọa khỉ, mục đích chính là ép bầy khỉ này phải hiện hình. Hôm nay quả đúng như dự đoán, bầy khỉ đã không kiềm chế nổi nữa, đua nhau nhảy ra! Chư tướng nghe lệnh!”
Đám tướng lĩnh vội vã đứng thẳng người dậy.
“Ngày mai tạm thời dừng việc công thành, lui quân mười dặm dựng trại! Đợi quân chi viện của bệ hạ tới, tiếp tục quyết chiến với bầy khỉ.”
Đám tướng lĩnh thở phào một tiếng, dõng dạc đáp lời: “Mạt tướng tuân lệnh!”
Thấy tướng lĩnh đã lui ra hết, công tử Ngang đích thân viết tấu báo, sai người cấp tốc gửi về An Ấp.
***
Tướng Tề Điền Kỵ, thái tử Điền Tích Cương thống lĩnh đại quân năm vạn chậm rãi tiến vào biên giới nước Vệ, lúc này, chỉ còn cách Đế Khâu năm mươi dặm.
Lúc này, lính thám mã phi tới, xoay người xuống ngựa trước xe Điền Kỵ, dõng dạc bẩm báo: “Báo, quân Ngụy thấy ta tới chi viện, đã dừng công thành, lui quân mười dặm dựng trại!”
Điền Kỵ quay sang phía thái tử. Điền Tích Cương lớn tiếng hỏi tên lính thám mã: “Quân Hàn, quân Triệu hiện tới đâu rồi?”
“Khởi bẩm điện hạ, ba vạn quân Triệu dựng trại cách Đế Khâu bốn mươi dặm! Hai vạn quân Hàn dựng trại cách Đế Khâu ba mươi dặm.”
“Tiếp tục thám thính!”
Lính thám mã vâng lệnh, tung người lên ngựa, lập tức phóng đi ngay.
Điền Tích Cương nói với Điền Kỵ, giọng đầy thán phục: “Tình hình trước mắt, thật đúng như dự tính của công phụ, không sai một ly.”
Điền Kỵ đáp lời: “Bẩm điện hạ, quân Ngụy mấy ngày kịch chiến, số quân còn lại không tới bốn vạn, lại mệt mỏi rệu rã. Chúng ta có năm vạn tinh binh, hoàn toàn có thể chiến thắng công tử Ngang!”
Điền Tích Cương lắc đầu: “Công phụ chỉ dặn ta dàn quân ở biên giới Vệ, chứ không bảo ta xuất chiến!”
“Ồ…” Điền Kỵ vội nói, “chúa thượng không biết tình thế trước mắt, nên mới quyết định như vậy. Điện hạ, chúng ta đánh thôi, vi thần đảm bảo sẽ đánh bại quân Ngụy, bắt sống tên súc sinh kia!”
Điền Tích Cương vẫn lắc đầu: “Tướng quân, không được! Dù tướng quân hễ đánh là chắc thắng, song như vậy, Ngụy Anh ắt coi Tề là kẻ thù. Dựa vào quốc lực hiện tại của Ngụy, nếu thảo phạt ta, nước Tề tất máu chảy thành sông! Tướng quân hãy nhìn Triệu Hầu, Hàn Hầu mà xem, tuy đã sớm xuất binh, song cả hai đều tinh ranh như khỉ, chỉ quan sát từ xa, án binh bất động!”
Điền Kỵ lo lắng: “Điện hạ, công tử Ngang thấy ta giúp Vệ, ắt sẽ điều quân chi viện. Khi quân chi viện của chúng tới nơi, chúng ta chiến hay không chiến?”
Điền Tích Cương cười nói: “Tướng quân yên tâm, nếu viện quân của Ngụy tới, công phụ tất có ý chỉ. Trước khi đi, công phụ năm lần bảy lượt căn dặn, chúng ta tới đây, không phải để giải vây, cũng không phải để quyết chiến với người Ngụy, chỉ là để giữ thể diện cho Vệ Công! Điền tướng quân, chúng ta có thể hạ trại ở đây không?”
Điền Kỵ quan sát xung quanh một lượt, rồi gật đầu nói: “Được!” Rồi lại quay sang phó tướng, “điện hạ có chỉ, hạ trại dựa núi kề sông!”
***
Sau khi Bạch tướng quốc quy tiên, Công Tôn Diễn cũng rời khỏi phủ tướng quốc, trở về nhà ở. Công Tôn Diễn sống ở phố Đông Nhai thành An Ấp, trong một khu nhà hai dãy do ông nội Công Tôn Diễn mua lúc sinh thời. Cha mẹ Công Tôn Diễn đều đã mất, Công Tôn Diễn cũng chưa lập gia thất, nên trong nhà chẳng còn ai khác, vô cùng hiu quạnh.
Buổi sáng hôm đó, bỗng một cỗ xe ngựa đỗ xịch trước cửa, đại tư đồ Chu Uy bước xuống xe, đi thẳng vào trong, nhìn thấy Công Tôn Diễn đang dọn dẹp xe ngựa trong sân, vẻ như chuẩn bị cho một chuyến đi xa.
Chu Uy vô cùng ngạc nhiên, không kịp hành lễ, mở miệng gọi luôn: “Công Tôn huynh!”
Thấy Chu Uy, Công Tôn Diễn quay người lại, vòng tay hành lễ: “Chu huynh đấy ư, mời vào trong nhà nói chuyện!”
Hai người vào trong phòng khách, ngồi xuống, Công Tôn Diễn lại vòng tay nói: “Thật là vừa khéo, tại hạ đang định đi tìm Chu huynh thì Chu huynh lại tới!”
Chu Uy cũng vòng tay đáp: “Tại hạ vừa nhận được tin báo, ba nước Tề, Hàn, Triệu đều đã xuất binh. Hàn Hầu đích thân xung trận. Phía nước Triệu, chủ tướng là Phụng Dương Quân, còn nước Tề là thượng tướng quân Điền Kỵ và thái tử Tích Cương!”
Công Tôn Diễn gật đầu nói: “Tại hạ cũng đã nghe được tin này, bởi vậy mới thu dọn hành lý!”
“Công Tôn huynh định đi đâu?”
“Hà Tây!”
Chu Uy sửng sốt: “Công Tôn huynh, hiện tại chiến hoả đang ở nước Vệ, sao huynh lại tới Hà Tây?”
“Nước Vệ vô sự, Hà Tây mới có chuyện!”
Chu Uy kinh hãi: “Nói vậy là sao?”
“Việc công tử Ngang thảm sát toàn thành đã lan truyền khắp liệt quốc! Không chỉ người Vệ, mà toàn dân thiên hạ đều bừng bừng căm phẫn. Nghe nói Vệ Công chiếu lệnh toàn quốc, người còn thì thành còn. Bách tính nước Vệ sợ thành bị phá, ắt liều chết cố thủ chờ quân chi viện tới. Hạng bất tài vô dụng như công tử Ngang, đừng nói là liệt quốc xuất binh, cho dù liệt quốc không xuất binh, dựa vào thực lực của người Vệ thì cũng phải mất tới nửa năm may ra mới phá nổi thành!”
Chu Uy vẫn ngẩn ngơ không hiểu: “Chuyện này thì có liên quan gì tới Hà Tây?”
“Liệt quốc xuất binh, tại hạ sớm đã lường trước. Không chỉ tại hạ, mà chúa thượng cũng mong chờ chuyện này. Không chỉ chúa thượng, mà người Tần cũng mong chờ chuyện này!” Công Tôn Diễn nói tới đây thì dừng lại.
Dù đang là tiết tháng năm, Chu Uy bỗng thấy toàn thân ớn lạnh, bất giác rùng mình một cái, run rẩy nói: “Công Tôn huynh, ý Công Tôn huynh là… người Tần…”
Công Tôn Diễn gật đầu: “Bạch tướng quốc lo lắng cũng là vì chuyện này. Chu huynh thử nghĩ mà xem, Công Tôn Ưởng là hạng người thế nào? Tần Hiếu Công là hạng người thế nào? Dựa theo thực lực của nước Tần hiện nay, dù có giao chiến, ai thắng ai thua cũng khó lòng đoán trước. Song họ vẫn khom lưng cầu hoà, cống nộp con gái, khúm núm nịnh hót công tử Ngang bất tài vô dụng, đúng là đặt cược quá lớn! Than ôi! Đáng tiếc là chúa thượng đã bị người ta bưng mắt mất rồi!”
Chu Uy mặt cắt không còn hạt máu: “Tại hạ sẽ lập tức tấu lên chúa thượng, phân tích rõ lợi hại!”
“Chu huynh!” Công Tôn Diễn cười khổ sở, lắc đầu nói, “Chúa thượng nếu chịu nghe, thì đâu có kết cục hôm nay?”
Chu Uy im lặng không nói gì.
“Chu huynh! Công Tôn Diễn đang định tìm Chu huynh, là có một việc muốn cậy nhờ!”
Chu Uy ngẩng nhìn Công Tôn Diễn.
“Trước khi lâm chung, chúa công có hai điều lo lắng nhất. Một là Hà Tây, hai là Bạch thiếu gia. Hà Tây là việc nước, còn Bạch thiếu gia là việc nhà. Chúa công giao phó việc nước cho Long tướng quân, giao phó việc nhà cho tại hạ. Điều khiến tại hạ băn khoăn, chính là Long tướng quân đương nhiên thiện chiến, song nếu giao đấu với một đối thủ như Công Tôn Ưởng, e rằng khó lòng chiếm thế thượng phong. Tại hạ muốn tới Hà Tây, trợ giúp Long tướng quân một tay. Còn chuyện của Bạch thiếu gia…”, Công Tôn Diễn tiến lại gần Chu Uy, vòng tay cung kính, “tại hạ xin cậy nhờ Chu huynh!”
Chu Uy cũng vòng tay nói: “Công Tôn huynh yên tâm, chuyện của Bạch công tử, xin cứ giao cả cho tại hạ!”
“Bạch thiếu gia ăn chơi thành tính, tốt nhất hãy để cho cậu ấy làm một công việc gì đó!”
Chu Uy ngẫm nghĩ một lát: “Để Bạch thiếu gia trông coi nhà ngục, được chăng?”
“Như vậy cũng tốt!”
Hai người trò chuyện thêm một lúc thì Công Tôn Diễn vội vã lên đường. Chu Uy tiễn tới cổng Tây, rồi quay trở về phủ tư đồ. Một mình ngồi trong phủ thẫn thờ suy nghĩ một lát, rồi ông sai người mời Bạch công tử lại, hỏi hắn có muốn làm việc hay không.
Sau khi Bạch tướng quốc qua đời, lão quản gia làm theo căn dặn của tướng quốc, tính toán lượng vàng trong kho, chỉ để lại ba trăm lượng cho Bạch Hổ, rồi giao toàn bộ bảy nghìn lượng cho Long Giả, vận chuyển tới Hà Tây. Lão tướng quốc đột ngột qua đời khiến Bạch Hổ bàng hoàng cực độ, hắn ân hận vô cùng, lại thêm lão quản gia hết lời khuyên can, thiếu phu nhân khóc lóc năn nỉ, Bạch Hổ đã thề từ bỏ thói cờ bạc, hơn mười ngày qua không bén mảng tới lầu Nguyên Hanh. Hôm nay thấy Chu Uy hỏi vậy, trong lòng khó tránh chấn động, lập tức trả lời: “Tạ ơn sự quan tâm của tư đồ đại nhân! Tuy nhiên, tại hạ xưa nay chỉ biết đua đòi ăn diện, cơm bưng nước rót tận miệng, có thể làm được gì đây?”
Chu Uy cười nói: “Chỉ cần công tử muốn làm, không có gì không học được! Thế này đi, bên hình ngục đang thiếu người, nếu công tử không chê, có thể bắt đầu từ đó!”
Bạch Hổ đoán rằng Chu Uy sẽ cho mình làm chức quan gì đó, nên đồng ý ngay. Chu Uy dẫn hắn tới nhà ngục, quan tư hình đã đón sẵn ở cửa, khấu đầu nói: “Hạ quan khấu kiến tư đồ đại nhân!”
Chu Uy phẩy tay, bước tới đại đường, ngồi xuống chính vị, chỉ vào Bạch Hổ nói: “Đây là Bạch thiếu gia, bắt đầu từ hôm nay, sẽ làm việc ở đây. Ngươi xem thử có việc gì thích hợp thì giao cho cậu ta.”
Quan tư hình vội vòng tay hành lễ với Bạch Hổ: “Hạ quan hân hạnh được gặp Bạch thiếu gia!”
Bạch Hổ vòng tay đáp lễ, ngạo mạn nói: “Bạch Hổ có lời chào tư hình! Xin hỏi tư hình đại nhân, định giao cho bản thiếu gia việc gì?”
Chu Uy liếc nhìn hắn, khẽ chau mày, thấy quan tư hình đang nhìn mình có ý dò hỏi, bèn lớn tiếng: “Mang trang phục lính canh ngục lại cho Bạch thiếu gia!”
Tư hình kinh ngạc nhìn Chu Uy: “Tư đồ đại nhân, ý ông là… để Bạch thiếu gia làm lính canh ngục?”
Chu Uy trừng mắt nhìn quan tư hình, nghiêm giọng quát: “Lẽ nào ngươi bị điếc?”
Tư hình vội chạy đi, một lát sau, mang một bộ trang phục lính canh ngục bằng vải thô đặt trước mặt Bạch Hổ, khẽ nói: “Bạch thiếu gia, hãy mặc thử xem!”
Từ bé tới giờ, Bạch Hổ chưa phải mặc quần áo vải thô bao giờ, nên lúc này đương nhiên không chịu, sắc mặt sầm xuống, giơ chân hất bộ trang phục lên, rồi đưa tay đỡ lấy, giũ giũ vài cái, sau đó vứt toẹt xuống đất, nói: “Cái thứ rách rưới này mà cũng bảo bản thiếu gia mặc ư?”
Chu Uy chỉ nhìn, không nói gì, lập tức cởi bỏ trang phục quan tư đồ trên người, cúi xuống nhặt bộ trang phục lính coi ngục mà Bạch Hổ vừa ném xuống đất, cẩn thận mặc lên người, rồi đanh giọng nói với tư hình: “Lấy cho Bạch công tử bộ khác!”
Tư hình thấy Chu Uy nổi giận, không dám chậm trễ, vội chạy đi lấy bộ khác, lại đặt trước mặt Bạch Hổ. Chu Uy nhìn sang, từ tốn nói: “Bạch thiếu gia, xin mời mặc thử!”
Bạch Hổ xấu hổ đỏ mặt, thấy không còn cách nào khác, đành chậm chạp cởi bỏ phục sức xa hoa trên người, mặc lên mình bộ trang phục lính canh ngục bằng vải thô. Đợi Bạch Hổ mặc xong xuôi, Chu Uy quay sang nói với quan tư hình: “Tư hình đại nhân, giao việc đi!”
Tư hình có phần run rẩy: “Hạ… hạ quan…”
Chu Uy quát lên: “Hạ quan cái gì? Hiện giờ ngươi là trưởng quan!”
Tư hình khựng lại, rồi vội vã gật đầu: “Phải, phải, phải! Mời hai vị theo hạ quan… À, không, mời hai vị theo bản quan vào tuần tra ngục thất!”
Tư hình dẫn Chu Uy, Bạch Hổ tuần tra mấy gian nhà ngục, sau đó trở về đại đường. Chu Uy căn dặn quan tư hình: “Bắt đầu từ hôm nay, Bạch thiếu gia sẽ làm sai nha ở đây. Nếu Bạch thiếu gia làm tốt, ngươi hãy khen thưởng. Nếu Bạch thiếu gia làm sai, ngươi hãy trách phạt.”
Tư hình giật nảy mình: “Hạ… hạ quan tuân lệnh!”
Chu Uy thay lại trang phục, bước ra khỏi hình ngục. Nghe thấy tiếng bước chân của Chu Uy xa dần, quan tư hình cúi gập người, cười giả lả nói với Bạch Hổ: “Bạch thiếu gia, hôm nay thiếu gia lần đầu tới làm việc, cứ thoải mái đi lại thăm thú, không có việc gì gấp. Nếu thiếu gia muốn gì, xin cứ nói với tại hạ, tại hạ sẽ tận lực hoàn thành!”
Bạch Hổ lừ mắt với quan tư hình, rồi đột ngột cởi phăng bộ trang phục lính canh ngục, ném mạnh xuống đất, mặc lại những phục sức quý phái lên người, “hừm” một tiếng rồi bước thẳng ra khỏi hình ngục, không ngoảnh đầu lại.
Hồi Thứ 5
Cự Tử thương đời vào cung Ngụy
Trương Nghi tránh họa tới Lạc Dương
Chu Uy bước ra khỏi hình ngục, đang định trở về phủ tư đồ, chợt nhớ tới lời Công Tôn Diễn, bất giác lại đánh xe thẳng tới cung thành. Bất luận Ngụy Vương thích nghe hay không, thân là thần tử, Chu Uy tự thấy mình nên bẩm báo mối nguy mà nước Ngụy sắp phải đối mặt với quân chủ.
Khi gần tới cửa cung, Chu Uy từ xa đã nhìn thấy hai người áo nâu đứng đó, một trong hai người đang đôi co với lính canh.
Hai người này chính là cự tử Mặc gia Tùy Sào Tử và đệ tử Tống Kiển. Họ đã đi suốt ngày đêm, thay liền mấy đôi dép cỏ mới tới được An Ấp. Hôm nay không phải ngày thiết triều, cửa cung khá yên tĩnh, tám tên lính mình mặc giáp trụ cầm kích lăm lăm đứng thành hai hàng trước cửa cung, khiến cửa cung vắng lặng tăng thêm vài phần uy vũ.
Tùy Sào Tử bước lại, trình bái thiếp, vòng tay vái đám lính gác cổng, nói: “Làm phiền quân sĩ bẩm báo lên Ngụy Hầu, nói là Tùy Sào Tử người Tề bái kiến!”
Đám lính canh cứ như không nghe thấy, cũng chẳng thèm nhìn, vẫn im phăng phắc, chống kích đứng trơ trơ như những chiếc đinh cắm xuống đất. Tùy Sào Tử hơi ngạc nhiên, đang định hỏi thêm thì nhìn thấy từ phía cửa cung, một người dáng vẻ giống như quân uý bước ra, săm soi Tùy Sào Tử và Tống Kiển một lượt từ đầu tới chân, thấy họ mặc áo vải nâu giản dị, chân đi dép cỏ mòn vẹt, cho rằng là tiện dân, bèn cất giọng ngạo mạn: “Này, lão già, có việc gì mà ồn ào thế?”
Tùy Sào Tử lại vòng tay vái một vái, từ tốn nói: “Tùy Sào Tử người Tề cầu kiến Ngụy Hầu, làm phiền quân uý thông báo!”
Quân uý trợn mắt, nghiêm giọng nạt nộ: “Lão già, muốn chết ư? Nói cho lão biết, ở đây không có Ngụy Hầu, chỉ có Ngụy Vương bệ hạ!”
Tống Kiển nổi giận, đang định xông lên thì Tùy Sào Tử giơ tay ngăn lại, quay sang quân uý, nói: “Làm phiền quân uý bẩm báo lên Ngụy Vương bệ hạ, nói rằng Tùy Sào Tử người Tề cầu kiến!” Nói xong, lại trình bái thiếp.
Quân uý chẳng buồn nhìn, đưa tay đẩy trả về, lại trợn mắt quát nạt: “Tùy Sào Tử gì cũng mặc? Lão già nhà quê như ngươi có biết bệ hạ là gì không? Bệ hạ chính là thiên tử, kẻ quê mùa như ngươi sao có thể nói muốn gặp là gặp?”
Tùy Sào Tử khẽ thở dài một tiếng, đang định quay người bỏ đi thì Chu Uy đã tới gần, sau khi nhìn Tùy Sào Tử từ đầu tới chân, bèn quay sang nói với quân uý: “Có chuyện gì?”
Quân uý hành đại lễ, bẩm báo: “Khởi bẩm tư đồ đại nhân, kẻ tiện dân này muốn bái kiến bệ hạ, hạ quan đang đuổi lão ta đi!” Rồi quay sang Tùy Sào Tử. “Lão già, còn không mau đi, ta lập tức bắt ngươi nhốt vào đại lao ba tháng!”
Chu Uy lừ mắt nhìn hắn, rồi quay sang Tùy Sào Tử, ôn tồn hỏi: “Xin hỏi lão trượng, lão từ đâu tới? Muốn gặp bệ hạ có việc gì?”
Tùy Sào Tử vái dài mà đáp: “Khởi bẩm đại tư đồ, Tùy Sào Tử người Tề nóng lòng muốn cầu kiến Ngụy Hầu!”
Quân uý nghe thấy hai chữ “Ngụy Hầu”, thì nổi giận đùng đùng: “Lão già nhà quê, muốn ăn đòn ư? Không phải là Ngụy Hầu, là bệ hạ!”
Chu Uy trừng mắt nhìn hắn, rồi quay sang nói với Tùy Sào Tử: “Lão tiên sinh hẳn là cự tử của Mặc gia?”
Tùy Sào Tử đáp: “Đúng là lão hủ!”
Chu Uy lập tức vái dài sát đất: “Tại hạ Chu Uy không biết tiền bối giá lâm! Thất lễ! Thất lễ!”
Quân uý thấy tư đồ đại nhân nhún nhường đến vậy, thì trố mắt ngạc nhiên.
Chu Uy lại vòng tay hành lễ với Tùy Sào Tử: “Cự tử, xin mời vào phòng trà ngồi chờ một chút, vãn bối Chu Uy lập tức vào cung tấu báo lên bệ hạ!” Rồi quay sang quân uý. “Lão tiên sinh đây chính là tiền bối cự tử Mặc gia Tùy Sào Tử, ngươi nhớ hầu hạ chu đáo!”
Quân uý lúc này mới định thần lại, luống cuống vòng tay vái, cung kính nói: “Hạ quan không biết Tùy Sào Tử đại nhân, xin lượng thứ!”
Tùy Sào Tử đáp lễ: “Lão hủ làm phiền quân uý!”
Lần này gặp Ngụy Hầu, Chu Uy tim đập chân run. Chu Uy hiểu tính khí của Ngụy Hầu, một khi đã say mê, chín trâu kéo cũng không lại. Hơn nữa Ngụy Hầu đã quá tin tưởng Tần Công và Công Tôn Ưởng, nếu bẩm báo Hà Tây có chuyện, dù có chết Ngụy Hầu cũng không chịu tin. Giờ đúng là trời chiều lòng người, Chu Uy đang không biết khuyên can Ngụy Hầu ra sao thì vừa hay gặp cự tử Mặc gia. Chu Uy đoán Tùy Sào Tử tới đây cũng là vì việc này. Tùy Sào Tử nổi danh khắp liệt quốc, Ngụy Huệ Hầu không thể không nghe.
Trong lòng nhen nhóm hy vọng, chân bước cũng nhẹ nhõm hơn. Chẳng mấy chốc, Chu Uy đã vào trong chính điện. Hỏi thái giám trực ở đó, được biết Ngụy Huệ Hầu đang đánh cờ với thượng khanh Trần Chẩn tại đình hóng mát trong ngự hoa viên.
Chu Uy biết ngôi đình hóng mát này, bèn sải bước tới đó, từ xa đã nhìn thấy Ngụy Huệ Hầu quả nhiên đang đánh cờ với Trần Chẩn, vội vã bước tới, quỳ xuống dưới bậc tam cấp của đình hóng mát.
Tỳ nhân nhìn thấy, quay sang bẩm báo với Ngụy Huệ Hầu: “Bệ hạ, Chu tư đồ cầu kiến!”
Ngụy Huệ Hầu “cạch” một tiếng đặt quân cờ xuống, chậm rãi nói: “Là Chu ái khanh ư? Mau mời vào!”
Tỳ nhân quay sang Chu Uy, dõng dạc truyền lệnh: “Bệ hạ có chỉ, truyền Chu tư đồ cầu kiến!”
Chu Uy đứng dậy, vội vã leo lên bậc tam cấp, quỳ xuống khấu đầu nói: “Vi thần khấu kiến bệ hạ!”
Ngụy Huệ Hầu cười vang mà nói: “Ái khanh bình thân! Lại đây, lại đây, lại xem cách cục này, quả nhân thắng chắc!”
Trần Chẩn cũng nói: “Chu tư đồ, mau lại cứu ta!”
Chu Uy đứng dậy, bước tới trước bàn cờ, nhìn kỹ một lượt, quả nhiên quân trắng đang bị bủa vây kín mít, như thể cá nằm trong chậu, hết đường giải cứu. Trần Chẩn có vẻ đã từ bỏ ý định kháng cự, bó tay chờ thua.
Ngụy Huệ Hầu đắc chí rung đùi, cười ha hả mà nói: “Trần ái khanh, đừng nói là Chu tư đồ, mà dù có là thần tiên lão tử cũng khó lòng giải cứu cho khanh!”
Trần Chẩn buông thõng hai tay, nét mặt lộ vẻ thất vọng, thở dài một tiếng mà nói: “Vi thần vốn có một đường sống, nhưng bệ hạ vừa hạ nước cờ này, đã cắt đứt đường sống của vi thần rồi!”
“Không giấu ái khanh, nhúm quân của khanh, quả nhân sớm đã thắng chắc rồi! Vốn định cho khanh sống thêm một lúc, nào ngờ khanh đường sống không đi, lại tự tìm đường chết, trách quả nhân sao được?”
Trần Chẩn lại thở dài, lời đầy ẩn ý: “Than ôi! Tình cảnh hiện tại của vi thần, nào có khác gì Cơ Tốc đâu?”
Ngụy Huệ Hầu bật cười lớn, gật đầu nói: “Phải lắm! Phải lắm! Ví von như vậy quả không sai! Nhắc tới Vệ Công, không biết tình hình hiện tại thế nào rồi?”
Trần Chẩn vòng tay đáp: “Khởi bẩm bệ hạ, thượng tướng quân dũng mãnh, quân Đại Ngụy tinh nhuệ thế như chẻ tre, không thể ngăn cản, liên tiếp công phá hơn mười thành ấp nước Vệ, Sở Khâu và Đế Khâu không bao lâu nữa cũng sẽ bị san bằng!”
“Tốt lắm!” Ngụy Huệ Hầu khen ngợi, “khanh hãy gửi thư cho thượng tướng quân, dặn thượng tướng quân chớ nên vội vã. Con chó già Cơ Tốc kia phải ninh nhừ trên lửa nhỏ ăn mới ngon! Quả nhân nghe nói, mấy con khỉ cũng đã nhảy khỏi hang rồi, có chuyện này chăng?”
“Theo vi thần được biết, Vệ Công đã phái sứ thần tới Triệu, Hàn, Tề cầu cứu. Ba nước này hiện xuất binh hay chưa, vi thần vẫn đang chờ tin!”
Ngụy Huệ Hầu mỉm cười nói: “Cứ để chúng xuất quân đi! Quả nhân cũng đang mong đợi điều này!” Quay sang Chu Uy, “Chu ái khanh, khanh bận trăm công nghìn việc, chắc hẳn không phải tới đây để xem đánh cờ!”
Chu Uy khấu lạy mà nói: “Bệ hạ thánh minh! Vi thần tới để tấu báo lên bệ hạ, cự tử Mặc gia Tùy Sào Tử cầu kiến ngoài cung!”
“Tùy Sào Tử?” Ngụy Huệ Hầu chau mày lại, quay sang Trần Chẩn, “lâu lắm rồi không nghe nhắc tới lão phu tử kia, sao hôm nay lại bất thình lình tới đây?”
“Bệ hạ!” Trần Chẩn đáp lời, “Mặc gia chủ trương kiêm ái, không thích chiến tranh. Vi thân đoán rằng, lần này Tùy Sào Tử tới, hẳn là làm thuyết khách cho Vệ Công!”
Ngụy Huệ Hầu gật gù nói: “Ta cũng đoán vậy! Lão phu tử kia thích nhúng mũi vào chuyện thiên hạ, lần này đến, kiểu gì cũng lại một phen lải nhải điếc tai!”
“Nếu bệ hạ không muốn gặp, vi thần sai người đuổi lão ta đi là được!”
Chu Uy lại dập đầu nói: “Vi thần cho rằng không nên! Mặc gia là học phái nổi tiếng hiện thời, sánh ngang với Nho gia, đệ tử đông khắp thiên hạ. Bệ hạ xưa nay vốn nổi danh bốn biển nhờ vào lễ hiền hạ sĩ, nay cự tử Mặc gia đích thân tới tận cửa cầu kiến, nếu bệ hạ tránh mặt không gặp, liệu có mang tiếng là thất lễ với hiền tài chăng?”
“Chu ái khanh nói rất phải!” Ngụy Huệ Hầu gật gù, “lão phu tử đã tới tận cửa, không gặp đúng là không nên, song sợ gặp mặt lại phải nhẫn nhịn những lời lải nhải của lão, bảo quả nhân làm thế nào mới phải?”
Trần Chẩn đảo con ngươi một vòng: “Bệ hạ, vi thần có một kế để ứng phó với lão phu tử!”
“Ồ, là kế gì?”
Trần Chẩn ghé sát tai Huệ Hầu, thì thầm một hồi, Huệ Hầu gật đầu lia lịa: “Được, cứ làm theo lời ái khanh!” Rồi quay sang Chu Uy, “Chu ái khanh, truyền cự tử Mặc gia vào thư phòng yết kiến!”
Chu Uy thoáng hồ nghi, nói khẽ: “Vi thần tuân chỉ!” Chu Uy biết chắc Trần Chẩn lại nghĩ ra trò quái quỷ gì, tuy nhiên, nghĩ lại, thấy chỉ cần Ngụy Huệ Hầu chịu gặp Tùy Sào Tử, dựa vào tài trí và đức hạnh của ông ta, hẳn Tùy Sào Tử dư sức ứng phó. Nghĩ tới đây, Chu Uy cảm thấy vững tin trong lòng, trở về phòng trà trước điện, dẫn Tùy Sào Tử vào ngự thư phòng của Ngụy Huệ Hầu.
Ngự thư phòng tọa lạc trong hậu hoa viên, là một toà viện năm dãy, bài trí tao nhã, tàng trữ sách vở vô số, có sử quan ngày đêm trông coi. Ngoài lúc lên triều, Ngụy Hầu thích nhất là xử lý việc triều chính ở đây. Gặp khách quan trọng, đặc biệt là hiền sĩ trong thiên hạ, Ngụy Hầu cũng thường triệu kiến tại nơi này. Trong lúc chuyện trò, một trong những sở thích của Ngụy Huệ Hầu là đích thân dẫn khách tham quan thư viện rộng lớn của mình. Nghe nói trong những thư viện trong thiên hạ, nổi tiếng nhất là Thái học viện của Chu thất ở Lạc Dương, Tắc Hạ học cung ở Lâm Truy, tiếp đến chính là thư phòng của Ngụy Hầu.
Nghe thấy tiếng bước chân từ xa vọng lại, Trần Chẩn đã mặt mũi tươi cười bước ra ngoài cổng nghênh đón, vòng tay vái dài mà nói: “Thượng khanh nước Ngụy Trần Chẩn cung nghênh cự tử đại giá!”
Tùy Sào Tử vòng tay đáp lễ: “Tùy Sào Tử người Tề bái kiến thượng khanh!”
“Cự tử, mời!”
“Thượng khanh, mời!”
Trần Chẩn nhất quyết nhường Tùy Sào Tử đi trước, sau khi khách đã yên vị, một cung nữ bước lại, bày trà thơm lên trên bàn khách.
Trần Chẩn bưng chén trà lên: “Cự tử, mời dùng trà!”
Tùy Sào Tử cũng nâng chén, nhấp một ngụm: “Tạ ơn trà thơm của thượng khanh!”
Trần Chẩn vòng tay nói: “Bệ hạ nghe nói cự tử tới, có nhã ý sắp xếp cho yết kiến ở đây, cự tử hãy đợi cho một lát! Chu tư đồ và vãn sinh đều có việc bận, không thể ở lại bồi tiếp lâu, mong cự tử lượng thứ!” Nói xong bèn đứng dậy, đưa mắt ra hiệu cho Chu Uy.
Chu Uy chưa kịp phản ứng, đã bị Trần Chẩn nói trước chặn họng, ngần ngừ một lát, đành phải đứng dậy, vòng tay thi lễ cáo biệt Tùy Sào Tử.
Tùy Sào Tử đứng dậy đáp lễ: “Thượng khanh, tư đồ không phải khách sáo!”
Sau khi hai người rời đi, trong phòng chi còn lại Tùy Sào Tử và cung nữ pha trà. Trà đã uống qua ba nước, mà vẫn không thấy Ngụy Huệ Hầu đâu. Trong phòng tĩnh lặng khác thường, nghe rõ tiếng đồng hồ nước giọt giọt.
Tùy Sào Tử thấy lạ, khẽ chau đôi mày, ngẩng đầu hỏi cung nữ: “Xin hỏi cô nương, lão hủ còn phải đợi bao lâu nữa?”
Cung nữ sợ sệt đáp: “Khởi bẩm trượng nhân, nô tỳ không biết!”
“Làm phiền cô nương bẩm báo một tiếng, nói là Tùy Sào Tử đợi ở đây đã quá lâu rồi!”
“Nô tỳ chỉ biết pha trà hầu khách, không dám vượt phận!”
Tùy Sào Tử trầm ngâm suy nghĩ, không nói gì thêm, hai mắt khép hờ, ngồi vận khí tức thần. Trà lại uống thêm hai tuần, vẫn không thấy cung nữ thay trà, nước đã nhạt nhẽo không còn hương vị.
Tùy Sào Tử đã bắt đầu sốt ruột, thì đột nhiên thấy tỳ nhân bước ra từ sau tấm bình phong, tiến về phía mình, vòng tay hành lễ, cung kính nói: “Đã để cự tử đợi lâu!”
Tùy Sào Tử đứng dậy đáp lễ: “Tùy Sào Tử bái kiến nội tể!”
Tỳ nhân tạ lỗi: “Bệ hạ có chỉ, cự tử là tông sư thiên hạ, không thể đối xử theo lễ thông thường. Để tỏ lòng cung kính, bệ hạ đang tắm gội xông hương ở hậu cung, sai tại hạ chuyển lời tới cự tử, xin cự tử đợi thêm chốc lát!”
Nghe nói đến tắm gội xông hương, Tùy Sào Tử ngẩn người kinh ngạc: “Ồ…”
Tỳ nhân vội giải thích: “Cự tử chớ vội, bệ hạ vô cùng kính trọng cự tử, nghe nói cự tử đến, nhất quyết đòi tắm gội xông hương rồi mới chịu tới gặp! Tắm mau thôi, giờ này hẳn đã xong rồi, chỉ là cần thêm chút thời gian xông hương. Cự tử đợi ở đây chắc cũng thấy nhàm chán, tại hạ mời cự tử thưởng thức một khúc nhã nhạc!”
Tùy Sào Tử còn chưa kịp nói gì, tỳ nhân đã vỗ tay bồm bộp. Đội nhạc đang chực sẵn sau bình phong lập tức bước ra, tiếng nhạc vang lên dìu dặt.
Dưới đình hóng mát cách đó không xa, Ngụy Huệ Hầu vẫn ngồi nguyên tại chỗ, lại bày ra một ván cờ mới với Trần Chẩn. Trên bàn cờ vây mới chỉ lác đác hơn chục quân cờ.
Tâm trí của Huệ Hầu đương nhiên không đặt vào bàn cờ. Ông ta ngồi tựa lưng trên chiếc ghế đu đan bằng trúc vô cùng tinh xảo, nhắm mắt thưởng thức tiếng nhã nhạc văng vẳng vọng lại từ phía thư phòng, chiếc ghế đu cũng đung đưa theo nhịp điệu. Một cung nữ tay cầm quạt đứng ở sau lưng, khẽ phe phẩy theo nhịp nhạc. Trần Chẩn ngôi xếp bằng đối diện, cũng nhắm nghiền hai mắt, hay tay đặt lên bàn cờ, đưa lên hạ xuống khe khẽ, như thể đang gõ nhịp.
Ngụy Huệ Hầu lắng nghe một lát, rồi từ từ mở mắt, liếc sang Trần Chẩn: “Nghe nói lão phu tử kia rất kiên nhẫn, kế này của ái khanh chưa chắc đã đuổi được lão đi!”
“Bệ hạ yên tâm!” Trần Chẩn ngẩng đầu lên, cười cười mà nói, “vi thần đã sắp xếp ổn thoả rồi, khúc nhạc này là ‘Dương xuân bạch tuyết’, lão ta có lẽ vẫn chịu nổi. Khúc sau là ‘Hạ lý Ba nhân’, nếu lão ta nghe hết được, mới coi là kiên nhẫn. Không giấu bệ hạ, vi thần đã dặn kỹ ban nhạc, biến tấu đi một chút, một khúc nhạc đánh liền ba lần. Ngoài ra, vi thần còn sai tỳ nhân điều thiếu nữ Ba Thục tới, cho phục sức loè loẹt, nhảy một vũ điệu kỳ quặc đất Ba Thục, kiểu gì cũng khiến lão ta phải chóng mặt hoa mắt. Theo như tâm trạng hiện tại của lão ta, dù có mười phần kiên nhẫn, cũng phải mất đi chín phần.”
Ngụy Huệ Hầu thở phào một tiếng, ngồi thẳng dậy, khẽ gật đầu nói: “Được, sắp xếp rất tốt! Lão phu tử là người thông minh, hẳn cũng hiểu rõ lẽ tiến thoái!” Rồi ánh mắt lại chiếu lên bàn cờ. “Ái khanh, tới lượt khanh phải không?”
Trần Chẩn vội nhìn vào bàn cờ: “Bệ hạ, tới lượt người!”
“Vậy ư?” Ngụy Huệ Hầu cẩn thận quan sát thế cờ, rồi chậm rãi nhấc một quân cờ lên.
Trong ngự thư phòng, một khúc nhạc đã tấu xong, tỳ nhân thấy Tùy Sào Tử vẫn khép hờ hai mắt, thì từ tốn nói: “Nghe nói cự tử tinh thông âm luật, xin mời dạy bảo!”
Tùy Sào Tử khẽ thở dài một tiếng, nói: “Âm vận tuyệt vời, chỉ là tấu không đúng thời!”
Tỳ nhân vội hỏi: “Ồ, sao lại tấu không đúng thời? Tại hạ muốn nghe cự tử chỉ giáo.”
Tùy Sào Tử nói một câu đầy ẩn ý: “Ngoài cung mặt trời rực rỡ, trong cung lại là ‘Dương xuân bạch tuyết’, sao có thể nói là hợp thời?”
Tỳ nhân nghe Tùy Sào Tử nói đúng tên ca khúc, lời lẽ vẫn ôn hoà, suy nghĩ một chốc, gật đầu khâm phục: “Cự tử kiến giải độc đáo, tại hạ kính phục! Nếu khúc nhạc này không hợp mùa, xin đổi sang khúc khác hợp mùa hơn!” Nói xong, lại vỗ tay, đổi sang khúc nhạc ‘Hạ lý Ba nhân’, tiết tấu rộn rã, chốc chốc còn đệm thêm tiếng chiêng trống rộn ràng. Trong tiếng nhạc thô lậu, xuất hiện chục cô gái đất Ba Thục, đầu tóc buông xoã, son phấn loè loẹt, trang phục kỳ dị, nửa kín nửa hở, xếp thành hàng dài, uốn éo tiến vào trong phòng, nhảy múa tưng bừng theo tiếng nhạc.
Tùy Sào Tử thở dài một tiếng, lại nhắm nghiền hai mắt, đôi mày chau lại. Tiếng nhạc mỗi lúc một phóng túng, Ba nữ càng múa càng hăng, đầu mày Tùy Sào Tử càng lúc càng chau tít.
Ba điệu múa đã kết thúc, tiếng nhạc ngừng bặt, các cô gái Ba Thục đứng lại trong thế múa. Tỳ nhân đưa mắt nhìn Tùy Sào Tử, miệng khẽ hỏi: “Xin hỏi cự tử, khúc này có hợp thời không?”
Tùy Sào Tử khẽ mở mắt, chậm rãi nói: “Tuy khúc này hợp thời, song chẳng tốt lành!”
Tỳ nhân thoáng ngạc nhiên: “Xin nghe lời chỉ giáo!”
Giọng Tùy Sào Tử chất chứa bi lương: “Ngoài cung trăm họ lầm than, dân chúng đói khổ. Trong cung tiếng nhạc hỗn loạn, Ba nữ múa may. Sao có thể tốt lành?”
Tùy Sào Tử nghe tiếng biết nhạc, nghe múa nhận người, không chỉ trí tuệ cao siêu, lại luôn đau đáu niềm bác ái với toàn thiên hạ, biết rõ người khác giễu cợt mình, song không hề tỏ ý trách cứ. Tỳ nhân lấy làm cảm động, càng cung kính bội phần, chỉnh trang y phục ngồi ngay ngắn, vòng tay mà nói: “Cự tử không hổ danh là tông sư trong thiên hạ, tại hạ xin thụ giáo!”
Tùy Sào Tử vòng tay đáp lễ, thong thả nói: “Xin hỏi nội tể, quân chủ hẳn đã xông hương xong rồi?”
Tỳ nhân có vẻ lúng túng: “Cự tử… xin hãy đợi thêm chút nữa. Hãy thưởng thức thêm điệu múa của người Hổ phương bắc, được chăng?”
Tùy Sào Tử nhìn tỳ nhân với vẻ hoài nghi, hồi lâu sau mới thở dài sườn sượt: “Than ôi! Đường đường là bậc quân chủ, nên quang minh chính đại mới phải, hà tất phải hao tổn tâm tư, bày trò trẻ nít. Thỉnh cầu nội tể chuyển lời tới bệ hạ của các người, Tùy Sào Tử xin cáo từ!”
Tỳ nhân phẩy tay, đám Ba nữ, nhạc công liền lui hết ra ngoài.
Tùy Sào Tử chậm rãi đứng dậy, vòng tay vái chào tỳ nhân, rồi quay người bước ra phía cổng. Tỳ nhân đáp lễ xong, tiễn đưa vài bước, tỏ vẻ thông cảm mà nói: “Cự tử đã có ý muốn về, tại hạ chỉ biết cung tiễn!”
Ra khỏi cửa viện, Tùy Sào Tử dừng bước, quay đầu nhìn thẳng vào tỳ nhân, lời đầy ẩn ý: “Tùy Sào Tử làm phiền nội tể bẩm báo lên quân chủ, nước Ngụy đã gần kề đại họa, Tùy Sào Tử tới đây, chính là vì chuyện này!”
Tỳ nhân giật mình sửng sốt, vội bước lên trước, đứng chắn trước mặt Tùy Sào Tử, cười mà nói: “Cự tử xin dừng bước! Giờ này hẳn là bệ hạ đã xông hương xong rồi!”
Tùy Sào Tử gượng cười một tiếng, khẽ lắc đầu, lại rảo bước đi. Tỳ nhân một lần nữa ngăn lại: “Cự tử từ xa nghìn dặm mà tới, bất luận thế nào, cũng nên gặp mặt bệ hạ! Mời cự tử đợi thêm một lát, tại hạ sẽ đi nghênh tiếp bệ hạ!”
Tùy Sào Tử thấy tỳ nhân có vẻ thành khẩn, bèn dừng bước. Tỳ nhân lật đật quay đi, bước vội vào sau tấm bình phong. Chỉ một lát sau, đã thấy có tiếng bước chân cấp tập lại gần, Ngụy Huệ Hầu từ phía sau bình phong rảo bước ra, sải chân vài cái đã vào trong sân, vòng tay tiến lại nói: “Để đại sư chờ đợi quá lâu, Ngụy Anh thật là thất lễ!”
Tùy Sào Tử cũng vòng tay vái chào: “Tùy Sào Tử người Tề bái kiến chúa thượng!”
Ngụy Huệ Hầu lại vái mà nói: “Ngụy Anh vui mừng hay tin cự tử đại giá, cảm thấy vô cùng vinh hạnh. Để nghe lời dạy dỗ vàng ngọc, Ngụy Anh đã tắm gội xông hương, rửa tai chờ nghe! Cự tử, mời!”
“Chúa thượng, mời!”
Hai người trở về thư phòng, phân ngôi chủ khách ngồi xuống. Ngụy Huệ Hầu lại vòng tay nói: “Ngụy Anh được tổ tiên phù hộ, có được một góc ở Trung Nguyên, nhiều lần muốn chấn hưng cơ nghiệp, song học vấn nông cạn, sức không đủ mạnh. Tiên sinh tới đây, hẳn là có kiến giải cao minh, xin chỉ giáo Ngụy Anh!”
Vừa phải trải qua cơn giày vò khổ sở, Tùy Sào Tử lòng đã giá băng, nên cũng chẳng vòng vo, mở miệng liền nói thẳng: “Nghe nói chúa thượng mở minh hội ở Phùng Trạch, quay mặt về nam xưng tôn, có chuyện này chăng?”
Ngụy Huệ Hầu thở dài một tiếng: “Chuyện này thực không phải ý của Ngụy Anh! Liệt quốc cứ khổ sở ép nài, Ngụy Anh cũng là vạn bất đắc dĩ!”
“Dù chúa thượng có mong muốn hay không, Tùy Sào Tử cũng cho rằng, hành động này của chúa thượng thực không sáng suốt!”
Ngụy Huệ Hầu biết lão phu tử chuẩn bị giáo huấn, lập tức nghiêm mặt nín thở, chậm rãi mà nói: “Ngụy Anh muốn nghe tường tận!”
“Phàm mọi việc đều có nhân quả. Tùy Sào Tử dám hỏi chúa thượng, dựa vào đâu mà xưng vương?”
Ngụy Huệ Hầu suy nghĩ một lát, quyết định không để Tùy Sào Tử lấn lướt, đồng thời cũng muốn nhanh chóng chặn họng, nên mặt sắt lại, nhìn thẳng vào Tùy Sào Tử, tự tin mà nói: “Thiên hạ là thiên hạ của người trong thiên hạ, không phải là thiên hạ của riêng nhà Chu. Người làm vương trong thiên hạ phải có đức có uy. Nay Chu đã thất đức, lại thất uy, xin hỏi tiên sinh, Ngụy Anh sao không thể quay mặt về nam xưng tôn?”
Tùy Sào Tử trầm giọng: “Tùy Sào Tử to gan dám hỏi, đức, uy của chúa thượng đã sánh được với Văn Hầu chưa?”
Ngụy Huệ Hầu sững lại, rồi lụng bụng trong miệng: “Không bằng tiên quân!”
“Thời Văn Hầu, thành tâm bái cao sĩ Bốc Tử Hạ, Đoàn Can Mộc, Điền Tử Phương làm thầy. Về văn, trọng dụng ba hiền tài Lý Khôi, Địch Hoàng, Ngụy Thành Tử, kiên quyết cải cách, biến pháp đồ cường. Về võ, trọng dụng hai danh tướng Nhạc Dương và Ngô Khởi, phía đông tiêu diệt Trung Sơn, phía tây đánh bại cường Tần, phía nam đẩy lùi Man Sở, mở rộng lãnh thổ nghìn dặm, bước chân vào Trung Nguyên…”
Nghe thấy Tùy Sào Tử kể ra công tích của tiên quân Ngụy thất, Ngụy Huệ Hầu trong lòng dào dạt tự hào, nở mày nở mặt, cất giọng sang sảng tiếp lời: “Tiên sinh nói rất phải, tiên quân uy phong lẫm liệt, thiên hạ không ai sánh bằng!”
Tùy Sào Tử lập tức đổi giọng: “Văn Hầu tuy gồm cả đức uy, lại từng chín lần tập hợp chư hầu, ba lần triều bái thiên tử, song trong suốt cuộc đời, đã có ngày nào xưng vương chưa?”
Ngụy Huệ Hầu nóng bừng mặt, song Tùy Sào Tử nói tới tiên quân, lại toàn những lời đúng đắn, nhất thời không biết đối đáp ra sao. Tùy Sào Tử đưa mắt nhìn Ngụy Hầu, tạm ngưng một lát, lấy lùi để tiến: “Tùy Sào Tử lỗ mãng, đã mạo phạm tôn giá!”
Ngụy Huệ Hầu trong lòng bực bội, nhưng không dám bộc lộ, chỉ biết gắng gượng kìm nén mà nói: “Ngụy Anh muốn nghe luận giải cao minh của tiên sinh!”
“Chúa thượng đã xưng vương, tất có đủ đức, uy của bậc vương giả. Tùy Sào Tử không biết, muốn nghe chúa thượng chỉ ra tường tận!”
Ngụy Huệ Hầu sao có thể mặt dày kể ra uy đức của mình, miệng mấp máy vài cái, song không thốt nổi một câu.
“Chắc hẳn chúa thượng khiêm tốn, không muốn khoe khoang uy đức. Tùy Sào Tử bất tài, liệu có thể nói thay chúa thượng được chăng?”
“Ngụy Anh muốn nghe!”
“Thiên hạ xưa kia, vì đức mà uy; thiên hạ ngày nay, vì uy mà đức. Thời Văn Hầu, thiên hạ đều yếu, chỉ có Ngụy sức mạnh siêu quần, chẳng khác gì hạc giữa bầy gà, Văn Hầu nhờ có uy mà thiên hạ nể phục. Tới thời chúa thượng, tình thế đã hoàn toàn khác xưa. Chưa nói đến Đại Sở, chỉ tính liệt quốc Trung Nguyên, Tần Công có Công Tôn Ưởng, Tề Công có Trâu Kỵ, Triệu Hầu có Phụng Dương Quân, Hàn Hầu có Thân Bất Hại. Bốn vị quân chủ này đều là minh quân đương đại, bốn vị triều thần này đều là tôi hiền đương thời. Bốn vị quân chủ đều sáng suốt, bốn vị triều thần đều tài giỏi, bốn nước nhờ thế mà yên bình, thế lực ngày một mạnh, bất cứ nước nào cũng có thể sánh ngang Đại Ngụy. Thiên hạ ngày nay, tuy thế lực của Ngụy rất mạnh, song đã không thể đứng đầu. Lượng thứ cho Tùy Sào Tử nói thẳng, uy của chúa thượng, sớm đã như mũi tên bay hết tầm bắn, sao có thể sánh với Văn Hầu?”
Tùy Sào Tử phân tích rành rọt, mỗi lời đều đánh trúng yếu huyệt, mỗi câu đều chắc nịch như sơn, đã vạch trần toàn bộ những mối nguy mà Ngụy Hầu sắp phải đối mặt. Huệ Hầu vô cùng bối rối, mặt đỏ phừng phừng, hơi thở hổn hển, hồi lâu sau mới nén được hoả khí xuống bụng, cố gắng không để mình thất thố, khoé miệng còn cố nặn ra một nụ cười: “Ngụy Anh đã biết mình không thể bằng tiên quân, tiên sinh có thể nói về chuyện khác chăng?”
Tùy Sào Tử có lẽ cũng thấy mình hơi nặng lời, khẽ thở dài một tiếng, gật đầu nói: “Không biết chúa thượng muốn nghe gì?”
Ngụy Huệ Hầu bỗng nhận ra Tùy Sào Tử tóc bạc đầy đầu, nếp nhăn ngang trán, trong đầu nảy ra một ý, bèn nói: “Quả nhân từ nhỏ đã nghe thấy đại danh của tiên sinh, cứ ngỡ là cổ nhân. Hôm nay được diện kiến, nhìn tướng mạo tiên sinh, có lẽ cũng đã đến tuổi thất thập cổ lai hi. Xin hỏi tiên sinh thọ bao nhiêu rồi?”
Tùy Sào Tử đáp: “Tùy Sào Tử này đã già cỗi khó kham, tám mươi sáu, có lẽ sắp nhập quan tài!”
Ngụy Huệ Hầu vô cùng kinh ngạc, lại đưa mắt nhìn Tùy Sào Tử, thực lòng cảm thán: “Ồ, tiên sinh đã tám chín mươi tuổi rồi mà vẫn mạnh khoẻ đến vậy. Ngụy Anh chưa tới ngũ tuần mà tự thấy thân tâm không còn như trước, chẳng khác gì một lão già!”
“Chúa thượng hà tất phải kiêm tốn!”
Ngụy Huệ Hầu nhoài người về phía trước: “Tiên sinh hưởng niên cao đến vậy, ắt có bí quyết trường thọ. Ngụy Anh bất tài, mong được tiên sinh chỉ giáo!”
Tùy Sào Tử thoáng ngẫm nghĩ một lát, rồi từ tốn nói: “Đạo trường thọ, không nằm ngoài dưỡng đức!”
Ngụy Huệ Hầu chau mày: “Ý tiên sinh là, đức của quả nhân không đủ trường thọ?”
“Người dựa vào đức để đứng trên thế gian, ắt mang tấm lòng trắc ẩn, ắt luôn tâm niệm từ bi, ắt ban nhân ái khắp thiên hạ. Chúa thượng vô duyên vô cớ thảo phạt nước Vệ yếu ớt, dung túng lính Ngụy tàn sát hiếp đáp, cướp bóc dân lành. Toàn bộ bách tính thành Bình Dương, bất luận già trẻ trai gái, tàn sát sạch không…”
Ngụy Huệ Hầu sắc mặt tím tái, không đợi Tùy Sào Tử nói hết câu, đã gầm lên: “Đừng nói nữa!”
Tùy Sào Tử dừng lời, từ từ khép hai mắt lại.
Ngụy Huệ Hầu đứng phắt dậy, phẩy ống tay áo đi luôn, tới phía trước tấm bình phong, quay người lại, gằn giọng nói với tỳ nhân: “Tiễn khách!” Rồi quay ngoắt người, khệnh khạng bỏ đi.
Tỳ nhân lòng rối như tơ vò, nhìn Tùy Sào Tử, vái sâu một vái, khẽ nói: “Cự tử…”
Tùy Sào Tử mở mắt, khẽ thở dài một tiếng, nói với tỳ nhân: “Tùy Sào Tử còn một lời nữa, muốn nhờ nội tể chuyển tới chúa thượng!”
Tỳ nhân do dự một lát: “Cự tử cứ nói!”
Tùy Sào Tử ngẫm nghĩ một lát: “Bọ ngựa bắt ve, chim sẻ rình sẵn! Chỉ vài hôm nữa thôi, đại họa sẽ giáng xuống Đại Ngụy!” Nói xong liền đứng dậy, vái dài một cái với tỳ nhân, “Tùy Sào Tử cáo từ!”
“Cự tử đi cẩn thận!”
Tiếng bước chân nặng nề của Tùy Sào Tử mỗi lúc một xa dần. Tỳ nhân dõi mắt nhìn theo Tùy Sào Tử, cho tới khi bóng lão khuất hẳn, lúc này mới lẩm bẩm: “Bọ ngựa bắt ve, chim sẻ rình sẵn! Chim sẻ rình sẵn… Chim sẻ?”. Đang lẩm bẩm, đột nhiên như sực nghĩ ra điều gì, bỗng chốc run bắn, chạy vội vào phía sau tấm bình phong, đuổi theo Huệ Hầu từ cửa bên.
Ngụy Huệ Hầu hằm hằm giận dữ, sải bước tới đình hóng mát ở hậu hoa viên. Trần Chẩn đã đón sẵn ở đó, nhìn thấy Ngụy Huệ Hầu sắc mặt khó coi, tím ngắt hệt như quả cà, biết là Ngụy Hầu đang tức giận lão già Tùy Sào Tử, vội quỳ xuống dập đầu gọi: “Bệ hạ…”
Ngụy Huệ Hầu thở hồng hộc bước thẳng lên đình hóng mát, mắt nhìn chằm chằm vào chiếc bàn trước mặt, rồi thình lình tung chân đạp mạnh. Chiếc bàn đổ nhào, quân cờ đen trắng bắn tung toé, lăn lóc đầy mặt đất.
Khi tỳ nhân đuổi kịp tới nơi, Ngụy Huệ Hầu đã ngồi trên chiếu, vuốt ngực thở phì phì. Tỳ nhân liếc nhìn Trần Chẩn, rồi thận trọng cầm quạt chạy lại quạt cho Huệ Hầu.
Ngụy Huệ Hầu đạp đổ bàn xong, cũng đã trút được cơn giận dữ: “Lão già chết tiệt, thật đáng băm vằm thành muôn mảnh!”
Trần Chẩn thận trọng thăm dò: “Bệ hạ, lão phu tử…”
Ngụy Huệ Hầu mặt đằng đằng sát khí, giận dữ nói: “Hừm, quả nhân kính lão ta là cự tử Mặc gia, muốn nghe lời chỉ bảo của lão, nào ngờ toàn nghe phải những lời thối tha! Tần, Tề, Triệu, Hàn cái nỗi gì? Bốn quân chủ anh minh, bốn triều thần tài năng cái nỗi gì? Quả nhân thấy bốn nước đó khác nào bầy khỉ nhố nhăng, thấy nước Vệ khác nào con gà rù, dựa vào đâu mà lão dám nói năng bậy bạ?”
Tỳ nhân bỗng dừng quạt, bật cười phì.
Trần Chẩn sửng sốt, trố mắt nhìn tỳ nhân. Khi Ngụy Huệ Hầu nổi giận, tốt nhất nên im lặng. Tỳ nhân vốn hiểu rõ Huệ Hầu đến chân tơ kẽ tóc, lúc này lại đột nhiên bật cười thành tiếng, quả là một chuyện khó tin.
Ngụy Huệ Hầu quả nhiên lừ mắt nhìn tỳ nhân, phẫn nộ quát: “Ngươi đang cười giễu quả nhân đấy ư?”
Tỳ nhân dập đầu sát đất: “Lão nô không dám!”
“Không dám, sao lại cười?”
Tỳ nhân từ tốn trả lời: “Lão nô nhớ tới một chuyện thú vị, nhất thời nhịn không nổi, mới bật cười thành tiếng!”
Trần Chẩn xưa nay vốn không thể đoán biết được suy nghĩ của lão cận thần bên cạnh Huệ Hầu, cho rằng đây là một cơ hội để lấy lòng tỳ nhân, bèn vội vàng giảng hoà: “Chuyện thú vị của nội tể, hẳn là rất tức cười!”
Ngụy Huệ Hầu cũng đã nguôi giận phần nào, song nét mặt vẫn khó đăm đăm: “Nếu là chuyện thú vị, mau nói cho quả nhân nghe!”
Tỳ nhân đứng dậy, lại cầm quạt lên, vừa quạt, vừa kể rành rọt: “Chuyện là thế này. Vài hôm trước, lão nô ở hậu hoa viên có gặp thái hậu, sau khi hỏi thăm người nhà lão nô, thái hậu kéo lão nô lại, kể về chuyện lễ hiền hạ sĩ của tiên quân Văn Hầu. Lão nô tranh cãi rằng, nếu nói về lễ hiền hạ sĩ, chẳng ai hơn được bệ hạ. Thái hậu nghe xong, không cho là đúng. Đợi lát nữa, nếu lão nô rảnh rỗi, nhất định sẽ kể chuyện hôm nay cho thái hậu nghe, xem người còn gì để nói.”
Ngụy Huệ Hầu sững người nhìn tỳ nhân: “Cái gì? Chuyện hôm nay?”
“Chính là chuyện lấy lễ đối đãi với người hiền! Lần trước, Bạch tướng gia đâm đầu vào cột ngay trong đại điện, bệ hạ đã không trị tội, lại còn cho phép tướng quốc cáo lão về quê, an hưởng tuổi già. Vừa rồi, Tùy Sào Tử thuyết khách cho Vệ Công, lời lẽ ngạo mạn, trách cứ bệ hạ thẳng thừng, bệ hạ đã không trách mắng, ngược lại còn tắm gội xông hương, đối đãi bằng lễ tông sư. Lão nô bạo miệng dám nói rằng, dù tiên quân còn tại thế, tấm lòng lễ hiền, hẳn cũng chỉ đến vậy mà thôi!”
Nghe tỳ nhân nói vậy, Ngụy Huệ Hầu chấn động trong lòng, cảm khái thốt lên: “Lời ngươi nói quả thật không sai! Kỳ thực quả nhân trong lòng đã hiểu, lão phu tử tới đây, chỉ là nói hộ cho con chó già Vệ Công vài lời, nhằm hoá giải nguy nan trước mắt, trong lòng không hề có ý xấu. Thế này vậy, ngươi hãy thay quả nhân tiễn chân lão phu tử, thưởng cho lão trăm lượng vàng. Còn nữa, hãy thưởng thêm cho lão hai đôi ngự hài. Quả nhân vừa rồi nhìn thấy lão ta đi dép cỏ. Đã tám chín mươi tuổi đầu rồi mà còn mang đôi dép cỏ mòn vẹt rong ruổi khắp nơi, thật là vất vả cho lão!”
Tỳ nhân phủ phục xuống đất bái lạy: “Lão nô thay cự tử khấu tạ long ân của bệ hạ! Song cự tử đã đi từ lâu, e rằng không đuổi kịp nữa!”
Ngụy Huệ Hầu thoáng ăn năn, khẽ thở dài một tiếng.
“Bệ hạ!” Tỳ nhân chớp thời cơ nói thêm. “Lúc cáo từ, lão nô tiễn cự tử một đoạn, cự tử đã tặng lão nô một câu, đó là ‘bọ ngựa bắt ve, chim sẻ rình sẵn’. Lão nô ngu muội, suy nghĩ mãi vẫn không hiểu ý. Bệ hạ trên thông thiên văn dưới tường địa lý, liệu có thể giải thích giúp lão nô chăng?”
Ngụy Huệ Hầu khép hờ hai mắt, lẩm nhẩm trong miệng: “Bọ ngựa bắt ve sầu, chim sẻ rình sẵn”, nhẩm đi nhẩm lại vài lần, bỗng kêu lên thất thanh: “Lão phu tử nói câu này không phải là tặng ngươi, mà là muốn nhắc nhở quả nhân đấy!”
Tỳ nhân làm bộ kinh hãi: “Sao cơ? Tùy Sào Tử nhắc nhở bệ hạ chuyện gì?”
Ngụy Huệ Hầu đắc ý nói: “Lão phu tử ví Vệ Công là ve, ví quả nhân là bọ ngựa, còn ba nước Tề, Hàn, Triệu là chim sẻ. Ha ha ha, lão phu tử tự cho rằng mình đoán sự như thần, song lão không ngờ được rằng, quả nhân không hề bận tâm tới ve, mà đang chờ đợi mấy con chim sẻ!”
Thấy Huệ Hầu vẫn u mê không tỉnh, tỳ nhân trong lòng lo lắng, song vẫn vờ ra vẻ thán phục mà nói: “Nghe bệ hạ nói vậy, lão nô đã hiểu ra phần nào. Không giấu bệ hạ, lão nô vừa rồi lại cứ nghĩ rằng, chim sẻ mà cự tử muốn nói là… là người Tần kia!”
Ngụy Huệ Hầu cười vang, ngẩng đầu nhìn tỳ nhân: “Ồ, sao ngươi lại nghĩ là người Tần?”
Tỳ nhân vò đầu bứt tai, cười ngô nghê: “Đầu óc lão nô quả thực chẳng khác gì cán mai, vốn cho rằng Tùy Sào Tử muốn ám chỉ tới chuyện khác, chính là người Tần nhân lúc ta đại chiến chư hầu ở biên giới Vệ, khởi binh tấn công đoạt lại Hà Tây!”
Ngụy Huệ Hầu chỉ tay vào tỳ nhân, cười ngất mà nói với Trần Chẩn: “Trần ái khanh xem kìa, còn nói gì được nữa! Đầu óc kẻ này quả đúng là cán mai, nếu muốn khai khiếu, chắc phải lấy rìu chẻ đôi!”
Trần Chẩn cũng cười ha hả, phụ họa: “Bệ hạ nói chí phải! Tần, Ngụy hiện nay thân thiết như người một nhà, làm gì có chuyện đánh lén Hà Tây? Tùy Sào Tử nếu có ý này, hẳn chỉ là dọa dẫm vu vơ mà thôi!”
Tỳ nhân trong lòng thầm rủa mắng Trần Chẩn, song ngoài mặt vẫn cười nói: “Lão nô nghĩ rằng, không sợ vạn điều, chỉ sợ vạn nhất, bệ hạ nên đề phòng thì hơn!”
Ngụy Huệ Hầu lại cười ha hả, rồi nói: “Nói đầu óc ngươi chẳng khác gì cán mai, ngươi lại càng làm tới! Được rồi, được rồi, quả nhân nghe ngươi, đề phòng vạn nhất!”
Tỳ nhân trong lòng mừng rỡ, vội hô: “Bệ hạ thánh minh!”
Ngụy Huệ Hầu quay sang Trần Chẩn, trầm tư nói: “Trần ái khanh, những điều lão già kia vừa nói, lại khiến quả nhân nghĩ tới một việc!”
“Vi thần xin nghe bệ hạ căn dặn!”
“Con ve nhỏ giờ đây sắp bị bọ ngựa nuốt chửng, đám chim sẻ hẳn cũng sắp hành động rồi. Nếu quả nhân đoán không sai, ba nước Tề, Triệu, Hàn có lẽ đã xuất quân.”
“Nếu đúng là vậy, ta nên chuẩn bị sẵn sàng!”
“Không phải nếu đúng là vậy, mà chắc chắn là vậy!”
Ngụy Huệ Hầu quay sang tỳ nhân, nói chắc như đinh đóng cột. “Truyền mật chỉ cho Long ái khanh, trong vòng ba ngày, dẫn năm vạn quân thiết giáp rời Hà Tây tới bảo vệ Đại Lương. Bất luận con chim sẻ nào dám tới, Long tướng quân sẽ lập tức bẻ gãy cánh!”
Tỳ nhân trợn trừng mắt kinh hãi, miệng há hốc, nói không thành tiếng: “Bệ… bệ hạ… người muốn điều… điều quân thiết giáp… ra khỏi Hà Tây?”
Ngụy Huệ Hầu lại cười vang nói: “Đúng vậy! Chẳng phải ngươi nói cần đề phòng vạn nhất ư? Đây chính là vạn nhất! Đối phó với ba nước lớn, nếu không có quân thiết giáp Hà Tây của Long tướng quân, làm sao có thể? Mau đi soạn chỉ!”
Tỳ nhân đứng đờ đẫn hồi lâu, mãi vẫn không chịu bước đi. Ngụy Huệ Hầu sốt ruột, trừng mắt quát: “Còn không đi mau?”
Tỳ nhân vẫn chưa hết sửng sốt: “Lão… lão nô tuân chỉ!”
Tỳ nhân quay người, vừa vào thư phòng soạn chỉ, bỗng thấy ngự sử đại phu vẫn chầu ở trước điện dẫn tham quân của công tử Ngang hấp tấp bước tới, quỳ xuống bậc tam cấp trước đình, khấu đầu mà nói: “Khởi tấu bệ hạ, thượng tướng quân có chiến báo hoả tốc!”
Tỳ nhân vội vã bước xuống, nhận chiến báo, trình lên Huệ Hầu. Huệ Hầu mở ra, liếc mắt đọc qua, đắc ý vung vẩy chiến báo mấy cái rồi đưa cho Trần Chẩn, nói: “Ái khanh xem đi, quả nhân đoán thực không sai, ba con chim sẻ quả nhiên đã bay thẳng tới biên giới nước Vệ!”
Trần Chẩn nhận thư, cẩn thận đọc xong, bái lạy mà nói: “Bệ hạ liệu sự như thần, vi thần tâm phục khẩu phục!”
Ngụy Huệ Hầu quay sang tỳ nhân, cất giọng sang sảng như chém đinh chặt sắt: “Sửa đổi mật chỉ của Long tướng quân, không phải trong vòng ba ngày, mà là lập tức xuất phát. Không phải di chuyển tới bảo vệ Đại Lương, mà là xuất chinh đến biên giới Vệ!”
Tỳ nhân “vâng” một tiếng, vội vã trở vào thư phòng.
Ngụy Huệ Hầu suy nghĩ một lát, quay sang Trần Chẩn: “Trần ái khanh, quả nhân xưng vương, liệt quốc đều tỏ ý bất mãn. Lần này ba nước cứu Vệ, là muốn ném đá dò đường, thăm dò thực hư của quả nhân. Nếu quả nhân nhún nhường, chúng ắt lấn tới! Lần này không những phải đánh, mà còn phải toàn thắng!”
“Bệ hạ yên tâm. Theo ý của vi thần, chỉ cần khai chiến, bệ hạ tất thắng!”
“Dựa vào đâu mà ái khanh nói vậy?”
“Trong ba nước, quân Tề đông nhất. Thế nhưng quân Tề xưa nay nhu nhược, không đáng sợ! Quân Triệu và quân Hàn tuy dũng mãnh, song cũng khó mà địch lại quân Đại Ngụy của ta! Lần này ba nước xuất binh là có ba dụng ý khác nhau, chẳng qua chỉ là một đám ô hợp mà thôi. Hơn nữa, đối với ba nước, ngoài phản đối chuyện bệ hạ xưng tôn, chúng chẳng được lợi gì, do vậy chưa chắc đã thực sự hết lòng vì Vệ Công.”
Ngụy Huệ Hầu ngẫm nghĩ một lát, chậm rãi nói: “Ái khanh chỉ biết một mà không biết hai. Quân Tề tuy nhu nhược, song tướng Tề Điền Kỵ lại giỏi dùng binh. Ba nước tuy không được ích lợi gì từ Vệ Công, song Vệ là miếng thịt béo, nếu bị quả nhân độc chiếm, Tề Công, Hàn Hầu, Triệu Hầu còn xơ múi được gì đây? Huống hồ, chiến trận lại ở nước Vệ, gần kề với Hàn, Tề, Triệu, quân chi viện nhanh thì ba ngày, mà chậm thì năm ngày là tới. Ngộ nhỡ ba nước liều đánh với quả nhân, quả nhân sao có thể toàn thắng!”
Ngụy Huệ Hầu suy xét thấu đáo, Trần Chẩn vô cùng thán phục: “Bệ hạ thánh minh, vi thần suy nghĩ thực quá nông cạn!”
“Trần ái khanh!” Ngụy Huệ Hầu quả quyết, “nếu muốn toàn thắng, còn cần ái khanh vất vả một chuyến!”
“Vi thần xin nghe!”
“Khanh mang hổ phù, trước hết tới phủ Long tướng quân ở Hà Tây tuyên ý chỉ của quả nhân, lệnh cho Long Giả lập tức xuất quân, gấp rút tới biên giới Vệ. Sau đó cấp tốc đi sứ sang Tần, yết kiến Tần Công, yêu cầu ông ta xuất ba vạn binh, chờ lệnh phạt nghịch!”
“Vi thần lĩnh chỉ!”
Trần Chẩn lập tức lĩnh ngự chỉ, cầm hổ phù điều binh. Một đoàn người ngựa rầm rập đi suốt ngày đêm thẳng tới Thiếu Lương, Hà Tây.
***
Trong thành Thiếu Lương, Công Tôn Diễn ruổi ngựa thẳng tới trước quận phủ Hà Tây, xoay người xuống ngựa, bước thẳng vào trong phủ. Quận thú Long Giả thấy Công Tôn Diễn đã tuần sát biên cương trở về, vội đứng dậy ra đón, hỏi luôn: “Biên cương có động tĩnh gì chăng?”
Công Tôn Diễn bước lại gần, cởi bỏ áo giáp, lẩm bẩm trong miệng: “Thật quái lạ!”
“Chuyện gì quái lạ?”
Công Tôn Diễn bước tới trước sa bàn quân sự, trầm ngâm một lát, chỉ vào sa bàn mà nói: “Long tướng quân, hãy nhìn xem, từ đây tới đây, là đường biên giới dài ba trăm dặm, từ đây đi sâu vào hai mươi dặm, quân Tần đã không phòng bị, thậm chí đến doanh trại vốn có cũng đã dỡ bỏ hết. Tại hạ còn phái vài trăm lính cải trang dân thường vào sâu vào trong nước Tần trăm dặm, cũng không hề phát hiện thấy bóng dáng quân Tần!”
Long Giả ngẫm nghĩ một lát: “Lẽ nào người Tần thực sự muốn kết liên minh?”
“Giấu đầu hở đuôi mà thôi!” Công Tôn Diễn khẽ lắc đầu, “người Tần càng như vậy, càng lộ rõ ý đồ bất trắc. Long tướng quân, không tính số tướng sĩ canh giữ ở các thành ấp, Hà Tây còn bao nhiêu võ binh có thể chiến đấu?”
“Năm vạn! Ngoài ra còn có hai vạn tân binh, là số quân mà tại hạ mới chiêu mộ nhờ khoản tiền quyên tặng của Bạch tướng quốc, hiện đang huấn luyện.”
Công Tôn Diễn mừng rỡ, vội hỏi: “Bao giờ có thể tham gia chiến trận?”
Long Giả trầm ngâm một lát: “Nhanh nhất cũng phải ba tháng!”
“Ba tháng?” Công Tôn Diễn ngẫm nghĩ một lát, rồi ngẩng lên hỏi, “liệu có thể dạy họ học chém giết trong vòng một tháng không?”
Long Giả ngạc nhiên nhìn Công Tôn Diễn: “Trong vòng một tháng?”
“Nếu đúng như tại hạ dự tính, một tháng e rằng cũng đã muộn rồi.”
Long Giả vội vã sai tham tướng cho gọi một vị tướng quân lại, dặn dò hắn gấp rút huấn luyện lính mới, sau đó lập tức bàn chuyện bố trí phòng ngự với Công Tôn Diễn.
Trời sẩm tối, hai người vẫn đang ngồi bàn mưu tính kế. Trước phủ bỗng thấy huyên náo, rồi có người chạy vào bẩm báo Trần Chẩn phụng vương mệnh giá lâm. Công Tôn Diễn do không có quan chức trong triều, đành phải tạm lánh vào phòng bên. Long Giả mở cổng giữa, đích thân dẫn chư tướng Hà Tây nghênh đón đám Trần Chẩn vào phủ.
Vừa bước vào phủ, Trần Chẩn không kịp chào hỏi, đã vội vàng tuyên chiếu thư của Ngụy Huệ Hầu. Sau khi tuyên chiếu xong, Trần Chẩn trình hổ phù, lệnh cho Long Giả lập tức dẫn năm vạn quân giáp trụ Hà Tây phạt Vệ.
Long Giả bàng hoàng quá đỗi, đứng chết lặng hồi lâu không nói được gì.
Trần Chẩn đợi một lát, thấy Long Giả vẫn không lên tiếng, bèn lớn giọng hỏi: “Xin hỏi Long tướng quân, đại quân bao giờ xuất chinh?”
Long Giả giật mình, định thần trở lại, cẩn thận kiểm tra hổ phù, thấy đúng là thực, thì thở dài đánh sượt một tiếng, chậm rãi nói: “Khởi bẩm thượng khanh, điều động đến năm vạn đại quân, chậm nhất cũng cần ba ngày!”
“Quá chậm! Trước khi đi, bệ hạ còn dặn dò kỹ lưỡng, hễ tướng quân nhận được hổ phù, phải lập tức xuất chinh!”
Long Giả liếc xéo ông ta, giọng lạnh tanh: “Trần thượng khanh, ba quân xuất chinh không phải trò đùa, nói đi là đi ngay được! Năm vạn tướng sĩ phân bổ khắp đất Hà Tây, chỉ riêng thông báo khắp lượt, cũng mất một ngày. Ba quân chưa xuất, lương thảo đã phải lên đường trước, ít nhất cũng cần một ngày. Còn nữa…”
Trần Chẩn không đủ kiên nhẫn, cắt ngang lời Long Giả: “Tại hạ không hiểu việc quân, Long tướng quân bất tất phải giải thích dài dòng! Là bệ hạ yêu cầu tướng quân phải lập tức xuất chinh, tại hạ chẳng qua chỉ truyền chỉ mà thôi! Nếu tướng quân tuân chỉ, lập tức thông báo tới bộ tướng, muộn nhất sáng sớm mai lên đường! Nếu tướng quân kháng chỉ, tại hạ cũng không còn gì để nói!”
Long Giả lắp bắp: “Trần Chẩn, ông…”
Trần Chẩn khẽ vòng tay: “Long tướng quân, tại hạ có vương lệnh bên mình, cần tới Tần ngay trong đêm nay, xin cáo từ!” Nói xong, sải bước đi ra.
Trần Chẩn vừa ra khỏi cửa, Công Tôn Diễn vội vã bước ra, giống như Long Giả, nhìn trân trân vào hổ phù và chiếu thư đóng vương tỷ đặt trên bàn.
Long Giả giận dữ nện mạnh nắm đấm xuống mặt bàn, chỉ biết kêu lên một tiếng “Trời ơi!”
Công Tôn Diễn vầng trán chau tít.
Hai người ngồi rầu rĩ hồi lâu, Long Giả chợt ngẩng đầu lên nói: “Tiên sinh xem thế này được không? Trong số chư tướng trấn giữ Hà Tây, thiện chiến nhất là hai tướng Trương Mãnh, Lã Giáp. Tại hạ sẽ để hai người này lại, điều động hai vạn lính mới đi, lưu lại hai vạn võ binh, toàn bộ giao cho tiên sinh!”
Chỉ để lại hai vạn võ binh chống chọi với quân Tần hùng cường, đến bản thân Long Giả cũng thấy chùn lòng, giọng nói gần như không nghe rõ. Công Tôn Diễn trầm ngâm hồi lâu, gật đầu nói: “Đa tạ tướng quân!”
Long Giả quay sang tham quân, nói: “Truyền gọi hai tướng Lã, Trương tới gấp!”
Một lát sau, Lã Giáp, Trương Mãnh hấp tấp vào trong phủ, Long Giả chỉ vào Công Tôn Diễn nói: “Bệ hạ xuống chiếu, lệnh cho bản tướng xuất chinh phía đông, đến biên giới Vệ. Việc phòng thủ Hà Tây đều nghe theo sắp xếp của Công Tôn tướng quân!”
Hai người Lã Giáp, Trương Mãnh đưa mắt nhìn nhau, đồng thanh hô to: “Mạt tướng tuân lệnh!”
Tảng sáng hôm sau, từng đoàn võ binh Hà Tây toàn thân giáp trụ lần lượt rời khỏi Thiếu Lương. Trước phủ tướng quân, Long Giả lòng trĩu nặng, bước ra cổng phủ, mắt nhìn chăm chăm vào Công Tôn Diễn, Trương Mãnh, Lã Giáp và những tướng lĩnh khác đến đưa tiễn.
Một lát sau, Long Giả rút bội kiếm đeo bên thắt lưng, cùng với lệnh bài, ấn soái Hà Tây, giao hết cho Công Tôn Diễn, sau đó đưa mắt nhìn khắp lượt chư tướng, cất giọng uy nghiêm: “Kiếm ở đây, cũng như bản tướng ở đây! Công Tôn tướng quân, bất luận người nào, hễ không nghe lệnh, giết ngay không tha!”
Công Tôn Diễn hai tay đỡ lấy bội kiếm.
“Công Tôn tướng quân! Bạch tướng quốc vào lúc lâm chung, đã giao phó bảy trăm dặm giang sơn Hà Tây cho lão phu, không ngờ lão phu… Than ôi, biết nói gì nữa đây! Hà Tây… lão phu xin giao cả cho tiên sinh!” Long Giả nói xong, từ từ quỳ xuống trước mặt Công Tôn Diễn.
Công Tôn Diễn cũng quỳ xuống, giọng nói nghẹn ngào: “Lão tướng quân!”
Nhìn theo chiến xa của Long Giả dần dần khuất bóng, Công Tôn Diễn bỗng chốc cảm thấy gánh nặng đè trĩu trên vai, tựa hồ không thể trụ nổi. Với Công Tôn Diễn, trách nhiệm đè trên vai, không chỉ là lời uỷ thác của Bạch tướng quốc và Long Giả, mà còn ghi chép của sử gia. Thắng làm vua thua làm giặc, giành được Hà Tây là nhờ Ngô Khởi, ngày nay nếu để người Tần đoạt lại Hà Tây từ tay Công Tôn Diễn, thì cái tên Công Tôn Diễn hẳn sẽ lưu trong sử sách bên cạnh Ngô Khởi. Song khác ở chỗ, Ngô Khởi là người chinh phục, còn Công Tôn Diễn là kẻ thảm bại.
Công Tôn Diễn xưa nay vẫn ngầm so sánh mình với Ngô Khởi, tình thế đẩy đưa Công Tôn Diễn tới bước đường này, quả là nằm mơ cũng không ngờ tới. Nếu có Long tướng quân và năm vạn võ binh, may ra còn có thể chống chọi với quân Tần. Còn lúc này, biết làm thế nào đây? Công Tôn Diễn bất giác rùng mình ớn lạnh.
Ngoài sự chênh lệnh lực lượng quá lớn giữa hai bên, điều Công Tôn Diễn lo sợ nhất chính là mình không phải được quân chủ giao phó trọng trách, cũng không có bất cứ chức tước nào trong triều, duy có thanh bội kiếm tượng trưng do Long Giả để lại. Công Tôn Diễn mới chân ướt chân ráo đến nơi, giờ trong tay không chút thực quyền, chỉ có hai vạn võ binh không rõ có chịu phục tùng mệnh lệnh hay không, khó mà biết được. Khi đại địch áp sát, lòng quân không phục, là điều tối kỵ trong dùng binh.
Thế nhưng, sự thực lù lù ngay trước mắt, dù trời có sập xuống, Công Tôn Diễn cũng phải chống đỡ. Công Tôn Diễn quay trở về phủ, đứng trước sa bàn, trầm ngâm suy nghĩ, rồi sai người gọi các tướng lại, bố trí phòng ngự.
Hai canh giờ sau, các tướng lục tục kéo tới. Công Tôn Diễn ngồi ngay ngắn ở ngôi chủ tướng, đặt bội kiếm của Long Giả trên bàn. Trước mặt Công Tôn Diễn là hai hàng tướng lĩnh, ngồi đầu hàng bên trái là Trương Mãnh, bên phải là Lã Giáp.
Công Tôn Diễn hắng giọng, rồi cất tiếng sang sảng: “Chư vị tướng quân! Long tướng quân phụng chỉ đông chinh, trước khi ra đi, tướng quân giao phó trọng trách bảo vệ Hà Tây cho tại hạ. Tại hạ chân ướt chân ráo mới đến, mong được chư vị tướng quân ủng hộ.”
Các tướng đưa mắt nhìn nhau, hồi lâu vẫn không ai lên tiếng. Trước bầu im lặng nặng nề, Công Tôn Diễn lại đặng hắng lần nữa, đang định lên tiếng thì một tướng quân ngồi bên dưới Lã Giáp nói lớn: “Mạt tướng xin hỏi, chúng tôi nên gọi ông là tiên sinh hay là tướng quân?”
Ý tứ khiêu khích rất rõ ràng. Công Tôn Diễn đưa ánh mắt lạnh lùng nhìn khắp lượt tướng lĩnh, rồi dừng lại trên mặt người này, đưa một tay ra, nắm lấy ấn soái dưới bàn, đặt đánh “cạch” lên mặt bàn, lại quét mắt khắp lượt chư tướng, ngữ khí tuy chậm rãi, song chắc nịch như sơn: “Chư vị tướng quân! Chư vị có thể gọi tại hạ là tiên sinh, cũng có thể gọi tại hạ là tướng quân, có điều…” vừa nói vừa chậm rãi rút thanh bội kiếm của Long Giả ra, đưa tay vuốt theo lưỡi kiếm, rồi đột ngột gằn giọng, “nếu ai không nghe quân lệnh, để lỡ thời cơ, tại hạ tuyệt đối không dung! Không giấu chư vị, trước khi Long tướng quân ra đi, đã giao cho tại hạ quyền tiền trảm hậu tấu! Ai không tin, cứ hỏi hai vị tướng quân Lã Giáp và Trương Mãnh!”
Trương Mãnh gật đầu nói: “Chư vị tướng quân, Long tướng quân trước khi ra đi, quả thực đã giao toàn quyền bảo vệ Hà Tây cho Công Tôn tướng quân, mong chư vị phục tùng mệnh lệnh!”
Chư tướng đồng thanh hưởng ứng: “Mạt tướng xin nghe lệnh Công Tôn tướng quân!”
Công Tôn Diễn gật gật đầu, lại cất giọng sang sảng: “Chư tướng đã canh giữ Hà Tây bao năm, phòng ngự thế nào, bản tướng không cần nói nhiều. Chư vị tướng quân!”
Các tướng đồng loạt đứng dậy: “Có mạt tướng!”
“Chư vị đều đã biết, kẻ địch của chúng ta chỉ có một, chính là người Tần. Từ thời khắc này, bản tướng tuyên bố, Hà Tây tích cực phòng bị, sẵn sàng ứng chiến! Bất luận khi nào, hễ chiến sự xảy ra, mọi người phải lập tức bày trận chờ sẵn, lấy thủ làm công, không được ra khỏi thành nghênh địch, không được bỏ trận mà chạy. Ai không làm tròn bổn phận, chém!”
Các tướng đồng loạt đáp lời: “Mạt tướng nhận lệnh!”
Công Tôn Diễn quay sang Lã Giáp: “Lã tướng quân!”
“Có mạt tướng!”
“Bản tướng giao cho tướng quân một vạn người ngựa, trấn giữ tuyến trường thành, Lạc Thủy. Trường thành, Lạc Thủy là tuyến phòng thủ đầu tiên của ta, vô cùng quan trọng, mong tướng quân ngày đêm canh giữ cẩn mật, lính không được cởi giáp, ngựa không được tháo yên. Phát hiện thấy địch, lập tức đốt lửa hiệu!”
“Mạt tướng nhận lệnh!”
Công Tôn Diễn nhìn sang Trương Mãnh: “Trương tướng quân!”
“Có mạt tướng!”
“Ba nơi Âm Tấn, Lâm Tấn quan, Thiếu Lương là gốc của Hà Tây, không thể để mất! Bản tướng giao cho tướng quân năm nghìn người ngựa canh giữ Âm Tấn, năm nghìn người ngựa trấn thủ Lâm Tấn quan. Còn Thiếu Lương, bản tướng đích thân chỉ huy tướng sĩ giữ thành trấn thủ.”
“Mạt tướng nhận lệnh!”
Nghe xong quân lệnh, đám tướng kéo nhau ra khỏi phủ tướng quân. Vừa ra khỏi cửa, viên tướng vừa lên tiếng khiêu khích khi nãy nhổ toẹt ngay xuống đất mà nói: “Phì! Lấy lông gà làm lệnh tiễn, ra vẻ ta đây!”
Một tướng quân khác ca thán theo: “Lã tướng quân, hiện tại trời yên biển lặng, chẳng có chuyện quái gì, thế mà kẻ này… rõ ràng là muốn bày trò hành hạ chúng ta!”
Hai tướng này đều là thuộc hạ của Lã Giáp. Lã Giáp là tướng trấn thủ Hà Tây, rất được Long Giả trọng dụng. Lần này Long Giả phụng chỉ đông chinh, Lã Giáp vốn cho rằng Long Giả sẽ giao lại Hà Tây cho mình canh giữ, không ngờ từ trên trời rơi xuống một Công Tôn Diễn, khiến hắn vô cùng bực bội. Nghe thấy những lời gièm pha, hắn cũng gật đầu than thở: “Than ôi, một gia nô phủ tướng quốc cũng tới đây chỉ tay năm ngón, Đại Ngụy đúng là hết người rồi!”
Trương Mãnh vốn định trách móc hai vị tướng quân ăn nói càn quấy, song thấy Lã Giáp cũng nói vậy, đành dịu giọng: “Hiện Long tướng quân không có ở đây, Hà Tây trống rỗng, là thời khắc hệ trọng, tôi thấy Công Tôn tướng quân sắp xếp như vậy, tuyệt không phải hạng tầm thường. Chư vị tướng quân hãy lấy đại cục làm trọng, phục tùng mệnh lệnh, canh phòng cẩn mật mới là thượng sách!”
Đám Lã Giáp thấy Trương Mãnh lên tiếng, cũng thôi không nói gì nữa, nín giận bước về chỗ buộc ngựa, nhảy lên yên ngựa phi đi.
Sau khi chư tướng đi khỏi, Công Tôn Diễn càng nghĩ càng lo, bèn gọi một tham tướng, hai hộ vệ lại, trước hết đi tuần tra một vòng tình hình phòng ngự ở Thiếu Lương, sau đó phi ngựa tới vùng trọng ải Lâm Tấn tuần tra một lượt, rồi lại tiếp tục tới Lạc Thủy.
Ở đây mới là nơi trọng yếu nhất mực. Công Tôn Diễn trong lòng hiểu rõ, đối thủ thực sự chính là ở bờ bên kia.
Lúc này đang là tháng sáu âm lịch, mùa mưa đã tới, Lạc Thủy nước dâng cao đột ngột. Nghĩ tới nước sông cuồn cuộn, Công Tôn Diễn cũng thấy an tâm đôi chút. Trải qua vài chục năm xây dựng, hiện ở ven sông Lạc Thủy, quân Ngụy cứ cách ba dặm dựng một chòi gác, năm dặm xây một thành luỹ. Hiện tại, chỉ cần đề cao cảnh giác, canh phòng cẩn mật, tuy không thể cản bước quân Tần, song nếu phát hiện kịp thời quân địch ngay khi chúng vừa hành động, sẽ hỗ trợ được cho tuyến phòng ngự thứ hai là trường thành, tranh thủ được thời gian quý báu để chuẩn bị tác chiến.
Thế nhưng, khi Công Tôn Diễn rời khỏi Lâm Tấn quan, thúc ngựa dọc theo Lạc Thủy đi về phía tây, nhìn cảnh ven đường, trong lòng bất giác run sợ. Các chòi canh không một bóng người, các thành luỹ hầu như không thấy lính Ngụy.
Công Tôn Diễn nén giận trong lòng, tiếp tục tuần tra. Khi tới Đại Lệ quan, cơn giận đã bốc lên tới tận đỉnh đầu.
Đại Lệ quan là bến đò quan trọng của Lạc Thủy, cũng là cửa khẩu then chốt nối thông Tần Ngụy, việc buôn bán, qua lại giữa hai nước đều theo lối này. Chính vì vị trí của nó rất quan trọng, nên Long Giả đã xây dựng ở đây một cửa quan kiên cố, chưa nói đến thành cao tường dày, bên trong còn tích trữ một lượng lớn vật tư phục vụ chiến tranh, dù bị bao vây hoàn toàn, vẫn có thể cố thủ trong vòng một tháng.
Vậy mà, cảnh tượng đập vào mắt Công Tôn Diễn lúc này lại là, bên ngoài cửa quan đã trở thành một khu chợ tạm, nông dân gần xa tới đây bày bán đủ loại hàng hoá, người Tần nườm nượp từ bờ bên kia Lạc Thủy kéo sang, vượt qua cửa quan không người canh giữ, vào đến tận đây, hoặc mua hoặc bán, bận bịu luôn tay. Công Tôn Diễn nhớ rõ rành rành, chỉ vài ngày trước, nơi đây vẫn là thành luỹ nghiêm ngặt.
Công Tôn Diễn xoay người xuống ngựa, đưa dây cương cho thị vệ đi theo, sắc mặt lạnh tanh bước vào cửa quan.
Cửa quan mở toang, bên trong trống trải, không một bóng người. Phía sau là khu doanh trại, binh sĩ túm năm tụm ba thành từng nhóm, hoặc cười nói, hoặc uống rượu, hoặc chơi đùa dưới tán cây. Trên bãi cỏ rộng cắm rất nhiều cọc tre lộn xộn, giữa các cọc tre chăng dây thừng mảnh, phơi phóng đủ thứ chăn đệm. Một quân uý ôm hai tấm đệm trước ngực, ung dung bước ra khỏi cổng trại, tiến về phía bãi cỏ.
Công Tôn Diễn sắc mặt tối sầm, lớn giọng gọi quân uý: “Lại đây!”
Nhìn thấy Công Tôn Diễn toàn thân giáp trụ, quân uý lập tức quăng đệm, quỳ xuống: “Thủ uý Đại Lệ quan Lục Tam bái kiến tướng quân!”
Công Tôn Diễn liếc mắt nhìn hắn, nghiêm giọng hỏi: “Quan lệnh của các ngươi đâu?”
“Khởi bẩm tướng quân, quan lệnh vốn là Lý tướng quân, mấy ngày trước đã theo Long tướng quân đông chinh. Ba hôm trước, Lã tướng quân phái Triệu Lập tướng quân tạm thời canh giữ ở đây!”
“Triệu Lập đâu rồi?”
Lục Tam do dự một lát, rồi chỉ tay vào trong lều: “Khởi bẩm tướng quân, Triệu tướng quân uống rượu say, đang ngủ trong lều!”
Công Tôn Diễn sắc mặt lạnh tanh: “Gọi hắn ra đây!”
Lục Tam chạy vội vào trong lều, một lát sau, đã thấy bước ra, dẫn theo một kẻ còn ngái ngủ, khắp người nồng nặc mùi rượu, loạng choạng tiến lại phía trước mặt Công Tôn Diễn, chẳng buồn ngẩng đầu, lớn giọng quát nạt: “Ai muốn gặp bản tướng?”
Công Tôn Diễn đưa mắt nhìn hắn, té ra chính là tay tướng quân từng cất lời khiêu khích trong buổi gặp mặt hôm trước, thì cười khẩy mà nói: “Ngươi là Triệu Lập, quan lệnh của Đại Lệ quan?”
Triệu Lập là một trong ngũ hổ tướng dưới quyền Lã Giáp, rất phục tùng Lã Giáp. Thấy Lã Giáp không phục Công Tôn Diễn, nên bản thân hắn cũng chưa từng coi viên thú thừa tạm thời này là gì, hôm nay lại uống say mèm, thái độ càng thêm ngạo mạn, chưa nói tới chuyện quần áo xộc xệch nghênh tiếp quan trên, mà khi gặp mặt cũng không bái lạy, còn ngửa cổ mà nói: “Mạt tướng bái kiến thú thừa tạm thời!”
Triệu Lập cố ý kéo dài hai chữ “tạm thời”. Công Tôn Diễn nét mặt vẫn lạnh lẽo, chỉ cười nhạt một tiếng, không biểu lộ thái độ gì: “Bản tướng hỏi ngươi, trong Đại Lệ quan có bao nhiêu quân sĩ?”
“Hồi bẩm thú thừa tạm thời, trong Đại Lệ quan vốn có ba nghìn quân sĩ, ba ngày trước Lý tướng quân dẫn hai nghìn quân theo Long tướng quân đông chinh, còn lại hơn nghìn. Lã tướng quân lại sai mạt tướng tăng cường một nghìn quân, hiện tại có tổng cộng hai nghìn quân.”
Công Tôn Diễn đổi ngay sắc mặt, nghiêm giọng hỏi: “Vẫn còn hai nghìn tướng sĩ, vì sao không bố trí canh phòng quan ải?”
Triệu Lập không chịu lép vế, đanh giọng vặc lại ngay: “Hồi bẩm thú thừa tạm thời, phía bờ bên kia, cửa quan bên Tần đã thôi canh phòng từ lâu, lính Tần cũng không thấy một mống, chúng tôi canh phòng, là canh phòng ai đây?”
Công Tôn Diễn gắng kìm lửa giận trong lòng: “Bản tướng hỏi ngươi, ai ra lệnh cho ngươi thôi canh phòng cửa ải?”
Triệu Lập gân cổ ngang tàng: “Không ai ra lệnh!”
Công Tôn Diễn cười nhạt: “Nói như vậy, là ngươi tự ý thôi canh phòng cửa ải?”
“Là bản tướng tự ý, thú thừa muốn thế nào đây?”
“Ta lại hỏi ngươi, theo luật pháp Đại Ngụy, tướng sĩ canh giữ cửa ải tự ý rời bỏ vị trí, xử tội thế nào?”
Triệu Lập khinh khỉnh không nói.
Công Tôn Diễn nhìn sang Lục Tam, nghiêm giọng hỏi: “Quân uý Lục Tam, ngươi biết chứ?”
Lục Tam liếc nhìn Triệu Lập, lắp bắp nói: “Bẩm… bẩm tướng quân, theo luật hiện thời… chém!”
“Người đâu, bắt Triệu Lập lại!”
Thị vệ đi theo Công Tôn Diễn xông tới, chẳng nói chẳng rằng túm lấy Triệu Lập, trói gô lại.
Triệu Lập giậm chân quát mắng: “Ngươi chỉ là một gia nô trong phủ tướng quốc, dám làm gì ông đây?”
“Không dám?” Sắc mặt Công Tôn Diễn sầm xuống, “mấy hôm trước, bản tướng đã nói, trước khi Long tướng quân xuất chinh, đã giao cho bản tướng quyền tiền trảm hậu tấu. Ngươi thân là quan lệnh, đã không trấn giữ cửa ải, còn tự ý bỏ canh phòng, phạm vào tội chết!” Quay sang Lục Tam, “đánh trống, triệu tập toàn thể tướng sĩ, cùng xem xử trảm Triệu Lập!”
Lục Tam “vâng” một tiếng, lập tức chạy về doanh trại. Loáng cái, đã nghe tiếng trống dồn dập. Một lúc sau, phó tướng và toàn thể binh lính của Đại Lệ quan giáp trụ chỉnh tề hộc tốc chạy tới, đứng chật kín cả thao trường bên trong Đại Lệ quan.
Triệu Lập đã sợ đến tỉnh rượu, sắc mặt trắng bệch, lao về phía một tham tướng, hét lên: “Lão Mục, mau, mau gọi Lã tướng quân cứu ta!”
Tham tướng vừa nhấc chân định đi, Công Tôn Diễn đã nghiêm giọng quát: “Đứng lại!”
Tham tướng hai chân run lẩy bẩy, đứng im tại chỗ không dám nhúc nhích.
Công Tôn Diễn nhìn Triệu Lập với ánh mắt khinh thường: “Triệu tướng quân, bản tướng nói cho ngươi biết, việc đã đến nước này, đừng nói là Lã tướng quân, dù bệ hạ giá lâm, cũng không cứu nổi ngươi đâu! Đao phủ!”
Hai đao phủ đồng thời bước ra, một trái một phải đứng bên Triệu Lập. Cho tới lúc này, Triệu Lập mới thấy kinh hoàng, vội quỳ thụp xuống đất, run rẩy van xin: “Công Tôn tướng quân, mạt… mạt tướng… bị oan!”
Công Tôn Diễn lạnh lùng nhìn hắn: “Nói đi, ngươi có gì oan uổng?”
Triệu Lập lết lên trước một bước, vội vàng bẩm báo: “Hồi bẩm Công Tôn tướng quân, mạt tướng vốn có bố trí canh phòng. Song chiều hôm kia, Trần thượng khanh đi sứ sang Tần, khi qua nơi này, thấy đám mạt tướng canh phòng vất vả, bèn nói nhỏ với mạt tướng rằng, ‘Ngụy Tần đã là một nhà, không cần thiết phải canh phòng nghiêm ngặt nữa. Tháng trước Tần Ngụy đã kết liên minh, người Tần bờ bên kia cũng đã bỏ canh gác.’ Mạt tướng thấy thượng khanh nói cũng có lý, mới hạ lệnh bỏ canh phòng, cho anh em nghỉ ngơi vài bữa.”
“Ngươi đúng là hạng chấp mê bất ngộ!” Nghe những lời này, Công Tôn Diễn càng thêm phẫn nộ. “Vài ngày trước, bản tướng đã ra lệnh ở Thiếu Lương rằng, Hà Tây tích cực phòng bị! Ở vùng quan khẩu, lính càng không được buông giáo mác, ngựa càng không được tháo yên cương. Ngươi thân là quan lệnh, không nghe quân lệnh, lại nghe lời vu vơ của triều quan qua đường, đã đáng xử tội chết! Tạm chưa tính đến tội này, theo luật pháp Đại Ngụy, lính ở quan khẩu không được uống rượu, ngươi không những uống rượu, mà còn say bí tỉ, lại là một tội. Ngươi thân là chủ tướng trấn giữ quan khẩu, biết luật pháp mà lại phạm pháp, coi thường quan trên, ăn nói phạm thượng, chết vẫn chưa hết tội, còn kêu oan nữa ư?”
Triệu Lập không còn lời phản bác, dập đầu mà nói: “Mạt tướng biết tội!”
Công Tôn Diễn cười nhạt: “Biết thì đã muộn!” Rồi quay sang đao phủ. “Hành hình!”
***
Trong lúc Công Tôn Diễn xử trảm quan lệnh Đại Lệ quan Triệu Lập, trong điện Di Tình cung Tần, lại diễn ra một cảnh tượng khác hẳn.
Điện Di Tình là nơi Tần Hiếu Công thượng triều xử lý chính sự, bài trí trần thiết hoàn toàn theo ý Hiếu Công. Trong điện, bên trái vốn là giá binh khí, bày đủ các loại binh khí mà Hiếu Công yêu thích. Hiếu Công từ nhỏ đã ham mê võ thuật, tuy võ nghệ không có gì nổi trội, song lúc nào cũng bày đủ mười tám loại binh khí, mà sưu tập binh khí trong thiên hạ cũng là một sở thích của Hiếu Công. Song không biết giá binh khí đã được âm thầm dỡ bỏ từ lúc nào, thay vào đó là sa bàn về tình hình Hà Tây của nước Ngụy.
Lúc này, Tần Hiếu Công đang cùng vài trọng thần đứng trước sa bàn, sắc mặt nghiêm nghị, nhìn quốc uý Xa Anh không chớp mắt.
Xa Anh tay cầm cây thước dài, chỉ lên sa bàn giảng giải: “Long Giả nhận được chiếu lệnh của Ngụy Vương, năm ngày trước đích thân dẫn năm vạn quân thiết giáp Hà Tây tiến về phía đông đến biên giới Vệ, Hà Tây hiện chỉ còn lại không tới hai vạn quân canh giữ. Một vạn quân trấn giữ Lạc Thủy, trường thành, thủ tướng là Lã Giáp; một vạn còn lại trấn giữ ở các thành ấp, cửa quan tại Hà Tây. Tướng sĩ ở cửa quan phía ta đã phụng mệnh đại lương tạo, lui về trăm dặm, quân trấn thủ Hà Tây thấy ta không có người phòng vệ, cũng tự ý rời bỏ vị trí. Thám mã vừa báo về, lính Ngụy ở Đại Lệ quan đã bỏ canh gác rồi!”
Nghe được tin này, quần thần phấn khởi ra mặt. Tần Hiếu Công gật gù, giọng hừng hực khí thế: “Hay lắm, quả nhân chỉ mong đợi chuyện này!”
Quần thần thấy Hiếu Công lên tiếng, lập tức đứng nghiêm trang, ánh mắt đều hướng về Hiếu Công. Hiếu Công đưa mắt nhìn khắp lượt quần thần, cất giọng sang sảng: “Chư vị ái khanh, mười tám năm trước, tiên quân và người Ngụy đại chiến Hà Tây, máu nhuộm Lạc Thủy. Mười tám năm qua, quả nhân ôm mối nhục này, biến pháp đồ cường, những mong có được trận chiến hôm nay!”
Quần thần đồng thanh đáp: “Mối thù Hà Tây, không đội trời chung, xin chúa thượng hạ chỉ!”
Tần Hiếu Công giọng càng ngân vang như chuông: “Chư vị ái khanh, báo thù rửa nhục, đã tới lúc rồi! Các khanh nghe lệnh!”
Quần thần mắt nhìn Tần Hiếu Công không chớp.
“Phong đại lương tạo Công Tôn Ưởng là chủ tướng phạt Ngụy, quốc uý Xa Anh là phó tướng phạt Ngụy, thái tử Doanh Tứ là giám quân, thượng đại phu Cảnh Giám phụ trách bang giao, thái phó Doanh Kiền phụ trách lương thảo. Dốc toàn quốc lực, quyết chiến một trận với Ngụy ở Hà Tây.”
Công Tôn Ưởng, Xa Anh, Doanh Tứ, Cảnh Giám và Doanh Kiền đồng thanh đáp: “Vi thần nhận mệnh!”
Chính vào lúc này, nội thần hộc tốc chạy vào, nói là ngũ đại phu Sư Lý Tật cầu kiến. Tần Hiếu Công liếc sang Công Tôn Ưởng, khẽ nói: “Truyền vào!”
Một lát sau, Sư Lý Tật vội vã bước vào, dập đầu tâu: “Khởi bẩm chúa thượng, sứ Ngụy là Trần Chẩn đang tới triều, cách Hàm Dương không đầy trăm dặm!”
“Trần Chẩn?” Tần Hiếu Công thoáng kinh ngạc, “hắn tới đây làm gì?”
Công Tôn Ưởng nghe thấy tin này, sắc mặt hớn hở, bước lên tấu rằng: “Khởi tấu chúa thượng, Trần Chẩn tới đây, hẳn là muốn hai tay dâng tặng Hà Tây cho chúa thượng!”
Tần Hiếu Công ngạc nhiên nhìn Công Tôn Ưởng: “Hai tay dâng tặng quả nhân?”
Công Tôn Ưởng gật đầu: “Ba nước Tề, Triệu, Hàn liên thủ cứu Vệ, Ngụy Anh tuy phái Long Giả đông chinh, song thực lực chưa đủ mạnh, lần này phái Trần Chẩn tới, hẳn là muốn chúa thượng xuất quân cứu viện!”
Tần Hiếu Công như chợt bừng tỉnh: “Ý ái khanh là, quả nhân có thể dùng kế Mượn đường diệt Quắc(1), mượn đường Hà Tây, một đòn chiếm gọn!”
Công Tôn Ưởng mỉm cười nói: “Trần Chẩn là khâm sai thượng quốc, chúa thượng nên hạ cố ra ngoài thành tiếp đón, đối xử với hắn theo nghi lễ thượng quốc!”
Tần Hiếu Công cười vang: “Ái khanh nói rất phải, khâm sai thượng quốc tới, quả nhân sẽ đích thân ra ngoài thành nghênh tiếp!”
Cờ quạt bay rợp, tiếng nhạc rộn ràng, Tần Hiếu Công dẫn theo văn võ bá quan ra tận ngoài thành ba mươi dặm cung kính chờ đón, đích thân nắm tay Trần Chẩn dẫn lên xe. Đoàn tuỳ tùng của Trần Chẩn cũng được đón tiếp long trọng, chia nhau lên xe của Công Tôn Ưởng, thái tử Tứ, Cảnh Giám, từ từ tiến vào Hàm Dương trong tiếng đàn sáo tưng bừng.
Trời vừa sẩm tối thì tới thành Hàm Dương. Tần Hiếu Công đích thân mở tiệc chiêu đãi Trần Chẩn. Trong bữa tiệc, Trần Chẩn nói rõ ý nguyện của Ngụy Vương, Tần Hiếu Công đồng ý ngay không hỏi thêm nửa lời. Trần Chẩn vui mừng khôn xiết, tối đó uống say túy lúy.
Sáng hôm sau, Trần Chẩn tỉnh rượu, lập tức cáo biệt Tần Công, về thẳng An Ấp, chưa kịp về phủ đã tới ngay cung cầu kiến Huệ Hầu, dập đầu nói: “Vi thần phụng chỉ đi sứ sang Tần, hôm nay đã trở về, không kịp hồi phủ, lập tức tới phục mệnh bệ hạ!”
Ngụy Huệ Hầu thấy Trần Chẩn mặt mày hớn hở, biết là được việc, cười ha hả mà nói: “Ái khanh bình thân!”
Trần Chẩn tạ ơn, đứng dậy ngồi vào chỗ. Ngụy Huệ Hầu nhân tiện hỏi thăm: “Tần Công bệnh tình đỡ chưa?”
Trần Chẩn ngẩn người, giờ mới nhớ hôm đại lễ ở Phùng Trạch, Tần Công cáo bệnh không tới, bèn cười nói:
“Khởi bẩm bệ hạ, Tần Công đã hồi phục rồi! Tần Công nghe vi thần phụng chiếu đi sứ, đích thân hạ cố ra tận ngoài thành ba mươi dặm nghênh đón, đối đãi với thần theo nghi lễ thượng quốc, vô cùng long trọng!”
Ngụy Huệ Hầu thoáng chút kinh ngạc: “Gì cơ? Doanh Cừ Lương ra ngoài thành ba mươi dặm nghênh đón?”
“Đúng vậy! Tần Công đích thân nắm tay vi thần, mời lên xe. Trên đường đi, Tần Công luôn miệng nhắc tới đại lễ ở Phùng Trạch, than thở hôm đó trời không chiều lòng người, khiến mình không thể tới Phùng Trạch chứng kiến sự uy nghiêm của bệ hạ, lấy làm tiếc nuối!”
Ngụy Huệ Hầu nghe xong, khẽ thở dài một tiếng, nói: “Không giấu ái khanh, trong buổi đại lễ Phùng Trạch, quả nhân không thấy Tần Công tới, trong lòng cảm thấy bực bội. Giờ đây, xem ra quả nhân đã hiểu lầm Tần Công rồi! Việc mượn binh lần này, Tần Công có khước từ không?”
Trần Chẩn mặt tươi hớn hở: “Vi thần vừa nhắc tới chuyện này, Tần Công đã đồng ý ngay, nói rằng Tần là nước phụ thuộc Đại Ngụy, bệ hạ chỉ đâu thì đánh đó. Tần Công còn nói, nước Tần hiện có tám vạn binh mã, ngoài ba vạn trấn giữ ở phía tây, năm vạn còn lại sẽ nghe theo sự sai khiến của bệ hạ. Tần Công tức tốc phong Công Tôn Ưởng làm chủ tướng, Xa Anh làm phó tướng, muốn vi thần bẩm lên bệ hạ, hễ bệ hạ có chỉ, lập tức xuất binh!”
Ngụy Huệ Hầu không ngớt cảm khái: “Hay lắm, hay lắm! Tần Công hiểu được đại cục, quả thực hiếm có! Trần ái khanh, theo ý khanh, người Tần nên xuất binh lúc nào là thích hợp?”
“Vi thần cho rằng, tạm thời hãy để người Tần vượt Lạc Thủy, đóng quân ở Hà Tây, nhằm quan sát chiến cục Sơn Đông. Nếu Long tướng quân thắng trận, quân Tần không cần xuất binh. Ngộ nhỡ Long tướng quân gặp nguy khốn, có thể phái quân Tần về đông trợ chiến, một đòn định cục thế Sơn Đông!”
Ngụy Huệ Hầu gật gù nói: “Cứ làm theo lời tấu của ái khanh, chiếu lệnh cho người Tần vượt Lạc Thủy phía bắc! Lại chiếu lệnh cho quân trấn thủ Hà Tây, để họ tiếp đón quân Tần chu đáo!”
“Vi thần lĩnh chỉ!”
Khi chiếu mệnh của Ngụy Huệ Hầu tới phủ tướng quân Hà Tây, Công Tôn Diễn hai mắt chết trân, mặt cắt không còn hạt máu, chỉ muốn khóc rống lên thành tiếng.
Công Tôn Diễn quả thực không hiểu nổi vị vua hồ đồ này, dường như thiên hạ Đại Ngụy không phải là của ông ta. Mấy ngày qua, Công Tôn Diễn đã lao tâm khổ tứ, chỉnh đốn lại tuyến phòng thủ Lạc Thủy và Đại Lệ quan, cũng đã giải thích với Lã Giáp về chuyện xử chém quan lệnh Triệu Lập. Về chuyện Triệu Lập phạm quân luật, Lã Giáp trong lòng cũng thấy khó chịu, song ngoài mặt không dám nói ra. Tuyến phòng thủ vừa hơi khởi sắc chút ít, lại thình lình nhận được chiếu lệnh của Ngụy Huệ Hầu, khác nào mọi nỗ lực của Công Tôn Diễn đều đổ xuống sông xuống biển.
Tham mưu đứng hầu bên cạnh sốt ruột nhìn Công Tôn Diễn.
Hồi lâu, Công Tôn Diễn mới ngẩng đầu lên, thở dài một tiếng, rút lấy thanh bảo kiếm mà Bạch Khuê ban tặng, vuốt nhẹ ngón tay theo lưỡi kiếm.
Tham quân khẽ hỏi: “Tướng quân, chúng ta phải làm thế nào đây?”
Công Tôn Diễn khẽ lắc đầu, gượng cười mà nói: “Trời làm mất Hà Tây, trời lấy mạng Công Tôn Diễn, ngươi bảo ta phải làm sao đây? Triệu tập các tướng vào trại nghe lệnh, tuyên đọc chiếu chỉ mở cửa Đại Lệ quan, nghênh tiếp người Tần chiếm đoạt Hà Tây!”
Tham mưu kinh ngạc: “Tướng quân?”
Công Tôn Diễn lại thở dài: “Đi đi! Hà Tây đã là của người Tần, chúng ta có đánh hay không, cục diện vẫn là như vậy!”
Tham mưu tuân lệnh, lê bước chân nặng nề đi ra.
Sau khi chư tướng đã tề tựu đông đủ trong trại, Công Tôn Diễn đọc qua chiếu thư, ra lệnh cho tướng canh giữ Đại Lệ quan mới bổ nhiệm mở cửa quan đón Tần, cho phép quân Tần đóng trại bên ngoài trường thành giữa Đại Lệ quan và Lâm Tấn quan đợi lệnh, chờ chiếu chỉ xuống sẽ qua Lâm Tấn quan vượt Hà Thuỷ.
Truyền xong chiếu thư, Công Tôn Diễn chỉ giữ lại Lã Giáp và Trương Mãnh, khẽ thở dài một tiếng, chậm rãi nói: “Hai vị tướng quân trấn giữ Hà Tây đã lâu, bản thân cũng hiểu rõ người Tần. Nếu tại hạ đoán không lầm, người Tần hẳn là đang dùng kế Mượn đường diệt Quắc, mục đích thực sự của họ không phải là đông chinh, mà là thôn tính Hà Tây của ta!”
Lã Giáp hừ mũi một tiếng, nói: “Tướng quân dựa vào đâu mà nói vậy?”
Công Tôn Diễn biết hắn không phục, đành giải thích rõ: “Lã tướng quân, nếu quân Tần thực sự muốn đánh về đông, cớ gì phải vượt Lạc Thủy lên phía bắc? Họ hoàn toàn có thể men theo phía nam Lạc Thủy, qua Âm Tấn về đông, ra khỏi Hàm Cốc, đi theo đường cũ Hào Hàm, vì đó là con đường gần Đại Lương nhất. Song người Tần lại muốn vượt Lạc Thủy lên phía bắc, qua Lâm Tấn quan vượt Hà Thuỷ sang phía đông, chuyện này phải giải thích thế nào đây?”
Lã Giáp, Trương Mãnh đều là người tinh thông quân sự, chuyện này liếc qua đã hiểu ngay, bởi vậy đưa mắt nhìn nhau, chẳng ai nói được lời nào.
Công Tôn Diễn lại nhìn hai người: “Lã tướng quân, bệ hạ đã ban bố chiếu thư này, tuyến phòng thủ Lạc Dương không cần nói đến nữa. Trước mắt cần chú trọng tới trường thành, mong tướng quân tăng cường phòng thủ, chú ý nhất cử nhất động của người Tần.”
Lã Giáp đáp một tiếng thờ ơ, rồi nói: “Công Tôn tướng quân nếu không dặn dò gì thêm, mạt tướng cáo lui!” Rồi không đợi Công Tôn Diễn nói thêm lời nào, tự động đứng dậy, sải bước ra khỏi cửa phủ.
Trương Mãnh kinh ngạc, đang định gọi Lã Giáp lại, thì Công Tôn Diễn xua tay, khẽ thở dài một tiếng: “Cứ để hắn đi! Đánh cũng thế, mà không đánh cũng thế, trường thành chẳng hy vọng giữ được nữa rồi!”
Trương Mãnh đưa ánh mắt ngờ vực nhìn Công Tôn Diễn, hồi lâu mới nói: “Công Tôn tướng quân, tại hạ chỉ hỏi một câu, tướng quân thực sự cho rằng người Tần tới đây là có âm mưu cướp đoạt Hà Tây của ta?”
Công Tôn Diễn gượng cười: “Trương tướng quân, tin hay không, tướng quân cứ tự mình quan sát! Có điều, tại hạ chỉ muốn nói với tướng quân một câu, dù Hà Tây có mất, thì hai nơi Lâm Tấn quan và Âm Tấn cũng không được để mất! Nếu Âm Tấn bị mất, người Tần sẽ lập tức cắt đứt tuyến đường Hàm Cốc của ta; nếu Lâm Tấn quan bị mất, người Tần lập tức chiếm lĩnh bến đò Hà Thuỷ, cắt đứt Hà Tây, Hà Đông. Tại hạ rất hiểu tướng quân, sở dĩ giao một vạn quân cho tướng quân, là vì rất coi trọng tướng quân, hy vọng tướng quân có thể kiên trì giữ vững hai thành, làm nơi bàn đạp để Long tướng quân thu phục Hà Tây. Mong tướng quân hết sức cẩn trọng, nếu không, tại hạ và tướng quân sẽ thành tội nhân thiên cổ!”
Trương Mãnh trầm ngâm một lát rồi nói: “Thiếu Lương chỉ có năm nghìn quân trấn giữ, tướng quân…”
Công Tôn Diễn khẽ thở dài: “Bạch tướng quốc giao Hà Tây cho Long tướng quân, Long tướng quân lại giao cho tại hạ. Nếu để mất Hà Tây, dù có sống sót, tại hạ cũng còn mặt mũi nào gặp lại tướng quân đây? Còn mặt mũi nào cúng tế vong linh của Bạch tướng quốc đây?”
Trương Mãnh nghe những lời này, trong lòng xúc động, bái lạy sát đất, nghẹn ngào nói: “Tướng quân yên tâm! Chỉ cần mạt tướng còn chút hơi tàn, cũng quyết bảo vệ Âm Tấn, Lâm Tấn quan. Còn tướng quân, cũng chớ nên coi thường tính mạng. Mạt tướng thấy tướng quân là nhân tài của xã tắc, triều đình Đại Ngụy có thể thiếu mạt tướng, song không thể thiếu tướng quân. Dù thế nào, tướng quân cũng hãy vì xã tắc mà bảo trọng!”
“Tướng quân xin đứng dậy!” Công Tôn Diễn vô cùng cảm động, đỡ Trương Mãnh đứng lên, chậm rãi nói, “nghe được lời này của tướng quân, trong lòng Công Tôn Diễn đã được an ủi phần nào! Tướng quân cũng nên thận trọng, Thiếu Lương thành cao hào sâu, lương thảo sung túc, dân cư đông đúc, lại còn có năm nghìn lính giữ thành, Công Tôn Ưởng muốn giết tại hạ, cũng không phải dễ dàng!”
Trương Mãnh nắm chặt tay Công Tôn Diễn: “Tướng quân bảo trọng, mạt tướng cáo từ!”
Trương Mãnh cáo biệt Công Tôn Diễn, cùng với hai hộ vệ thúc ngựa rời khỏi thành, thẳng tiến tới Lâm Tấn quan. Đi được một đoạn, Trương Mãnh sực nhớ ra một việc, vội ghì ngựa quay trở lại, phi thẳng về hướng đông bắc. Ba người ra roi thúc ngựa, chẳng mấy chốc đã tới một trấn nhỏ.
Trấn này gọi là Trương Ấp, ở phía đông bắc Thiếu Lương, cách Thiếu Lương khoảng ba mươi dặm, có gần trăm hộ. Thời Ngụy Văn Hầu, thuộc hạ của Ngô Khởi là tham tướng Trương Hoan do có công lao nên được phong đất ở đây. Sau Trương Hoan, con trai ông là Trương Diệu tuy không giỏi võ nghệ, song lại thạo kinh doanh, trải qua hai mươi năm, đã gây dựng được một cơ ngơi bề thế với hàng trăm thửa ruộng, trở thành một trong những hộ giàu có bậc nhất ở Thiếu Lương. Trương Diệu qua đời, truyền lại gia nghiệp cho con trai Trương Báo. Trương Báo kế thừa tư chất của ông nội, sinh ra đã thích múa gươm khua giáo. Năm mười tám tuổi, cùng với anh em kết nghĩa Trương Mãnh hưởng ứng lệnh nhập ngũ, trở thành võ binh của Đại Ngụy. Mười tám năm trước, Hiến Công chinh phạt Hà Tây, Trương Mãnh là bách phu trưởng, Trương Báo là tham quân của tả quân. Tần Ngụy đại chiến, Trương Báo xả thân vì nước, Trương phu nhân đau đớn tuyệt vọng, đang định treo cổ tự vẫn đi theo Trương Báo, thì vừa hay đứa con trai mới năm tuổi Trương Nghi miệng gọi mẹ chạy vào. Nhìn thấy con trai, Trương phu nhân mới từ bỏ ý định tuẫn thân theo chồng, từ đó một lòng nuôi nấng Trương Nghi khôn lớn. Dòng họ Trương vốn giàu có, lại được Trương Mãnh quan tâm, nên cuộc sống khá đủ đầy. Hiện nay, đại chiến đã tới gần, Trương Mãnh sực nhớ tới Trương gia, có ý muốn tới nhắc nhở một tiếng.
Ba người Trương Mãnh phi ngựa thẳng tới Trương Ấp, dừng lại bên ngoài cửa trạch viện họ Trương. Trương Mãnh để hai hộ vệ đứng đợi ngoài cửa, còn mình vội vã bước vào trong. Nghe thấy tiếng vó ngựa từ xa, lão quản gia Trương bá tức tốc chạy ra nghênh đón, nhận ra Trương Mãnh, bèn quỳ xuống khấu đầu nói: “Lão nô khấu kiến Trương tướng quân!”
Trương Mãnh bước lên, đỡ lão quản gia dậy: “Trương bá, mau đứng dậy!”
Trương Mãnh kéo Trương bá dậy, nhìn khắp một lượt: “Phu nhân đâu?”
“Sáng sớm đã tới Thiếu Lương, nói là mời thầy về dạy Nghi Nhi!”
Trương Mãnh ngạc nhiên hỏi: “Sao lại mời thầy? Ông thầy lần trước đâu rồi?”
Trương bá khẽ lắc đầu, thở dài: “Thiếu gia làm gì có thầy nào dạy nổi? Không giấu tướng quân, ba năm qua, phu nhân ít nhất cũng đã thay đến bảy, tám thầy rồi, chẳng có ai trụ nổi lấy một tháng! Nghi Nhi không ai quản giáo, coi trời bằng vung, đừng nói là ẩu đả đánh lộn, thậm chí cả chuyện trèo tường dỡ ngói nhà người ta cũng dám làm. Phu nhân vì chuyện này ăn không ngon, ngủ không yên. Lần này, nghe nói An Ấp có một ông thầy mới tới Thiếu Lương, học vấn uyên thâm, phu nhân rất ngưỡng mộ, sáng sớm nay lại khăn gói đi mời! Trương tướng quân hãy vào phòng khách ngồi chờ một lát, phu nhân có lẽ cũng sắp về rồi!”
Trương Mãnh đang có việc, còn tâm trí đâu mà ngồi đợi, bèn vòng tay nói: “Tại hạ có việc gấp phải đi ngay, có lời này muốn nhờ Trương bá truyền lại với phu nhân.”
“Tướng quân cứ nói!”
“Người Tần sắp đánh Hà Tây!”
Trương bá sửng sốt: “Chẳng phải bệ hạ vừa kết minh với Tần sao?”
“Đó chỉ là kế che mắt của người Tần mà thôi. Trương bá, lẽ nào ông còn không hiểu người Tần?”
Trương bá gật đầu: “Không giấu tướng quân, nghe nói Ngụy kết minh với Tần, Hà Tây ai cũng hoan hỷ, riêng già này luôn cảm thấy bất an. Hôm nay nghe tướng quân nói vậy, coi như đã sáng tỏ rồi. Xin hỏi tướng quân, lúc nào người Tần đánh tới?”
“Ngày nào thì chưa rõ, nhanh thì dăm ba ngày, mà chậm cũng không quá mươi, mười lăm hôm. Ông hãy nói lại với phu nhân, để phu nhân biết trước mà phòng bị!” Trương Mãnh nói xong, quay người cáo từ.
Trương bá nhìn theo một đoạn, quay trở vào trong sân, dựa lưng ngồi xuống một gốc cây, trầm tư suy nghĩ về biến cố trọng đại này. Ngẫm nghĩ một hồi, Trương bá vẫn chưa tìm ra cách nào, nghe thấy tiếng xe ngựa bên ngoài vọng lại, biết là Trương phu nhân đã về, Trương bá vội vã gọi mấy kẻ hầu lại, xếp hàng đón sẵn ở cửa.
Đám Trương bá vừa sắp xếp xong, xe của Trương phu nhân đã tới trước cổng. Kẻ hầu đã kê sẵn tấm gỗ giẫm chân, Trương phu nhân bước xuống xe, quay người lại, cung kính vái một vái dài vào trong xe, mỉm cười nói: “Tiên sinh, đã tới hàn xá, xin mời!”
Từ trên xe bước xuống một tiên sinh tầm tuổi trung niên. Tiên sinh sau khi đứng vững, cung kính đáp lễ Trương phu nhân: “Phu nhân, mời!”
Trương phu nhân và tiên sinh cùng bước vào cửa viện, tới sảnh đường, cùng ngồi xuống. Trương phu nhân chỉ Trương bá, nói với tiên sinh: “Đây là Trương bá, mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do một mình Trương bá lo liệu. Tiên sinh cần gì, cứ nói với Trương bá!”
Tiên sinh nhìn sang Trương bá, vòng tay cung kính: “Tại hạ xin chào lão quản gia, mọi việc từ nay về sau, còn nhờ lão quản gia giúp đỡ!”
Trương bá đáp lễ, nói: “Lão nô sẵn sàng hầu hạ tiên sinh!”
Trương phu nhân liếc mắt một vòng, quay sang Trương bá hỏi: “Nghi Nhi đâu?”
“Ăn sáng xong, thiếu gia đã đi đâu mất cùng với hai thằng nhỏ rồi, có lẽ cũng sắp về.”
Trương phu nhân khẽ chau mày, lắc đầu nói: “Nó mà tự về thì mặt trời mọc ở đằng tây. Trương bá, ông mau đi tìm, nói với nó rằng ta có việc gấp, gọi nó về ngay!”
Trương bá “vâng” một tiếng, bước ra khỏi cửa.
Nhìn theo bóng Trương bá vội vã chạy ra khỏi viện, Trương phu nhân thở dài một tiếng, hướng sang tiên sinh, cười buồn mà nói: “Nói ra tiên sinh chớ cười, cha của Nghi Nhi mất sớm, bỏ lại chúng tôi mẹ goá con côi. Vốn chỉ mong thằng bé được nên người, song tính khí của nó chẳng ai dạy dỗ nổi, từ sáng tới tối toàn gây chuyện phá phách, khiến ai cũng khiếp vía. Không giấu tiên sinh, trước tiên sinh, dân phụ đã mời về rất nhiều thầy, nhưng chẳng ai trụ nổi. Mong tiên sinh bớt chút sức lực dạy dỗ nó. Chỉ cần nó tiến bộ, dân phụ nguyện trả tiền công gấp đôi!”
Tiên sinh vội nói: “Chuyện của lệnh công tử, tại hạ đã nghe nói tới. Phu nhân yên tâm, khi ở An Ấp, con nhà ai bất luận nghịch ngợm tới đâu, chỉ cần tại hạ xuất hiện, chúng đều ngoan ngoãn nghe lời. Nếu không dạy nổi lệnh công tử, tại hạ đã không dám tới!”
Trương phu nhân lập tức vòng tay vái dài: “Nếu được như vậy, tiên sinh chính là có ân tái sinh với Nghi Nhi, dân phụ nhất định sẽ hậu đáp!”
Trương bá ra khỏi cửa, chưa đi được vài bước đã nhìn thấy một thằng hầu thở hổn hển chạy về. Trương bá chặn nó lại hỏi: “Tiểu Thuận, thiếu gia đâu?”
Tiểu Thuận dừng lại, vừa thở vừa nói: “Bẩm lão quản gia, nguy rồi!”
“Nguy gì, nói mau!”
“Thiếu gia và tiểu nhân đang chơi ở trong rừng phía tây thì thấy có kẻ dẫn theo hơn chục người tới, nói rằng muốn gặp thiếu gia. Tiểu nhân nhìn thấy tình thế bất thường, mới lén bỏ chạy về gọi người tới cứu!”
Trương bá nghi hoặc: “Các ngươi chơi gì ở trong rừng?”
Tiểu Thuận ngần ngừ một lát: “Không… không chơi gì cả! Thấy trên cành cây có một tổ ong vò vẽ lớn, thiếu gia suy tính đã mấy ngày nay, hôm nay định bụng gỡ xuống, còn chưa kịp gỡ, bọn người kia đã…”
Trương bá thở hắt ra một hơi: “Thiếu gia hiện ở đâu?”
Tiểu Thuận chỉ về phía xa: “Thiếu gia… họ đã đi tới bãi đập lúa rồi!”
Trương bá không nói thêm lời nào, cắm cổ chạy thẳng tới bãi đập lúa, Tiểu Thuận bám sát theo sau, giọng khẩn cầu: “Lão quản gia, bọn chúng đông người lắm, để tiểu nhân đi gọi thêm vài người, không thể để thiếu gia bị bắt nạt!”
Trương bá trừng mắt nhìn Tiểu Thuận: “Các ngươi quậy phá như thế chưa đủ, còn muốn gây thêm phiền phức cho phu nhân nữa ư?”
Tiểu Thuận sợ rúm người lại: “Tiểu nhân không dám!”
Tiểu Thuận lật đật chạy theo sau Trương bá, hướng về phía bãi đập lúa.
Khi hai người tới nơi, trên bãi đập lúa, người xem đã quây kín thành vòng, cười nói ồn ào. Ở chính giữa bãi đập lúa, hai thanh niên phục sức sang trọng đang hằm hè nhìn nhau, vẻ không ai chịu nhường ai. Người mặc áo trắng là Trương Nghi, còn người kia mặc áo tía, không biết là người ở đâu, song nhìn vào cách ăn mặc, có thể đoán người này cũng là công tử giàu có, lai lịch hẳn cũng không vừa. Phía sau hắn là hơn chục người hầu cao to lực lưỡng, mặt mũi bặm trợn, nhìn qua đã biết đứng đó để sẵn sàng ứng chiến.
Hai người hằm hè nhìn nhau một lát thì bắt đầu đi vòng tròn thăm dò. Đi được ba vòng, hai người đồng thời dừng lại, không hẹn mà gặp cùng lùi lại một bước, mắt nhìn đối phương chằm chằm không chớp.
Trương Nghi vẻ mặt khinh miệt, song lại vòng tay hành lễ, thủng thẳng nói: “Người anh em từ xa tới, tại hạ Trương Nghi có lời chào!”
Người mặc áo tía cũng vòng tay: “Tại hạ Ngô Thanh người Thiếu Lương, nghe nói Trương công tử văn võ song toàn, chấn động bốn biển, Ngô mỗ bất tài, tới xin chi giáo!”
“Ngô công tử quá lời rồi! Ngô công tử từ vùng đất lớn tới, nơi đây hoang vu hẻo lánh, nếu tại hạ tiếp đãi có gì sơ suất, mong Ngô công tử lượng thứ!”
“Trương công tử, chúng ta không vòng vo nhiều lời nữa. Bản công tử đã tới thỉnh giáo, mời Trương công tử ban chiêu!”
“Ngô công tử từ xa tới, tại hạ đương nhiên chủ chiều theo khách, muốn thỉnh chiêu nào, mong Ngô công tử lên tiếng. Cầm kỳ thi họa, cưỡi ngựa bắn cung, đánh xe săn bắn, thương đao kiếm kích, người anh em đây muốn chọn thứ nào, tại hạ xin sẵn sàng bồi tiếp.”
Ngô Thanh cười khẩy một tiếng: “Được! Trương công tử võ nghệ cao siêu, gan dạ can đảm, tại hạ cũng không khách khí!”
Trương Nghi cười hề hề nói: “Ngô công tử, xin ra đề!”
Ngô Thanh quay sang tên hầu: “Mang cung tên lại đây!”
Đã có người chuẩn bị sẵn cung tên, Ngô công tử đón lấy, lắp một mũi tên, hướng về phía hai con chim sẻ đang đậu trên đống rơm lúa mạch bên ngoài bãi đập trăm bước, nói khẽ: “Trương công tử, nhìn con bên trái!” Lời nói vừa dứt, mũi tên đã bay vụt đi, con chim sẻ bên trái lập tức rơi xuống, con bên phải hoảng hốt đập cánh bay đi.
Đám đông tận mắt nhìn thấy, reo hò không ngớt.
Ngô công tử đưa cung tên cho Trương Nghi, mỉm cười: “Trương công tử, mời!”
Trương Nghi cười cười, từ chối cung tên, lấy từ trong ống tay áo ra một chiếc ná, lắp sỏi, kéo căng dây, chờ một lát, thấy một bầy chim sẻ từ xa bay lại, sắp lướt qua đỉnh đầu, liền nói: “Ngô công tử, nhìn con cuối cùng!” Lời vừa dứt, hòn sỏi bay vụt đi. Quả nhiên con chim sẻ cuối cùng rớt xuống, lăn lông lốc trên đất, lại lăn tới đúng trước mũi chân Ngô công tử thì dừng lại.
Đám đông trợn mắt kinh ngạc, nhất thời chết lặng. Đợi đến khi con chim sẻ giãy giụa một hồi rồi nằm im bất động, đám đông mới hò reo vang dậy như sấm.
Ngô công tử bàng hoàng, liếc nhìn con chim sẻ chết lăn dưới đất, vòng tay nói: “Trương công tử tài nghệ cao siêu, tại hạ kính phục!”
Trương Nghi cũng vòng tay nói: “Tài thiện xạ của Ngô công tử cũng thật tuyệt, tại hạ và công tử kẻ tám lạng người nửa cân!”
Ngô công tử đảo con ngươi một vòng, lập tức vòng tay nói: “Trương công tử khách khí, tại hạ thực sự khâm phục! Nghe nói Trương công tử kỳ nghệ cao siêu, tại hạ muốn lĩnh giáo, không biết Trương công tử có chịu chỉ giáo chăng?”
Trương Nghi đáp: “Đương nhiên rồi. Tại hạ vừa nãy đã nói, cầm kỳ thi họa, cưỡi ngựa bắn cung, tại hạ xin chiều theo ý khách!”
Ngô công tử quay sang tên hầu: “Bày cờ!”
Phía sau lập tức bước ra hai thằng hầu, bày bàn cờ ngay tại chỗ. Ngô công tử cầm quân đen đi trước, Trương Nghi cầm quân trắng đối trận. Hai người hạ cờ vùn vụt, loáng cái hơn chục quân đã rời khỏi bàn, thế cờ đến hồi quyết liệt. Trương Nghi bỏ luôn năm quân bên trái, tập trung bao vây một con rồng lớn của quân đen giữa bàn cờ. Ngô công tử không biết là mưu kế, tới khi nhận ra, đã hết nước cứu vãn. Tận mắt thấy con rồng sống mà vô vọng, Ngô công tử đành cúi đầu nhận thua.
Trương Nghi đứng dậy, khẽ vái mà nói: “Ngô công tử nhận thua, tại hạ may mắn mà thắng, thật đáng hổ thẹn!”
Ngô công tử vốn kỳ nghệ cao cường, ở Thiếu Lương hiếm ai địch nổi, hôm nay thất bại, lại bị Trương Nghi châm chọc, mặt đỏ phừng phừng, đảo mắt nhìn một vòng, thấy ở bên cạnh có một trục lăn lúa dài bằng đá mà người nông dân thường dùng để nghiền lúa mạch, to cỡ thùng nước, trong lòng bỗng nảy ra một ý, bèn đứng dậy ôm quyền mà nói: “Cầm kỳ thi họa, cưỡi ngựa bắn cung tuy là thời thượng, song chỉ là tài vặt, không phải là công phu thực sự!”
Trương Nghi cười khẩy: “Đã nói như vậy, mời người anh em cho xem công phu thực sự thế nào!”
Ngô công tử mỉm cười: “Thiên hạ ngày nay, chỉ nhờ vào thực lực, chúng ta hãy thử so thực lực xem sao?”
Trương Nghi liếc nhìn Ngô công tử, thấy khổ người hắn cũng tương đương với mình, bèn dõng dạc nói: “Được! Nhưng thực lực phải so như thế nào, còn cần Ngô công tử nói rõ.”
Ngô công tử chẳng nói chẳng rằng, chạy thẳng tới phía trước trục lăn lúa, xắn ống tay áo, hai tay nắm chặt hai cán ở hai đầu trục, “hự” một tiếng thật lớn, nhấc bổng lên, rồi nâng hẳn lên cao, đặt lên vai phải, quay sang Trương Nghi: “Trương công tử, xem này!”
Ngô công tử vác trục lăn lúa trên vai, cứ thế chậm rãi đi vòng quanh bãi đập lúa. Đám người hầu của hắn và người xem reo hò cổ vũ như sấm động, có người còn đếm số vòng di chuyển, không khí trên bãi đập náo nhiệt khác thường.
Nhìn thấy vậy, Trương bá khẽ chau mày, liếc sang Trương Nghi, thấy Trương Nghi trợn tròn hai mắt, đứng ngây tại chỗ. Tiểu Thuận mặt mày biến sắc, thì thào với Trương bá: “Lão quản gia, gọi thiếu gia về đi!”
Trương bá lắc đầu: “Giờ gọi thiếu gia về, đời nào cậu ấy chịu?”
Khi mọi người đếm được ba mươi vòng, Ngô công tử vác trục lăn lúa tới trước mặt Trương Nghi, thở đánh “phù” một tiếng, rồi hạ trục lăn lúa xuống đất, sắc mặt có hơi thay đổi, tiếng thở có hơi hổn hển, song xem ra vẫn chưa vận hết sức. Rõ ràng, tuy Ngô công tử vóc hình không thật tráng kiện, song sức khoẻ quả thật kinh người. Thấy Trương Nghi mặt mày biến sắc, Ngô công tử vỗ tay vài cái, cười nói: “Trương công tử, mời!”
Tỏ ra kém thế trước chốn đông người hiển nhiên không phải là tính cách của Trương Nghi. Nhìn thấy Ngô công tử chiếm thế thượng phong, Trương Nghi cũng đánh liều một phen, lập tức nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay, vận động tay chân vài cái, cúi gập lưng xuống, mỗi tay nắm chắc một bên cán để ước lượng, trong lòng chợt thấy hơi căng thẳng. Tuy nhiên, sự việc đã tới nước này, cũng chẳng thể làm gì khác được, bèn hét to một tiếng, nghiến răng kèn kẹt, gắng hết sức bình sinh nhấc bổng trục lăn lúa lên cao quá đầu.
Trong tiếng reo hò cổ vũ của người xem, Trương Nghi đặt trục lăn lúa lên vai, cũng đi vòng quanh giống Ngô công tử. Người xem hò la ầm ĩ, đồng thanh đếm số vòng: “Một vòng, hai vòng, ba vòng, bốn vòng…”
Trương bá trong lòng lo lắng, lách đám đông chen lên phía trước, nhìn Trương Nghi không chớp mắt. Khi mọi người đếm tới vòng thứ mười, Trương Nghi đã mồ hôi như mưa, mặt đỏ phừng phừng, quai hàm nghiến chặt, chật vật lê từng bước về phía trước.
Nhìn thấy tình thế nguy cấp, Trương bá lao vụt tới phía sau Trương Nghi, hai tay đỡ lấy trục lăn lúa, quát lớn: “Nghi Nhi, buông ra ngay!”
Trương Nghi cũng không dám cố, vội vã bỏ tay ra, hai chân mềm oặt, ngồi phịch xuống đất. Trương bá nghiến răng đỡ lấy trục lăn lúa, Tiểu Thuận và một thằng hầu khác cũng chạy lại, ba người hợp sức hạ trục lăn lúa xuống đất.
Ngô công tử tiến lại, cười hỉ hả mà nói: “Trương công tử, có cần tại hạ giúp một tay không?”
Lời vừa nói dứt, Trương Nghi đã nhảy dựng lên như con cá chép, đứng phắt dậy. Ngô công tử bắt chước giọng điệu của Trương Nghi sau khi thủ thắng, ôm quyền mà nói: “Trương công tử khiêm nhường, tại hạ may mắn mà thắng, thật đáng hổ thẹn!”
Trương Nghi cũng ôm quyền nói: “Thần lực của Ngô công tử, tại hạ bái phục! Tiếp theo, nếu còn muốn tỉ thí, xin Ngô công tử ra đề!”
Ngô công tử đã biết bản lĩnh của Trương Nghi, nếu tiếp tục thi thố, ắt không thể chiếm thế thượng phong, bèn ôm quyền mà nói: “Được Trương huynh nhường nhịn, trận đấu hôm nay coi như đã hoà. Tại hạ có việc phải về Thiếu Lương, Trương công tử nếu muốn phân thắng thua, hãy tới Ngô phủ phố Đông Nhai tại Thiếu Lương tìm tại hạ, tại hạ lúc nào cũng cung kính chờ đợi!”
Trương Nghi cũng ôm quyền nói: “Được! Một tháng sau, tại hạ nhất định sẽ tới Thiếu Lương thăm đáp lễ Ngô công tử! Có điều, nếu tới Thiếu Lương, bản công tử xin được ra đề!”
Ngô công tử sững lại, ngẫm nghĩ một lúc, rồi cười nói: “Đương nhiên rồi. Dám hỏi công tử có dự tính gì?”
Trương Nghi cười cười nói: “Công tử đã có lời hỏi, tại hạ cũng xin nói trước với công tử, chẳng có gì phải ngần ngại!” Rồi đưa chân giẫm lên trục lăn lúa, “chính là cái cục đá này, thể thức thi đấu vẫn như cũ!”
Ngô công tử cười ha hả: “Hay, hay, hay! Trương công tử quả là hảo hán, tại hạ khâm phục!” Nói xong, dẫn đám người hầu nghênh ngang bước đi.
Thấy Ngô công tử đã đi xa, Trương bá vội chạy lại: “Thiếu gia, lưng có sao không?”
“Không sao!” Trương Nghi ngạc nhiên, “Trương bá, sao ông lại tới đây?”
“Phu nhân có việc, mời thiếu gia về ngay!”
Trương Nghi gật đầu, nhìn sang hai thằng hầu, quát: “Các ngươi lại đây!”
Tiểu Thuận và thằng hầu kia vội vã chạy lại: “Thiếu gia có gì sai bảo?”
Trương Nghi chỉ vào trục lăn lúa: “Khiêng vật này về nhà cho ta!”
Hai người xắn tay áo, mỗi người cầm một bên cán trục, lặc lè khiêng đi.
Trong chính đường Trương gia, Trương phu nhân vẫn đang ngồi nói chuyện với tiên sinh. Tiên sinh bắt đầu bồn chồn sốt ruột, Trương phu nhân cũng chẳng nhập tâm, tuy miệng nói, song tai vẫn nghe ngóng ngoài cửa.
Một lát sau, từ xa vọng lại tiếng xuýt xoa của Trương Nghi. Trương phu nhân ngạc nhiên, đứng dậy bước ra sân, đang định đi ra cổng xem có chuyện gì thì Trương bá đã dìu Trương Nghi vào trong cửa.
Trương phu nhân nhìn Trương Nghi kinh ngạc, ngẩn ra một lúc mới hỏi: “Nghi Nhi, con làm sao vậy?”
Lời vừa dứt, bọn Tiểu Thuận cũng đã bước vào, miệng thở hồng hộc, khiêng trục lăn lúa vào trong sân thả đánh “uỳnh” xuống đất.
Trương bá đỡ Trương Nghi ngồi xuống chiếc ghế dài, hai tay liên tục đấm bóp vai và lưng cho hắn. Trương Nghi luôn miệng rên rẩm, thở ngắn than dài ầm ĩ.
Tiên sinh thấy ngoài sân ồn ào, biết là học trò đã về, vội vã bước ra, đứng trên bậc cửa nhìn Trương Nghi. Trương Nghi thoáng nhìn qua, đã hiểu ngay là chuyện gì, lại càng rên rẩm dữ hơn nữa.
Trương phu nhân xót con, lại xoa đầu hắn vỗ về: “Nghi Nhi con ơi, chuyện này là thế nào?”
Trương Nghi nhắm tịt mắt, càng làm mình làm mẩy, rên lên hừ hừ: “Mẹ ơi, đau chết mất thôi! Trương bá, khẽ thôi, đấy, đấy, chỗ đấy, nhẹ hơn chút nữa đi, hừ hừ…”
Trương phu nhân quay sang Tiểu Thuận, nghiêm giọng hỏi: “Xảy ra chuyện gì? Có phải lại đi đánh nhau với người ta không?”
Tiểu Thuận quỳ thụp xuống: “Bẩm phu nhân, thiếu gia thi đấu tài nghệ với người ta ở bãi đập lúa, nâng…”
Chữ “nâng” vừa thốt ra, Trương Nghi đã ngưng ngay rên la, quắc mắt nhìn Tiểu Thuận quát lớn: “Cút… ra kia!”
Tiểu Thuận nhìn sang Trương phu nhân, thấy phu nhân cũng đang nghiêm khắc nhìn mình, lại định mở miệng thì Trương Nghi đã đứng bật dậy, co chân đạp mạnh vào mông hắn một cái: “Bảo ngươi cút ra kia, còn không đi mau!”
Tiểu Nhuận run bắn, vội lồm cồm bò dậy, chạy ra khỏi cửa, song cũng không dám đi xa, tay ôm mông đứng tựa vào khung cửa.
Thấy Trương Nghi không sao, Trương phu nhân chau tít đôi mày, quay sang nói với Trương bá: “Trương bá, cứ mặc kệ thiếu gia! Đã nói đừng có khoe sức mà không chịu nghe, giờ chịu đau một chút cũng là đáng đời!” Rồi quay sang Trương Nghi, “Nghi Nhi, lại đây, mẹ vừa mời thầy về cho con, mau vào trong dập đầu bái thầy đi!”
Trương Nghi thôi rên la, hất tay Trương bá ra, hai mắt khép hờ, lừ lừ tiến lại trước mặt tiên sinh, chẳng nói chẳng rằng, đi quanh tiên sinh ba vòng, hết đảo mắt sang trái lại sang phải, quan sát đối phương từ đầu tới chân, mắt nhìn chằm chằm khiến tiên sinh nổi da gà.
Đi hết ba vòng, Trương Nghi ngửa cổ lên cười một tràng rồi nói: “Tiên sinh, muốn bản thiếu gia dập đầu không khó, chỉ phiền tiên sinh làm cho một việc!”
Tiên sinh biết đây là ra đòn ra oai, mỉm cười mà nói: “Thiếu gia, mời!”
Trương Nghi vẫy tay về phía Tiểu Thuận đang đứng bên cửa: “Tiểu tử kia, lại đây, biểu diễn cho tiên sinh xem!”
Tiểu Thuận vội chạy lại: “Thiếu gia, biểu diễn gì đây?”
Trương Nghi chỉ vào trục lăn lúa, chửi ầm lên: “Đừng giả ngây nữa! Mau biểu diễn lại pha nâng vác lúc nãy của bản thiếu gia!”
Tiểu Thuận biết là không còn cách nào khác, đành tiến tới phía trước trục lăn lúa, bắt chước Trương Nghi nhổ nước bọt vào lòng bàn tay, mỗi tay nắm chặt một bên cán trục, rống lên một tiếng thật lớn, rồi gồng mình gắng sức nhấc lên, cả người loạng choạng, suýt nữa ngã nhào. Thằng hầu kia thấy vậy, vội chạy lại đỡ.
Tiểu Thuận cố gắng đứng vững, đặt trục lăn lúa lên vai, chỉ dám bước vài bước là dừng lại, quăng đánh “rầm” xuống đất, khiến cả một khoảnh sân rúng động. Tiểu Thuận mất đà, ngã bổ chửng ra phía sau.
Trương Nghi cười ầm ĩ, gật đầu tán thưởng: “Nhóc con giỏi lắm, không ngờ ngươi cũng hăng máu gớm! Đứng dậy đi, tối nay, bản thiếu gia sẽ thưởng cho ngươi hai cái phao câu gà!”
Tiểu Thuận liếm mép, lổm cổm bò dậy.
Trương Nghi quay đầu lại, nhìn tiên sinh, lừ lừ chỉ tay vào trục lăn lúa: “Tiên sinh đã nhìn rõ rồi chứ? Làm theo thằng nhóc kia, nhấc lên, đặt trên vai, vác đi vòng quanh gốc cây này ba mươi vòng. Chỉ cần tiên sinh đi đủ số vòng, bản thiếu gia lập tức dập đầu. Nếu như thiếu một vòng thì…” Trương Nghi dừng lại nửa chừng, bật cười ha hả.
Tiên sinh tuy kiến thức sâu rộng, cũng khó tránh khỏi lúng túng, đứng ngẩn tò te một lát, rồi giận dữ nói với Trương phu nhân: “Đây là hành vi của kẻ lỗ mãng, tại hạ dù gì cũng là văn nhân, làm sao…”
Trương phu nhân còn chưa kịp lên tiếng, Trương Nghi đã cười nhạt cắt ngang: “Được, tiên sinh là văn nhân, hẳn là học vấn uyên bác. Tiên sinh có kiến thức gì, nói ra nghe thử xem!”
Tiên sinh thấy Trương Nghi hỏi về học vấn, tinh thần phấn chấn hẳn lên, đầu lắc lư mà nói: “Được, thiếu gia nghe đây! Học vấn bách gia, tại hạ không gì không biết; cầm kỳ thi họa, không nghề gì không hay!”
“Tiên sinh có biết ‘Thi’ không?”
Tiên sinh càng tỏ ra đắc ý, cười vang mà nói: “Tại hạ tám tuổi đã đọc, mười tuổi đã thuộc làu.”
“Đã nói như vậy, tiên sinh thử đọc một bài xem sao!”
Tiên sinh ngẫm nghĩ một thoáng, ngẩng đầu hỏi: “‘Thi’ ba trăm bài, không biết thiếu gia thích bài nào?”
“Tiên sinh thuộc bài nào thì đọc bài đó!”
Tiên sinh trầm ngâm, thấy thằng oắt này ăn nói ngông cuồng, không thể để hắn xem thường, tạm đọc một bài vậy. Rồi khép mắt lại, đặng hắng lấy giọng, bắt đầu ngâm nga: “Cỏ nào không vàng úa, ngày nào chẳng lên đường? Người nào không bận rộn, ngang dọc khắp bốn phương, cỏ nào không xơ xác? Người nào không đơn côi? Thương ta thân chinh chiến, chẳng được giống con người. Không phải hổ, tê giác, kéo nhau đến đồng hoang. Thương ta thân chinh chiến, chiều tối chẳng an nhàn. Có con cáo lông xù, theo đám cỏ âm u. Có cỗ xe ngất ngư, đi theo con đường lớn.”(2)
Trương Nghi nghe xong, cười khinh khỉnh: “Tiên sinh đọc tuy không sai một chữ, song cũng chẳng nhằm nhò gì. Bản thiếu gia cũng đọc một lượt, tiên sinh nghe thử nhé: “Lớn đường con theo đi, ngư ngất xe cỗ có. U âm cỏ đám theo, xù lông cáo con có. Nhàn an chẳng tối chiều, chiến chinh thân ta thương. Hoang đồng đến nhau kéo, giác tê hổ phải không. Người con giống được chẳng, chiến chinh thân ta thương. Côi đơn không nào người, xác xơ không nào cỏ. Phương bốn khắp dọc ngang, rộn bận không nào người. Đường lên chẳng nào ngày, úa vàng không nào cỏ…”
Tiên sinh trợn mắt kinh ngạc: “Thiếu… thiếu gia có thể đọc… đọc ngược lưu loát vậy ư?”
Trương Nghi cười ha hả, bắt chước đúng giọng điệu của tiên sinh: “Tại hạ ba tuổi đọc ‘Thi’, sáu tuổi đã đọc ngược lưu loát, mười lăm tuổi tinh thông học vấn bách gia. Còn cầm kỳ thi họa, vẫn cần tiên sinh chỉ bảo từng thứ một.”
Tiên sinh nghe mà phục sát đất: “Tại… tại hạ… không dám!”
Trương Nghi giễu cợt: “Đã không dám, còn không dập đầu bái thầy, theo bản thiếu gia học vài năm?”
Tiên sinh xấu hổ, ngượng tím mặt: “Ngươi… đúng là tên tiểu tử ngông cuồng!”
Nói xong, giậm mạnh chân một cái, hằm hằm bước ra khỏi cửa.
Trương phu nhân vội vã đuổi theo, cất tiếng gọi: “Tiên sinh! Tiên sinh!”
Trương Nghi nhìn theo bóng tiên sinh xa dần, tựa như trút được gánh nặng, bật cười khoái trá.
Trương phu nhân đuổi theo một đoạn, thấy tiên sinh đã đi khuất, thở dài sườn sượt, quay trở về nhà. Bước vào trong cổng, nhìn thấy Trương Nghi đứng nghênh ngang đắc chí ở đó, thì tức nghẹn họng, trừng mắt nhìn hắn một cái, rồi phất ống tay áo bước vào nhà. Trương bá trong lòng có chuyện, đứng bần thần một lúc, cũng bước vào theo.
Trương phu nhân trở về phòng, khoanh chân ngồi xuống, nhìn đăm đăm vào bức chân dung của phu quân treo trên tường, càng nhìn càng đau lòng. Hai mắt cay xè, bất giác trào lệ.
Trương phu nhân đang buồn bã, nghe thấy tiếng bước chân bên ngoài, vội đưa ống tay áo lên lau nước mắt, quay người nhìn ra cửa sổ. Trương bá bước vào, thấy phu nhân hai mắt đỏ hoe, bèn tiến lên một bước, quỳ xuống, nghẹn ngào: “Phu nhân, là lão nô vô dụng, không thể hầu hạ tốt thiếu gia!”
Trương phu nhân quay lại, gượng cười: “Trương bá, ông nói những lời đó có ích gì? Mau đứng dậy đi!”
Trương bá đứng dậy, lom khom đứng sang một bên. Trương phu nhân chỉ vào chỗ ngồi đối diện: “Trương bá, ngồi đi!”
Trương bá vẫn khom lưng đứng đó: “Lão nô không dám! Phu nhân đừng đau buồn quá, xin hãy bảo trọng ngọc thể!”
Trương phu nhân thở dài: “Trương bá, ông cũng thấy rồi đó! Thằng Nghi này… theo ông thì…”
“Khởi bẩm phu nhân, theo ý kiến lão nô, Nghi Nhi đã đủ lông cánh, Trương Ấp lại quá chật hẹp, e rằng sẽ trói buộc tiền đồ của Nghi Nhi. Hơn nữa…” Trương bá định nói, song lại ngập ngừng.
“Trương bá, cứ nói đi đừng ngại!”
“Mấy ngày nay, Long tướng quân đích thân dẫn đại quân vượt qua Hà Thuỷ, phụng chiếu đông chinh. Long tướng quân đi rồi, Hà Tây không còn ai canh giữ. Tuy nói rằng hiện giờ Tần Ngụy hoà thuận, song trong lòng lão nô vẫn thấy bất ổn. Không giấu phu nhân, lão nô cảm thấy người Tần không đáng tin, Hà Tây có lẽ sắp bị đánh rồi!”
Trương phu nhân sửng sốt: “Ý ông là, người Tần sắp đánh Hà Tây?”
Trương bá gật đầu.
Trương phu nhân trầm ngâm một lát, rồi lắc đầu nói: “Không thể nào! Hôm nay ta tới Thiếu Lương, nghe nói người Tần muốn xuất binh vì bệ hạ, nói là chinh phạt Sơn Đông, muốn ta chuẩn bị lương thảo.”
Trương bá nghe vậy, đành nói thực: “Không giấu phu nhân, tướng quân Trương Mãnh hôm nay đã tới đây!”
Trương phu nhân ngạc nhiên: “Sao? Là Trương tướng quân nói vậy ư?”
Trương bá lại gật đầu.
Trương phu nhân trong lòng căng thẳng: “Trương tướng quân nói thế nào?”
“Trương tướng quân nói, bệ hạ đã bị lừa phỉnh. Tần Ngụy kết liên minh chỉ là giả, đánh chiếm Hà Tây mới là thực. Trương tướng quân còn nói, người Tần không những muốn đánh, mà còn muốn chiến sự diễn ra lập tức, nhanh thì dăm ba hôm, chậm thì mươi mười lăm hôm. Trương tướng quân dặn lão nô bẩm báo với phu nhân để sớm chuẩn bị. Lão nô vốn không định nói hết, vì sợ phu nhân lo lắng…”
Trương phu nhân cúi đầu, trầm ngâm suy nghĩ, hồi lâu mới ngẩng lên nói: “Trương bá, theo ý ông, chúng ta nên chuẩn bị những gì?”
“Nước mất nhà tan, tổ rớt há còn trứng lành? Lão nô đã nghĩ kỹ rồi, cũng chẳng phải chuẩn bị gì cả. Nhà cửa, ruộng vườn, đều không thể chuyển đi, lão nô…”
Thấy Trương bá ngập ngừng không nói, Trương phu nhân tiếp lời: “Trương bá, ta đã hiểu rồi. Ý ông là, nhà cửa, ruộng vườn đều không thể chuyển đi, song người có thể đi!”
“Lão nô cũng nghĩ vậy. Lão nô đang tính, phu nhân và Nghi Nhi hãy tạm thời đi lánh nạn, ngày mai lập tức lên đường. Mọi việc trong nhà, cứ để lão nô lo liệu!”
Bầu không khí chùng hẳn xuống. Một lát sau, Trương phu nhân ngẩng đầu lên nói: “Vừa nãy, Trương bá nói rất có lý, Nghi Nhi đã đủ lông đủ cánh, có lẽ cũng nên cho nó đi học chút bản lĩnh thực sự! Trương bá, theo ông, Nghi Nhi nên tới đâu học?”
Trương bá ngẫm nghĩ một lát: “Lão nô cho rằng, hãy để Nghi Nhi tới Chu thất. Chu thiên tử tuy đã suy vi, song vẫn là thiên tử. Có câu nói, Dưới chân thiên tử, tất có kỳ nhân. Nếu Nghi Nhi tới đó, ắt có kỳ nhân dạy dỗ.”
Trương phu nhân gật đầu: “Hay lắm! Nghi Nhi từ nhỏ không biết phép tắc, tới Thái học viện của Thiên tử học chút lễ nghi, có lẽ sẽ nên người! Trương bá hãy thu xếp, tối nay tế lễ tổ tiên, sáng mai đưa Nghi Nhi lên đường!”
Trương bá ngạc nhiên: “Phu nhân không đi ư?”
Trương phu nhân lại nhìn chân dung của Trương Báo, chậm rãi nói: “Hãy mau đi chuẩn bị! Còn chiến sự, đừng nói với Nghi Nhi!”
Trương bá biết phu nhân không nỡ rời xa lão gia, chẳng biết khuyên gì, đành gật đầu cáo từ.
Vào giờ Nhân định, trong từ đường Trương gia đèn thắp sáng trưng, trung đường bày đủ bài vị của liệt tổ liệt tông, Trương Nghi lần lượt bái lạy từng bài vị.
Chẳng phải tết nhất, cũng không phải ngày lễ mà lại cúng bái tổ tiên, Trương Nghi rất lấy làm lạ. Lẽ nào việc mình gây ra sáng nay là quá đáng? Trương Nghi suy đi nghĩ lại, tự thấy mình chẳng làm gì sai. Cái ông thầy kia tài cán nỗi gì, nhìn qua đã biết. Song dù thế nào đi nữa, đã gây ra chuyện, thôi cứ nhận lỗi đại đi rồi tính tiếp. Nghĩ là vậy, sau khi bái lạy hết lượt tổ tiên, Trương Nghi ngẩng đầu lên, nhìn mẹ mà nói: “Mẹ, chuyện hôm nay, Nghi Nhi sai rồi!”
Nhìn đứa con trai ngỗ ngược, nước mắt từ từ lăn chảy trên hai má Trương phu nhân. Bà cũng quỳ xuống, bái lạy liệt tổ liệt tông, rồi quay sang Trương Nghi: “Mẹ không trách con, con đã lớn rồi! Mẹ không dạy nổi con, Trương Ấp cũng quá chật hẹp với con. Mẹ suy đi tính lại, quyết định gửi con tới Thái học của Chu thất. Nghe nói ở đó nhân tài đông đảo, có lẽ sẽ dạy dỗ con nên người!”
Nghe nói mình sắp phải rời khỏi Trương Ấp, tới Lạc Dương, Trương Nghi vô cùng bất ngờ, quỳ thụp xuống đất nài nỉ: “Mẹ, Nghi Nhi không đi đâu hết, Nghi Nhi chỉ ở đây chăm sóc mẹ thôi!”
Trương phu nhân nghiêm mặt trách: “Nghi Nhi, con đã qua tuổi đội mũ, không thể cứ lông bông mãi như vậy được! Dòng dõi họ Trương, chỉ còn lại mình con. Nếu con không chịu tiến thủ, cứ mãi chơi bời lêu lổng, sau khi mẹ trăm tuổi, còn mặt mũi nào gặp cha con nữa? Đi đi, việc này mẹ đã tính toán cả rồi. Xe ngựa, hành lý, tiền bạc và những thứ cần thiết, Trương bá đều đã chuẩn bị xong xuôi. Hai thằng nhỏ kia, con hãy chọn lấy một, sáng mai giờ Kê minh(3), lập tức lên đường!”
Trương Nghi dập đầu sát đất, nước mắt lã chã: “Mẹ!”
Hồi Thứ 6
Nước Tần mưu Hà Tây, bày kế tập kích
Cự Tử vào Quỷ Cốc, tìm thuốc cứu đời
Trước sự nghênh đón của quân Ngụy ở bờ bên kia, đại lương tạo nước Tần Công Tôn Ưởng dẫn khoảng năm vạn lính Tần thuộc tam quân tả, trung, hữu, lũ lượt vượt sông Lạc Thuỷ, đi qua Đại Lệ quan, tiến thẳng tới trường thành, đóng trại bên ngoài trường thành từ Đại Lệ quan tới Lâm Tấn quan tuân theo đúng quy định nghiêm ngặt của quân Ngụy, ở đó chờ lệnh.
Người Tần đóng trại liền hai ngày, toàn bộ binh lính đều giữ đúng phép tắc, không hề có hành động dị thường. Tới ngày thứ ba, tướng trấn giữ trường thành Lã Giáp sai tham tướng dẫn người khiêng lợn dê sang doanh trại Tần khao quân, nhân tiện nghe ngóng tình hình. Người Tần vui vẻ đón tiếp, không hề có chút thù địch. Tướng sĩ khao quân và lính Tần chuyện trò rôm rả, lính Tần đều hào hứng nói chuyện đông chinh, chỉ đợi bệ hạ Đại Ngụy có chỉ, lập tức tới thẳng Sơn Đông, nguyện một lòng xả thân vì bệ hạ.
Tham tướng khao quân trở về báo lại tường tận lên Lã Giáp. Lã Giáp triệu tập các tướng lại, nói: “Bệ hạ đã kết minh với người Tần, Công Tôn Diễn lại tự mình chủ trương, vô cớ sinh sự, khăng khăng cho rằng người Tần mưu đồ bất trắc. Hôm nay đã thấy rõ, Công Tôn Diễn chẳng qua chỉ là lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử mà thôi!”
Có bộ tướng tiếp lời: “Lã tướng quân, Công Tôn Diễn lấy cớ trị quân, vài ngày trước công khai xử chém Triệu Lập. Chưa đầy ba ngày sau, lại hạ lệnh cho quân giữ Đại Lệ quan mở cửa nghênh đón người Tần. Hành động trước sau mâu thuẫn, lẽ nào Triệu Lập đã chết oan?”
Một bộ tướng khác chêm vào: “Lã tướng quân, ý đồ thực sự của Công Tôn Diễn không phải là chém Triệu Lập, mà là muốn thừa cơ ra oai, cố ý làm tướng quân mất mặt!”
Nói tới đó, những người vốn thân thiết với Triệu Lập đều bất bình phẫn nộ. Triệu Lập vốn là ái tướng của Lã Giáp, hôm nay lại nghe thấy đám thuộc hạ nói như vậy, Lã Giáp nổi giận đùng đùng, nghiến răng nói: “Chư vị tướng quân, Công Tôn Diễn đã cố tình gây khó dễ với bản tướng, bản tướng cũng sẽ không để hắn sống yên ổn! Đợi Long tướng quân chinh chiến trở về, bản tướng sẽ tâu bày tường tận lên tướng quân, có các vị đây làm chứng, cùng rửa mối oan cho Triệu tướng quân!”
Các tướng đồng thanh nói: “Mạt tướng chỉ mong nghe được lời này của Lã tướng quân!”
Lã Giáp suy nghĩ một lát, cất giọng sang sảng: “Chư vị tướng quân, hôm nay vừa hay bảy ngày Triệu tướng quân, chúng ta hãy ở đây uống rượu, coi như đưa tiễn vong linh Triệu tướng quân!”
Lã Giáp nói xong, lập tức bày tiệc rượu. Chốc lát, rượu thịt được bưng lên, các tướng cười nói rôm rả, chuốc nhau uống say túy lúy.
Buổi tối hôm đó, bỗng dưng trời trở gió, sấm chớp đùng đùng, mưa như trút nước, mãi nửa đêm mới tạnh. Do tướng quân không có mặt, cũng không dặn dò gì, lại gặp mưa gió bão bùng, lính Ngụy ở trường thành hầu hết đều xuống khỏi thành trú mưa, chui vào luỹ đất phía sau tường thành cởi giáp nằm ngủ, chỉ còn lác đác vài người ở lại trên thành, hoặc canh gác tại chỗ che mưa của đài phong hoả. Cho tới tảng sáng, những binh sĩ canh gác cũng đều thấm mệt, chìm vào giấc ngủ say sưa.
Trong thủ phủ trường thành, Lã Giáp và các tướng uống say khướt, nằm ngổn ngang la liệt, ngáy khò khò như sấm động.
Chính vào lúc này, quân Tần đông đến hàng vạn đã xếp thành hàng dài dọc theo trường thành, quăng dây thừng lên các ụ gạch trên thành, lặng lẽ leo lên như đàn kiến. Trong nháy mắt, quân Tần đã leo tới mặt thành, lẻn đến bên những binh sĩ canh gác đang ngủ say sưa, khẽ khàng lật những cái đầu đang gục xuống, đưa một nhát đao lướt ngang cần cổ. Đáng thương cho đám lính Ngụy, ra ma ngay trong giấc mơ mà không hề hay biết.
Cũng thật may mắn, một tên lính canh ở đài phong hoả vừa hay mót tiểu tỉnh ngủ, đang đứng dậy định đi tiểu, đột nhiên nhìn thấy vài chục lính Tần tay lăm lăm binh khí, đang men theo mặt trong tường lửng, tiến về phía mình. Lính Ngụy kinh hãi thất sắc, quên luôn cả mót tiểu, gào lên thất thanh: “Quân Tần tới rồi!” Vừa gào, vừa châm lửa đốt phong hoả.
Khi quân Tần kịp xông tới nơi, đài phong hoả đã cháy rừng rực. Từ xa nhìn thấy phong hoả, lính Ngụy theo bản năng và chức trách, lập tức đốt các đài phong hoả tiếp theo. Chốc lát, trên trường thành, phong hoả theo nhau bùng cháy. Đám lính Ngụy đang ngủ trong thành luỹ nghe thấy tiếng thét gào ầm ĩ, lập tức lồm cồm bò dậy, một số còn chưa kịp mặc áo đã trở thành ma dưới mũi giáo quân Tần. Cũng có người tìm được thương đao, đâm chém quyết liệt.
Lã Giáp cùng các tướng uống rượu say mèm nên khi ngủ chưa kịp cởi áo giáp. Lúc này cơn say đã qua, nghe thấy bên ngoài náo động, thì bừng tỉnh dậy, réo gọi đám tướng, cầm thương xông ra cửa, đã thấy phong hoả ngút trời, trên tường thành quân Tần đông nghịt. Lã Giáp biết đại thế đã mất, vội vã xông vào quân Tần, chém liền mấy tên.
Lã Giáp cầm ngang cây thương, xông thẳng lên trước, đang định sát phạt, vừa hay gặp tiên phong quân Tần là Tư Mã Thác dẫn quân lao tới.
Muốn đánh giặc trước tiên phải bắt tướng, Tư Mã Thác sớm đã nắm rõ các điểm trọng yếu của thủ phủ trường thành, do vậy sau khi chiếm được trường thành, lập tức dẫn người xông thẳng tới đây, vừa hay chạm trán Lã Giáp. Hai người thúc ngựa vung thương, đánh liền mấy hiệp. Nếu là bình thường, Tư Mã Thác không phải là đối thủ của Lã Giáp. Tuy nhiên, vào lúc này, Lã Giáp sớm đã không còn tâm trí chiến đấu, nên chưa đánh được mấy hiệp, đã quay đầu ngựa, mở ra đường máu, chạy về phía Thiếu Lương.
Khi Lã Giáp chạy tới Thiếu Lương, mặt trời đã lên tới đầu ngọn sào. Trong thành Thiếu Lương, bốn cổng đóng chặt, trên lầu cổng thành, cờ bay phần phật, giáo dựng tua tủa, hết sức uy nghiêm. Lã Giáp giờ thấy hối hận cũng đã muộn rồi, bèn xông tới trước lầu cổng thành, gọi lớn: “Ta là Lã Giáp, cấp báo tới Công Tôn tướng quân, người Tần đã phá trường thành, đang xông tới đây!”
Công Tôn Diễn toàn thân giáp trụ, từ từ xuất hiện trên lầu thành, đưa ánh mắt lạnh lùng nhìn xuống Lã Giáp, rồi vẫy tay ra hiệu mở cổng. Một lát sau, cầu treo thả xuống, cổng thành mở ra.
Lã Giáp khắp người bết máu, ghì chặt đầu ngựa, ôm quyền nói với Công Tôn Diễn: “Công Tôn tướng quân! Lã Giáp tới đây, chỉ muốn nói với tướng quân một tiếng, Lã Giáp nông cạn khinh địch, không chịu nghe lời tướng quân, giờ hối hận cũng đã muộn rồi. Lã Giáp thỉnh cầu tướng quân chuyển lời tới Long tướng quân, nói là Lã Giáp có lỗi với tướng quân, có lỗi với bệ hạ, có lỗi với Hà Tây, xin được tạ lỗi tại đây!”
Dứt lời, Lã Giáp xuống ngựa, cắm thương xuống đất, dập đầu liền ba cái về phía lầu thành, lại dập đầu liền vài cái về phía An Ấp, sau đó rút kiếm tự vẫn.
Cùng lúc này, năm vạn quân Tân không tốn chút sức lực đã vượt qua được tuyến phòng thủ trường thành, khí thế hừng hực, tiến lên như hồng thuỷ mãnh thú, trong tiếng hô sát phạt kinh thiên động địa, phân chia thành nhiều ngả, xộc vào các thành ấp thuộc Hà Tây. Người Ngụy bàng hoàng sửng sốt, trở tay không kịp, các thành trì lần lượt thất thủ.
Buổi trưa hôm đó, mây đen ùn ùn kéo về giăng kín bầu trời An Ấp, sấm nổi ầm ầm, mưa tuôn xối xả.
Trong thiên điện cung Ngụy, Ngụy Huệ Hầu đang nằm nghiêng trên ghế rồng lắng nghe tỳ nhân tuyên đọc tấu báo của công tử Ngang, đột nhiên như có linh tính, hốt hoảng ngồi bật dậy, như thể vừa bị trúng đòn hiểm thình lình, đùng đùng quát lớn: “Dừng!”
Tỳ nhân không biết xảy ra chuyện gì, vội vã gập tấu báo lại, kinh hãi nhìn Huệ Hầu: “Bệ hạ!”
Ngụy Huệ Hầu ngơ ngẩn, nhìn khắp xung quanh, thấy không có gì bất thường, mới ngước mắt nhìn Trần Chẩn đang ngồi ở mé trái trước mặt, rồi lại khép mắt lại, chậm rãi nói: “Đọc!”
Tỳ nhân lại mở tấu báo, tiếp tục đọc: “Thượng tướng quân đã hợp binh với Long tướng quân, dự tính xuất kích trước địch, đánh quân Tề trước, xin đợi chỉ!”
Ngụy Huệ Hầu khẽ hé mắt, nhìn Trần Chẩn: “Long tướng quân muốn đánh quân Tề trước, ý khanh thế nào?”
Trần Chẩn vòng tay nói: “Đánh rắn phải đánh dập đầu, đánh giặc cần bắt vua giặc. Trong ba nước, quân Tề mạnh nhất. Chỉ cần đánh bại quân Tề, quân Hàn và Triệu tất không chiến mà lùi!”
Ngụy Huệ Hầu gật gù, quay sang tỳ nhân: “Chuẩn tấu của Ngang Nhi! Còn gì nữa không?”
Tỳ nhân mở một cuốn khác: “Hà Tây báo về, Công Tôn Ưởng đích thân dẫn năm vạn đại quân từ Đại Lệ quan vượt qua Lạc Thuỷ, đóng trại ở bên ngoài trường thành giữa Đại Lệ quan và Lâm Tấn quan, đợi chỉ đông chinh!”
Ngụy Huệ Hầu khẽ gật đầu, quay sang Trần Chẩn, tấm tắc khen ngợi Tần Công: “Trần ái khanh, Tần Công đúng là đã nói là làm!”
“Bệ hạ, có sự trợ giúp của năm vạn đại quân Tần, liệt quốc Sơn Đông còn gì phải lo lắng?”
“Đúng vậy!” Ngụy Huệ Hầu lại gật đầu, quay sang tỳ nhân, “lát nữa soạn chỉ cho Ngang Nhi, nhớ thêm vào điều này, quân Tần xuất năm vạn binh, sắp sửa đánh về phía đông, bảo Ngang Nhi nói thẳng cho người Tề, Triệu và Hàn biết, để chúng dễ bề tính toán!”
“Lão nô tuân chỉ!”
Ngụy Huệ Hầu quay sang Trần Chẩn: “Trần ái khanh, Tần Công hết lòng ủng hộ quả nhân, tấm lòng thật đáng biểu dương, hành động thật đáng khen ngợi, quả nhân nên ban thưởng mới phải, khanh thấy thế nào?”
“Bệ hạ thưởng công phạt tội, thật sánh ngang với thánh vương thượng cổ!”
“Theo ý ái khanh, quả nhân nên thưởng thế nào mới thoả đáng?”
“Vi thần cho rằng, bệ hạ có thể thưởng tiền, cấp lương thảo, trước hết khao quân Tần, đợi quân Tần đông chinh trở về, lại căn cứ vào công lao mà thưởng!”
“Phải!” Ngụy Hầu gật đầu, “ái khanh nói chí phải! Khanh hãy truyền chỉ cho Chu tư đồ, bảo ông ta cấp phát vạn thạch lương thực, năm nghìn lợn dê cho quân Hà Tây, nói rằng để ái khanh khao thưởng quân Tần, cùng bàn chuyện đông chinh!”
“Vi thần lĩnh chỉ!”
Trần Chẩn đang định đứng dậy, bỗng từ ngoài cửa vang lên tiếng bước chân dồn dập. Tỳ nhân từ xa đã nhìn thấy Chu uy, vội nói: “Bệ hạ, Chu tư đồ cầu kiến!”
Ngụy Huệ Hầu nhìn Trần Chẩn cười: “Vừa nhắc tới Chu ái khanh thì Chu ái khanh đã tới. Truyền vào gặp!”
Chu Uy thở hổn hển, cầm chiến báo trên tay, loạng choạng bước vào trong điện, quỳ thụp xuống đất, nước mắt ròng ròng: “Bệ hạ!”
Ngụy Huệ Hầu kinh hãi: “Chu ái khanh, có chuyện gì?”
Chu Uy tay giơ chiến báo, giọng nói thảm thiết: “Chiến báo… Hà… Hà Tây!”
Huệ Hầu sững sờ, Trần Chẩn thất sắc. Một lát sau, Huệ Hầu mới định thần lại được: “Chu ái khanh, Hà Tây không có chiến sự, sao lại có chiến báo?”
Chu Uy dập đầu sát đất, khóc không thành tiếng, hai tay dâng chiến báo qua đầu. Ngụy Huệ Hầu hất hàm ra hiệu, tỳ nhân vội bước lại, hai tay đỡ lấy chiến báo.
Ngụy Huệ Hầu nói: “Đọc!”
Tỳ nhân mở chiến báo, dõng dạc đọc: “Tướng trấn giữ Lâm Tấn quan là Trương Mãnh hoả tốc cấp báo, năm vạn quân Tần vào giờ Kê minh sáng sớm nay đột kích trường thành, chia quân mấy lộ, tấn công tứ phía. Quân giữ thành không đề phòng, trường thành thất thủ, vài chục thành ấp bị chiếm, chỉ còn lại ba thành Thiếu Lương, Âm Tấn, Lâm Tấn quan vẫn đang kháng cự quyết liệt…”
Trần Chẩn mặt xám ngoét, còn Ngụy Huệ Hầu hai mắt tối sầm, lảo đảo không đứng vững, tỳ nhân vội vàng lại đỡ.
Ngụy Huệ Hầu cứng họng, hồi lâu mới lắp bắp được vài tiếng: “Thảo… thảo nào… vừa rồi… quả nhân… thấy trong lòng… vô cùng bất an… hoá… hoá ra… là như vậy!”
Chu Uy cũng đã lấy lại hơi thở, dập đầu bình bịch, khóc mà nói: “Bệ hạ, ba thành Thiếu Lương, Âm Tấn, Lâm Tấn quan nguy đến nơi rồi!”
Ngụy Huệ Hầu run rẩy: “Mau… truyền chỉ Long Giả, hoả tốc cứu viện… Hà Tây!”
“Vi thần lĩnh chỉ!”
Chu Uy tức tốc đi ra. Trần Chẩn lúc này mới kịp định thần, lảo đảo quỳ xuống, run rẩy mà nói: “Bệ hạ, bên Đế Khâu, ba con khỉ đó xử lý thế nào?”
“Còn xử lý thế nào nữa?” Huệ Hầu nói không ra tiếng. “Cầu hòa”
Vào lúc này, quân Tần đã chiếm cứ phần lớn Hà Tây, bắt đầu tập trung binh lực tấn công vào ba thành cô lập Âm Tấn, Lâm Tấn quan và Thiếu Lương, bởi lẽ chưa hạ được ba thành này, coi như chưa thể chiếm lĩnh Hà Tây hoàn toàn. Trước khi Long Giả kịp trở về ứng cứu, mục tiêu chiến lược của Công Tôn Ưởng là kiểm soát hiểm địa Hà Thuỷ, đối đầu với quân Ngụy ở bờ sông bên kia. Công Tôn Ưởng chia quân ba lộ, Xa Anh dẫn tả quân tấn công Âm Tấn, Công Tôn Ưởng dẫn trung quân tấn công Lâm Tấn quan, Tư Mã Thác dẫn hữu quân tấn công Thiếu Lương.
Tuy nhiên, chính ở ba nơi này, quân Tần mới thực sự được lĩnh giáo sự lợi hại của võ binh Đại Ngụy.
Ở Âm Tấn, quân Tần thế như chẻ tre xông lên tấn công bốn phía, đông như kiến cỏ. Từ trên thành, gỗ đá ầm ầm lăn xuống, tên bắn như mưa. Quân Tần tử thương la liệt, tiếng gào rú liên miên không dứt. Tấn công liền vài đợt, Xa Anh thấy thương vong quá nhiều, gấp rút gióng chiêng thu quân.
Lâm Tấn quan là nơi cực kỳ trọng yếu trong phòng thủ Hà Tây, do phía sau cửa quan là cầu vượt sông Hà Thuỷ mà Long Giả đã phải dốc ra lượng lớn tiền của để xây dựng nên, là con đường tắt duy nhất nối liền Hà Tây với Hà Đông. Một khi để người Tần chiếm được, quân Ngụy ở Hà Tây sẽ rơi vào đường cùng, vừa không thể rút lui, cũng chẳng có quân chi viện, chỉ có thể cúi đầu chờ trói. Trương Mãnh nát óc suy tính, quyết định thà để mất Âm Tấn, quyết không để mất Lâm Tấn quan, do vậy tạm thời rút hai nghìn võ binh từ Âm Tấn sang, đích thân chỉ huy. Công Tôn Ưởng hiển nhiên cũng đã nhìn ra vị trí yết hầu của nơi đây, đích thân dẫn trung quân vây đánh, ở cửa quan có cả thảy bảy nghìn võ binh, toàn là lính tráng lão luyện, được trang bị tốt, lại rất thiện chiến, cộng thêm mấy ngày qua Trương Mãnh bố trí canh phòng nghiêm cẩn, bách tính trong thành đồng tâm hiệp lực. Do đó Công Tôn Ưởng tấn công suốt một ngày trời, mà không thể tiến lên gang tấc.
Tư Mã Thác giỏi dùng binh hơn hẳn Xa Anh, lệnh cho bao vây Thiếu Lương bốn phía, song chưa vội tấn công ngay, mà dựng chòi cao bên ngoài thành, trèo lên quan sát. Tuy nhiên, có một điều khiến hắn ngạc nhiên khó hiểu, đó là quân Tần đã tới chân thành, song trên tường thành lại không thấy một bóng người, thậm chí đến một lá cờ cũng không có, dường như phía trước là một toà thành chết.
Trên tường thành càng yên tĩnh, Tư Mã Thác càng thận trọng. Do dự hồi lâu, hắn quyết định đánh trống công thành, thăm dò thực hư.
Tiếng trống nổi lên như sấm rền dưới thành, quân Tần ồ ạt ném rơm rạ, gỗ nổi đã chuẩn bị sẵn xuống hào nước quanh thành, chẳng mấy chốc đã bắc được vô số cầu phao, đua nhau vượt hào, tới tấp dựng thang, trèo lên tường thành.
Nhìn thấy quân đã sắp lên tới tường thành, mà trên thành vẫn không chút động tĩnh, như thể vốn dĩ chẳng có ai canh giữ. Tư Mã Thác nhìn ra phía xa, chau tít đôi mày, vội vã phẩy tay, hạ lệnh khua chiêng. Tiếng trống thình lình dừng bặt, tiếng chiêng thu quân lại gióng lên liên hồi.
Trên tường thành vẫn tĩnh lặng như tờ, không một bóng người lộ diện, cũng không một âm thanh, chỉ một bầu lặng yên chết chóc. Tư Mã Thác kinh ngạc ngẩn ngơ, trầm ngâm rất lâu, cuối cùng nghiến răng, đích thân cầm dùi trống, lại thúc trống tiến quân. Quân Tần quay đầu lại, hô hào tiếp tục trèo thang lên trên.
Chính vào lúc hầu hết quân Tần đã leo lên tường thành, từng gáo lớn dầu sôi bất ngờ rào rào tưới xuống. Quân Tần đua nhau ôm mặt, gào rú thảm thiết, ngã văng khỏi thang. Tiếp đến, tên lửa bắn xuống như mưa, bén cháy vào thang, vào người lính Tần. Lính Tần khắp người bốc cháy đùng đùng, lăn lộn đầy đất, đua nhau nhảy xuống hào nước quanh thành, cảnh tượng vô cùng thảm khốc.
Tiếp đến, trên lầu cổng thành, một lá cờ lớn từ từ kéo lên, hai chữ “Công Tôn” bay phần phật trong gió.
Tư Mã Thác kinh hãi, vội vã gióng chiêng thu quân. Trong trận chiến đầu tiên, quân Ngụy Hầu như không có thương vong, trong khi quân Tần đã để lại dưới thành hơn nghìn xác chết.
Tư Mã Thác chưa đầy ba mươi tuổi, khí huyết đang hăng, gặp phải thảm bại, ngượng quá hoá giận, nhanh chóng tập hợp quân Tần lại, tiếp tục tấn công. Tư Mã Thác lệnh cho quân Tần tới các hộ dân gần đó, gom về đủ loại nồi sắt, mâm sứ, đội lên đầu, tiếp tục tấn công. Có điều lần này, họ lại không bị dội dầu sôi, mà bị đá tảng, gạch ngói dội xuống. Nồi sắt, mâm sứ lập tức vỡ toác, Tư Mã Thác sợ người Tần lại tưới dầu sôi, đành phải gióng chiêng thu quân lần nữa.
Ba lộ đại quân của Tần dốc hết sức lực tấn công liền ba ngày, ngoài việc để lại vài nghìn xác chết dưới ba thành, vẫn không thể đột phá mảy may. Tần Hiếu Công sốt ruột, triệu tập chư thần bàn bạc kế sách ứng phó.
Mọi người ngồi vào chỗ, theo thường lệ nghe phó tướng Xa Anh tấu báo tình hình chiến sự: “Tính đến nay, ta đã đoạt hết trường thành, công phá được bốn mươi sáu ấp Hà Tây. Quân Ngụy còn sót lại đang ngoan cố chống cự dọc Hà Thuỷ, hiện ta đang dốc sức công phá nốt ba thành cô lập là Thiếu Lương, Âm Tấn và Lâm Tấn quan!”
Xa Anh nói năng hàm súc, hơn nữa, những điều này đều đã quá rõ ràng, không cần phải rườm lời. Ai cũng biết, nếu không công phá nổi ba thành trì này, những ngày tháng tiếp theo sẽ khó lòng yên ổn. Bởi vậy, khi Xa Anh lên tiếng, không khí trở nên vô cùng căng thẳng.
Công Tôn Ưởng trầm ngâm quay sang Tư Mã Thác: “Tư mã tướng quân, ai là chủ tướng của Thiếu Lương?”
Tư Mã Thác trả lời: “Trên cờ hiệu thấy hai chữ ‘Công Tôn’. Các tướng Hà Tây, mạt tướng đều biết, chỉ không biết có ai mang họ Công Tôn.”
Công Tôn Ưởng giật mình sửng sốt: “Lẽ nào là hắn?”
Tần Hiếu Công hỏi: “Ai?”
“Công Tôn Diễn!”
Hiếu Công ngơ ngác: “Công Tôn Diễn?”
“Khởi bẩm chúa thượng, người này vốn là môn khách trong phủ tướng quốc Bạch Khuê, khi tại hạ đi sứ sang Ngụy, đã từng đấu khẩu với hắn, suýt nữa chết dưới tay người này! Chúa thượng, nếu đúng là hắn, trận chiến này thực không dễ đánh!”
Mọi người đều kinh hãi, đưa mắt nhìn nhau, bởi xưa nay Công Tôn Ưởng chưa từng nhắc tới tướng soái liệt quốc nào với giọng điệu như vậy. Song Doanh Tứ lại tỏ ra khoái chí, buột miệng nói: “Một Công Tôn Ưởng, một Công Tôn Diễn, hai người hẳn là kỳ phùng địch thủ trời sinh. Doanh Tứ muốn hỏi, trong hai người, ai giỏi hơn ai?”
Câu hỏi của Doanh Tứ đương nhiên không hợp thời điểm, thậm chí còn có ý cười cợt. Hiếu Công lừ mắt nhìn Doanh Tứ, đang định nói sang chuyện khác thì Công Tôn Ưởng đáp rành rọt: “Khởi bẩm điện hạ, Ưởng và Công Tôn Diễn ai giỏi hơn ai, phải đợi tới hồi kết mới rõ. Có điều, theo Ưởng biết, nếu quả thực người này đã trở thành chủ tướng của Ngụy, chắc chắn Tần và Ngụy sẽ phải có một trường huyết chiến tại Hà Tây.”
Tần Hiếu Công sửng sốt: “Nếu quả là vậy, ái khanh có kế nào hay chăng?”
“Khởi bẩm chúa thượng, việc nguy cấp trước mắt, không phải là đối phó với Công Tôn Diễn. Nếu vi thần tính không sai, lúc này Long Giả có lẽ đang trên đường trở về. Nhiệm vụ của chúng ta là phải chiếm bằng được Lâm Tấn quan và Thiếu Lương trước khi Long Giả về đến nơi. Công phá Thiếu Lương, có thể diệt trừ Công Tôn Diễn. Công phá Lâm Tấn quan, có thể chặn Long Giả ở phía đông Hà Thuỷ, dù có sức cũng chẳng thể làm gì!”
Tần Hiếu Công gật đầu lia lịa: “Ái khanh nói rất phải!” Rồi nhìn khắp lượt quần thần, “Chư vị ái khanh!”
Quần thần đều nhìn vào Hiếu Công.
Hiếu Công cất giọng sang sảng: “Hà Tây bị đột kích, Ngụy Anh ắt dốc toàn lực ứng chiến với ta. Trận chiến giữa Tần Ngụy, không thể không đánh. Nếu đã đánh, phải đánh cho ra đánh!” Quay sang Công Tôn Ưởng, “ái khanh chỉ cần lo điều binh khiển tướng, trời có sập xuống, đã có quả nhân chống đỡ! Không giấu ái khanh, quả nhân mang tới mười vạn tinh binh, đã đóng quân ở tuyến Lạc Thuỷ, sẵn sàng chờ ái khanh điều động. Quả nhân còn chuẩn bị mười vạn quân đầu xanh(1) phòng khi bất trắc!”
Công Tôn Ưởng dõng dạc đáp: “Vi thần tuyệt đối không phụ lòng uỷ thác của chúa thượng!”
Có được hậu thuẫn chắc chắn của Tần Công ở sau lưng, Công Tôn Ưởng một lần nữa sắp xếp quân Tần tấn công quyết liệt ba thành, đặc biệt là Thiếu Lương và Lâm Tấn quan. Tên bắn như mưa, trống trận vang rền, quân Tần khí thế hừng hực chưa từng thấy, trèo lên tường thành từ bốn phương tám hướng. Công Tôn Diễn khắp người đầm đìa máu me, tay cầm trường mâu, chạy dọc tường thành, hò hét chỉ huy. Bách tính trong thành xuôi ngược đưa cơm đưa nước. Dầu đã dùng hết, các cụ ông cụ bà cấp tốc đun nước sôi gánh lên tường thành. Do lúc này đang vào mùa nóng nực, nên nước sôi cũng có tác dụng đáng kể, vô số quân Tần bỏng rộp khắp người, kêu gào thảm thiết, ngã lộn nhào khỏi thang.
Vài chục quân Tần khiêng theo một súc gỗ tròn cỡ lớn, miệng hô khẩu lệnh, đâm uỳnh uỳnh vào cổng thành. Trong cổng thành đã bày sẵn binh xa giữ cổng. Một lát sau, cổng thành bật toang. Quân Tần vừa ồ ạt xông vào, hơn hai chục lính Ngụy đã đẩy binh xa sầm sập lao tới, đâm thẳng vào cổng thành vừa mở. Trước mặt binh xa chi chít mũi nhọn lưỡi sắc, quân Tần không kịp né tránh, trúng thương gào rú thảm thiết, quân phía sau vội vã lùi lại, cổng thành một lần nữa lại bị khoá kín.
Tới chập tối ngày thứ năm, Long Giả dẫn đội kỵ binh tiên phong rầm rập trở về, đi qua cầu phao tại Lâm Tấn quan, xông vào trong ải. Long Giả mở toang cửa quan, vô số quân Ngụy nhanh như chớp giật xông thẳng vào trung quân của Công Tôn Ưởng. Công Tôn Ưởng biết là Long Giả đã về tới nơi, vội vã gióng chiêng, lui quân năm mươi dặm hạ trại.
Long Giả cũng không tham đánh, tức tốc phi ngựa thẳng tới Thiếu Lương, cát bụi tung mù như che khuất cả mặt trời. Tư Mã Thác đang chỉ huy công thành, đột nhiên nhìn thấy cát bụi cuồn cuộn ập tới, đoán biết quân chi viện của người Ngụy đã về, vội vã gióng chiêng, song đã muộn rồi. Long Giả xông thẳng tới nơi, Công Tôn Diễn cũng nhân thế mở cổng thành, từ trong đánh ra, hợp sức cùng Long Giả trước sau giáp công. Tư Mã Thác đại bại, vội vã rút chạy.
Tới đây, cuộc tập kích thành công của người Tần đã mở màn cho trận đại chiến Hà Tây quyết định vận mệnh hai nước Tần Ngụy. May nhờ có đám Công Tôn Diễn, Trương Mãnh liều chết giữ thành, Long Giả cứu viện kịp thời nên đã cứu vãn được Ngụy cục. Hai bên mỗi bên giữ một nơi, tạm thời giữ thế cân bằng, mỗi bên giữ chắc trận địa phía mình, điều binh khiển tướng, dàn trận khắp bảy trăm dặm Hà Tây.
Đây là một cuộc chiến đáng lẽ đã không xảy ra, hoặc chí ít cũng không xảy ra sớm như vậy.
***
Tuỳ Sào Tử và đệ tử Tống Kiển đứng lặng phắc trên một tảng đá lớn nơi đỉnh núi, phóng mắt nhìn về phía đài phong hoả lửa đỏ ngút trời. Vầng trán Tuỳ Sào Tử từ từ chau tít lại, chòm râu trắng bay phất thơ theo làn gió thổi ra từ khe núi.
Tuỳ Sào Tử khẽ nhắm mắt lại, trong tâm trí lần lượt hiện lên cảnh tượng đồng ruộng, nhà cửa cháy rụi, trọng trấn Bình Dương sau vụ thảm sát toàn thành, những thi thể đàn bà bị hãm hiếp trong từ đường, ông lão tuần canh phát điên sau khi tận mắt chứng kiến trò thú tính, hai cái xác trẻ nít cháy đen, ánh mắt trầm tư của Sào Tử, điệu múa thô tục trong cung Ngụy, cảnh Ngụy Vương phẩy ống tay áo bước đi, cảnh đại quân Long Giả tới phía đông biên giới Vệ, cảnh xác quân Tần Ngụy la liệt dưới thành Thiếu Lương…
Tuỳ Sào Tử không dám nghĩ thêm nữa, lại mở mắt ra, đôi mắt già nua từng chứng kiến bao nỗi cay đắng chốn nhân gian vẫn chiếu ánh nhìn từ bi về phía đài phong hoả rừng rực trước mặt, cơ thể lặng phắc như một pho tượng.
Tống Kiển khẽ bẩm báo: “Tiên sinh, người Tần đã tập kích thành công, xem ra, đại chiến khó lòng tránh khỏi!”
“Than ôi!” Tuỳ Sào Tử than khẽ, “cuộc đại chiến mới chỉ bắt đầu mà thôi, thiên hạ sẽ chẳng được ngày nào yên ổn!” Nói xong, dõi ánh nhìn ra phía xa hút tầm mắt. Một lát sau, đôi mày đột nhiên giật khẽ, tinh thần bỗng chốc phấn chấn thấy rõ.
Tống Kiển nhận ra, gọi khẽ: “Tiên sinh?”
Tuỳ Sào Tử không để tâm tới, phăm phăm bước xuống tảng đá, tìm đường đi, sải bước băng băng.
Tống Kiển đứng ngẩn ra một lát, rồi cũng vội vàng nhảy xuống tảng đá, cấp tập đuổi theo trên con đường núi. Đi được một đoạn, Tống Kiển nhịn không nổi, bước lên vài bước hỏi nhỏ: “Tiên sinh, chúng ta đi đâu vậy?”
Tuỳ Sào Tử đáp ngay không chút đắn đo: “Núi Vân Mộng!”
“Tiên sinh!” Tống Kiển vội nói, “Hà Tây thình lình gặp họa binh đao, bách tính đang chờ chúng ta tới cứu!”
“Than ôi!” Nghe nói tới bách tính lầm than, Tuỳ Sào Tử buông chùng bước chân, lại thở dài một tiếng, “Tống Kiển, dù ta có dốc hết sức lực, chẳng qua cũng chỉ là hạt muối bỏ biển mà thôi!”
Cự tử xưa nay chưa từng nói ra những lời nhụt chí như vậy trước mặt đệ tử, bởi vậy Tống Kiển thoáng kinh ngạc, đuổi dấn lên một bước, hỏi nhỏ: “Ý của tiên sinh là, trong núi Vân Mộng ẩn tàng rồng thần cứu thế?”
Tuỳ Sào Tử dừng bước, quay lại nhìn Tống Kiển, khẽ gật đầu nói: “Tuy trong núi không có rồng thần, song lại có một vị cao nhân tuyệt thế ẩn cư. Nếu chúng ta được người này chỉ bảo, sẽ hữu ích gấp bội!”
“Cao nhân tuyệt thế?” Tống Kiển lại sửng sốt. “Lẽ nào trong thiên hạ có người cao siêu hơn cả tiên sinh ư?”
“Đúng vậy!” Tuỳ Sào Tử gật đầu. “So với cao nhân, ta chẳng qua chỉ là một kẻ tầm thường. Tài của người này, lớn thì có thể tung hoành thiên hạ, nhỏ thì có thể quan sát đến tơ hào, ta nào dám sánh với cao nhân?” Nói xong, liền sải bước đi tiếp.
Tống Kiển kinh ngạc, hồi lâu mới lẩm bẩm: “Lẽ nào người này là rồng thần ư?”
Hai người một thầy một trò đi suốt ngày đêm, vài ngày sau đã tới núi Vân Mộng. Tuỳ Sào Tử dường như rất thông thạo nơi đây, dẫn Tống Kiển vòng vèo một hồi, chẳng bao lâu đã tới một khe núi thâm u, chỉ thấy xung quanh núi non trùng trùng bao bọc, cây cỏ tốt tươi, suối tuôn róc rách, chim hót líu lo, hương hoa thơm ngát.
Trên một tảng đá lớn trước khe núi, có khắc hai con chữ gân guốc cứng cáp: “Quỷ Cốc”.
Nhìn thấy tảng đá, Tuỳ Sào Tử dừng bước, thở phào một hơi, vầng trán chau tít từ từ giãn ra, quay lại nhìn Tống Kiển mà nói: “Quỷ Cốc tiên sinh ưa yên tĩnh, không thích bị người lạ quấy rầy. Con hãy ở đây đợi ta!”
“Đệ tử xin nghe!” Nói xong, Tống Kiển nhìn thấy bên cạnh có một cây to, bèn lại đó ngồi xuống, khép hai mắt lại, bắt đầu tĩnh tọa.
Tuỳ Sào Tử quay người, sải bước trên con đường mòn men theo khe suối bên vách núi. Đi chưa được bao xa, đã thấy trước mặt xuất hiện một gian thảo đường. Trên bãi cỏ phía trước ngôi nhà, một đứa trẻ chừng mười tuổi đang nhảy nhót vui đùa với mấy con bướm. Từ xa nhìn thấy Tuỳ Sào Tử, đứa trẻ buông cánh bướm ra, bước lại nghênh đón, vái dài một vái, cất giọng trong trẻo hỏi: “Xin hỏi lão trượng, tới khe núi này là để đốn củi hay tìm thuốc?”
Tuỳ Sào Tử vái lại rồi hỏi: “Xin hỏi linh đồng, Quỷ Cốc tiên sinh có nhà không?”
Thấy ông lão trước mặt vừa tới đã hỏi tìm tiên sinh, tiểu đồng có vẻ ngạc nhiên, rồi gật đầu nói: “Gia sư có nhà!”
“Làm phiền linh đồng bẩm báo một tiếng, nói là người quen lâu năm Tuỳ Sào Tử tới bái kiến!”
Tiểu đồng lùi lại một bước, quan sát Tuỳ Sào Tử từ đầu tới chân, khẽ lắc đầu nói: “Bẩm lão trượng, chuyện khác còn có thể xem xét, chuyện này thì không thể được!”
Tuỳ Sào Tử sửng sốt: “Ồ, vì sao không được?”
Tiểu đồng không nói nữa, lại quan sát kỹ Tuỳ Sào Tử một lượt, lẩm bẩm: “Nhìn dáng vẻ, lão trượng hẳn là từ bên ngoài núi tới!”
“Vậy thì sao?”
“Ngoài núi đều là người phàm tục, gia sư không phải loại người nào cũng tuỳ tiện gặp mặt đâu!”
“Ồ, ra vậy!” Tuỳ Sào Tử mỉm cười, cố làm vẻ kinh ngạc hỏi, “dám hỏi linh đồng, gia sư của cậu muốn gặp loại người nào?”
Tiểu đồng lộ vẻ tự hào, dõng dạc nói: “Không giấu lão trượng, khách tới thăm gia sư đều đến từ chốn núi rừng sâu thẳm, mà không, là từ trời cao cưỡi mây đạp gió mà đến, hạ xuống khe núi này, cả người từ đầu tới chân không dính một mảy bụi trần, đi nhẹ như bay, chân không tiếp đất!”
Tuỳ Sào Tử cười ha hả mà nói: “Người mà linh đồng vừa nói tới, phải chăng là Liệt Ngự Khấu(2) tiên sinh?”
Tiểu đồng vẫn đang chìm đắm trong cảm giác “cưỡi mây về gió”, vốn không nghe Tuỳ Sào Tử hỏi gì, lại nhìn kỹ Tuỳ Sào Tử một lượt nữa, lắc đầu quầy quậy ra chiều đáng tiếc: “Ồ, chân đi dép cỏ, mình mặc áo nâu, khắp người bụi đất, đi đứng hai chân giẫm đất như lão trượng đây, đừng nói là gia sư không muốn gặp, mà dù có gặp, lão trượng cũng chẳng nói được gì trước mặt gia sư đâu!”
Tuỳ Sào Tử cảm thấy tiểu đồng nói năng thú vị, bèn hào hứng hỏi: “Thật ư? Linh đồng sao biết lão hủ không nói được gì trước mặt gia sư?”
“Bởi những lời gia sư nói, lão trượng nghe cũng chẳng hiểu gì!”
Tuỳ Sào Tử bị tiểu đồng giễu cợt, lại lấy làm khoái chí, bật cười vang: “Chưa hẳn đã vậy!”
Thấy Tuỳ Sào Tử không tán đồng, tiểu đồng càng hăng hái hơn: “Nghe khẩu khí của lão trượng, hẳn là trong lòng không phục. Thế này đi, tiểu đồng hỏi lão trượng một câu khó, nếu lão trượng trả lời được, tiểu đồng sẽ dẫn lão trượng vào bái kiến gia sư. Nếu không trả lời được thì mời lão trượng về cho, cần đốn củi thì cứ đốn đi!”
Tuỳ Sào Tử gật gật đầu: “Được, như vậy cho công bằng! Linh đồng, hãy ra câu hỏi!”
Tiểu đồng khép hai mắt lại, bắt chước giọng điệu người lớn: “Tiểu đồng xin hỏi lão trượng, thế nào gọi là huyền cơ trong vũ trụ?”
Nghe vậy, Tuỳ Sào Tử ngạc nhiên sửng sốt. Đừng nói là huyền cơ trong vũ trụ, dù là huyền cơ trong nhân gian, bản thân khổ sở kiếm tìm cả đời cũng không thể hiểu hết, nay đến khe núi này, cũng là để thỉnh giáo chuyện đó. Nhưng tiểu đồng kia, mở miệng đã nói tới huyền cơ trong vũ trụ, bảo mình phải trả lời sao đây? Tuy nhiên lời đã nói ra, lúc này sao có thể thu lại? Tuỳ Sào Tử bắt đầu lo lắng, vừa ấp a ấp úng, vừa cố vắt óc suy nghĩ: “Chuyện này… à,… huyền cơ vũ trụ… chính là… à… ừ… đó là…”
Tiểu đồng bật cười thành tiếng, nói: “Sao thế, lão trượng, đừng nói là không trả lời được nhé!”
Tuỳ Sào Tử ứng phó linh hoạt, ngẩng đầu hỏi lại: “Linh đồng trả lời được chăng?”
Tiểu đồng ngừng cười, thở dài một tiếng hệt như người lớn, chậm rãi lắc đầu: “Ồ, nếu tiểu đồng mà trả lời được, việc gì phải hỏi lão trượng? Mà cũng phải thôi, câu này hơi khó. Thế này đi, tiểu đồng cho lão trượng một cơ hội nữa, lão hãy trả lời một câu rất đơn giản.”
Tuỳ Sào Tử hiền từ nhìn tiểu đồng chờ đợi.
Tiểu đồng chỉ vào khe suối bên cạnh: “Xin hỏi lão trượng, nước trong khe suối sao chỉ chảy từ trên núi xuống, mà không chảy từ dưới núi lên?”
Tuỳ Sào Tử cười ha hả, lại hỏi ngược trở lại: “Xin hỏi linh đồng, khi linh đồng đun nước, vì sao hơi nước bốc ra từ trong nồi lại bay lên nóc nhà, mà không phải từ nóc nhà bay vào trong nồi?”
Tiểu đồng chớp mắt liền vài cái, chau mày lẩm bẩm: “Hơi nước bốc ra từ trong nồi bay lên nóc nhà, không phải từ nóc nhà bay vào trong nồi? Ồ, đúng vậy, vì sao nhỉ?” Chau mày suy nghĩ một lát, bỗng ngẩng đầu lên, lại quan sát Tuỳ Sào Tử một chập, gật gật đầu. “Lão trượng, xem ra, lão cũng thú vị lắm!”
“Ồ, lão hủ thì có gì thú vị?”
“Tức là… tức là gia sư đã đồng ý gặp lão!”
“Vì sao?”
“Vì trông lão bề ngoài thì thần bí, ăn nói thì vòng vo!”
Tuỳ Sào Tử cười ha hả: “Đã nói như vậy, hẳn là linh đồng muốn dẫn lão trượng tới gặp gia sư rồi?”
Tiểu đồng hơi bối rối, rồi nói: “Không giấu lão trượng, tiểu đồng cũng phải vào bẩm báo trước một tiếng, nếu không, gia sư sẽ quở trách!”
Đúng lúc này, cánh cửa thảo đường cót két mở ra, một ông lão tiên phong đạo cốt, tóc bạc phơ phơ, mặt đỏ hồng hào, hai hàng lông mày trắng bạc uốn cong trên trán, chậm rãi từ bên trong bước ra.
Từ xa nhìn thấy Tuỳ Sào Tử, Quỷ Cốc Tử vội rảo bước lại, vái dài một vái: “Thảo nào Vương Hủ trong lòng thấp thỏm không yên, hoá ra Tuỳ Sào huynh tới thăm!”
Tuỳ Sào Tử cũng vái đáp lễ, cười mà nói: “Ngưỡng cửa nhà Vương huynh, thật khó bước qua!”
Quỷ Cốc Tử chỉ vào tiểu đồng, cười vui vẻ: “Hẳn là thằng nhóc này đã làm khó huynh?”
Hai người cùng nhìn tiểu đồng cười vang. Tiểu đồng há hốc miệng ngạc nhiên, ngơ ngác đưa tay lên gãi đầu.
Quỷ Cốc Tử quay người lại, chìa tay mời: “Tuỳ Sào huynh, mời vào hàn xá!”
Tuỳ Sào Tử cũng khiêm nhường đáp lễ: “Vương huynh, mời vào trước!”
Hai người dắt tay nhau bước vào thảo đường, ngồi đối diện nhau. Tiểu đồng pha trà xong, đứng hầu phía sau Quỷ Cốc Tử. Tuỳ Sào Tử nhấp một ngụm nhỏ, thưởng thức hương trà, rồi đặt chén xuống nói: “Trà này không phải trà thường!”
Quỷ Cốc Tử cũng nhấp một ngụm, mỉm cười mà nói: “Nhận biết được mùi vị của trà này, e rằng trên đời không có nổi vài người. Không giấu Tuỳ Sào huynh, mười ngày trước, bạn tiên Liệt Tử cưỡi mây qua đây, trà này là do Liệt Tử biếu tặng!”
Tuỳ Sào Tử thở dài một tiếng: “Nghe nói Liệt Tử đi mây về gió, như thiên mã lướt trên trời cao. Tuỳ Sào nếu có bản lĩnh này, không biết sẽ tiết kiệm được bao nhiêu đôi dép cỏ!”
Quỷ Cốc Tử cười vang: “Nếu Tuỳ Sào huynh như thiên mã lướt trên trời cao, e rằng chư hầu liệt quốc sẽ ngủ không ngon giấc!”
Hai người lại cùng cười vang. Quỷ Cốc Tử như sớm đoán được ý định của Tuỳ Sào Tử, lại nhấp một ngụm trà, rồi thong thả nói: “Trước khi Liệt Ngự Khấu ra về, đã để lại một áng kỳ văn, khiến cho Vương Hủ say mê ngẫm ngợi đến tận bây giờ!”
Tuỳ Sào Tử ngạc nhiên: “Ồ, áng kỳ văn gì mà có thể khiến Vương huynh xúc động đến thế?”
Quỷ Cốc Tử lấy ra một cuộn thẻ tre, lật giở vài tấm, đưa cho tiểu đồng: “Kỳ văn này, Vương Hủ không nỡ một mình hưởng thụ, muốn thưởng thức cùng Tuỳ Sào huynh.”
Tiểu đồng đỡ lấy, nâng trên hai tay đưa cho Tuỳ Sào Tử. Tuỳ Sào Tử cầm lên, thấy đó là một bài văn ngắn, kể về chuyện Ngu Công ở Bắc Sơn thấy trước cửa có hai ngọn núi chắn đường, quyết chí đào núi dời đi cho bằng được.
Tuỳ Sào Tử đọc đi đọc lại nhiều lần, rồi thở dài thườn thượt: “Ngu Công ở Bắc Sơn đích thị là chỉ Tuỳ Sào rồi!”
Quỷ Cốc Tử cười cười mà nói: “Ngu Công sao có thể sánh với Tuỳ Sào huynh?”
“Tại sao không?”
“Xin hỏi Tuỳ Sào huynh, thế nào là núi Đại Hình? Thế nào là núi Vương Ốc?”
“Đại Hình, chính là người; Vương Ốc, chính là mình. Liệt Tử nói, phàm là lòng người, đều có hai ngọn núi ngăn cản, một là trong lòng có người, hai là trong lòng có mình.”
“Đúng vậy!” Quỷ Cốc Tử gật đầu cười nói. “Trong lòng Tuỳ Sào huynh, Vương Ốc sớm đã chuyển đi rồi, duy còn lại Đại Hình; mà trong lòng Ngu Công ở Bắc Sơn, cả hai núi đều tồn tại! Tuỳ Sào huynh chỉ cần di dời một núi, Ngô Công phải di dời cả hai núi. Di dời một núi và hai núi, ai khó ai dễ, chẳng phải liếc mắt qua cũng biết được ư?”
Tuỳ Sào Tử lắc đầu: “Người hiểu ta, là Vương huynh; người không hiểu ta, cũng là Vương huynh! Ngu Công trong lòng tuy có hai ngọn núi, song quyết chí di dời. Còn Tuỳ Sào Tử trong lòng tuy có một ngọn núi, nhưng không những không có chí di dời, ngược lại tâm tư luôn phiền muộn vì nó, đêm ngủ không ngon giấc!”
Quỷ Cốc Tử cười vang mà nói: “Nghe những lời này, đúng là mỗi người một chí, không thể gượng ép!”
Tuỳ Sào Tử ngẩng đầu, nhìn Quỷ Cốc Tử bằng ánh mắt tha thiết: “Không giấu Vương huynh, Tuỳ Sào đến đây, mục đích chính là ngọn núi Đại Hình này!”
Quỷ Cốc Tử lắc đầu quầy quậy: “Đại Hình cũng vậy, Vương Ốc cũng thế, những điều này sớm đã không liên quan gì tới Vương Hủ. Tuỳ Sào huynh nếu vì núi này mà tới đây, xem ra phải thất vọng quay về rồi!”
Lời nói này chẳng khác gì chặn đứng con đường trước mặt. Tuỳ Sào Tử thấy tim nảy lên trong lồng ngực, đuôi mày khẽ giật giật, rồi lại cười vang mà nói: “Không nói tới núi này cũng được. Tuỳ Sào còn một việc nữa, nhân tiện muốn thỉnh giáo Vương huynh!”
“Nếu là việc khác, Vương Hủ sẵn sàng giúp chút sức mọn!”
Tuỳ Sào Tử bưng chén trà lên, lại nhấp một ngụm, chậm rãi nói: “Tiên sư Mặc Địch năm xưa nhận chữa bệnh cho một người. Bệnh của người này đã mưng mủ sưng tấy, chữa mãi không khỏi, tiên sư lấy làm hối tiếc, trước lúc quy tiên, đã giao người bệnh lại cho Tuỳ Sào. Vài chục năm qua, Tuỳ Sào chạy đôn đáo khắp nơi, tuy đã tận lực, song vẫn không tìm ra cách cứu chữa! Tới nay, độc đã ngấm vào đến xương, bệnh đã tới hồi nguy kịch, gần như hết thuốc chữa. Tuỳ Sào biết Vương huynh tinh thông y đạo, nên lần này muốn tới đây thỉnh giáo!”
Quỷ Cốc Tử trầm ngâm hồi lâu, thở dài một tiếng: “Vòng vo xa gần, tấm lòng cứu thế của Tuỳ Sào Tử, quả nhiên khó dứt!”
Tuỳ Sào Tử vái dài một vái: “Vẫn xin Vương huynh niệm đến lòng đại ái trong trời đất, chỉ bảo Tuỳ Sào một phương thuốc chữa trị.”
Thấy Tuỳ Sào Tử đã nói tới nước này, Quỷ Cốc Tử đành phải đáp lễ, lại thở dài một tiếng: “Lòng bác ái của Tuỳ Sào huynh khiến đất trời cảm động, quỷ thần rơi lệ, Vương Hủ sao không xúc động cho được? Xin hỏi Tuỳ Sào huynh đã chữa trị cho người này như thế nào?”
“Tuỳ Sào vẫn làm theo cách điều trị của tiên sư Mặc Địch, trước hết dùng thuốc cao đắp vào vùng nhiễm bệnh, dùng thuốc uống tiêu trừ độc tố, lại xem âm dương thịnh suy để giảm bớt chỗ dư thừa, bổ sung chỗ thiếu hụt, điều trị dần dần. Tuy nhiên, chữa trị tới nay, bệnh tình đã không thuyên giảm, trái lại còn sưng tấy hơn, khí độc càng ngấm vào xương tuỷ. Tuỳ Sào đã hết cách, vô cùng khổ não!”
“Tuỳ Sào huynh dùng cách thức rất đúng. Sở dĩ chưa có hiệu quả, là vì thời điểm chưa tới. Thuốc từ từ mới ngấm, nên hiệu quả cũng từ từ mới có. Tông chỉ của cách thức này nằm ở chỗ diệt trừ tận gốc, hiệu quả sẽ xuất hiện về sau!”
Tuỳ Sào Tử gật đầu: “Nghe được những lời này của Vương huynh, Tuỳ Sào Tử thấy đã an ủi phần nào. Song sưng tấy ngày càng lan rộng, mủ độc ngày càng tích tụ, tai hại ngày càng kịch liệt, người bệnh ngày càng khổ sở. Tuỳ Sào Tử ngày ngày chứng kiến, thực sự không đành lòng!”
Quỷ Cốc Tử ngẩng đầu hỏi: “Nói như vậy, thì điều mà Tuỳ Sào Tử đau đầu, chỉ là không đành lòng nhìn đám mủ độc sưng tấy, chỉ mong nhanh chóng trừ bỏ?”
“Đúng vậy!” Tuỳ Sào Tử lại thở dài, “Nguyện vọng này thực quá xa xỉ! Không giấu Vương huynh, nếu bệnh có thể khỏi trong một sớm, Tuỳ Sào có chết cũng không hối hận!”
Quỷ Cốc Tử lại nghĩ ngợi một lát, gật đầu nói: “Nếu đúng như vậy, Vương Hủ có một phương thuốc, chỉ sợ Tuỳ Sào huynh không muốn làm.”
Tuỳ Sào Tử mắt sáng rực: “Vương huynh cứ nói, Tuỳ Sào mong muốn được thử!”
“Tuỳ Sào huynh có thể dùng dao sắc cắt bỏ vùng nhiễm bệnh, khoét đi chỗ sưng tấy, rạch xương cạo độc ra!”
Tuỳ Sào Tử nhắm mắt lại, đắm chìm trong suy nghĩ, hồi lâu sau mới mở mắt ra nói: “Người bệnh nặng kỵ dùng thuốc mạnh, đây là lẽ thường trong nghề y. Cách này của Vương huynh tuy hay, song dùng dao chỉ sợ chưa khoét bỏ được chỗ sưng tấy thì người bệnh đã chết rồi.”
Quỷ Cốc Tử mỉm cười: “Có lẽ người bệnh chỉ chết ngất vì đau đớn. Tuy nhiên, sau khi hết đau, người bệnh có thể tỉnh lại. Lúc này, vùng nhiễm bệnh đã được trừ bỏ, Tuỳ Sào huynh chỉ cần đắp thuốc vào chỗ khoét, bổ sung nguyên khí tiêu hao, trong vòng mười ngày, vết thương sẽ dần hồi phục. Sau đó lại tiếp tục dùng thuốc bổ dưỡng, cân bằng hai khí âm dương, giảm bớt chỗ dư thừa, bổ sung chỗ thiếu hụt, người bệnh ắt sẽ hồi phục như thường, cơ thể lại khoẻ mạnh tráng kiện!”
Tuỳ Sào Tử cúi đầu suy nghĩ một lát, vòng tay cất giọng khâm phục: “Lời của Vương huynh đã khiến Tuỳ Sào thức tỉnh, Tuỳ Sào cho là rất đúng! Hôm nay, xem ra thứ mà Tuỳ Sào theo đuổi cả đời, đều là trị chưa đúng bệnh, thuốc chưa vào được bên trong. Cách của Vương huynh, biến đau đớn kéo dài thành đau đớn chốc lát, có lẽ đã trị đúng bệnh!”
Quỷ Cốc Tử cũng vòng tay nói: “Tuỳ Sào huynh quá khen!”
“Thế nhưng…” Tuỳ Sào Tử dừng lại một chốc, “cách lấy độc trị độc, sử dụng dao sắc mà Vương huynh nói, thực sự không phải là sở trường của Tuỳ Sào. Phương thức này của Vương huynh, Sào Tử lực bất tòng tâm, cần Vương huynh đích thân thực hiện mới được!”
Quỷ Cốc Tử lắc đầu: “Vương Hủ vào núi đã nhiều năm, từ lâu đã quen tiêu dao nơi sơn dã. Chữa trị các chứng bệnh tục của thế gian, thực sự không phải là mong muốn của Vương Hủ.”
Tuỳ Sào Tử tha thiết khẩn cầu: “Vương huynh đã nhìn ra bệnh, cũng đã kê ra đơn thuốc, sao không tiến thêm bước nữa, để người bệnh sớm thoát khỏi đau đớn?”
“Người đời có phúc riêng của người đời, tiên nhân có niềm vui của tiên nhân. Sướng khổ của đời người đều thuận theo tự nhiên, cũng quy về tự nhiên, Tuỳ Sào huynh hà cớ phải miễn cưỡng khổ sở làm vậy?”
Tuỳ Sào Tử trầm ngâm một lát, chậm rãi nói: “Bách tính tàn sát lẫn nhau, thanh niên chết trận oan uổng, người già neo đơn không nơi nương tựa… Khổ nạn trong thiên hạ, lời nói của Tuỳ Sào từ lâu đã không đủ sức hình dung. Với trí nhãn của Vương huynh, đâu có cớ gì không biết? Vương huynh đã biết, sao còn nhẫn tâm ẩn cư chốn thâm sơn, chỉ khư khư tu thiện riêng mình? Xin hãy nghe một lời của Tuỳ Sào, sướng khổ của đời người tuy là tự nhiên, song chiến loạn tàn sát lại là nhân họa. Đã là nhân họa, phải có người trị. Tuỳ Sào tài hèn sức yếu, chỉ biết từ bỏ nốt chút thể diện cỏn con, xin khẩn cầu Vương huynh!” Nói tới đây thì đứng dậy, từ từ quỳ xuống trước mặt Quỷ Cốc Tử, khấu đầu sát đất, nước mắt giàn giụa trên khuôn mặt già nua.
Quỷ Cốc Tử tuy kinh ngạc, song vẫn ngồi im.
Tuỳ Sào Tử cũng là người cực kỳ ngoan cố, vẫn quỳ trên đất im lìm bất động.
Hai người cứ như vậy hồi lâu, rồi Quỷ Cốc Tử khẽ thở dài một tiếng, chậm rãi nói: “Tuỳ Sào Tử! Vương Hủ lòng đã vững như bàn thạch, Tuỳ Sào quỳ tới giờ chắc đã mệt rồi, mau đứng dậy đi, Vương Hủ về động tu luyện đây!” Nói đoạn, chậm rãi đứng lên, không ngoảnh đầu lại, rảo bước đi thẳng về phía động Quỷ Cốc nối liền với thảo đường.
Tiểu đồng nhìn cảnh tượng này, thấy không đành lòng, lè lưỡi theo sau lưng Quỷ Cốc Tử. Đợi Quỷ Cốc Tử bước vào trong động, vội chạy lại, kéo tay Tuỳ Sào Tử, cất giọng thông cảm: “Tuỳ Sào Tử lão trượng, đừng cầu xin gia sư nữa, để tiểu đồng nấu gì cho lão ăn, bổ sung nguyên khí!”
Tuỳ Sào Tử từ từ đứng dậy, thở dài một tiếng, lắc đầu không nói một lời, nặng nề lê bước ra khỏi thảo đường.
Từ xa nhìn thấy Tuỳ Sào Tử bước ra khỏi sơn cốc, Tống Kiển vội vã đứng dậy, chạy lại đón, thấy Tuỳ Sào Tử mặt nặng trình trịch, ngần ngừ một lát mới hỏi: “Tiên sinh, Quỷ Cốc tiên sinh không có trong sơn cốc ư?”
Tuỳ Sào Tử lắc đầu.
Tống Kiển nghĩ một lát, lại hỏi: “Vậy… Quỷ Cốc tiên sinh cũng không có phương thuốc cứu thế ư?”
Tuỳ Sào Tử lại lắc đầu.
Tống Kiển ngơ ngác không hiểu: “Có phương thuốc hay, lẽ nào không chịu nói với tiên sinh?”
Tuỳ Sào Tử vẫn lắc đầu.
Tống Kiển lộ vẻ sốt ruột: “Đều không phải, vậy tại sao trông tiên sinh âu sầu nhường kia?”
Tuỳ Sào Tử thở dài thườn thượt: “Tuy Quỷ Cốc tiên sinh có phương thuốc kỳ diệu cứu thế, song chúng ta lại không có khả năng thực hiện!”
Tống Kiển vội nói: “Chuyện này cũng dễ thôi! Người nào có khả năng, chúng ta đi mời người đó!”
“Trong thiên hạ ngày nay, người có thể làm được, có lẽ chỉ mình Quỷ Cốc tiên sinh. Thế nhưng tiên sinh… Than ôi!” Tuỳ Sào Tử ngồi xuống tảng đá, sắc mặt rầu rĩ.
Tống Kiển không biết phương thuốc này kỳ diệu đến đâu, cũng không biết Quỷ Cốc tiên sinh vì sao có khả năng mà không giúp, chỉ biết đứng ngẩn ra nhìn bộ dạng đau khổ của Tuỳ Sào Tử.
Tuỳ Sào Tử đang buồn rầu, bất ngờ khoé mắt liếc thấy một cây nấm màu sắc rực rỡ lấp ló trong vạt rừng, bỗng nảy ra một ý, lẳng lặng bước tới, cúi người nhổ lên, cho vào ống tay áo.
Tống Kiển đang lo lắng cho thầy, hơn nữa Tuỳ Sào Tử đang quay lưng lại, nên không để ý tới động tác của lão, bèn nói khẽ: “Quỷ Cốc tiên sinh không muốn xuống núi, chúng ta liệu có thể thử cách khác chăng?”
Tuỳ Sào Tử cũng đã kịp quay về, bình thản nói: “Quỷ Cốc tiên sinh không chịu giúp, ta cũng chẳng còn cách nào. Đi thôi!” Nói xong, quay đầu bước đi.
Tống Kiển gật đầu, đi theo sau. Hai người đi theo đường mòn khoảng hơn trăm bước, Tuỳ Sào Tử lẳng lặng lấy cây nấm độc từ trong ống tay áo ra, bỏ vào trong miệng. Đi thêm khoảng mười bước nữa, độc tố phát tác, Tuỳ Sào Tử loạng choạng, ngã nhào xuống đất.
Tống Kiển kinh hãi thất sắc, vội vàng chạy lại đỡ lấy Tuỳ Sào Tử, hốt hoảng gọi: “Cự tử! Cự tử!”
Tuỳ Sào Tử sùi bọt mép, sắc mặt tái xanh.
Tống Kiển quỳ xuống đất khóc gọi: “Cự tử, mau tỉnh dậy đi!”
Tuỳ Sào Tử từ từ mở mắt, nhìn Tống Kiển, khoé miệng khẽ động dậy, gắng gượng cất lời: “Tống Kiển!”
“Có đệ tử!”
“Mau lên, đỡ… đỡ ta ngồi xuống dưới gốc cây!”
Tống Kiển cuống quýt đỡ Tuỳ Sào Tử dậy, để lão ngồi tựa lưng vào gốc cây. Tuỳ Sào Tử khép hai mắt lại, nén khí xuống đan điền, bắt đầu luyện công. Một lát sau, Tuỳ Sào Tử đã khống chế được độc tố, từ từ mở mắt, nhìn Tống Kiển cười nói: “Vừa rồi đói bụng, nhìn thấy ven đường có một cây nấm, chưa kịp nhìn kỹ, cứ thế bỏ vào miệng. Ăn được một nửa, cảm thấy bất ổn, thì đã không kịp!”
Tống Kiển vội nói: “Cự tử, là độc thì đều có cách giải! Tiên sinh tinh thông y đạo, ắt là biết cách giải độc!”
Tuỳ Sào Tử khẽ lắc đầu: “Hình dạng của cây nấm này rất khác lạ, độc của nó cũng kỳ lạ không gì bằng, ta xưa nay chưa từng gặp, làm thế nào để giải đây?”
Khí độc lại phát tác, Tuỳ Sào Tử mồ hôi rịn đầy trên trán, tiếp tục vận công, mặt vàng như nghệ.
Tống Kiển quỳ xuống khóc nức nở: “Tiên sinh…”
Tuỳ Sào Tử gắng gượng lấy từ trong ống tay áo ra nửa cây nấm độc, nói: “Nấm này mọc ở Quỷ Cốc, hẳn là Quỷ Cốc tiên sinh… tiên sinh…” Lại ngừng lời, tiếp tục vận công.
Tống Kiển đã hiểu ra, cầm lấy nửa cây nấm độc từ trong tay Tuỳ Sào Tử, chạy như bay về phía Quỷ Cốc.
Tuỳ Sào Tử vừa đi khỏi, Quỷ Cốc Tử quay gót bước ra khỏi động, hai tay chắp sau lưng, cúi đầu đi đi lại lại trên bãi cỏ.
Tiểu đồng nhìn qua đã hiểu, cười khẽ một tiếng, bước lại gần, làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi: “Tiên sinh, bình thường tiên sinh vào trong động, hoặc hai, ba tháng, hoặc tám, mười ngày, ít nhất cũng ba, năm canh giờ, vì sao hôm nay vừa vào đã lại ra?”
Quỷ Cốc Tử lừ mắt nhìn tiểu đồng, mắng: “Đi đi, tiểu tử nhiều lời quá!”
Tiểu đồng cười hì hì nói: “Tiên sinh hẳn là có tâm sự trong lòng!”
Quỷ Cốc Tử lại mắng: “Ngươi còn ở đó nhiều lời, ta…” khoé mắt liếc qua, nhìn thấy một cành cây nhỏ, liền bước tới, cầm lấy dứ dứ ra chiều định đánh, “ta quất cho nát mông bây giờ!”
Tiểu đồng vờ sợ hãi: “Tiên sinh, đừng… tiểu đồng không dám nữa!”
Quỷ Cốc Tử ném cành cây xuống đất, tiểu đồng cười rúc rích chạy lại, nắm lấy tay Quỷ Cốc Tử, hai người một già một trẻ đi đi lại lại trên bãi cỏ.
Đi được một lát, tiểu đồng lại không nhịn nổi, bèn dừng bước, ngước mắt nhìn Quỷ Cốc Tử: “Phải chăng tiên sinh đang lo lắng cho Tuỳ Sào Tử lão trượng?”
Quỷ Cốc Tử cũng dừng lại, thở dài một tiếng, đưa mắt nhìn về phía xa xăm.
“Tiên sinh, vừa rồi nhìn bộ dạng khẩn cầu của lão trượng, tiểu đồng trong lòng cũng thấy thương xót, vì sao tiên sinh không đồng ý với nguyện vọng của lão trượng?”
Quỷ Cốc Tử lại thở dài, vỗ vào đầu tiểu đồng: “Ngươi còn bé lắm, sao có thể hiểu được! Thiên đạo thế đạo, đều tuân theo đạo tự thân, mỗi cái đều có vận số riêng. Nếu hôm nay vận số chưa tới, ta và ngươi có sốt sắng đến mấy, cũng nào có ích gì?”
“Vậy thì tiên sinh cũng nên an ủi khuyên nhủ lão trượng, không nên đuổi lão đi như vậy!”
Quỷ Cốc Tử khẽ lắc đầu: “Cái thằng bé này, ngươi chỉ biết thầy ngươi lòng dạ sắt đá, mà không biết Tuỳ Sào Tử lão trượng kia giống như nhựa cây, hễ dính vào người, muốn vẩy ra cũng không vẩy nổi! Vừa rồi ta đuổi lão ấy đi, chỉ e là vẫn chưa đuổi nổi thôi! Nếu ngươi không tin…”
Nửa câu cuối còn chưa nói hết, Tống Kiển đã chạy vụt qua cửa sơn cốc, vừa chạy vừa khóc hu hu, gọi lớn: “Quỷ Cốc tiên sinh… Quỷ Cốc tiên sinh…”
Tiểu đồng kinh ngạc nhìn về phía có tiếng gọi. Quỷ Cốc Tử chậm rãi bước lên một tảng đá ở bên cạnh, từ từ ngồi xuống, sắc mặt bình thản nhìn Tống Kiển.
Tống Kiển đoán người này chính là Quỷ Cốc Tử, bèn chạy thẳng tới, quỳ thụp xuống đất, khóc không thành tiếng: “Quỷ Cốc tiên sinh, cự tử nhà tôi… đã… đã”
Quỷ Cốc Tử ôn tồn hỏi: “Nói đi, cự tử nhà ngươi làm sao?”
“Cự tử… cự tử đã ăn nhầm phải nấm độc!”
Quỷ Cốc Tử mỉm cười: “Vị đệ tử kia, ngươi cứ yên tâm về đi! Dựa vào công phu của cự tử, nấm độc bình thường sẽ không thể gây tổn thương đến lão!”
Tống Kiển vội vã lấy ra nửa cây nấm độc từ trong ống tay áo: “Cự tử dặn vãn bối đưa cho tiên sinh thứ này!”
Quỷ Cốc Tử liếc nhìn, trong lòng thầm kinh hãi, song thần sắc vẫn không mảy may thay đổi, chỉ than khẽ một tiếng: “Than ôi, cái lão già này, muốn đùa với cả tính mạng mình ư?”
Tiểu đồng cầm lấy cây nấm độc từ trong tay Tống Kiển, xem kỹ một lát, kinh hãi kêu lên: “Tiên sinh, đây chẳng phải là nấm xuyên tràng sao? Tuỳ Sào Tử lão trượng, lão ấy…”
Quỷ Cốc Tử cầm lấy nửa cây nấm độc, lại thở dài một tiếng, gật đầu nói: “Đúng vậy, đây là thứ độc nhất trên đời, chỉ với nửa cây nấm, độc tố đã đủ để giết chết hai con bò mộng. Tuỳ Sào Tử lão trượng của cậu dám ăn nửa cây, có thể thấy lão đã tu luyện đến cảnh giới cao siêu!”
“Nhưng lão trượng…”
“Cũng may lão ấy chỉ ăn nửa cây, nếu không, đừng nói là lão hủ đây, cho dù có thần y tái thế, e rằng cũng không cứu nổi!
Tiểu đồng cười hớn hở: “Tiên sinh, nghe tiên sinh nói vậy, Tuỳ Sào Tử lão trượng hẳn được cứu rồi!”
Quỷ Cốc Tử khẽ lắc đầu.
Tiểu đồng vội nói: “Tại sao vậy? Chẳng phải vừa rồi tiên sinh có nói, may mà Tuỳ Sào Tử lão trượng chỉ ăn có nửa cây thôi ư?”
“Tuỳ Sào Tử nhất quyết muốn chết, cứu làm sao được? Tiểu tử nghĩ mà xem, ta cứu lão ấy lần này, lại sẽ có lần sau. Lần này là nấm độc, lần sau không biết là thứ gì nữa, tiểu tử bảo ta phải cứu lão trượng thế nào đây?”
Tiểu đồng cầu xin: “Tiên sinh, Tuỳ Sào Tử lão trượng sẽ không như vậy đâu, lần này hẳn là sơ ý ăn nhầm mà thôi!”
Tống Kiển cũng vội nói thêm vào: “Tiên sinh, cự tử là ăn nhầm. Đúng là ăn nhầm, chính miệng cự tử đã nói vậy!”
Quỷ Cốc Tử lại thở dài, nhìn sang tiểu đồng: “Tiểu tử, ngươi thật sự muốn cứu Tuỳ Sào Tử lão trượng ư?”
Tiểu đồng gật đầu lia lịa.
Quỷ Cốc Tử trở vào thảo đường, cầm ra hai viên đan dược, một viên màu đen, một viên màu vàng, đưa cho tiểu đồng: “Viên màu đen bảo lão trượng uống, viên còn lại tiểu tử hãy mang theo bên mình!”
Tiểu đồng ngạc nhiên hỏi: “Tiểu đồng không ăn nấm độc, cần nó làm gì?”
“Để phòng bất trắc. Nếu Tuỳ Sào Tử lại ăn nhầm thứ độc khác, ngươi biết làm thế nào?”
Tiểu đồng sực hiểu ra, gật đầu trả lời: “Tiên sinh nói rất phải, tiểu đồng đi đây!”
Tiểu đồng và Tống Kiển chạy như bay ra khỏi Quỷ Cốc, một lát sau đã tới bên gốc cây, quả nhiên thấy Tuỳ Sào Tử sắc mặt đã chuyển từ xanh tái sang đen sạm, hàm răng nghiến chặt, toàn thân lạnh toát, hai tay run rẩy, bất tỉnh nhân sự. Tiểu đồng vội vã lấy viên thuốc màu đen ra, Tống Kiển cạy răng Tuỳ Sào Tử, nhét viên thuốc vào, giúp lão nuốt xuống.
Quả là thần dược. Chưa đầy nửa canh giờ, Tuỳ Sào Tử trên mặt đã thấy huyết sắc, dần dần hồi tỉnh. Tiểu đồng và Tống Kiển cùng thở phào, nhìn nhau cười.
Tuỳ Sào Tử từ từ mở mắt, trông thấy tiểu đồng ngồi cạnh, hiểu rằng Quỷ Cốc Tử đã nhìn thấu tâm can mình, bèn thở dài một tiếng, khép mắt lại.
Tiểu đồng quan tâm hỏi: “Tuỳ Sào Tử lão trượng! Gia sư nói, lão trượng không phải ăn nhầm nấm xuyên tràng, mà là cố tình ăn! Vì sao lão trượng lại cố tình ăn thứ cực độc như vậy?”
Tuỳ Sào Tử im lặng không nói.
Tiểu đồng ngẫm nghĩ một lát, lại hỏi tiếp: “Tuỳ Sào Tử lão trượng, tiểu đồng biết lão trượng vì sao lại ăn rồi! Lão trượng muốn mời gia sư ra khỏi núi, đúng không?”
Tuỳ Sào Tử khẽ gật đầu.
“Tuỳ Sào Tử lão trượng, lão trượng đừng cầu xin gia sư nữa. Tiểu đồng biết, gia sư không muốn rời xa khu rừng này đâu! Nếu gia sư đã không muốn, đừng nói là lão trượng ăn nhầm thuốc độc, mà ngay cả lão trượng dùng xích sắt trói gô gia sư lại cũng vô ích mà thôi!”
Tuỳ Sào Tử lại gật đầu.
“Tuỳ Sào Tử lão trượng, tiểu đồng đã hiểu ra rồi. Biết nguyên nhân cũng tốt, không biết nguyên nhân cũng chẳng sao, suối trên núi vẫn chảy từ trên xuống, nước trong nồi vẫn bốc hơi lên nóc nhà. Tuỳ Sào Tử lão trượng, việc gì cũng nên suy nghĩ cho khoát đạt, mọi việc trong thiên hạ, có miễn cưỡng cũng vô ích.”
Tuỳ Sào Tử thấy tiểu đồng mới chút tuổi đầu đã thông minh đến vậy, bất giác nước mắt tuôn trào.
Tiểu đồng đưa ống tay áo lên lau nước mắt cho Tuỳ Sào Tử, rồi từ từ quỳ xuống, dập đầu liền ba cái: “Tuỳ Sào Tử lão trượng, lão hãy bảo trọng, tiểu đồng về núi đây!”
Tuỳ Sào Tử lại gật đầu, đưa tay xoa đầu tiểu đồng.
Tiểu đồng lấy ra viên thuốc màu vàng từ trong tay áo: “Tuỳ Sào Tử lão trượng, viên thuốc này cũng xin lão trượng mang theo bên mình!”
Tuỳ Sào Tử lắc đầu nói: “Độc tố đã giải, thuốc này còn có ích gì?”
Tiểu đồng ôn tồn nói: “Gia sư lo lão trượng lại ăn nhầm thứ độc khác, đã chuẩn bị sẵn viên thuốc giải độc này cho lão trượng. Gia sư nói, dù độc đến đâu, lão trượng chỉ cần uống vào, ắt hoá giải được!”
Nghe thấy lời này, Tuỳ Sào Tử từ từ đứng dậy, đẩy trả viên thuốc, thở dài sườn sượt: “Tiểu đồng, xin hãy về bẩm với gia sư rằng, Tuỳ Sào lão trượng đây không cần thuốc giải. Cần đến thuốc giải, chính là bách tính trong thiên hạ!”
Nói xong, nặng nề cất bước đi luôn, không ngoảnh đầu lại, cứ thế chậm rãi men theo đường núi.
Tiểu đồng tay cầm thuốc giải, đứng trông theo bóng Tuỳ Sào Tử mỗi lúc một xa, lòng đầy suy tư.
Khi bóng hai thầy trò Tuỳ Sào Tử đã khuất hẳn cuối con đường mòn, tiểu đồng mới thở dài một tiếng, trong đầu ngổn ngang suy nghĩ, quay trở về Quỷ Cốc. Từ xa, tiểu đồng đã nhìn thấy Quỷ Cốc Tử vẫn đang ngồi trên tảng đá, trong tay cầm nửa cây nấm độc ăn dở của Tuỳ Sào Tử, như cầm chơi, cũng như đang xem xét.
Tiểu đồng cúi đầu đi về, chẳng nhìn Quỷ Cốc Tử lấy một cái, bước tới bên cạnh một tảng đá khác, ngồi xuống, hai mắt nhìn sững về phía gò đất cách đó không xa.
Quỷ Cốc Tử liếc nhìn tiểu đồng, gọi: “Tiểu tử!”
Tiểu đồng giả bộ như không nghe thấy.
Quỷ Cốc Tử lại gọi to hơn: “Tiểu tử!”
Tiểu đồng đã không thèm lý đến, còn cố tình quay đầu đi, nhìn về phía khác.
Quỷ Cốc Tử cười ha hả: “Tiểu tử, ngươi giận dỗi như vậy phỏng có ích gì? Có phải Tuỳ Sào Tử lão trượng không chịu uống thuốc chăng?”
Tiểu đồng nhấm nhẳng: “Không phải!”
“Là Tuỳ Sào Tử lão trượng của ngươi vẫn ở đó, không chịu xuống núi?”
“Cũng không phải!”
Quỷ Cốc Tử nghĩ một lúc: “Vậy… hẳn là ngươi tiếc vì mất đi viên thuốc giải độc vạn năng?”
Tiểu đồng sốt ruột, quay lại nhìn Quỷ Cốc Tử, xẵng giọng: “Cũng không phải!”
Quỷ Cốc Tử lắc đầu liên hồi: “Thế này không phải, thế kia cũng không phải. Tiểu tử, hẳn là ngươi đang cố ý chơi trò bịt mắt bắt dê với ta?”
Tiểu đồng chớp chớp đôi mắt to tròn, buồn bã mà nói: “Tiểu đồng thấy khó chịu trong lòng!”
Quỷ Cốc Tử cười vang vui vẻ nói: “Ồ, tiểu tử cũng có tâm sự ư! Nói đi, khó chịu gì trong lòng?”
Tiểu đồng bỗng đứng bật dậy, lên giọng nói: “Nhìn Liệt Tử lão trượng, chân không bén đất, nói đến là đến, nói đi là đi! Lại nhìn Tuỳ Sào Tử lão trượng, vì người khác mà đi mòn vẹt cả dép cỏ, chứ ai như tiên sinh…”
Quỷ Cốc Tử mỉm cười hỏi: “Lão hủ thì sao?”
Tiểu đồng hừ mũi một tiếng, nét mặt coi thường: “Từ sáng tới tối ở lì trong sơn cốc, chẳng làm việc gì, chẳng đi đến đâu! Tiểu đồng thực sự không hiểu, tiên sinh sống ở đây, hết ngày này qua ngày khác, hết năm này qua năm khác, rốt cuộc thì có tài cán gì?”
Quỷ Cốc Tử phá lên cười sảng khoái, cười xong bèn nói: “Tiểu tử nhà ngươi nói là có điều khó chịu trong lòng, hoá ra là vì chê bai lão già này!” Lời vừa nói dứt, tiện tay bỏ luôn nửa cây nấm độc vào trong miệng, nhai một cách thích thú.
Tiểu đồng thấy vậy, kinh hãi kêu thét lên: “Tiên sinh!” Nhưng đã muộn rồi. Tiểu đồng lao bổ về phía Quỷ Cốc Tử như một mũi tên, hai bàn tay nhỏ bé thọc sâu vào trong miệng Quỷ Cốc Tử, gắng sức moi móc.
Tiểu đồng đã chậm một bước, chỉ nghe cổ họng Quỷ Cốc Tử “ực” một tiếng, cả nửa cây nấm đã bị nuốt trôi xuống bụng. Tiểu đồng quỳ xuống đất, gào lên ầm ĩ, vừa khóc vừa nói: “Tiên sinh, tiểu đồng không chê bai tiên sinh, tiểu đồng chỉ là…” Nói đến đây, bỗng sực nhớ ra, lập tức ngừng bặt, đứng bật dậy, móc ra viên thuốc giải độc vạn năng, cố gắng nhét vào trong miệng Quỷ Cốc Tử.
Quỷ Cốc Tử nhổ viên thuốc ra, nhìn viên thuốc một hồi, rồi quay sang tiểu đồng, kinh ngạc hỏi: “Chẳng phải đã bảo ngươi đưa viên thuốc này cho Tuỳ Sào Tử lão trượng ư?”
Tiểu đồng ngớ người, vội giải thích: “Tiểu đồng quên chưa bẩm với tiên sinh, Tuỳ Sào Tử lão trượng nói, lão trượng không cần thuốc giải. Lão trượng còn nói, Người cần đến thuốc giải, chính là bách tính trong thiên hạ! Tiên sinh, bách tính trong thiên hạ, phải chăng cũng ăn nhầm nấm độc giống như Tuỳ Sào Tử lão trượng?”
Nghe thấy lời nói của tiểu đồng, Quỷ Cốc Tử đứng lặng người, trầm ngâm một lát, nhẹ nhàng đặt viên thuốc giải độc vào trong tay tiểu đồng: “Đúng vậy, bách tính trong thiên hạ đã ăn nhầm nấm độc. Viên thuốc giải này, ngươi hãy mang theo bên mình!” Nói xong từ từ đứng dậy, đi vào thảo đường.
Tiểu đồng cầm viên thuốc giải độc vạn năng, kinh ngạc nhìn theo bóng dáng Quỷ Cốc Tử, vò đầu bứt tai, lẩm bẩm một mình: “Thực kỳ lạ! Tiên sinh ăn cây nấm xuyên tràng, vậy mà lại không hề hấn gì!”
Tiểu đồng lại đứng ngẩn tò te một hồi, rồi như chợt bừng tỉnh, sải bước đuổi theo Quỷ Cốc Tử, nhẹ nhàng đỡ lấy tay ông.
Quỷ Cốc Tử âu yếm xoa đầu tiểu đồng: “Tiểu tử, Tuỳ Sào Tử lão trượng của ngươi xuống núi thật rồi ư?”
Tiểu đồng gật đầu.
Quỷ Cốc Tử khẽ thở dài: “Tiểu tử, lớn lên rồi ngươi sẽ hiểu, không phải là ta không chịu giúp lão trượng, mà là việc trần gian như một mớ bòng bong, thực không dễ gỡ!”
Tiểu đồng ngẩng đầu nói: “Không dễ gỡ khác với không thể gỡ, đúng không?”
Quỷ Cốc Tử mắng khẽ: “Tiểu tử ngươi ăn nói y hệt như Tuỳ Sào Tử lão trượng! Gỡ là bòng bong, không gỡ cũng là bòng bong, tìm không ra đầu mối, miễn cưỡng gỡ bừa, chỉ tổ càng gỡ càng rối. Tuỳ Sào Tử lão trượng của ngươi là như vậy đấy, miễn cưỡng gỡ cả đời, chẳng phải càng gỡ càng rối ư?”
“Vậy… Tuỳ Sào Tử lão trượng lẽ nào không tỉnh ngộ?”
“Nếu tỉnh ngộ được, lão trượng đã không phải là Tuỳ Sào Tử! Ngươi nhìn lão trượng mà xem, bản thân gỡ không được, lại còn ương bướng cầu xin. Đời người ngắn ngủi, ta muốn dành cuộc đời này tìm kiếm đại đạo, tới nay, đừng nói là thấu ngộ, dù là cảnh giới mơ hồ hỗn độn như Lão Đam đã gặp, còn chưa từng đạt đến, làm gì còn thời gian giúp lão trượng gỡ mớ bòng bong ấy?”
Tiểu đồng không hiểu, nói: “Tiên sinh hiểu lầm Tuỳ Sào Tử lão trượng rồi. Tiểu đồng tận mắt thấy lão trượng đã xuống núi!”
Quỷ Cốc Tử thở dài một tiếng, nói: “Tiểu tử không biết đâu, hôm nay bị lão trượng quấy rầy, ta bắt đầu cảm thấy bất an trong lòng. Ngươi cứ chờ đấy, chắc hẳn lão trượng sẽ lại tìm ra chiêu khác cho xem!”
Người hiểu Tuỳ Sào Tử, chỉ có Quỷ Cốc Tử.
Hai thầy trò Tuỳ Sào Tử một trước một sau im lặng không nói, rầu rĩ theo đường mòn xuống núi. Đi được vài canh giờ, hai người ra khỏi núi Vân Mộng. Khi sắp tới cửa Túc Tư, trước mặt họ xuất hiện ba con đường lớn; một đường phía chính bắc, chạy thẳng tới Triều Ca, Hàm Đan; một đường phía chính đông, chạy thẳng tới cửa Túc Tư, từ đó vượt Hà Thủy, có thể tới Đại Lương đất Ngụy, Trịnh Đô nước Hàn; một đường chếch về phía tây, là đường mòn, chạy thẳng vào núi Đại Hình, đi đường tắt có thể tới Thượng Đảng, Lạc Dương.
Tống Kiển đi trước mở đường, đột nhiên dừng bước, quay lại nhìn Tuỳ Sào Tử.
Tuỳ Sào Tử đang suy nghĩ rối bời, thấy Tống Kiển dừng bước, cũng dừng theo, ngẩng đầu nhìn.
Tống Kiển chỉ ba ngả đường trước mặt, hỏi: “Tiên sinh, chúng ta nên đi đường nào?”
Tuỳ Sào Tử quan sát một lúc, bỗng nảy ra một ý, chỉ vào con đường mòn: “Đi theo đường này!”
Tống Kiển ngạc nhiên hỏi: “Tiên sinh, đường này dẫn đi đâu?”
“Lạc Dương!” Lời vừa nói dứt, Tuỳ Sào Tử tinh thần phấn chấn, sải bước hăm hở đi về phía con đường mòn chênh chếch hướng tây.
Tống Kiển đứng ngẩn ngơ, đoán chắc là Tuỳ Sào Tử đã lại nghĩ ra kế sách gì, bèn vội vã đuổi theo.
***
Ngụy Huệ Hầu điều động năm vạn đại quân Hà Tây, hẹn năm vạn quân Tần kết liên minh, nóng lòng muốn tấn công biên giới nước Vệ, đại chiến với bầy khỉ, đánh một đòn mà định thiên hạ Trung Nguyên. Nào ngờ lửa cháy sau vườn, người Tần đột kích Hà Tây, khiến ông ta giật mình tỉnh mộng, lập tức điều Long Giả trở về chi viện Hà Tây, đồng thời cấp tốc sai Trần Chẩn tới Đế Khâu, cầu hoà với Tề, Triệu, Hàn.
Người Tần bất ngờ lật lọng, hoàn toàn nằm ngoài dự liệu của Trần Chẩn. Nhớ tới những hành vi của mình trước đây, Trần Chẩn vô cùng kinh hãi, vừa hận Công Tôn Ưởng lừa gạt, lại phải vắt óc tìm đường lui cho mình. Ngụy Hầu sai ông ta đi cầu hoà, rõ ràng đã tạo cho cơ hội lấy công chuộc tội. Do vậy, sau khi nhận lệnh, không dám nấn ná một chốc, lập tức sai Thích Quang đánh xe, mang theo vàng bạc châu báu trong nhà, hối hả tới biên giới nước Vệ.
Người Ngụy cấp tốc rút quân chỉ trong một đêm, Vệ Thành Công, Tôn Cơ và thần dân nước Vệ đều thở phào nhẹ nhõm. Tôn Cơ và quần thần sắp đặt những việc cần thiết, trong khi Vệ Thành Công đích thân tới doanh trại ba nước Tề, Triệu, Hàn để khao quân, nhiệt tình mời Hàn Chiêu Hầu, Tề thái tử, Phụng Dương Quân, Điền Kỵ tới Đế Khâu nghỉ ngơi, đích thân bày tiệc rượu ở hậu cung, sai mỹ nữ múa hát cảm tạ.
Đám người đang say sưa tiệc rượu thì sứ thần nước Ngụy Trần Chẩn cùng đội xe rầm rập tiến vào thành. Vệ Thành Công nhận được tin, đưa mắt nhìn khắp lượt tân khách, có ý muốn dò hỏi cách đối đãi. Trong số các tân khách, duy có Hàn Hầu tước vị cao nhất, do đó Điền Tích Cương, Phụng Dương Quân và Điền Kỵ đều nhìn vào ông ta. Hàn Hầu cũng không đùn đẩy, suy nghĩ một lát, khẽ gật đầu, quay sang cười nói với Vệ Thành Công: “Sứ Ngụy từ xa tới, cũng nên cho hắn uống một chén mới phải!”
Điền Tích Cương, Phụng Dương Quân hiểu ý, cũng đều gật đầu. Vệ Thành Công phẩy tay ra hiệu cho đám vũ nữ rút lui, quay sang nội thần truyền lệnh: “Truyền sứ Ngụy yết kiến!”
Lát sau, nội thần dẫn Trần Chẩn vào thẳng hậu cung. Trần Chẩn tiến lên vài bước, quỳ xuống dập đầu nói: “Sứ Ngụy Trần Chẩn khấu kiến Vệ Công, khấu kiến Hàn Hầu, khấu kiến Tề quốc điện hạ, khấu kiến Phụng Dương Quân.”
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, Vệ Thành Công khẽ phẩy tay, chỉ vào chiếu khách ở bên cạnh: “Sứ Ngụy miễn lễ, ngồi đi!”
Trần Chẩn cảm tạ, đứng dậy ngồi vào chiếu khách.
Điền Tích Cương lạnh lùng hỏi: “Trần thượng khanh tới đây hẳn là muốn giao chiến thư?”
“Trần Chẩn không dám!” Trần Chẩn vòng tay về phía mọi người, “Trần Chẩn tới đây để cầu láng giềng hoà mục!”
“Ha ha ha!” Điền Tích Cương bật cười vang, giễu cợt. “Võ binh Đại Ngụy tung hoành khắp thiên hạ, bệ hạ Đại Ngụy ở tít trên cao, từ lúc nào lại nảy sinh ý nghĩ láng giềng hoà mục?”
Mọi người đều cười nghiêng ngả.
Trần Chẩn mặt mũi đỏ bừng, vội vòng tay nói: “Chư vị quân chủ, điện hạ, Điền tướng quân, quả quân bị người Tần xúi bẩy đến mê muội, đã khởi binh xâm phạm biên giới Vệ, đắc tội với liệt quốc. Quả quân vô cùng hối hận, uỷ thác tại hạ tới tạ lỗi với liệt quốc, đặc biệt là với Vệ Công và thần dân nước Vệ! Quả quân nguyện cầu hoà với liệt quốc, mãi mãi là láng giềng hoà mục.”
Để đạt mục đích, Trần Chẩn không dám nhắc tới hai chữ “bệ hạ”, chỉ dám một điều “quả quân”, hai điều “quả quân”. Điền Tích Cương nhịn không nổi, cười khẩy một tiếng: “Nói hay lắm! Nếu người Tần không tấn công Hà Tây, e rằng quả quân của ngươi đã đưa quân thẳng tới Lâm Truy rồi!”
Trần Chẩn lại vòng tay, cười xun xoe mà nói: “Hiểu lầm, hiểu lầm, tất cả đều là hiểu lầm mà thôi, Trần Chẩn xin thay mặt quả quân tới nhận lỗi với chư vị!”
Điền Tích Cương đang định nói thêm, thì Hàn Chiêu Hầu đặng hắng một tiếng, tiếp lời: “Quả quân ngươi biết sai là đúng! Chúng ta thì không sao, song bách tính nước Vệ vô cớ phải chịu họa đổ máu, không biết Trần thượng khanh định giải thích thế nào đây?”
“Chuyện này…” Trần Chẩn ngập ngừng một lát, quay sang Vệ Thành Công, vòng tay, “Trần Chẩn thay mặt quả quân thực lòng tạ lỗi trước Vệ Công và thần dân nước Vệ…”
“Hừm, móng sắt Đại Ngụy giẫm đạp tan hoang một vùng nước Vệ, Trần thượng khanh chỉ nói một lời tạ lỗi là xong ư?” Điền Tích Cương lại cười nhạt, chặn họng.
Trần Chẩn ngẫm nghĩ một lát, rồi nhìn thẳng vào Điền Tích Cương: “Ý điện hạ là…”
Điền Tích Cương không chút vòng vo, lập tức nói thẳng: “Quả quân ngươi đã biết sai, đương nhiên phải bồi thường tổn thất cho người Vệ!”
“Đương nhiên rồi!” Trần Chẩn gật đầu nói, “tổn thất của người Vệ, nước Ngụy xin được gánh vác!” Quay sang Vệ Thành Công, giọng nói càng thêm thành khẩn. “Khởi bẩm chúa thượng, trước lúc đi, quả quân dặn đi dặn lại rằng, Vệ Công đưa ra giá nào, quả quân cũng xin nghe theo!”
“Chuyện này…” Vệ Thành Công lúng túng một lát, vòng tay nói, “Ngụy Hầu đã biết sai là tốt, còn chuyện bồi thường… thôi hãy miễn đi!”
Trần Chẩn vòng tay nói: “Trần Chẩn thay mặt quả quân đa tạ tấm lòng độ lượng của Vệ Công.”
“Như vậy sao được?” Không đợi Vệ Thành Công lên tiếng, Điền Tích Cương đã sang sảng mà rằng. “Đã làm sai, tự khắc phải trả giá! Thế này đi, Vệ Công đã không nói, Tích Cương xin nói thay. Thiên hạ ngày nay, lấy dân làm gốc, tổn thất của cải có thể không tính đến, song thần dân tử thương không thể bỏ qua, chí ít người chết phải có chỗ chôn, người bị thương phải được chăm sóc. Tích Cương đề nghị, trong cuộc chiến loạn lần này, nước Ngụy phải bồi thường cho mỗi người chết hai lượng vàng, mỗi người bị thương một lượng vàng.” Rồi quay sang phía mọi người, “chư vị thấy có hợp lý chăng?”
Trần Chẩn chẳng biết nói sao, đành gật đầu chấp thuận: “Được, đợi Trần Chẩn về bẩm lên quả quân, lập tức bồi thường.”
“Còn nữa!” Điền Tích Cương vẫn chưa chịu buông tha, “từ nay trở đi, chuyện nước Vệ, quả quân của ngươi không được nhúng mũi vào!”
Trần Chẩn suy nghĩ một lát, lại gật đầu.
“Tốt!” Điền Tích Cương thay đổi sắc mặt, nhìn khắp lượt mọi người, cười vang với Trần Chẩn, nâng chén mà nói. “Trần thượng khanh, mời uống chén rượu này, chúc cho tình láng giềng hoà mục!”
***
Bên bờ Lạc Thuỷ, sau trận mưa lớn, người hô ngựa hí, nam nữ già trẻ kẻ kéo người khiêng, đoàn người vận chuyển lương thảo nối đuôi nhau thành một hàng dài dằng dặc, khó nhọc di chuyển trên đoạn đường ngập ngụa bùn lầy.
Một cỗ xe la chở nặng bị lún xuống hố lầy, lão trượng vung roi quất mạnh vào mông la, hai cô con dâu trẻ và ba đứa cháu tuổi còn lỡ cỡ đẩy phía sau, bánh xe lắc lư một chặp, lại thụt xuống sâu hơn.
Hiếu Công mặc thường phục, cùng nội thần và hai hộ vệ từ phía xa vội vã bước lại. Hiếu Công chẳng nói chẳng rằng, lập tức xắn tay áo lên, bước lại phía sau bánh xe bị lún sâu nhất, nội thần bước sang bên kia, hai hộ vệ cũng đều chọn chỗ thuận lợi, gắng sức đẩy xe lên.
Hiếu Công nhìn lão trượng, nói: “Lão trượng, hô hiệu lệnh đi, mọi người cùng đẩy!”
Lão trượng vung roi hô lớn: “Một, hai, ba, đẩy!”
Mọi người đều dồn sức đẩy, bánh xe nhanh chóng lăn ra khỏi hố sâu.
Lão trượng giơ tay cười với mọi người, đánh xe thẳng tiến lên phía trước. Hiếu Công nhìn vào hố lầy, bảo hai hộ vệ: “Mau lấy đá vụn đổ xuống hố!”
Hai hộ vệ tuân lệnh, chạy toả ra xung quanh tìm đá. Hiếu Công ngẩng lên, từ xa nhìn thấy Công Tôn Ưởng và vài hộ vệ đang phi ngựa tới. Công Tôn Ưởng tới gần, thấy Hiếu Công khắp mình lấm lem bùn đất, trong lòng đau xót, xoay người xuống ngựa, quỳ xuống đất bùn dập đầu mà nói: “Vi thần Công Tôn Ưởng khấu kiến chúa thượng!”
Hiếu Công chùi bàn tay dính bùn vào vạt áo, bước tới đỡ Công Tôn Ưởng dậy, cười mà nói: “Ái khanh mau đứng dậy, trên đất toàn bùn lầy, bất tất phải hành lễ rườm rà.”
Công Tôn Ưởng nhìn Hiếu Công khắp mình bùn đất, giọng nói nghẹn ngào: “Chúa thượng!”
Hiếu Công nhìn lại người mình, lại cười vang mà nói: “Xem chừng quả nhân chẳng làm được trò trống gì, mới chỉ đẩy có một cỗ xe, đã lấm lem như ông phỗng thế này đây!”
Công Tôn Ưởng vô cùng xúc động, giọng đầy cảm kích: “Có được quân chủ thế này, địch nào không thắng?”
Hiếu Công lắc đầu, xua tay nói: “Ái khanh đừng nói vậy! Việc quả nhân làm, chẳng qua là việc nhỏ, đánh địch thế nào, hoàn toàn dựa vào ái khanh.”
Công Tôn Ưởng nói vào việc chính: “Chúa thượng triệu gấp vi thần, hẳn có việc hệ trọng?”
“Đúng vậy!” Hiếu Công gật đầu. “Không giấu ái khanh, mấy ngày nay, trong lòng quả nhân thấp thỏm không yên, ngủ không ngon giấc!”
“Dám hỏi chúa thượng lo lắng việc gì?”
“Tuy ta đột kích thành công Hà Tây, song người Ngụy chỉ dựa vào hơn vạn võ binh, không những bảo vệ được ba cửa ải then chốt Thiếu Lương, Lâm Tấn quan, Âm Tấn, mà còn khiến ta thương vong hơn vạn, sức chiến đấu của người Ngụy quả thực khiến quả nhân kinh sợ!”
“Chuyện này đều tại vi thần!”
“Quả nhân cho triệu khanh tới, không hề có ý khiển trách ái khanh. Hơn nữa, chuyện này cũng không liên quan đến ái khanh? Ái khanh cũng đã gắng hết sức rồi!”
Công Tôn Ưởng rầu rĩ than thở: “Vi thần tính toán không chu đáo, chúa thượng có thể không trách, song vi thần không thể không tự trách mình!”
Hiếu Công ngạc nhiên: “Tính toán không chu đáo? Chỗ nào không chu đáo?”
“Ngoài lính giữ thành, Hà Tây có tổng cộng năm vạn lính thiết giáp. Vi thần vốn cho rằng Long Giả sẽ dẫn toàn bộ số quân này tới biên giới Vệ, không ngờ ông ta chỉ dẫn hai vạn lính mới chiêu mộ đi, để hai vạn quân thiết giáp. May sao Lã Giáp chủ quan lỗ mãng, nếu không, ngay từ trường thành, chúng ta đã phải huyết chiến một phen! Đây là một chỗ không chu đáo. Vi thần chỉ chú tâm điều Long Giả đi, không ngờ lại mọc ra một Công Tôn Diễn! Không giấu gì chúa thượng, vi thần cho rằng, người này mới là kẻ đáng gờm. Chỉ một mình hắn, đủ để địch lại mười vạn hùng binh!”
Tần Hiếu Công cũng than thở: “Quả nhân lo lắng cũng là vì chuyện này! Nước Ngụy có nhân tài như vậy, ngộ nhỡ Ngụy Anh trọng dụng hắn làm tướng, thì cuộc đại chiến này…” Nói tới đây thì dừng lại một lát, rồi đổi sang chuyện khác. “Ái khanh có kế sách ứng phó chăng?”
“Bẩm chúa thượng, vi thần cho rằng, cảnh ngộ hiện tại của Công Tôn Diễn giống hệt như vi thần khi ở nước Ngụy năm xưa. Ngụy Anh ngày đó không dùng vi thần, ngày nay ắt cũng sẽ không dùng Công Tôn Diễn!”
Hiếu Công mở to mắt, vừa kinh ngạc vừa ngờ vực: “Nếu đúng là vậy, quả là may mắn cho nước Tần. Như ái khanh nói, chỉ cần có hắn, có thể địch nổi mười vạn hùng binh. Hiện tại, giữa ta và địch thế lực tương đương, quyết định thắng thua không phải ở binh lính giỏi chém giết, mà ở tướng soái giỏi mưu kế. Theo ý ái khanh, nếu Ngụy Anh không dùng Công Tôn Diễn, sẽ chọn ai làm chủ tướng?”
Công Tôn Ưởng suy nghĩ một lát: “Công tử Ngang!”
Hiếu Công ngẫm nghĩ một hồi, rồi lắc đầu quầy quậy: “Không thể, không thể! Trận chiến này đối với Ngụy, cũng là dốc sức quyết chiến, tuyệt đối không phải tầm thường. Ngụy Anh dù không thông minh, cũng không đến nỗi ngu xuẩn đến vậy!”
Công Tôn Ưởng mỉm cười: “Tuy Ngụy Anh không ngu xuẩn, song lại dễ nghe lời đường mật, chúa thượng hãy cứ yên tâm!”
Thấy Công Tôn Ưởng khẳng định chắc chắn, Hiếu Công cũng thấy yên tâm trong dạ, bèn gật đầu nói: “Có lời này của ái khanh, đêm nay quả nhân đã có thể kê cao gối ngủ!”
Công Tôn Ưởng bái biệt Hiếu Công, vội vã trở về trại trung quân, suy nghĩ một lát, sai người gọi ngũ đại phu Sư Lý Tật tới, ghé vào tai ông ta thì thầm một chặp.
Sư Lý Tật bước ra khỏi trại, tay cầm tờ tấu đã đóng con dấu của Công Tôn Ưởng tới doanh trại thái phó lĩnh năm trăm lượng vàng, đóng vào hai chiếc rương; lại tới chỗ quân uý chuyên quản tang lễ, phụ trách việc khâm liệm binh sĩ tử trận, nói rõ ý đồ. Quân uý đóng cửa lại, sai người cải trang cho Sư Lý Tật. Tới khi ông ta ra khỏi cửa, diện mạo đã thay đổi hoàn toàn, trông chẳng khác gì một người Hàn thực thụ.
Sư Lý Tật đường hoàng đi vào trong doanh trại. Hộ vệ của ông bỗng thấy một người Hàn phăm phăm tiến vào thì chặn ngay lại, gặng hỏi một thôi một hồi.
Sau khi đã chuẩn bị chu đáo, Sư Lý Tật dẫn theo vài tuỳ tùng đã được chọn lựa kỹ lưỡng cải trang thành người Hàn, xuất phát từ Hàm Cốc quan, vượt sông ở Mạnh Tân, thẳng tới An Ấp.
Sau khi vào thành, Sư Lý Tật đánh xe ngựa tới thẳng lầu Nguyên Hanh. Tới trước cửa lầu, Sư Lý Tật nghênh ngang dừng xe, nhìn thẳng lên cửa, rồi bước xuống xe.
Tuy Sư Lý Tật ăn mặc quý phái sang trọng, song hành sự lại tuỳ tiện, môn nhân kinh nghiệm đầy mình, liếc mắt đã biết đây là một phú hộ mới phất, bèn vội vã bước ra chào đón, niềm nở hỏi han: “Xin chào khách quan!”
Sư Lý Tật không thèm đếm xỉa tới hắn, quay đầu về phía xe, gọi to: “Bay đâu, tới lầu Nguyên Hanh rồi, mau khiêng đồ xuống!”
Sau một hồi tất bật, vài người hầu từ trên xe khiêng xuống hai chiếc rương, theo Sư Lý Tật tiến vào trong cửa. Môn nhân đi trước dẫn đường, đưa họ tới phòng dành cho khách quý, sắp xếp chỗ ngồi cho họ.
Đã có người báo lên ông chủ Lâm. Một lát sau, nghe có tiếng bước chân vọng lại, ông chủ Lâm đi thẳng vào phòng, đảo mắt một vòng, tới trước mặt Sư Lý Tật, vái dài mà nói: “Quý khách giá lâm, tại hạ Lâm Dung thất lễ không đón tiếp từ xa!”
Sư Lý Tật hơi nhỏm mông lên, coi như đáp lễ: “Là ông chủ ư, thất kính, thất kính! Ông chủ Lâm, tại hạ nghe nói nơi này rất thú vị, muốn tới thử xem sao.”
Ông chủ Lâm liếc mắt về phía chiếc rương bên cạnh, cười hê hê mà nói: “Đương nhiên, đương nhiên, khách quan đây đã tìm đúng chỗ rồi!” Nói đoạn quay ra phía ngoài, vỗ tay bôm bốp, tức thì Tiểu Đào Hồng uyển chuyển từ trên lầu bước xuống.
Ông chủ Lâm dặn dò cô ả: “Lão gia đây từ xa tới, mang trà thơm lại, hầu hạ chu đáo!”
Tiểu Đào Hồng “vâng” một tiếng, mỉm cười với Sư Lý Tật, ném ra một ánh nhìn lả lơi, rồi quay người vào trong chuẩn bị pha trà.
Ông chủ Lâm lại cười hềnh hệch mà nói: “Nghe giọng của khách quan, hình như là…”
Sư Lý Tật liếc xéo ông ta: “Ông chủ đã tới Nghi Dương bao giờ chưa?”
Ông chủ Lâm nghe đã hiểu ra, vội vòng tay nói: “Úi chà chà, Nghi Dương là kinh đô luyện sắt, giờ đây đồng không bằng sắt, tại hạ đúng là gặp quý nhân. Xin hỏi, lão gia muốn chơi trò gì?”
Sư Lý Tật cười vang, nói: “Tới lầu Nguyên Hanh, còn có thú vui nào khác? Nói thực, tại hạ sinh ra đã thích chơi trò kích động, mấy hôm trước ở Hà Tây kiếm được chút tiền mọn, muốn tìm nơi chốn thoả mãn cơn nghiền! Có người bạn mách rằng nơi này thú vị, nên vội tới ngay!”
Ông chủ Lâm mặt mày giãn nở, cười mà nói: “Lão gia hãy nghỉ ngơi một lát, tại hạ đi chuẩn bị!”
Ông chủ Lâm vội vã bước về phía mật thất, sai người mời Thích Quang tới, thì thầm một hồi vào tai Thích Quang rồi bẩm khẽ: “Bẩm Thích gia, nhìn hai chiếc rương, đích thị là của kẻ buôn bán lớn, Thích gia có cần đích thân xuất hiện không?”
Thích Quang khép hờ hai mắt, suy nghĩ một lát, thủng thẳng nói: “Người Nghi Dương? Đến từ Hà Tây? Ồ, xem ra người này không phải là khách bình thường! Thế này đi, ngươi chuyển lời tới vị lão gia kia, nói là Thích Quang muốn mời ông ta uống chén trà nhạt, mong ông ta nể mặt!”
“Tiểu nhân đi ngay!”
Một lát sau, ông chủ Lâm dẫn Sư Lý Tật bước vào một nhã thất khác, Thích Quang đã đợi sẵn ở đó, nghe thấy tiếng bước chân, vội vã chạy ra đón, vòng tay vái mà nói: “Tại hạ Thích Quang xin có lời chào!”
Sư Lý Tật liếc xéo ông ta, nói: “Sơ mỗ từ lâu đã nghe nói An Ấp có một vị Thích gia, là người hào sảng, dám hỏi phải chăng là đại nhân?”
Thích Quang mỉm cười đáp: “Thích mỗ không dám! Là mọi người quá lời!”
Sư Lý Tật vội vái dài: “Tại hạ Sơ Dần xin có lời chào Thích gia!”
Thích Quang tuy đã từng gặp Sư Lý Tật, song Sư Lý Tật hiện đã cải trang thành người Hàn, lại thêm bộ râu rậm rạp, giọng nói và ngữ điệu cũng thay đổi hoàn toàn, nên đôi mắt tầm thường của ông ta đương nhiên không thể nhận ra.
Thích Quang cung kính mời Sư Lý Tật ngồi vào ngôi khách, đích thân rót trà, vào ngay chuyện chính: “Nghe nói Sơ huynh phát tài ở Hà Tây, Thích mỗ dám hỏi vì đâu mà phát tài?”
“Ồ…” Sư Lý Tật đưa mắt nhìn sang ông chủ Lâm đang đứng khúm núm bên cạnh, toan nói lại thôi.
Thích Quang hiểu ý, hất hàm về phía ông chủ Lâm, ông chủ Lâm bèn vòng tay nói: “Hai vị lão gia xin trò chuyện tự nhiên, có gì sai bảo, cứ gọi tiểu nhân!” Nói xong, vòng tay lui ra.
Sư Lý Tật nghe thấy tiếng bước chân xa hẳn, mới nói: “Trước danh tiếng của Thích gia, Sơ mỗ không dám giấu giếm. Sơ mỗ ở Nghi Dương làm chủ vài lò luyện thép. Lần trước, người Tần trả giá cao mua một trăm xe thép, mười ngày trước đưa tới Hà Tây, đã trả tiền nhận hàng xong xuôi!”
Thích Quang làm bộ ngạc nhiên kêu lên: “Úi chà chà, Sơ huynh buôn bán được với người Tần, quả thực không phải tầm thường!”
Sư Lý Tật hạ thấp giọng nói: “Không giấu Thích gia, em gái Sơ mỗ hầu hạ thái phó nước Tần, thái phó hiện lại phụ trách tiền bạc lương thảo, vụ làm ăn này đương nhiên…”
“Chậc chậc chậc!” Thích Quang tấm tắc khen ngợi, vòng tay nói, “Sơ huynh trúng quả lớn, tại hạ xin có lời mừng! Đã như vậy, tại hạ có một chuyện nữa muốn thỉnh giáo Sơ huynh!”
“Thích gia cứ nói, nếu tại hạ biết, sẽ không giấu giếm!”
“Người Tần dám cướp Hà Tây, lẽ nào không sợ võ binh Đại Ngụy?”
Sư Lý Tật thoáng ngẩn người, sau đó bật cười ha hả.
Thích Quang nhất thời khựng lại, nhìn ông ta hỏi: “Sơ huynh vì sao lại cười?”
Sư Lý Tật lại cười một tràng nữa mới dừng lại nói: “Sao Thích gia lại hỏi vậy? Võ binh Đại Ngụy tung hoành khắp thiên hạ, ai mà không sợ?”
Thích Quang gãi đầu, vẻ đầy nghi hoặc: “Vậy… xin hỏi Sơ huynh, người Tần đã sợ, cớ sao còn dám công chiếm Hà Tây?”
Sư Lý Tật nhoài người về phía Thích Quang, nói: “Thích gia chỉ chú tâm đến kinh thương, đương nhiên không nghĩ tới thứ khác. Tại hạ dám hỏi Thích gia, võ binh Đại Ngụy nghe lời ai?”
Thích Quang buột miệng đáp liền: “Đương nhiên là nghe lời tướng quân!”
“Tướng quân lại nghe lời ai?”
“Nghe lời chủ tướng!”
“Chính là vậy!” Sư Lý Tật lại cười. “Người Tần sớm đã tính đúng, Ngụy Tần giao chiến, Ngụy Vương bệ hạ ắt phải dùng Long Giả làm chủ tướng, bởi vậy mới dám mạo hiểm một phen!”
Thích Quang ngẩn người: “Sơ huynh nói vậy, Thích mỗ càng nghe càng mơ hồ!”
Sư Lý Tật chỉ vào ông ta, lại cười ngặt nghẽo một hồi: “Thích gia thật là, đúng là người ngoại đạo thì không hiểu nội tình! Không giấu Thích gia, Tần Công cũng vậy, Công Tôn Ưởng cũng vậy, đều đánh cược vào Long Giả. Thích gia nghĩ mà xem, Long Giả tuy giỏi dụng binh, song lão ta đã ở lỳ Hà Tây hơn chục năm rồi, dù là một con chuột nhắt, người Tần cũng đã quen thuộc, có thể nói là từ lâu đã hiểu thấu lão ta tới chân tơ kẽ tóc. Lão ta chỉ cần đánh một phát rắm, người Tần đã biết lão ta sẽ thải ra thứ phân gì. Đã hiểu tường tận đến vậy, lại còn không dám đánh ư?”
Thích Quang kinh hãi trong lòng, song vẫn cười nói: “Nghe Sơ huynh nói vậy, Thích mỗ mới biết bên trong có nguyên do ngầm ẩn. Có điều Thích mỗ còn có một thắc mắc, muốn hỏi ý Sơ huynh, tại sao người Tần lại một mực khẳng định bệ hạ sẽ dùng Long Giả làm chủ tướng?”
Sư Lý Tật cười vang, nói: “Công Tôn Ưởng là hạng người nào, chẳng nhẽ đến việc này cũng không đoán ra được ư? Thích gia thử nghĩ mà xem, trong các tướng Ngụy, ai quen với người Tần nhất? Long Giả! Ai là người lão luyện nhất? Long Giả! Ai trấn giữ Hà Tây bao năm qua? Long Giả! Ai có nhiều khả năng kháng cự người Tần nhất? Long Giả! Ngụy Vương bệ hạ trí tuệ tuyệt luân, chẳng nhẽ không biết điều này?”
Thích Quang cãi lại: “Hiện tại thượng tướng quân chính là công tử Ngang!”
Nghe thấy ba chữ “công tử Ngang”, Sư Lý Tật vội vàng nhìn ngó xung quanh, thấy không có ai, mới nói: “Không giấu Thích gia, theo tại hạ biết, người khiến Công Tôn Ưởng đau đầu nhất hiện nay chính là vị này! Lần trước Công Tôn Ưởng đi sứ sang Ngụy, thượng tướng quân ép ông ta hai tay dâng tặng công chúa bảo bối của Tần Công, nghe nói sau khi về Tần, bị Tần Công chửi cho mất mặt! Có điều, Công Tôn Ưởng lần này đoán chắc, Ngụy Vương tuyệt đối sẽ không dùng người này làm tướng.”
“Ồ, vì sao?”
“Bởi vì thượng tướng quân chưa từng trải qua đại chiến, Ngụy Vương không thể yên tâm!”
Thích Quang chau tít đôi mày: “Lần trước phạt Vệ, chẳng phải thượng tướng quân đánh rất hay ư?”
Sư Lý Tật cười nói: “Xem ra, Thích gia đúng là không hiểu gì về quân sự. Thượng tướng quân phạt Vệ, là nước mạnh đánh nước yếu, đừng nói là thượng tướng quân, dù Thích gia dẫn quân đi đánh cũng sẽ thủ thắng! Lần này là giao chiến với người Tần, bệ hạ có thể không do dự được chăng?”
Trán Thích Quang càng chau tít lại: “Đã như vậy, Công Tôn Ưởng vì sao lại còn đau đầu vì thượng tướng quân?”
“Chuyện này…” Sư Lý Tật cười cười mà nói. “Thích gia phải đi hỏi Công Tôn Ưởng mới được. Chuyện trong binh pháp, hẳn cũng giống với kinh doanh, mỗi người đều có bí quyết riêng. Có lẽ cách dụng binh của thượng tướng quân khiến Công Tôn Ưởng không thể đoán lường!”
Thích Quang gật gù: “Chà chà, đúng là nhìn không ra, Sơ huynh buôn bán đã giỏi, nhìn người cũng tài, tại hạ bái phục!” Rồi không đợi Sư Lý Tật kịp đáp lời, đã quay ra ngoài cửa gọi lớn, “người đâu, mang trà lại đây!”
Tiểu Đào Hồng đã đứng hầu sẵn bên ngoài, nghe gọi, vội vã lên tiếng: “Nô tỳ tới ngay!” Rồi õng ẹo bước vào.
Thích Quang vô tình thám thính được tin quan trọng, trong lòng thầm mừng rỡ, sai Tiểu Đào Hồng hầu hạ Sư Lý Tật chu đáo, còn mình ra ngoài, mau chóng trở về phủ thượng khanh, tới thư phòng Trần Chẩn, kể lại chi tiết đầu đuôi mọi chuyện cho Trần Chẩn nghe.
Trần Chẩn nghe xong, tròn mắt kinh ngạc, hồi lâu mới nói: “Người này lai lịch thế nào, ngươi chắc chắn không?”
Thích Quang gật đầu lia lịa: “Chúa công yên tâm, tiểu nhân chỉ nhìn qua đã biết là loại người ruột để ngoài da, ăn nói văng mạng, kiếm được chút tiền nhờ vào đũng quần đàn bà, đã vội vàng tới đây ra oai!”
Trần Chẩn ngẫm nghĩ một lát, khẽ gật đầu: “Ồ, nếu liên quan tới Doanh Kiền thì cũng đáng tin đấy! Doanh Kiền vốn là người cầm quân, song Tần Công lại để Công Tôn Ưởng làm chủ tướng, chỉ cho ông ta quản lý lương thảo, Doanh Kiền hẳn không cam tâm! Trong lòng bực tức, khó tránh có lúc buột miệng trút giận. Tay họ Sơ này có mối quan hệ thân quen với hắn, có lẽ chuyện này là thực. Thế này đi, ngươi viết lại toàn bộ sự việc, đợi bản công soạn tấu báo, trình lên bệ hạ! Long Giả kia xưa nay có hiềm khích với bản công, tuyệt đối không thể để lão tranh công!”
Thích Quang lấy ra một tấm da dê tinh xảo, viết lại toàn bộ sự việc không thiếu một chi tiết, điểm chỉ xong, trình lên Trần Chẩn. Trần Chẩn xem qua một lượt, cất vào ống tay áo, sai Thích Quang: “Chuẩn bị xe!”
Sau bữa trưa, Ngụy Huệ Hầu vẫn như mọi khi, nằm trên võng trúc thiu thiu ngủ trong đình hóng mát tại hậu hoa viên, bên cạnh có một vài kẻ hầu hạ.
Nằm một lúc, đột nhiên Ngụy Huệ Hầu ngồi bật dậy, ngẩn ngơ một hồi, lại nằm xuống. Tỳ nhân nhìn thấy, biết Huệ Hầu có tâm sự trong lòng, bèn cầm lấy quạt từ tay cung nữ, ngồi xuống bên cạnh Huệ Hầu, trông tưởng là quạt, thực chất là đợi chỉ.
Quả nhiên, Ngụy Huệ Hầu lại mở choàng mắt, ngẩng lên hỏi: “Chu tư đồ đâu rồi?”
Tỳ nhân dừng tay quạt: “Khởi bẩm bệ hạ, ở phủ tư đồ! Nếu bệ hạ muốn gặp tư đồ, lão nô sẽ vời vào cung!”
Ngụy Huệ Hầu chậm rãi đứng dậy, ngẩng đầu nhìn ra ngoài đình: “Trời nhiều mây, nắng cũng không quá gắt, quả nhân dù gì cũng không ngủ được, vì sao không tự đi tìm tư đồ?”
Giờ đang giữa mùa hạ, đúng vào tiết Tam phục vô cùng nóng bức, Ngụy Huệ Hầu cam tâm hạ mình đi tìm một hạ thần ngay sau bữa trưa nắng gắt, khiến tỳ nhân vô cùng kinh ngạc. Tỳ nhân hạ quạt xuống, ngẩn ra giây lát, chần chừ hỏi: “Ý bệ hạ là chuẩn bị xa giá tới phủ tư đồ?”
Ngụy Huệ Hầu trừng mắt nhìn tỳ nhân: “Ngươi không nghe thấy ư?”
“Lão nô tuân chỉ!”
Một lát sau, xe của Ngụy Huệ Hầu được một đoàn lính hộ giá rời khỏi cung thành, thẳng tiến tới phủ tư đồ.
Thích Quang đích thân đánh xe, cấp tốc đưa Trần Chẩn tới cung thành. Chưa tới cửa cung, Thích Quang từ xa đã nhìn thấy vương giá xuất cung, vội vã gọi Trần Chẩn. Trần Chẩn ngẩng đầu nhìn, vô cùng sửng sốt, ra hiệu cho Thích Quang đuổi theo. Đuổi tới gần phủ tư đồ, Trần Chẩn từ xa nhìn thấy Huệ Hầu xuống xe, được tỳ nhân dìu bên cạnh, chậm rãi bước vào trong phủ.
Trần Chẩn ngẫm nghĩ một lát, lệnh cho Thích Quang tới phủ thượng tướng quân.
Vào giữa trưa có khách, đối với phủ thượng tướng quân cũng là hy hữu. Quản gia dẫn Trần Chẩn vào phòng khách, nghe Trần Chẩn nói có việc gấp cần bẩm báo với thượng tướng quân, chẳng kịp cả pha trà, lập tức ba chân bốn cẳng chạy vào nhà sau.
Trần Chẩn đứng đợi một hồi, vẫn không thấy công tử Ngang xuất hiện. Trần Chẩn vô cùng sốt ruột, chốc chốc lại liếc nhìn đồng hồ nước ở mặt bên đại sảnh.
Chính vào lúc Trần Chẩn đứng ngồi không yên, hoả đã bốc tới tận đỉnh đầu, công tử Ngang mới mình mặc áo dài, chân đi guốc gỗ, tất tả bước vào từ cửa bên, vòng tay tạ lỗi: “Để thượng khanh phải đợi lâu!”
Trần Chẩn ngửi thấy hương thơm thoang thoảng, cũng đã hiểu ra chuyện gì, bèn đáp lễ, nói đùa một câu: “Thượng tướng quân mải đắm mình trong hương sắc, đến hạ quan cũng chẳng ngó ngàng tới!”
Thấy Trần Chẩn nhìn thấu sự tình, công tử Ngang ngượng nghịu dang rộng hai tay, nhăn nhó mà nói: “Không giấu thượng khanh, nàng ấy đúng là báu vật trời ban, rất mực ngoan hiền. Gần đây, biết tin nước mình đánh chiếm Hà Tây, Ngụy Tần xảy ra chiến sự, lúc nào cũng khóc lóc vật vã, trông thật thương tâm, ta thân là hán tử mà cũng phải mủi lòng!”
Trần Chẩn lại cười: “Anh hùng khó qua ải mỹ nhân! Tử Vân công chúa mà khóc lóc ủ ê, e rằng thượng tướng quân đến cây thương cũng không cầm nổi.”
“Thượng khanh sao lại nói vậy?” Công tử Ngang ngồi xuống ghế chủ, nghiêm mặt nói. “Nương tử là nương tử, cha vợ là cha vợ. Dù báu vật trời cho kia có khóc đến chết, bản công tử cũng tuyệt đối không tha cho cha vợ. Còn tay Công Tôn Ưởng chết toi kia nữa, lật lọng lừa dối, thật khiến bản công tử không thể nhẫn nhịn nổi! Lần này Hà Tây quyết chiến, bản công tử nhất định phải đích thân bắt sống hắn, cho hắn sống không bằng chết, để hắn thấm thía kẻ tiểu nhân tráo trở sẽ có kết cục ra sao!”
Trần Chẩn khẽ thở dài, nói: “Chỉ sợ Công Tôn Ưởng không thể lĩnh giáo được tài năng của thượng tướng quân!”
Công tử Ngang ngạc nhiên: “Nói vậy là sao?”
“Vừa rồi, hạ quan có việc gấp tới gặp bệ hạ, vừa định vào cung thì từ xa đã thấy bệ hạ xa giá tới phủ tư đồ. Nếu đúng như hạ quan suy đoán, bệ hạ tới phủ tư đồ, hẳn là vì chuyện chủ tướng. Chu Uy chắc chắn sẽ tiến cử Long Giả. Nếu bệ hạ phong Long Giả làm chủ tướng, e rằng thượng tướng quân có muốn làm phó tướng cũng khó!”
Công tử Ngang tức giận nói: “Lão thất phu sợ Tần như sợ cọp, sao có thể làm chủ tướng?”
“Đúng vậy, hạ quan cũng nghĩ thế. Long Giả và người Tần đối địch đã vài chục năm, người Tần hiểu lão ta như lòng bàn tay, tự khắc cũng muốn giao chiến với lão ta hơn!”
Công tử Ngang mắt đỏ ngầu tức giận, ngẫm nghĩ một thoáng, rồi ngẩng lên nói: “Thượng khanh túc trí đa mưu, tất có kế hay dạy ta!”
Trần Chẩn khẽ gật đầu: “Thượng tướng quân nếu thực sự muốn làm chủ tướng, hạ quan có thể giúp, tuy nhiên…” Nói nửa chừng thì dừng lại.
Công tử Ngang sốt ruột không nhịn nổi: “Thượng khanh có kế gì, hãy mau nói ra!”
“Bạch tướng quốc qua đời đã lâu, trong triều…”
Công tử Ngang tâm lĩnh thần hội, lập tức gật đầu nói: “Thượng khanh nói rất đúng, trong triều không thể để trống ngôi vị tướng quốc mãi được. Đợi bản công tử đánh bại người Tần, nhất định sẽ tấu lên phụ vương, tiến cử thượng khanh làm tướng quốc!”
Trần Chẩn đứng dậy bái lạy: “Hạ quan khấu tạ ân tái tạo của công tử!”
Trần Chẩn đoán không sai, Ngụy Huệ Hầu xa giá tới phủ tư đồ, quả là vì chuyện chủ tướng.
Sau khi thực hiện xong các nghi thức nghênh bái rườm rà, vua tôi cùng ngồi vào chỗ, Ngụy Huệ Hầu đi thẳng vào việc chính, thở dài thườn thượt mà nói: “Quả nhân hối hận đã không nghe lời Bạch Khuê, nên đã gặp họa! Mấy ngày qua không lúc nào quả nhân không nhớ tới Bạch ái khanh!”
Chu Uy nghe vậy, nước mắt giàn giụa, gạt nước mắt mà nói: “Bệ hạ, vi thần cũng chỉ mong nghe được những lời này của bệ hạ!”
Nghe Chu Uy vừa khóc vừa nói, càng khiến Huệ Hầu xúc động, cầm lòng không đặng, bèn kéo vạt áo lên lau nước mắt: “Ái khanh, khanh cũng là một bề tôi tốt, khanh và Bạch Tướng quốc đều là bề tôi trung thành của quả nhân!”
Ngụy Huệ Hầu nói ra lời này, lại càng khiến Chu Uy nước mắt ròng ròng. Tỳ nhân đứng hầu bên cạnh cũng không thể cầm lòng, lẻn ra ngoài cửa, đưa tay chấm nước mắt.
Vua tôi hai người rầu rĩ một hồi, Chu Uy bèn quỳ xuống đất, khấu đầu mà nói: “Bệ hạ, mất bò sửa chuồng, cũng vẫn chưa muộn. Hôm nay bệ hạ đã nói được lời này, linh hồn Bạch tướng quốc ở nơi chín suối cũng được an ủi!”
Ngụy Hầu thực lòng than thở: “Không giấu ái khanh, Bạch tướng quốc ra đi, quả nhân gặp đại sự, không có ai để bàn bạc. Nghĩ đi nghĩ lại, chỉ thấy ái khanh là người có thể đưa ra chủ ý. Quả nhân không quản trưa nắng tới đây tìm khanh, chỉ vì chuyện này. Cuộc chiến với người Tần, để ai làm chủ tướng, quán xuyến toàn cục, quả nhân suy nghĩ nát óc suốt mấy ngày nay, vẫn chưa thể quyết định, muốn nghe ý kiến của ái khanh!”
Chu Uy có vẻ sớm đã nghĩ thấu chuyện này, gần như đáp ngay không cần suy nghĩ: “Khởi bẩm bệ hạ, vi thần cho rằng, bệ hạ nên phong Long Giả làm chủ tướng, Công Tôn Diễn làm phó tướng!”
Ngụy Huệ Hầu ngẫm nghĩ một lát, chậm rãi nói: “Ý của ái khanh, cũng là suy nghĩ của quả nhân. Long Giả làm chủ tướng, chuyện này có thể quyết định ngay, song để Công Tôn Diễn làm phó tướng…”
“Bệ hạ, dựa vào tài trí của Công Tôn Diễn, hoàn toàn có thể làm chủ tướng. Vi thần chỉ tiến cử hắn làm phó tướng, là đã hạ thấp một bậc rồi!”
Ngụy Huệ Hầu khẽ chau mày: “Công Tôn Diễn chỉ là môn khách của phủ tướng quốc, nếu để hắn làm phó tướng, liệu có khiến người Tần xem thường chăng?”
Chu Uy lại khấu đầu: “Công Tôn Ưởng khi ở Ngụy, cũng là môn khách của phủ tướng quốc Công Thúc Toạ. Sau khi tới Tần, Tần Công lại trọng dụng làm đại lương tạo, thay quyền tướng quốc. Vi thần đánh bạo nhắc lại chuyện cũ, mong bệ hạ minh xét!”
Ngụy Huệ Hầu sắc mặt không vui, cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu, mới ngẩng lên hỏi: “Ý ái khanh là tài của Công Tôn Diễn có thể sánh ngang Công Tôn Ưởng?”
“Bệ hạ!” Chu Uy nói thẳng không chút quanh co, “liệt quốc hôm nay, nhân tài tuy nhiều, nhưng đa phần cũng chỉ thường thường, hoặc giả có thể sử dụng để bảo vệ lãnh thổ, song để tranh giành thiên hạ, lại không có nhiều. Hiện tại, nhân tài có thể giành thiên hạ, theo vi thần thấy, chỉ có hai người, một là Công Tôn Ưởng, hai là Công Tôn Diễn. Bệ hạ, hiện giờ Công Tôn Ưởng dẫn binh tới xâm phạm bờ cõi nước ta, người có thể địch lại hắn, không ai khác ngoài Công Tôn Diễn! Trước lúc lâm chung, Bạch tướng quốc đã dặn đi dặn lại Long tướng quân và vi thần rằng: ‘nước Ngụy đã mất Công Tôn Ưởng, không được lại mất Công Tôn Diễn’. Lời Bạch tướng quốc, xưa nay không sai bao giờ, bệ hạ!”
Ngụy Huệ Hầu trong lòng sửng sốt, chau mày suy nghĩ một hồi, quăng về Chu Uy một cái nhìn bực dọc, rồi đứng dậy ra về.
Chu Uy kinh hãi, phủ phục dưới đất, khấu đầu mà nói: “Vi thần cung tiễn bệ hạ, chúc bệ hạ vạn an!”
Từ phủ Chu Uy trở về, Ngụy Huệ Hầu dặn tỳ nhân không cho bất cứ ai vào gặp, sau đó giam mình trong thư phòng, nhắm mắt suy nghĩ. Ngụy Hầu muốn suy ngẫm lại mọi việc, muốn chỉnh đốn lại từ đầu.
Trước hết là triều hội Mạnh Tân, sau đó là phạt Tần, tiếp đến Công Tôn Ưởng đi sứ, Bạch Khuê tự vẫn để khuyên can, tiếp đến là gì nữa? Phải rồi, là xưng vương! Xưng vương là sai lầm chăng? Vương nghiệp nghìn năm là giấc mơ thuở nhỏ của Ngụy Hầu, giờ Ngụy Hầu tuổi đã ngũ tuần, nếu lúc này không thực hiện, sống còn ý nghĩa gì đây? Tiếp đến là gì? Phải rồi, tiếp đến là phạt Vệ! Vệ Công lẽ nào không thể chinh phạt? Người này nghĩ một đằng, làm một nẻo, Huệ Hầu từ lâu đã căm ghét tới tận xương tuỷ. Hơn nữa, xuất binh cũng không đơn thuần là phạt Vệ, mà là… Tiếp đến thì sao? Là Tuỳ Sào Tử. Phải rồi, Tuỳ Sào Tử. Quả nhiên lão phu tử có con mắt tinh tường, giờ đây mới thấy, con chim sẻ mà lão ám chỉ không phải là ba con khỉ nọ, mà chính là con ưng đen này! Nhưng lúc đó sao Huệ Hầu lại không nhìn ra? Đúng là kẻ trong cuộc u mê, thực sự quá u mê…
Ngụy Huệ Hầu cứ ngồi lì trong phòng, nghĩ ngợi lao lung, cho tới tận sẩm tối. Do Ngụy Hầu đã dặn trước, nên tới giờ ăn tối, cũng không ai dám vào bẩm báo một tiếng.
Trời đã tối hẳn, do nhắm mắt nên Huệ Hầu không hề cảm giác thấy. Tỳ nhân khẽ khàng bước vào, châm vài ngọn nến. Ngụy Huệ Hầu đột nhiên cảm thấy phía trước có ánh sáng, mới biết trời đã tối. Tỳ nhân thấy Huệ Hầu vẫn đang đăm chiêu suy nghĩ, châm nến xong vội vã lui ra, đứng hầu bên ngoài cửa.
Huệ Hầu lại khép mắt, bên tai văng vẳng giọng Chu Uy: “Bệ hạ, hiện giờ Công Tôn Ưởng dẫn binh tới xâm phạm bờ cõi nước ta, người có thể địch lại hắn, không ai khác ngoài Công Tôn Diễn! Trước lúc lâm chung, Bạch tướng quốc đã dặn đi dặn lại Long tướng quân và vi thần rằng, ‘nước Ngụy đã mất Công Tôn Ưởng, không được lại mất Công Tôn Diễn’. Lời Bạch tướng quốc xưa nay không sai bao giờ, bệ hạ!”
“Nước Ngụy đã mất Công Tôn Ưởng, không được lại mất Công Tôn Diễn!” Ngụy Huệ Hầu đứng bật dậy, đi đi lại lại trong phòng, trong miệng lẩm bẩm, “Công Tôn Ưởng, Công Tôn Diễn, cùng là Công Tôn, cùng là môn khách của tướng quốc, cùng được lão tướng quốc trọng dụng.” Rồi đột nhiên như bừng tỉnh, dừng bước, gọi lớn: “Người đâu!”
Tỳ nhân cấp tập bước vào: “Có lão nô!”
Ngụy Huệ Hầu cất giọng sang sảng, ngữ khí kiên định: “Tức tốc phái người tới Hà Tây, triệu hai tướng Công Tôn Diễn, Long Giả về An Ấp gấp!”
Nghe thấy ba chữ “Công Tôn Diễn” từ miệng Ngụy Huệ Hầu, hơn nữa còn xướng trước hai chữ “Long Giả”, tỳ nhân lập tức hiểu ý, dõng dạc đáp lời: “Lão nô tuân chỉ!”
Tỳ nhân quay đi soạn chỉ, vừa ra tới cửa, nhìn thấy thái giám chấp sự dẫn Trần Chẩn hối hả bước tới, thì khẽ chau mày. Trần Chẩn từ xa nhìn thấy tỳ nhân, vội vã vòng tay vái. Tỳ nhân buộc phải dừng bước, vái đáp lễ Trần Chẩn: “Thượng khanh đại nhân, muộn như vậy, vẫn chưa nghỉ ư?”
Trần Chẩn vội nói: “Tại hạ có việc cầu kiến bệ hạ, xin bẩm báo giúp!”
“Bệ hạ buổi chiều có dặn, bất kể ai, cũng không gặp!”
Trần Chẩn sốt ruột: “Việc này cực gấp, hay là…”
Tỳ nhân dứt khoát chìa tay, có ý đuổi khách: “Thượng khanh đại nhân, tính khí bệ hạ thế nào, đại nhân hẳn cũng hiểu rõ!”
Trần Chẩn đang định nài nỉ, từ bên trong bỗng vọng ra tiếng Ngụy Huệ Hầu: “Ai đang nói vậy?”
Tỳ nhân chẳng còn cách nào khác, đành bẩm báo: “Khởi bẩm bệ hạ, là Trần thượng khanh, nói rằng có việc cầu kiến bệ hạ, lão nô đã ngăn lại!”
Vừa nghe là Trần Chẩn, Ngụy Huệ Hầu lập tức sầm mặt xuống, suy nghĩ một lát, bèn lạnh lùng nói: “Người đã tới, cứ cho vào!”
Trần Chẩn bước vào, quỳ xuống dập đầu hô: “Vi thần khấu kiến bệ hạ!”
Ngụy Huệ Hầu lừ mắt nhìn Trần Chẩn: “Muộn thế này, khanh còn muốn tấu chuyện gì?”
Trần Chẩn lại dập đầu, khẽ giọng bẩm báo: “Vi thần nhận được mật báo, sự việc liên quan tới đại cục, nên vội tới yết kiến ngay trong đêm.”
Ngụy Huệ Hầu thoáng ngạc nhiên: “Mật báo gì vậy?”
Trần Chẩn vội lôi từ trong ống tay áo ra miếng da dê do Thích Quang viết. Tỳ nhân nhận lấy, trình lên Huệ Hầu. Huệ Hầu đọc kỹ, chau mày suy ngẫm, một lát sau, ngẩng lên hỏi Trần Chẩn: “Ý ái khanh thế nào?”
“Muôn tâu bệ hạ,” Trần Chẩn nói, “vi thần cho rằng chuyện này là thực. Người Tần đã qua lại hơn chục năm với Long tướng quân, hiểu Long tướng quân như lòng bàn tay, hẳn cũng mong Long tướng quân được làm chủ tướng!”
Ngụy Huệ Hầu ném mật báo lên án, bật cười ha hả. Huệ Hầu cười lớn đến vậy, không chỉ Trần Chẩn, mà đến cả tỳ nhân cũng sững sờ kinh ngạc.
Ngụy Huệ Hầu liếc nhìn mật báo, lại cười vài tiếng, rồi sầm mặt nói: “Trần ái khanh, mật báo này rất hay, đúng là thứ quả nhân muốn thấy!”
Trần Chẩn ngần ngừ một lát, hạ thấp giọng hỏi: “Bệ hạ đã… đã định đoạt xong chủ tướng rồi ư?”
Ngụy Huệ Hầu trịnh trọng gật đầu: “Quả nhân đã định, lần này trọng dụng Công Tôn Diễn làm chủ tướng, Long Giả làm phó tướng, đánh cho người Tần một phen trở tay không kịp!”
Trần Chẩn bàng hoàng sửng sốt, đứng đực ra một lúc mới định thần lại được, lớn tiếng tấu bày: “Bệ hạ, vi thần cho rằng không thoả đáng!”
Ngụy Huệ Hầu lừ mắt nhìn Trần Chẩn, sắc mặt không vui: “Có gì không thoả đáng?”
Trần Chẩn dừng lại một lát, sắp xếp lời lẽ, rồi chậm rãi nói: “Vi thần cho rằng, có ba điều không thoả đáng. Thứ nhất, Công Tôn Diễn từng là môn khách của phủ tướng quốc, thân phận thấp hèn, nếu phong làm chủ tướng, ắt mọi người không phục. Đã không được mọi người phục, sao có thể điều khiển ba quân?”
Ngụy Huệ Hầu gật đầu nói: “Được, đây là điều thứ nhất, vậy còn điều thứ hai?”
“Thứ hai, nếu người Tần biết chủ tướng của quân ta chỉ là một môn khách, sĩ khí tất hưng phấn. Lòng quân phe ta không ổn định, sĩ khí phe địch lại hưng phấn, hai bên giao chiến, một lên cao một hạ thấp, ai thắng ai thua, không đánh cũng biết! Còn thứ ba, Công Tôn Diễn có tài năng hay không, vi thần vẫn thấy nghi ngờ. Khi Long Giả đông chinh, từng lệnh cho Công Tôn Diễn tạm thời làm thú thừa Hà Tây, trao cho hắn hai vạn quân thiết giáp, còn mình dẫn hai vạn tân binh lên đường. Hai vạn quân thiết giáp, ngoài ra còn có lính canh giữ thành ấp các nơi, tuy quân số ở Hà Tây không phải quá nhiều, song cũng tương đối khả quan. Kết quả thế nào? Trường thành thất thủ ngay trong một đêm, ngoài ba thành cô lập Thiếu Lương, Âm Tấn và Lâm Tấn quan, Công Tôn Diễn đã khiến toàn bộ Hà Tây thất thủ chỉ trong ba ngày ngắn ngủi!”
Trần Chẩn đang lúc cấp bách, nói ra một mạch ba lý do không hề hợp lý. Hai lý do đầu tiên, thực chất chỉ là một, vốn đều vô nghĩa, song vì Ngụy Huệ Hầu tâm tư rối bời, không biện biệt được. Tỳ nhân trong lòng sáng tỏ như gương, song triều thần dâng tấu, nội thần không được can dự, chỉ biết bồn chồn đứng hầu bên cạnh.
Nghe Trần Chẩn tấu xong, vầng trán Huệ Hầu lại chau tít, suy nghĩ một lát, Huệ Hầu bèn ngẩng đầu hỏi: “Vậy… theo ý ái khanh, nên phong ai làm chủ tướng?”
Trần Chẩn dõng dạc tấu: “Vi thần cho rằng, có thể phong thượng tướng quân làm chủ tướng. Cũng có ba nguyên nhân. Thứ thất, thượng tướng quân tuổi trẻ hào kiệt, trí dũng song toàn, tinh thông binh pháp, hơn nữa cũng đã giữ chức thượng tướng quân nhiều năm, ba quân tâm phục. Thứ hai, thượng tướng quân danh chấn liệt quốc, người Tần nghe danh mà khiếp vía, lại càng không dò đoán được cách dụng binh của thượng tướng quân. Mật báo cũng nói, Công Tôn Ưởng sợ nhất một người, chính là thượng tướng quân. Thứ ba, thượng tướng quân là cốt nhục của bệ hạ, nếu làm chủ tướng, khác nào bệ hạ thân chinh, sĩ khí ba quân ắt hừng hực ngút trời!”
Trần Chẩn tâu mạch lạc từng lý do, Ngụy Huệ Hầu nghe xong, không khỏi dao động, khẽ gật đầu, hỏi tiếp: “Vậy… theo ý ái khanh, người nào có thể làm phó tướng?”
“Long Giả có thể làm phó tướng! Long Giả thông thạo Hà Tây, cũng thông thạo người Tần, chính là biết mình biết địch. Thượng tướng quân có sức trẻ, Long Giả có chín chắn; thượng tướng quân có kỳ mưu, Long Giả lại thiện chiến. Hai người kết hợp, ắt không ai địch nổi! Đây là sự kết hợp trời ban, mong bệ hạ minh xét!”
Ngụy Huệ Hầu trầm ngâm hồi lâu, rồi chậm rãi gật đầu: “Biết rồi!” Rồi quay sang tỳ nhân, “hai tướng quân Công Tôn Diễn, Long Giả, tạm hoãn triệu hồi!”
Tỳ nhân sững sờ, một lúc mới định thần lại được: “Lão nô tuân chỉ!”
Ngụy Huệ Hầu suy nghĩ suốt một đêm, tới hôm sau mới đưa ra quyết định, nghe theo Trần Chẩn, phong thượng tướng quân công tử Ngang làm chủ tướng, Long Giả làm phó tướng, khởi binh toàn quốc, tới Hà Tây quyết chiến với Tần.
***
Khi công tử Ngang hăm hở dẫn ba quân Đại Ngụy lên đường tới Hà Tây, thì trong cung Tần ở Hàm Dương xa xôi, mọi người múa hát ăn mừng, như thể vừa nhận được tin báo tiệp từ tiền tuyến.
Nhìn cảnh quần thần vui mừng hớn hở, Tần Hiếu Công thở phào nhẹ nhõm, cười nói với Công Tôn Ưởng: “Ái khanh, khanh đúng là đi guốc trong bụng Ngụy Anh. Hễ hắn động khúc ruột nào, khanh cũng có thể nhìn thấu!”
Công Tôn Ưởng cười nói: “Là trời giúp chúa thượng, đâu phải là do Ưởng?”
Tần Hiếu Công cười nói: “Trời giúp quả nhân, song cũng cần phải có mưu trí của Công Tôn Ưởng!”
Cảnh Giám cười vang, góp vào một câu: “Công tử Ngang ở Vệ thảm sát Bình Dương, giết người vô số, khiến người, thần đều phẫn nộ, tiếng xấu lan xa, Ngụy Vương trọng dụng hắn làm chủ tướng, không chiến đã thua rồi!”
Xa Anh giận dữ nói: “Tên này miệng hùm gan sứa, diễu võ dương oai, phải cho hắn nếm mùi khổ nhục!”
Tần Hiếu Công bỗng sực nhớ ra một chuyện, bèn quay sang hỏi Cảnh Giám: “Cảnh ái khanh, nói tới liệt quốc, chúng ta gây chiến ở Hà Tây, các nước Sơn Đông phản ứng ra sao?”
Cảnh Giám trả lời: “Khởi bẩm chúa thượng, Trần Chẩn đã tới Đế Khâu, giảng hoà với Tề, Triệu, Hàn, Vệ, ký kết minh ước láng giềng hoà mục với các nước này. Ba nước Tề, Triệu, Hàn đều đã rút quân! Tả tư mã nước Sở là Chiêu Dương nhân lúc người Ngụy không rảnh rỗi để ý đến phía nam, đã dẫn năm vạn đại quân phạt Tống, nghe nói đã chiếm được Tuy Dương, Bành Thành. Tống Công cầu cứu Tề viện trợ. Hữu tư mã Khuất Vũ dẫn vài vạn quân chinh phạt Kiểm Trung, đã chiếm được nghìn dặm đất!”
Tần Hiếu Công suy nghĩ một lát, quay sang Công Tôn Ưởng, khẽ gật đầu: “Ba nước Tề, Triệu, Hàn đều đã rút quân, chính là tọa sơn quan hổ đấu, chờ quả nhân và Ngụy Anh lưỡng bại câu thương, sẽ làm ngư ông đắc lợi. Xem ra, Sở Vương nam man kia tính toán chu toàn hơn cả, chớp thời cơ này để toan tính mối lợi lớn!”
“Bẩm chúa thượng!” Công Tôn Ưởng chậm rãi nói, “theo vi thần, thế cờ này đã định, bước tiếp theo, ta nên thừa cơ khiêu chiến!”
“Ồ, ái khanh muốn hạ nước cờ ở đâu?”
“Chu thất!”
“Chu thất?” Tần Hiếu Công như chưa nghe rõ, nhìn chằm chằm vào Công Tôn Ưởng. “Hai quân đại chiến Hà Tây, ta nên tập trung vào Hà Tây mới là thượng sách, cớ sao ái khanh lại muốn hạ nước cờ tại Chu thất?”
Công Tôn Ưởng mỉm cười nói: “Bẩm chúa thượng, nước cờ này vẫn là nước cờ định thế cục. Chu thất giống như Thiên Nguyên, hiện tại tuy hạ cờ ở đây không có ích gì, song một khi đã chiếm được vị trí này, sẽ giành đại thắng!”
Tần Hiếu Công là người trí tuệ nhường nào, sao lại không hiểu? Công Tôn Ưởng vừa dứt lời, Hiếu Công đã nói ngay: “Được, theo ý ái khanh, quả nhân sẽ hạ nước cờ này, chiếm lấy Thiên Nguyên!”
“Chúa thượng thánh minh!”
“Song… nước cờ này nên hạ thế nào, còn cần ái khanh giải thích rõ.”
Công Tôn Ưởng chậm rãi nói: “Kết thân!”
Quần thần đều kinh ngạc, Hiếu Công càng bất ngờ hơn: “Kết thân? Tử Vân đã gả cho tên bất tài kia, giờ nghĩ lại quả nhân vẫn đau xót trong lòng! Hơn nữa, quả nhân cũng chỉ có mình Tử Vân, còn đâu con gái nữa mà gả!”
Công Tôn Ưởng cười cười, nói: “Lần trước chúa thượng gả đi Tử Vân công chúa, lần này vi thần sẽ cưới về cho chúa thượng một công chúa, gọi là bù đắp, không biết ý chúa thượng thế nào?”
Tần Hiếu Công kinh ngạc: “Cưới về một công chúa? Là công chúa nước nào?”
Công Tôn Ưởng vẫn cười, nói: “Lần này hạ cờ ở Thiên Nguyên, đương nhiên là công chúa của Chu thiên tử!”
Tần Hiếu Công thoáng chau mày: “Công Tôn ái khanh, trước mắt còn rối như mớ bòng bong, trăm việc vướng bận, quả nhân còn thời giờ đâu mà nghĩ tới việc cưới về một công chúa Chu thất chẳng được ích lợi gì. Ái khanh, khanh nghĩ ra trò gì vậy?”
Công Tôn Ưởng cười sảng khoái, nói: “Chúa thượng, theo vi thần được biết, tuyệt sắc giai nhân trong thiên hạ chỉ có hai người, một là Tử Vân công chúa, hai là Cơ Tuyết công chúa của Chu thất!”
Tần Hiếu Công chau tít đôi mày, nét mặt hơi sầm xuống, cắt ngang: “Công Tôn ái khanh!”
Công Tôn Ưởng đoán Hiếu Công đã hiểu lầm, vội vàng thu lại nụ cười, giải thích cặn kẽ: “Chúa thượng, ý vi thần muốn nói, nếu Cơ Tuyết công chúa là thái tử phi của Tần quốc, thì chúa thượng sẽ trở thành người nhà của thiên tử Đại Chu. Tuy Chu thất đã suy vi, song lòng người thiên hạ vẫn hướng về Chu, cậy mạnh chỉ đoạt được thế, không thể đoạt tâm. Lần trước Ngụy Hầu bỡn cợt thiên tử, nay lại tự lập làm vương, chư hầu thiên hạ đều thấy chán ghét. Nếu chúa thượng làm ngược với họ, ắt thu được hiệu quả diệu kỳ, đẩy Ngụy Anh vào bước đường thất đạo, không ai trợ giúp!”
Tần Hiếu Công cuối cùng đã hiểu ý của Công Tôn Ưởng, thoáng ngượng ngùng, rồi gật đầu liên tiếp mà nói: “Được lắm, kế hay! Tuy Chu thất chỉ còn là cái vỏ, song danh tiếng vẫn có thể lợi dụng.” Lại quay sang Cảnh Giám. “Cảnh ái khanh, hãy lập tức lo liệu chuyện này, sai người tới Chu thất cầu thân!” Dừng lại một lát, nói tiếp, “truyền ngũ đại phu Sư Lý Tật đi sứ!”
Cảnh Giám đáp lời: “Vi thần tuân chỉ!”
Công Tôn Ưởng dặn dò: “Cảnh huynh, hãy dặn Sư Lý Tật, đội ngũ phải rầm rộ, sính lễ phải trọng thể. Đồng thời truyền hịch liệt quốc, để thiên hạ đều biết việc Tần thất và Chu thất kết thân!”
“Hạ quan đã hiểu!”
Trần Chẩn nhận được truyền hịch của nước Tần, vội vã vào cung.
Huệ Hầu xem qua hịch văn, ngạc nhiên sửng sốt: “Gì kia? Tần Công muốn kết thân với Chu thất?”
“Bệ hạ!” Trần Chẩn bước lên tấu, “theo tin từ Hàm Cốc quan báo về, đoàn xe cầu thân của nước Tần đã qua Hàm Cốc được khoảng vài dặm. Chỉ tính riêng xe vận chuyển sính lễ ước chừng đã hơn hai mươi cỗ, kèn trống vang trời suốt dọc đường đi, vô cùng rầm rộ. Chư hầu kết thân, quy mô như vậy thật là hiếm thấy, vi thần cho rằng, bên trong nhất định ẩn giấu mưu mô!”
Ngụy Huệ Hầu cười khẩy một tiếng: “Hừm, Tần Công kia ở đây ủng hộ quả nhân xưng vương, ở kia lại kết thân với Chu thất, hắn tính toán thật tinh ranh!”
“Bệ hạ thánh minh!”
Ngụy Huệ Hầu ngẫm nghĩ một lát, ngẩng lên hỏi: “Mà Chu Vương có bao nhiêu công chúa?”
“Khởi bẩm bệ hạ, Chu Vương có cả thảy bảy công chúa, trong đó năm công chúa là do tần phi sinh ra, tuổi hãy còn nhỏ. Hai công chúa do chính cung Sái hoàng hậu sinh ra, trưởng công chúa Cơ Tuyết năm nay mười sáu, vẫn chưa kết hôn; nhị công chúa Cơ Vũ chưa tới tuổi cập kê!”
“Nói như vậy, Tần Công lần này muốn hỏi cưới trưởng công chúa ư?”
“Đúng vậy!” Trần Chẩn đáp, “nghe nói trưởng công chúa quốc sắc thiên hương, thông minh hiền thục, là tuyệt sắc giai nhân bậc nhất thiên hạ theo lời đồn trong thiên hạ!”
Ngụy Huệ Hầu đưa tay lên vuốt râu, một lát sau, mỉm cười mà nói: “Quả nhân đang muốn chiếu cáo thiên hạ, chọn tần phi cho thái tử. Cô gái này thông minh hiền thục, tài sắc vẹn toàn, thật là thích hợp! Trần ái khanh, khanh mau tới Chu thất một chuyến, chiếu cáo Chu thất, nói rằng bệ hạ Đại Ngụy đã ưng thuận trưởng công chúa của Chu thất, muốn cưới về làm thái tử phi, bảo Chu thất chọn ngày đẹp tiễn con về nhà chồng!”
“Vi thần lĩnh chỉ.”
Hồi Thứ 7
Sứ Tần, Ngụy bức bách cầu thân
Quỷ Cốc Tử nhận thư xuống núi
Bởi sự sắp đặt của Trần Chẩn, đoàn xe cầu thân của nước Tần khi tới Hào Quan đã bị lính Ngụy gây khó dễ, nên chậm mất vài ngày. Khi họ tới Lạc Dương, đoàn cầu thân của nước Ngụy cũng đã tới nơi. Có lẽ là trùng hợp, cũng có lẽ do Trần Chẩn cố ý, hai đoàn gần như tới Lạc Dương cùng một lúc. Đoàn xe cầu thân của nước Tần vào cổng tây, đoàn xe cầu thân của nước Ngụy vào cổng bắc, đều cờ quạt rợp trời, chiêng trống inh ỏi.
Mấy năm nay, do ít khi có chư hầu triều kiến, vương thành Lạc Dương gần như đã bị thiên hạ lãng quên, hôm nay không hiểu vì sao bỗng nhiên náo nhiệt bất thường. Bách tính trong thành đều đổ ra xem, nhất là sau khi biết có hai đoàn Tần, Ngụy cùng tới hỏi cưới công chúa, thì người đến xem càng đông đúc, tới mức tắc nghẽn cả hai con phố lớn ở Lạc Dương.
Chư hầu tới triều kiến, thông thường đều được sắp xếp ở tại dịch quán Vạn Bang. Dịch quán Vạn Bang phân thành hai quán là công và hầu, tọa ở hai bên Văn miếu, dùng để tiếp đãi quân thần thuộc quốc. Ngoài công quán, hầu quán, còn có vương quán, được chuẩn bị riêng cho nước Sở, bởi lẽ nước Sở không cùng gia tộc với Chu thất, cũng không phải nước phụ thuộc của Đại Chu, Chu thất sớm đã thừa nhận ngôi vương của Sở từ thời Xuân Thu.
Theo quy định triều kiến, công quốc ở bên trái Văn miếu, hầu quốc ở bên phải Văn miếu. Tần là công quốc, nên ở bên trái, Ngụy là hầu quốc, nên ở bên phải. Tuy nhiên, khi đoàn xe của Trần Chẩn tới dịch quán, lại không vào hầu quán, cũng không vào công quán, mà cho rằng mình là nước độc lập, nên đi thẳng tới vương quán.
Hành động trái quy củ của sứ Ngụy đã khiến quan đại hành nhân và tư nghi trong dịch quán sợ hãi thất thần, tròn mắt kinh ngạc, ngăn cản thì không dám, khuyên can cũng ngại, chỉ biết giương mắt nhìn họ tiến vào vương quán, rồi tất bật chuyển hành lý, sắp xếp phòng ở. Do dịch quán lâu ngày không có người ở, trong phòng lại chẳng ai quét dọn nên vô cùng bụi bặm. Trần Chẩn chia đám tuỳ tùng thành hai toán, một toán chuyển đồ, một toán quét dọn phòng ốc.
Dặn dò xong, thấy thời tiết oi bức, Trần Chẩn cầm quạt ba tiêu, vừa phe phẩy quạt, vừa bước ra khỏi phòng, tiến tới phía trước công quán, đứng tựa lưng dưới gốc cây long não, từ xa nhìn sứ đoàn nước Tần cũng đang quét dọn, chuyển đồ.
Sư Lý Tật đang luôn tay luôn chân, nhìn thấy Trần Chẩn, vội đặt rương hòm xuống, sải bước tiến lại, từ xa đã tươi cười hớn hở, vòng hai tay, cúi gập lưng xuống, cất giọng cung kính: “Sứ Tần Sư Lý Tật có lời chào thượng khanh đại phu!”
Trần Chẩn trong lòng bực bội, chẳng thèm hạ quạt xuống, chỉ khẽ vòng tay, coi như đáp lễ, giọng nói ngạo mạn: “Sứ Ngụy Trần Chẩn xin chào Sư Lý đại phu!”
Sư Lý Tật coi như không thấy, vẫn cười cười nói nói: “Lần trước tại hạ và đại lương tạo đi sứ sang Ngụy, được thượng khanh quan tâm chiếu cố, coi như đã làm tròn sứ mệnh. Đại lương tạo sau khi về Tần, lúc nào cũng tưởng nhớ tới thượng khanh, mấy lần dặn tại hạ, bất luận gặp thượng khanh ở đâu đều phải thay đại lương tạo hành lễ! Tại hạ vốn định lúc nào rảnh rỗi tới An Ấp, sẽ đến gặp thượng khanh chuyển lời thăm hỏi của đại lương tạo. Không ngờ lại được diện kiến ở đây, thật là trùng hợp!”
Sư Lý Tật lúc này bỗng nhắc tới chuyện An Ấp, chẳng khác nào bôi gio trát trấu vào mặt Trần Chẩn. Trần Chẩn nóng bừng mặt mũi, vốn định vặc lại vài câu, song nhất thời chưa tìm ra lời thích hợp. Khi Hà Tây bị đột kích, Trần Chẩn mới biết Công Tôn Ưởng đã lấy mình và công tử Ngang ra đùa giỡn trên lòng bàn tay, uất hận tới mấy ngày trời. Cũng vì chuyện này, lòng tin của Ngụy Vương đối với ông ta đã giảm đi đáng kể, vị trí tướng quốc sắp sửa đến tay giờ cũng vuột xa. May mà ông ta giỏi ứng biến, trong thời khắc then chốt đã làm thay đổi cục diện, nếu không thì bao năm vun vén khổ cực hẳn đã bị huỷ hoại trong chốc lát, chỉ có thể giương mắt nhìn Chu Uy, Công Tôn Diễn đắc chí thoả nguyện.
Trần Chẩn rốt cuộc vẫn là Trần Chẩn, lúng túng chỉ là thoảng qua, sắc mặt lại mau chóng bình thường trở lại, khoé miệng nhếch một nụ cười khẩy, đáp trả lại Sư Lý Tật: “Tại hạ cảm tạ sự quan tâm của đại lương tạo! Tại hạ cũng nhờ ngũ đại phu chuyển lời tới đại lương tạo, nói là ông ta còn mắc nợ tại hạ một cái đầu, tại hạ sớm đã quên rồi, ông ta không cần phải nhớ. Còn nữa, tại hạ nhân tiện nhắc nhở đại lương tạo một câu, cũng nhờ ngũ đại phu chuyển lời giúp, lần sau nếu lại xảy ra chuyện tương tự, tại hạ dù có lòng, e cũng không giúp nổi!”
Sư Lý Tật cười vang: “Tại hạ xin thay đại lương tạo cảm tạ ý tốt của thượng khanh. Có điều, tại hạ cũng muốn nhắc nhở thượng khanh, sự việc tương tự sẽ không bao giờ còn xảy ra nữa!” Rồi chuyển sang chuyện khác, “nghe nói thượng khanh tới đây là muốn hỏi cưới thái tử phi cho Ngụy Vương bệ hạ, tại hạ dám hỏi người này là ai?”
Trần Chẩn phe phẩy quạt trong tay, nói: “Nghe nói ngũ đại phu tới đây, cũng là hỏi cưới thái tử phi cho Tần Công, không biết người này là ai?”
“Tần Công muốn hỏi trưởng công chúa Cơ Tuyết của Chu thất về làm thái tử phi.”
Trần Chẩn bật cười ha hả, vẫn phe phẩy quạt: “Thật là trùng hợp, Đại Ngụy bệ hạ cũng đang muốn hỏi công chúa Cơ Tuyết về làm thái tử phi!”
Sư Lý Tật tuy cũng đã sớm đoán ra ý đồ của sứ Ngụy, song tim vẫn nảy lên một cái, ngay sau đó phá lên cười một tràng dài: “Đúng là anh hùng cùng chí hướng!”
Trần Chẩn cũng cười lên ha hả: “Phải, phải! Có điều, hoa rơi vào nhà nào, lại là một vở kịch hay!”
Sư Lý Tật khẽ gật đầu, cười nói: “Ồ, chắc chắn sẽ là một vở kịch hay!”
Hai nhà Tần, Ngụy sau khi ổn định chỗ nghỉ ngơi, lần lượt trình sính thư cho đại hành nhân - chức quan chuyên phụ trách việc tiếp đón khách của Chu thất. Đại hành nhân được liệt vào hàng trung đại phu, sau khi nhận thư, không dám chậm trễ, lập tức cầu kiến ngự sử.
Sự việc hai nhà Tần Ngụy cùng tới cầu thân đã lan truyền nhanh chóng, ngự sử sớm đã hay tin, đang ở trong phủ suy đoán thực hư thì đại hành nhân mang sính thư bước vào. Đại hành nhân vừa dâng sính thư, vừa bực bội kể lại tường tận sự việc sứ Ngụy làm trái quy củ, ngang nhiên vào ở trong vương quán của Sở, chẳng coi nghi lễ ra gì. Ngự sử nghe xong, khẽ chau mày, tiện tay mở sính thư ra đọc, rồi giật mình kinh ngạc, bởi lẽ cả hai nhà đều cầu hôn một người, chính là trưởng công chúa Cơ Tuyết.
Lần này thực rắc rối lớn! Ngự sử không kịp nghĩ ngợi gì thêm, lập tức rảo bước vào cung, tới tiên điện, song Chu Vương lại không có ở đó. Ngự sử suy nghĩ một lát, tới thẳng ngự thư phòng, thấy cửa chính đóng chặt, nội tể đang đợi hầu bên ngoài.
Ngự sử vòng tay nói: “Nhờ nội tể chuyển tấu lên bệ hạ, vi thần có việc gấp cần khấu kiến!”
Nội tể khẽ lắc đầu: “Bệ hạ có chỉ, không muốn gặp ai!”
Ngự sử lôi từ trong tay áo ra bức sính thư và danh mục sính lễ của sứ Tần, sứ Ngụy: “Việc này…”
Nội tể chẳng buồn nhìn, chỉ nói: “Bệ hạ có chỉ, ngoại sự hỏi thái sư, nội sự hỏi hai vị Chu Công!”
Ngự sử thở dài một tiếng, định nói gì đó, song lại im bặt.
Ngự sử bước ra khỏi cửa cung, suy nghĩ một lát, bèn đánh xe tới phủ thái sư. Môn nhân nhìn thấy ngự sử lại thấy thần sắc hốt hoảng, biết là có chuyện lớn, vội vàng vào trong bẩm báo. Một lát sau, lão quản gia ra đón.
Ngự sử vòng tay vái mà nói: “Hạ quan có việc gấp cầu kiến thái sư, làm phiền lão quản gia bẩm báo!”
Lão quản gia đáp lễ, nói: “Thái sư đang tiếp khách, xin đại nhân hôm khác lại tới!”
Ngự sử vội nói: “Chuyện này cấp bách, hạ quan xin lão quản gia…”
Không đợi ngự sử nói hết câu, lão quản gia đã đoán biết sự việc liên quan tới đại cục, bèn gật đầu nói: “Đại nhân chờ một lát, lão nô sẽ vào bẩm báo!” Nói xong quay người vào phủ, một lát sau, hấp tấp chạy ra. “Ngự sử đại nhân, thái sư mời vào.”
Ngự sử theo quản gia vào trong phủ, quả nhiên thấy trong phòng khách có một người ngồi ngay ngắn ở đó, khoảng năm mươi tuổi, đầu hói nhẵn thín. Nguyên lão tam triều Nhan thái sư đã ở tuổi thất thập cổ lai hi, râu tóc bạc trắng ngồi ở ghế chủ, đang trò chuyện với khách.
Ngự sử quỳ xuống bái lạy: “Hạ quan khấu kiến thái sư!”
“Đứng lên, mau đứng lên!” Nhan thái sư cười vang, giục ngự sử đứng dậy, chỉ vào vị khách. “Đây chính là Tắc Hạ tiên sinh nức tiếng thiên hạ Thuần Vu Khôn(1), ngự sử mau lại làm quen.”
Ngự sử đứng dậy, hướng về phía khách vái một vái dài: “Tại hạ bái kiến Thuần Vu Tử! Danh tiếng của tiên sinh, tại hạ đã nghe từ lâu!”
Thuần Vu Khôn vòng tay đáp lễ, giơ tay chỉ vào cái đầu hói của mình, cười sảng khoái mà nói: “Đúng vậy! Cái đầu hói của tại hạ, trong thiên hạ không ai không biết!”
Ngự sử chẳng còn tâm trí nào mà bông đùa, vội vã quay sang Nhan thái sư: “Khởi bẩm thái sư, hạ quan có thể nói riêng vài lời với thái sư được chăng?”
Thuần Vu Khôn nghe vậy, vội vã đứng lên: “Hai vị cứ trò chuyện tự nhiên, hôm nay trời đẹp, tại hạ muốn ra ngoài tản bộ chốc lát!” Nói xong, bước luôn ra ngoài cửa.
Quản gia nối gót theo sau, cùng Thuần Vu Khôn ra ngoài sân. Nhan thái sư nhìn thần sắc ngự sử, biết rằng đã có chuyện lớn, nín thở ngưng thần, nhìn thẳng vào ngự sử.
“Xảy ra chuyện không hay rồi!” Ngự sử bẩm báo, “Ngụy thất và Tần thất đều tới cầu thân, hạ quan tức tốc khấu kiến bệ hạ, nhưng bệ hạ… bệ hạ…”
Nhan thái sư dường như đã biết chuyện này, từ tốn nói: “Tần, Ngụy đều sai sứ thần tới cầu thân, có gì không hay?”
“Họ không phải cầu thân, mà là…”
Nhan thái sư khẽ giơ tay, chỉ vào chỗ Thuần Vu Khôn vừa ngồi, nói: “Ngự sử đại nhân, hãy ngồi xuống đã, nói cho rõ ràng!”
Ngự sử cũng nhận ra mình quá hấp tấp, vội ngồi xếp bằng vào chiếu khách, kể lại một lượt chuyện cầu thân của hai nước Tần Ngụy, sau đó lôi từ trong ống tay áo ra sính thư và danh sách sính lễ của hai nước: “Thái sư, mời xem!”
Nhan thái sư cầm lấy, chẳng buồn xem, vứt toẹt lên án, khẽ thở dài một tiếng, chậm rãi nói: “Than ôi, là do triều hội Mạnh Tân đã hại bệ hạ! Lễ mừng bảy trăm năm Vũ Vương phạt Trụ cái nỗi gì? Công hầu thiên hạ triều kiến thiên tử cái nỗi gì? Ngụy Anh kia là hạng người gì? Thiên hạ thời nay đã đến nước gì? Chư hầu nếu thật sự muốn triều kiến thiên tử, cớ sao không tới Lạc Dương? Than ôi, những việc này đều đã rõ rành rành. Lão hủ đã khuyên bệ hạ hết lời, can bệ hạ đừng đi, nhưng bệ hạ không nghe. Chuyện này bệ hạ đã không nhìn thấu suốt! Bệ hạ vẫn còn chưa chịu buông xuôi! Bệ hạ vẫn một lòng muốn chấn hưng Chu thất. Lần này thì hết rồi! Từ sau triều hội Mạnh Tân, bệ hạ bỏ bê triều chính, tiểu triều không nói, ngay cả đại triều, liệu tới được mấy lần? Lão hủ vốn muốn khuyên can, song nghĩ đi nghĩ lại, than ôi, lại chẳng biết khuyên gì?” Vừa nói, thái sư vừa nhặt sính thư và danh sách sính lễ lên, chậm rãi đút vào trong ống tay áo, lại lắc đầu, thở dài sườn sượt. “Những công đó, hầu đó, đều đã khuấy đảo giày xéo khắp thiên hạ, vậy mà họ vẫn chưa thoả mãn, đến cả vùng đất chật hẹp của thiên tử cũng không chịu buông tha!”
Ngự sử quá hiểu thái sư, nếu cứ nói chuyện dông dài, không biết thái sư còn ca thán đến lúc nào mới thôi, vội nói: “Thái sư, người đã lạc đề mất rồi… Giờ đây… nên làm thế nào?”
“Cái gì mà lạc đề?” Nhan thái sư chậm rãi đứng dậy, lẩy bẩy bước về phía cửa, lại tiếp tục cằn nhằn. “Than ôi! Thử nghĩ mà xem, đường đường là thiên quốc công chúa của ta, lại bị hai thuộc quốc sai đại phu tới tranh cướp, còn gì là thế đạo nữa đây?”
Nhan thái sư chậm chạp bước ra giữa sân, nhìn thấy lão quản gia đang đi tản bộ với Thuần Vu Khôn, bèn sai ông ta: “Chuẩn bị xe!”
Sau bữa trưa, cũng như mọi ngày, Hiển Vương lại cúi đầu bước vào ngự thư phòng, ngay cả quan nội tể cũng bị đuổi ra ngoài, sau đó đóng chặt cửa phòng, giam mình trong đó, tìm kiếm chút an tĩnh.
Mà thực ra, đối với Hiển Vương, thế gian này có lẽ vốn không có hai chữ “an tĩnh”. Đúng như Nhan thái sư đã nói, từ sau triều hội Mạnh Tân, Đại Chu thiên tử Hiển Vương Cơ Biển lúc nào cũng ôm một bụng lửa giận.
Cơ Biển chưa tới tứ tuần, chính trong độ tuổi chín muồi để làm nên đại nghiệp. Kể từ khi Cơ Biển biết nhận thức, thiên hạ của nhà Chu đã chỉ còn trên danh nghĩa. Năm hai mươi ba tuổi, Cơ Biển kế thừa ngôi vị, đã từng thề trước bài vị liệt tổ liệt tông, nhất định sẽ chấn hưng Chu thất.
Thế nhưng, chớp mắt đã mười mấy năm trôi qua, Chu thất không những không thể chấn hưng, mà ngược lại, dưới triều Hiển Vương, lại ngày càng suy yếu. Chỉ có các nước Lỗ, Vệ, Sái còn phái sứ giả tới, còn công hầu nước lớn sớm đã bỏ quên ông ngoài chín tầng mây. Vài năm đầu mới kế vị, ông vẫn ôm giấc mộng chấn hưng, song đất nhà Chu quá chật hẹp, dài rộng chưa đầy trăm dặm, còn không bằng nước Sái ở lưu vực sông Tứ. Đã thế, chút đất cỏn con này, vào thời tiên phụ của ông lại còn tiếp tục chia đôi, phong cho hai thúc công, chỉ để lại cho ông một vương thành bé nhỏ, đúng là cần tiền không có tiền, cần người không có người, biến ông thành một cô gia quả nhân đích thực.
Mười mấy năm qua, ý chí chấn hưng sục sôi đã dần dần nguội lạnh, chẳng còn lại bao nhiêu. Ngụy Hầu hẹn các công hầu triều kiến thiên tử ở Mạnh Tân, khiến Cơ Biển vô cùng phấn chấn. Nào ngờ trong triều hội Mạnh Tân, đường đường là thiên tử, lại trở thành đối tượng giễu cợt của Ngụy Hầu!
Hiển Vương ngồi thẫn thờ trước án, bất đồ nhớ lại tình cảnh hôm triều hội Mạnh Tân, hoả khí lại bốc lên ngùn ngụt. Hoả khí xộc thẳng vào tim, Hiển Vương vô cùng khó chịu, miễn cưỡng đứng dậy, đi đi lại lại trong phòng để hạ hoả. Đúng lúc này, Hiển Vương vô tình nhìn thấy thanh bảo kiếm treo trên tường, bèn tiến lại gỡ xuống, nhìn chằm chằm vào thanh kiếm.
Đập vào mắt là một hàng chữ nhỏ trên chuôi kiếm: “Sự nghiệp mà tiên vương chưa thành tựu, ta quyết đạt được bằng kiếm này!”
Hiển Vương còn nhớ như in, chính tay vương đã viết hàng chữ này vào ngày đăng cơ. Giờ đây, bảo kiếm vẫn còn, hàng chữ cũng vẫn còn. Chu Hiển Vương nhìn vật mà đau lòng, bất giác nước mắt tuôn chảy.
Hiển Vương đang lúc đau buồn, bỗng nghe có tiếng gõ cửa, vội treo kiếm lên tường, bước tới trước án ngồi xuống. Một lát sau, quan nội tể đẩy cửa bước vào, quỳ xuống khấu bái: “Khởi tấu bệ hạ, nương nương có lời mời!”
“Chuyện gì vậy?”
“Hai công chúa từ ngày theo cầm sư học đàn tới giờ, đã có nhiều tiến bộ. Hôm nay nương nương thấy vui, mời cầm sư vào cung, bình giá cầm nghệ của công chúa trong phòng học, cung kính mời bệ hạ tới nghe!”
Nghe nhắc tới nương nương và hai công chúa, sắc mặt Hiển Vương lập tức dịu lại, chan chứa yêu thương, khẽ gật đầu: “Truyền báo nương nương, quả nhân lập tức tới ngay!”
Hiển Vương vào phòng thay quần áo, chải đầu rửa mặt xong xuôi, phục sức giản dị, cùng nội tể tới phòng học đàn. Vừa tới nơi, đã nghe tiếng trò chuyện ríu rít vọng ra. Vương hậu ngồi tại ghế bên, cầm sư ngồi ở ghế khách, chính giữa phòng đặt một cây đàn cầm và một cây đàn tranh, vài thái giám và tỳ nữ đứng xếp hai hàng ngay ngắn trước mặt vương hậu và công chúa. Hai công chúa ngồi xếp bằng trên chiếu, sắc mặt thoáng ửng hồng, dường như hơi căng thẳng.
Nhìn thấy Hiển Vương bước vào, mọi người trong phòng đều đứng dậy dập đầu khấu bái. Hiển Vương tới trước mặt vương hậu, đỡ vương hậu dậy, dắt tay tới vị trí chủ, ra hiệu cho vương hậu ngồi xuống kế bên, còn mình ngồi vào chiếu chủ, đưa tay lệnh cho tất cả bình thân.
Vương hậu mỉm cười nhìn sang Hiển Vương, thấy Hiển Vương gật đầu, bèn quay sang nói với cầm sư: “Tiên sinh, bắt đầu được rồi!”
Cầm sư đưa ánh mắt hiền từ nhìn trưởng công chúa Cơ Tuyết. Cơ Tuyết xiêm y thướt tha sắc tía, khẽ gật đầu đáp lại, uyển chuyển đứng dậy, bước tới trước mặt Hiển Vương và vương hậu, vái mỗi người ba vái, rồi lại tới phía trước cầm sư, cũng vái ba vái, sau đó mới tiến lại trước cây đàn cầm, khoanh chân ngồi xuống, hai tay vuốt ve mặt đàn, nét mặt rạng rỡ tựa hoa đào, đôi mắt long lanh, hệt như tiên nữ giáng trần, đúng là giai nhân tuyệt thế. Trước ngực áo thiếu nữ đeo một con ve sầu bằng vàng ánh kim lấp lánh, càng làm tôn thêm vẻ cao quý kiêu sa.
Trong phòng tĩnh lặng như tờ, mọi ánh mắt đều đổ dồn vào Cơ Tuyết. Cơ Tuyết nhìn cầm sư, cầm sư gật đầu nói: “Công chúa, xin hãy gảy khúc Cao sơn của Du Bá Nha!”
Cơ Tuyết nhận lệnh, khép hờ hai mắt, nâng cao tay ngọc, rồi những ngón tay thon mềm nhẹ nhàng hạ xuống. Chốc lát, khắp phòng đã dìu dặt tiếng đàn, nghe như chim hót hoa nở. Cơ Tuyết tay ngọc như gió, phím đàn như thác, gảy liền một mạch chín khúc Cao sơn, không sơ sảy một nốt nào.
Tiếng đàn vừa ngưng, mọi người đồng loạt vỗ tay khen ngợi. Cơ Tuyết cười bẽn lẽn, đứng dậy cúi đầu thi lễ khắp lượt, lại bước tới trước mặt Hiển Vương, vương hậu, cầm sư, lần lượt vái mỗi người ba vái, mới khẽ khàng quay về chỗ ngồi, ngồi xếp bằng dưới chiếu.
Nhị công chúa Cơ Vũ xiêm y trắng muốt, phong thái lại khác hẳn chị mình. Cầm sư còn chưa lên tiếng đã tự đứng lên, sau khi lần lượt hành lễ với cha mẹ, cầm sư như chị gái, liền bước thoăn thoắt về phía cây đàn tranh, ngồi đánh phịch xuống chiếu, vươn thẳng lưng ngọc, đưa tay lên túm phắt lấy con ve sầu ngọc màu trắng ngà đang đung đưa trước ngực, nhét tọt vào trong cổ áo, duỗi thẳng hai cánh tay, đưa lên đưa xuống vài lần cứ như lấy đà, khiến mọi người cười ồ lên. Hiển Vương âu yếm nhìn con gái, quay sang vương hậu, vương hậu cười vui vẻ mắng yêu: “Cái con bé này…”
Cũng không đợi cầm sư lên tiếng, Cơ Vũ đã hạ luôn ngón tay xuống, tiếng đàn bắt đầu cất lên, là khúc Lưu thuỷ của Du Bá Nha. Cao sơn, Lưu thuỷ đều là những bản nhạc rất khó. Nếu chưa đạt tới trình độ điêu luyện, tuyệt đối không dám động tới, huống hồ lại ở trước mặt những người thông hiểu âm luật như Hiển Vương và vương hậu, dù một lỗi sai cũng không thể giấu.
Khi những nốt nhạc thánh thót cuối cùng ngưng bặt, tiếng vỗ tay lại nổi lên râm ran trong phòng học. Cơ Vũ cúi đầu cảm tạ, miệng cười khúc khích chạy tới bên cạnh Cơ Tuyết, ôm lấy vai chị rồi ngồi xuống bên cạnh.
Tiếp đến mới là phần quan trọng nhất, đó là nhận xét của thiên tử. Hiển Vương nãy giờ nhắm mắt lắng nghe, lúc này mới mở mắt, nhìn cầm sư, cười hiền từ mà nói: “Cầm nghệ của Tuyết Nhi, Vũ Nhi được như thế này, đều là nhờ công lao của tiên sinh đây!”
Cầm sư đứng dậy, vái lạy mà đáp: “Thảo dân khấu tạ lời khen của bệ hạ! Hai công chúa vốn sẵn tư chất thông minh, vừa học đã hiểu ngay, thảo dân nào dám nhận công?”
Hiển Vương quay sang vương hậu, vương hậu cười nói: “Bản cung đã lâu không được nghe tiên sinh nhã tấu, làm phiên tiên sinh tấu một khúc, được chăng?”
Cầm sư lại vái lạy, nói: “Thảo dân tạ ơn lòng yêu mến của nương nương! Không biết nương nương muốn nghe khúc gì?”
“Chính là khúc Tuyết Nhi và Vũ Nhi vừa tấu, tiên sinh chỉ cần tấu hai đoạn đầu và cuối!”
“Thảo dân xin được trổ chút tài nghệ kém cỏi!”
Cầm sư đứng dậy, bước tới bên cây đàn cầm, khép hai mắt lại, ngồi lặng một hồi, rồi ngón tay thình lình hạ xuống, múa lướt trên dây. Tiếng đàn ngân nga trầm bổng, quả thực không phải âm điệu tầm thường.
Đợi cầm sư tấu xong, vương hậu gật gù, quay sang nói với Cơ Tuyết, Cơ Vũ: “Tuyết Nhi, Vũ Nhi, hai con lại đây!”
Hai chị em uyển chuyển bước lại, đứng ở hai bên vương hậu. Vương hậu mỗi tay ôm lấy một cô con gái, dịu dàng nói: “Các con đã nghe thấy chưa, đây mới là Cao sơn và Lưu thuỷ. Gảy đàn ở tâm, không ở ngón tay.”
Cơ Tuyết, Cơ Vũ gật đầu.
Vương hậu đang định nói tiếp, bỗng thấy quan nội tể bước vào, khấu đầu nói: “Bệ hạ, thái sư xin cầu kiến!”
“Nhan ái khanh?” Chu Hiển Vương thoáng ngạc nhiên, rồi khẽ gật đầu. “Truyền thái sư yết kiến ở thư phòng!”
Chu Hiển Vương quay về ngự thư phòng, đã thấy Nhan thái sư quỳ trước cửa. Hiển Vương tiến lại đỡ thái sư dậy, dẫn ông vào phòng, phân ngôi quân thần ngồi xuống.
Nhìn lão thái sư mặt mày ủ rũ, Hiển Vương biết trong triều lại có chuyện gì, hẳn là chuyện không vui, thì khẽ thở dài một tiếng, hỏi: “Lão ái khanh, nói đi, có chuyện gì?”
“Muôn tâu bệ hạ, Tần Công và Ngụy Hầu đều sai sứ thần mang sính thư và danh sách sính lễ tới, xin được cầu thân với bệ hạ!”
Nghe thấy hai chữ “Ngụy Hầu”, Hiển Vương lập tức lộ vẻ giận dữ: “Cầu thân? Quả nhân chẳng có thứ gì, họ cầu cái gì đây?”
Nhan thái sư chậm rãi nói: “Muôn tâu bệ hạ, là Tần Công và Ngụy Hầu muốn xin cưới trưởng công chúa về làm thái tử phi!”
Hiển Vương sững người: “Ái khanh muốn nói… là Tuyết Nhi?”
“Đúng vậy!”
Hiển Vương lặng đi một lát, dường như vẫn chưa hiểu rõ hoàn toàn, bèn chậm rãi hỏi: “Là nhà nào?”
“Khởi bẩm bệ hạ, hai nhà!”
Hiển Vương trợn trừng hai mắt: “Hai nhà? Có phải khanh vừa nói Ngụy Hầu và Tần Công?”
Nhan thái sư thong thả đáp: “Đúng vậy! Hai nhà đều sai sứ thần mang sính thư, sính lễ tới cầu hôn công chúa Cơ Tuyết làm thái tử phi!” Nói đoạn, rút từ trong ống tay áo ra sính thư và danh sách sính lễ, đặt lên án. “Đây là sính thư và sính lễ của họ.”
Sự việc quá đỗi bất ngờ. Hiển Vương bàng hoàng chết sững, một lúc sau mới hiểu được nguồn cơn. Hiển Vương vô thức với tay, qườ quạng tìm ống ngọc cắm bút lông trên án, hơi thở mỗi lúc một thêm dồn dập, lồng ngực phập phồng dữ dội, cơ thể hơi run rẩy theo nhịp lên xuống của lồng ngực.
Nhan thái sư đã nhận ra, dù Hiển Vương đã cố gắng trấn tĩnh, song bàn tay cầm ống bút càng siết càng chặt, tựa hồ muốn bóp vụn đến nơi. Nhan thái sư cũng đoán ra tâm tư của Hiển Vương, bèn gọi khẽ: “Bệ hạ!”
Chu Hiển Vương ngồi lặng thêm một lát nữa, thần trí mới trấn tĩnh đôi chút, bàn tay từ từ buông lỏng ống ngọc, cười nhạt với Nhan thái sư: “Ồ, chư hầu hỏi cưới là chuyện đáng mừng. Có điều… hai nhà cùng xin hỏi cưới một lúc, quả nhân lại chỉ có một Tuyết Nhi, làm thế nào đây?”
Nhan thái sư trầm ngâm một lát: “Chư hầu xin hỏi cưới công chúa, tuy là việc nước, cũng là việc nhà, bệ hạ có thể gọi hai vị công thúc lại, hỏi xem có kế hay nào chăng!”
Chu Hiển Vương gật đầu: “Phải, ái khanh nói rất đúng!” Rồi quay sang nội tể. “Truyền hai vị công thúc yết kiến!”
Nội tể đáp “tuân chỉ”, rồi rảo bước ra ngoài cửa.
Hai vị công thúc của Chu Hiển Vương đều là em trai của Chu Liệt Vương Hỷ, một người là em thứ hai, một người là em thứ ba, xét về vai vế đều là chú của Hiển Vương. Trước khi Liệt Vương băng hà, phong cho em trai thứ ba ấp Hà Nam ở ngoại ô phía tây, thực ấp rộng ba mươi dặm, sử gọi là Tây Chu Công; phong cho em trai thứ hai Củng Ấp ở ngoại ô phía đông, thực ấp cũng rộng ba mươi dặm. Sau khi Liệt Vương băng hà, truyền ngôi cho Cơ Biển, căn dặn hai vị Chu Công trợ giúp việc triều chính. Chu thất vốn rộng bảy mươi dặm vuông, hai vị công thúc mỗi người đã chiếm ba mươi dặm, Vương Hiển chỉ còn lại vương thành Lạc Dương và mười dặm đất ít ỏi gần ngoại ô.
Nói về xu thế, Tây Chu Công thân Tần, Đông Chu Công thân Ngụy. Do vậy, sau khi Trần Chẩn và Sư Lý Tật mang sính thư tới, việc đầu tiên chính là tranh thủ sự trợ giúp của hai vị Chu Công. Khi Chu Hiển Vương truyền gọi họ tới, Trần Chẩn, Sư Lý Tật đều đang có mặt ở hai phủ, Đông Chu Công thậm chí còn ngồi xe của Trần Chẩn vào vương thành.
Chu Hiển Vương sắp xếp cho hai vị Chu Công yết kiến ở điện Vạn An, đồng thời mời Nhan thái sư tới, để thái sư cùng tham gia bàn bạc việc hệ trọng này.
Sau khi đã ngồi yên vị, Chu Hiển Vương bắt đầu bàn việc. Nhan thái sư thuật lại sơ qua chuyện Ngụy Hầu, Tần Công phái người tới cầu thân. Do sớm đã biết rõ sự tình, hai vị Đông, Tây Chu Công chẳng hề tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ khẽ vuốt râu, nhìn thẳng vào Hiển Vương.
Hiển Vương nhìn hai vị thúc công, nói thẳng: “Tần, Ngụy đều sai sứ thần mang sính lễ tới hỏi cưới Tuyết Nhi, nhưng Tuyết Nhi chỉ có một, gả cho Tần, hay cho Ngụy, quả nhân không dám quyết định tuỳ tiện, thật lòng muốn nghe ý kiến của hai thúc công.”
Đông Chu Công quyết định tiên phát chế nhân, nhấp một ngụm trà, chậm rãi nói: “Muôn tâu bệ hạ, theo ý của trọng thúc(2), Tuyết Nhi gả cho Ngụy thất là thích hợp hơn. Thiên hạ hiện nay, mạnh nhất là Ngụy. Triều hội Mạnh Tân lần trước, thiên hạ một phen chấn động. Chu thất nếu kết thông gia với Ngụy thất, chắc chắn có thể hiệu lệnh thiên hạ!”
Đông Chu Công nhắc tới triều hội Mạnh Tân, lại là phạm phải điều tối kỵ. Chu Hiển Vương tuy không biểu lộ ra nét mặt, song trong lòng lạnh ngắt, ánh mắt chuyển sang Tây Chu Công: “Ý của quý thúc thế nào?”
Tây Chu Công liếc xéo Đông Chu Công một cái, dõng dạc phản bác: “Lời này gây tổn hại cho đất nước, bệ hạ tuyệt đối không thể nghe theo! Theo ý của quý thúc, Tuyết Nhi nên gả cho Tần thất. Tần biến pháp cải chế, thế lực lớn mạnh, như mặt trời giữa trưa, thiên hạ đều thấy rõ. Chu thất phải kết thông gia với Tần thất, mới đảm bảo giữ vững được cơ nghiệp nghìn năm.”
Đông Chu Công và Tây Chu Công xưa nay vốn không hoà thuận, hai bên thường vì những chuyện vặt vãnh mà hậm hực nhau, mấy năm đầu tuy không bằng lòng nhưng còn bằng mặt, song gần đây đã thể hiện ra mặt. Người này nói đông thì người kia ắt nói tây, cứ gặp nhau là cãi vã. Nhan thái sư hiểu rõ nội tình, sở dĩ khuyên Hiển Vương hỏi ý hai người, cũng là nhìn vào điểm này. Bất luận thế nào, chỉ cần hai vị hoàng thúc cùng có mặt, kiểu gì cũng không thể nhất trí, càng không thể tìm ra kế sách giải quyết. Mà hiện tại, với sự việc nan giải trước mắt, kế sách tốt nhất là không có kế sách, cách xử trí tốt nhất là không xử trí.
Quả nhiên, Đông Chu Công vừa nghe Tây Chu Công phản bác, lập tức nổi giận đùng đùng: “Người Tần vốn là đất nước lang sói, xưa nay không quen giáo hoá của Trung Nguyên. Tần Công càng thô bạo có tiếng, thực thi nền chính trị hà khắc, hoàn toàn trái ngược với đạo trị nước khoan nhân của Đại Chu ta. Nếu Chu thất kết thông gia với người Tần, khác nào kết thân với lang sói?”
Tây Chu Công cười nhạt một tiếng, lớn giọng cãi lại: “Nếu nói tới thô bạo, Tần thất sao bằng Ngụy thất? Ngụy thất vốn là đại phu khác họ, giết vua phạm thượng, nhiễu loạn thiên hạ. Tiên vương phong cho tước hầu, những muốn Ngụy Hầu ăn năn hối cải, nào ngờ Ngụy Hầu đã không hối lỗi, ngược lại ngày càng làm già. Lần trước hẹn chư hầu tới Mạnh Tân triều kiến thiên tử là giả, mưu đồ cướp đoạt thiên hạ mới là thật! Quả nhiên là vậy, chưa tới vài tháng sau, Ngụy Hầu đã lộ nguyên hình, tự xưng làm vương, muốn ngang vai ngang vế với Đại Chu. Loạn thần tặc tử như vậy, ta nên trừng phạt mới phải, sao còn có thể kết thông gia?”
Lời của Tây Chu Công rành rọt sắc sảo, đã đánh trúng chỗ hiểm, Đông Chu Công nhất thời lắp bắp, cứng họng mãi mới nói được vài câu: “Bệ hạ, thiên hạ lễ băng nhạc hoại, lại không phải xuất phát từ Ngụy thất. Từ thời Xuân Thu đến nay, đại chiến vài trăm năm, tiêu diệt vài trăm nước, thiên hạ làm gì còn nghĩa? Làm gì còn lễ? Ngày nay lòng người đều bại hoại, sao chỉ trách một mình Ngụy thất?”
Tây Chu Công đang định phản bác, chợt thấy Chu Hiển Vương đưa hai tay lên, từ từ bịt chặt hai tai. Tây Chu Công vẫn còn biết điều, hằm hằm lừ mắt nhìn Đông Chu Công một cái, không nói gì nữa. Đông Chu Công cũng liếc trả Tây Chu Công, rồi lại quay sang Chu Hiển Vương.
Chu Hiển Vương thấy hai người không tranh luận nữa mới buông hai tay xuống, ngẩng đầu nhìn sang Nhan thái sư, chậm rãi nói: “Hai vị thúc công tranh cãi không thể nhất trí, lão ái khanh có kế lưỡng toàn chăng?”
Nhan thái sư ngẫm nghĩ một lát, chậm rãi nói: “Vi thần vô dụng, hiện chưa thể nghĩ ra kế lưỡng toàn!”
Chu Hiển Vương gật đầu, nhìn qua chư thần một lượt: “Chư vị ái khanh đã tranh cãi không ai chịu ai, chưa thể đưa ra quyết định, việc Tuyết Nhi hãy để sau bàn tiếp. Các vị có tấu gì không?”
Ba vị lão thần đưa mắt nhìn nhau, đồng loạt bái lạy: “Vi thần cáo lui!”
Ba người lui ra tới cửa, Hiển Vương chợt gọi: “Nhan ái khanh, dừng bước!”
Nhan thái sư đứng lại, bước lên khấu đầu mà nói: “Bệ hạ có gì căn dặn?”
Thấy Đông, Tây Chu Công đã đi xa, Chu Hiển Vương chỉ vào vị trí khách phía trước mặt, chậm rãi nói: “Lão ái khanh, ngồi đi!” Đợi Nhan thái sư ngồi xuống, liền cười buồn bã. “Quả nhân biết khanh sớm đã có kế hay, giờ có thể nói được rồi!”
Nhan thái sư cười gượng gạo, lắc đầu nói: “Bệ hạ, lão thần thực sự không có kế nào hay. Tần, Ngụy tới đây, cầu hôn là giả, tranh danh đoạt thế mới là thật. Lão thần cho rằng, Tần cũng thế, mà Ngụy cũng vậy, bên nào cũng là nước lang sói, Đại Chu thiên quốc của ta không thể mất lòng bên nào. Nếu hai nhà này ta đều không thể mất lòng, tại sao bệ hạ không tìm một rể hiền khác?”
Chu Hiển Vương ngẩn người: “Tìm rể hiển?”
Nhan thái sư trịnh trọng gật đầu.
Chu Hiển Vương trầm ngâm suy nghĩ, rồi khẽ lắc đầu: “Hiện tại ngoài Tần, Ngụy, chẳng có công hầu nào tới cầu hôn, quả nhân biết tìm ai đây?”
“Phu nhân nước Yên đã mất ba năm, giờ hẳn tang lễ đã hết, nghe nói Yên Công vẫn chưa lập phu nhân mới. Theo ý lão thần, nếu bệ hạ thấy khó, sao không nhân lúc này gả Tuyết công chúa cho Yên Công.”
Chu Hiển Vương lặng người, nhắm mắt suy nghĩ một lát, rồi ngẩng đầu nhìn Nhan thái sư: “Chuyện này… Yên Công liệu có đồng ý chăng?”
“Yên Công và Chu thất vốn là một họ, huyết mạch tương thông, nếu bệ hạ ban thân, Yên Công chắc chắn sẽ chấp thuận.”
“Không thể!” Chu Hiển Vương quả quyết lắc đầu, “nếu ban thân cho Yên Công, quả nhân biết ứng phó sao với phía Tần, Ngụy?”
“Chuyện này lại không hề khó!” Nhan thái sư dường như đã sớm có kế sách, thong thả đáp. “Danh sĩ thiên hạ Thuần Vu Khôn mới tới Chu, hiện đang ở trong nhà lão thần. Bệ hạ nếu có nhã ý, lão thần sẽ nhờ Thuần Vu Khôn làm người mai mối, tung tin ra ngoài rằng, Thuần Vu Tử cũng tới cầu thân. Còn về sính lễ cầu thân, lão thần sẽ lo liệu. Lão thần cũng sẽ cấp tốc phái người tới gặp Yên Công, nói rõ ngọn nguồn cho Yên Công biết. Yên Công là người thấu hiểu đại nghĩa, ắt sẽ tuân lệnh!”
Chu Hiển Vương lại cúi đầu ngẫm ngợi, một lát sau, từ từ đứng dậy, nặng nề bước về phía bình phong. Khi sắp sửa khuất vào phía sau, Hiển Vương ngoảnh đầu nhìn Nhan thái sư: “Tạm thời cho Thuần Vu Tử tới ở trong dịch quán, đối đãi theo lễ công sứ!”
“Lão thần tuân chỉ!”
Vào giờ Nhân định, dịch quán liệt quốc ở hai bên Thái miếu Lạc Dương lại một lần nữa trở nên huyên náo. Chiêng trống vang trời, pháo nổ rộn rã. Sứ đoàn cầu thân của hai nhà Tần Ngụy nghe thấy vậy, vội vã chạy ra ngoài xem. Một lát sau, dưới ánh đuốc bập bùng, mọi người thấy phía xa xa có quan tiếp đón phía Chu thất dẫn vài cỗ xe ngựa tiến vào công quán bên cạnh, trên cờ hiệu thấy đề mấy chữ “Yên”, “sính”, “Thuần Vu”.
Hơn chục “người Yên” tất bật vận chuyển sính lễ từ trên xe vào trong công quán. Thuần Vu Khôn phe phẩy cây quạt, được hai người hầu đỡ hai bên, chậm rãi bước xuống xe, vênh mặt khệnh khạng đi vào trong dịch quán.
Trần Chẩn, Sư Lý Tật nhìn thấy lại có nhà tới cầu thân, đều ngạc nhiên sửng sốt, đưa mắt nhìn nhau một chốc, không hẹn mà cùng tiến lên vài bước, chặn trước mặt Thuần Vu Khôn.
Trần Chẩn vòng tay hành lễ trước: “Sứ thần đây chẳng phải là Tắc Hạ tiên sinh Thuần Vu Tử sao? Vãn sinh Trần Chẩn xin có lời chào!”
Thuần Vu Khôn thu quạt lại, vòng tay đáp lễ: “Ồ, là Trần Chẩn ư? Lão hủ Thuần Vu Khôn xin chào!” Ánh mắt lại chuyển sang Sư Lý Tật. “Vị này là…”
Sư Lý Tật cũng vòng tay hành lễ, nói: “Sứ Tần Sư Lý Tật bái kiến Thuần Vu Tử!”
“Sư Lý Tật?” Thuần Vu Khôn đáp lễ, gật đầu nói. “Lão hủ nghe nói người Tần có họ Sư Lý, hôm nay mới được gặp! Lão hủ Thuần Vu Khôn có lời chào!”
Sư Lý Tật ngước nhìn cờ hiệu, ra vẻ băn khoăn hỏi: “Nghe nói Thuần Vu Tử đang dạy học ở Tắc Hạ, sao cũng…”
Thuần Vu Khôn bật cười vang, chặn ngang lời Sư Lý Tật: “Ha ha, lão hủ ru rú mãi trong Tắc Hạ, giờ cũng muốn ra ngoài đổi gió ít bữa. Có câu, uống rượu của người, chạy vạy giúp người, lão hủ đã tới nước Yên, uống rượu của lão Yên Công suốt mấy ngày, đành phải thay Yên Công chạy vạy một chuyến. Lần này tới đây, chính là để cầu thân giúp Yên Công.”
Sư Lý Tật ngạc nhiên hỏi: “Cầu thân giúp Yên Công? Cũng là làm thái tử phi?”
“Không phải, không phải!” Thuần Vu Khôn lắc đầu lia lịa, “nếu là để làm thái tử phi, lão Yên Công đâu phải cầu lão hủ ra mặt?”
Trần Chẩn cũng kinh ngạc: “Vậy tiên sinh…”
“Không giấu hai vị, Yên quốc phu nhân qua đời đã ba năm, Yên Công có ý cầu thân với người trong Chu thất. Lão hủ tới đây, chính là muốn tác hợp chuyện này.”
Sư Lý Tật bật cười mà nói: “Yên Công đã ngoài năm mươi, mà hùng tâm vẫn chưa già. Xin hỏi Thuần Vu Tử, người mà Yên Công muốn hỏi cưới là ai vậy?”
“Còn ai nữa?” Thuần Vu Khôn lắc lư chiếc đầu nhẵn thín, “đương nhiên là trưởng công chúa của Chu thiên tử!”
Trần Chẩn, Sư Lý Tật đều trợn mắt kinh ngạc: “Trưởng công chúa! Là Tuyết công chúa ư?”
Thuần Vu Khôn ra bộ nghĩ ngợi một lát, rồi vỗ vỗ trán: “Phải phải phải, lão hủ suýt nữa thì quên mất, chính là cô công chúa này!”
Trần Chẩn, Sư Lý Tật đều bàng hoàng chết sững, đưa mắt nhìn nhau: “Tuyết công chúa? Lão Yên Công?”
Phải một lúc sau, hai người mới trấn tĩnh trở lại, tay chỉ vào Thuần Vu Khôn, phá lên cười nghiêng ngả.
***
Lại nói về Tuỳ Sào Tử, sau khi cùng đệ tử Tống Kiển rời khỏi núi Vân Mộng, đã đi suốt ngày đêm, tầm mười ngày sau thì tới Lạc Dương. Tống Kiển lần đầu đặt chân tới kinh đô thiên tử, trong lòng rất mực hiếu kỳ, mắt nhìn không chớp, cảm thấy nhà cửa, phố sá, con người, sự vật nơi đây hoàn toàn khác biệt với chỗ mình.
Tuỳ Sào Tử dẫn Tống Kiển đi qua vài con phố, khi tới một ngã ba sầm uất ở cạnh vương thành thì dừng bước, tiến vào một quán trà. Tuỳ Sào Tử gọi hai bát nước trắng, rồi lôi từ trong tay nải khoác trên vai ra ba chiếc màn thầu khô, đưa cho Tống Kiển hai cái, còn mình giữ một cái, vừa ăn vừa uống nước.
Trong quán trà đã ngồi sẵn ba vị lái buôn. Nghe khẩu âm, thì biết một là người nước Tề, một là người nước Sở, còn một là người nước Hàn. Ba người vừa uống trà, vừa tán gẫu. Người đang nói là người nước Tề, giọng Lâm Truy đặc sệt: “Hai nhà Tần, Ngụy cùng xin hỏi cưới trưởng công chúa, hai vị thử nói xem, trưởng công chúa chỉ có một, Chu thiên tử sẽ gả con gái cho nhà nào?”
Lái buôn nước Sở nói: “Nghe nói Tần thất hỏi cưới trước, Ngụy thất hỏi cưới sau, thiên tử có lẽ sẽ chiếu theo thứ tự mà nhận lời Tần thất.”
Người nước Hàn lập tức phản bác: “Đúng là suy nghĩ hủ lậu! Thiên tử không ngốc vậy đâu! Hơn nữa, chiều hôm qua, tại hạ tận mắt nhìn thấy hai nhà cùng vào cổng thành, một người vào cổng tây, một người vào cổng bắc, ai trước ai sau, điều này khó nói lắm.”
Người nước Sở nhấp một ngụm trà, khà một tiếng rồi nói: “Theo con mắt tinh đời của nhân huynh, thiên tử nên gả công chúa cho nhà nào?”
Người nước Hàn ho một tiếng, trả lời chắc nịch: “Tại hạ cho rằng, thiên tử hẳn sẽ gả công chúa cho Ngụy thất. Ngụy vương hùng bá thiên hạ, võ binh Đại Ngụy tung hoành tứ phương. Chứ thiên tử buổi sáng gả công chúa cho Tần, buổi chiều lính Đại Ngụy sẽ tiến đánh vương thành mất!”
Người nước Sở lại cười hinh hích mà nói: “Này nhân huynh, mắt anh mù rồi hẳn? Võ binh Đại Ngụy đang ở cả Hà Tây ứng phó với người Tần, dù muốn tới hỏi tội, chỉ sợ roi dài khó với!”
“Than ôi!” Lái buôn nước Tề thở dài một tiếng, “nghĩ cũng phải, thiên tử lâm vào tình cảnh này, quả thực khó xử!”
Người nước Sở cười ha hả mà nói: “Nhân huynh đúng là lo bò trắng răng, lo nghĩ không đâu! Nhân huynh thử nghĩ xem, một khuê nữ nhà nghèo, được hai gã nhà giàu tranh nhau hỏi cưới, Chu thiên tử phen này cười không khép nổi miệng ấy chứ, có gì mà khó xử?”
Người nước Tề lại thở hắt ra: “Ồ, nhân huynh đúng là, nói suông thì thế nào chẳng được! Hãy thử đặt mình vào cảnh đấy thử xem. Thế này nhé, giả sử khuê nữ này là con gái huynh, hôm nay có hai gã nhà giàu tới cầu hôn, một gã là cường đạo chuyên giết người cướp của, trong tay lăm lăm dao sắc; còn gã kia là đạo chích, chuyên rình rập trộm cắp nhà người ta, trong tay lăm lăm thương nhọn, mà huynh chỉ có một cô con gái, biết gả cho kẻ nào đây? Gả cho kẻ này thì kẻ kia không chịu, xin hỏi nhân huynh, liệu huynh có thể cười không khép miệng nổi chăng?”
Lái buôn nước Sở mặt đỏ bừng, miệng há hốc, song không biết phải đối đáp thế nào cho phải, im lặng hồi lâu, cũng lại thở dài: “Than ôi! Này hai vị nhân huynh, không nói tới chuyện này nữa, đổi sang chuyện khác dễ nghe hơn đi, nghe nói…”
Tống Kiển có vẻ rất đói, chỉ vài miếng đã hết veo một chiếc màn thầu, đang uống nước ừng ực, vô tình nhìn sang phía Tuỳ Sào Tử, thấy ông hai mắt sáng rực, đôi lông mày từ từ chau lại, đặt chiếc màn thầu trên tay xuống, nhắm mắt, trầm ngâm suy nghĩ, dường như quên mất mình đang ăn bánh.
Tống Kiển đoán rằng hẳn Tuỳ Sào Tử đang suy tính điều gì đó, lại nghĩ lần này tới Lạc Dương, chắc chắn là có chuyện lớn, liền đặt bát nước xuống, hai mắt nhìn Tuỳ Sào Tử chăm chú, chờ đợi sai bảo.
Quả nhiên Tuỳ Sào Tử đã đặt lại chiếc màn thầu vào trong túi, bê bát nước lên uống một hơi hết sạch, sau đó đưa ống tay áo lên lau miệng, lôi ra một đồng tiền bố(3) đặt lên mặt bàn, đứng dậy nói: “Tống Kiển, đi thôi, ta muốn mua cho con một bộ y phục!”
Hai người vừa bước tới cửa, đã bị tiểu nhị gọi giật lại. Hai người dừng bước, thấy tiểu nhị hấp tấp chạy ra, cầm theo đồng tiền, nói: “Lão trượng, tiền của ông!”
Tống Kiển ngạc nhiên hỏi: “Chúng tôi uống nước, đây là tiền nước!”
Tuỳ Sào Tử cầm lấy đồng tiền, cảm tạ tiểu nhị, quay lại bảo Tống Kiển: “Đã nhìn rõ chưa? Đây chính là đất dưới chân thiên tử!”
Tống Kiển gật đầu, bước theo Tuỳ Sào Tử. Hai người đi tới một tiệm may. Tuỳ Sào Tử chọn lựa một hồi, cuối cùng nhặt lấy một bộ trang phục trông hết sức kỳ khôi, bảo thợ may sửa lại vài chỗ, sau đó đưa cho Tống Kiển bảo mặc thử. Tống Kiển miễn cưỡng mặc vào, đứng trước gương soi qua soi lại, cảm thấy rất đỗi nực cười. Tuỳ Sào Tử nhìn kỹ từ trên xuống dưới, lại bảo thợ may sửa thêm mấy chỗ nữa, rồi trả tiền, sau đó kéo Tống Kiển đi ra phố.
Tống Kiển mặc bộ trang phục kỳ quặc đi trên phố, cảm thấy hết sức khó hiểu, băn khoăn nhìn Tuỳ Sào Tử: “Tiên sinh, việc này…”
Tuỳ Sào Tử lại ngắm nghía một chặp dưới ánh nắng ban ngày rực rỡ, có vẻ rất hài lòng, gật gù nói: “Chà chà, giống người Sái lắm rồi!”
Tống Kiển kinh ngạc: “Người Sái? Nước Sái chẳng phải đã bị nước Sở tiêu diệt từ lâu rồi ư?”
“Nước Sái tuy không còn nữa, song người Sái vẫn còn. Con mặc bộ trang phục này, đã có thể đi bái kiến vương hậu thiên quốc được rồi!”
Tống Kiển càng ngơ ngác: “Vương hậu thiên quốc?”
Tuỳ Sào Tử gật đầu.
“Cự tử muốn đệ tử tới gặp vương hậu, hẳn có chuyện hệ trọng?”
“Để giúp thiên tử vượt qua cửa ải khó khăn này!”
Tống Kiển trợn tròn mắt: “Cửa ải khó khăn? Là cửa ải gì vậy?”
Tuỳ Sào Tử lôi từ trong ống tay áo ra một túi gấm, đưa cho Tống Kiển, mỉm cười nói: “Đừng hỏi nhiều! Con hãy tìm cách vào cung, đưa túi gấm này cho vương hậu!”
Tống Kiển bán tín bán nghi nhận lấy túi gấm, rồi cũng quay người bước về phía vương cung.
Chu thiên tử bước khỏi điện Vạn An, trở về ngự thư phòng, ngồi trầm ngâm suy nghĩ, càng nghĩ càng thấy đau đầu. Đường đường là thiên tử, gặp sự nan giải, lại không biết bàn bạc cùng ai. Hai vị công thúc có cũng như không, chỉ càng gây thêm phiền toái. Ý của Nhan thái sư tuy có thể thực thi, song cũng chỉ là hạ sách. Những điều khác tạm chưa tính đến, chỉ nghĩ tới chuyện gả Tuyết Nhi cho lão Yên Công già lụ khụ, trong lòng Chu thiên tử đã đau xót vô vàn. Suy đi nghĩ lại, Nhan thái sư cũng là vạn bất đắc dĩ. Thiên hạ Đại Chu hôm nay lâm vào tình cảnh này, đã đủ khiến lão thái sư đau đầu lắm rồi.
Đang lúc muộn phiền, Hiển Vương chợt nhớ tới vương hậu, lại ngồi thần ra một lát liền gọi nội tể vào, rồi bước thấp bước cao đi tới cung Tịnh An.
Hay tin thiên tử giá lâm, vương hậu và các cung nữ vội vã dập đầu nghênh đón. Chu Hiển Vương đỡ vương hậu dậy, rồi xua tay về phía nội tể, cung chính và cung nữ. Mọi người lĩnh ý, khấu đầu xong, bèn lui hết ra.
Trong cung chỉ còn lại hai người. Chu Hiển Vương băn khoăn không biết mở lời ra sao, vẻ thê lương hiện rõ trên nét mặt, cứ đi đi lại lại trong phòng. Vương hậu biết Hiển Vương có tâm sự, bèn lên tiếng hỏi: “Bệ hạ tâm tư bất an, phải chăng vì chuyện của Tuyết Nhi?”
Hiển nhiên vương hậu đã biết rõ sự tình. Bước chân của Chu Hiển Vương càng thêm nặng nề, hơi thở cũng có phần khó nhọc.
Vương hậu chậm rãi đứng dậy: “Bệ hạ, dưa chín thì cuống rụng, Tuyết Nhi đã tới tuổi cập kê, cũng nên xuất giá rồi!”
Chu Hiển Vương dừng bước, vẻ mặt giận dữ: “Tuyết Nhi đã có thể xuất giá, song hai nhà Tần, Ngụy phải đâu tới để cầu hôn? Họ… họ…” Hiển Vương càng nói càng giận, tiện tay nắm lấy chiếc bình ngọc đặt trên cửa sổ, hất mạnh xuống nền gạch, choang một tiếng vỡ tan tành.
Bình ngọc này là của hồi môn của vương hậu khi xuất giá năm xưa, cũng là đồ vật mà vương hậu vô cùng yêu quý. Trong cơn giận dữ, Hiển Vương đã biến nó thành một đống mảnh vỡ ngổn ngang. Vương hậu nhất thời cầm lòng không đặng, ruột đau như cắt, nước mắt chực ứa ra. Song vương hậu nén lòng nuốt lệ, chậm rãi bước đến bên cửa sổ, quỳ xuống đất, lặng lẽ đưa tay nhặt từng mảnh vỡ.
Lúc này, Chu Hiển Vương mới trấn tĩnh lại đôi chút, vội vã bước tới sau lưng vương hậu, đưa đôi tay run rẩy ôm lấy bà, giọng đầy bất lực: “Tử đồng(4) nàng nói đi, quả nhân là cái thứ gì? Cái thứ gì?”
Vương hậu cũng từ từ bình tâm trở lại, vừa nhặt những mảnh ngọc vỡ, vừa dịu dàng đáp lại: “Bệ hạ, bệ hạ là thiên tử, là Đại Chu thiên tử!”
Chu Hiển Vương gượng một nét cười thê thảm: “Cái gì mà Đại Chu thiên tử? Đại Chu còn đâu nữa? ‘Thi’ có câu Dưới khắp gầm trời, đâu chẳng đất vua. Men khắp bến bờ, đâu không thần tử(5), nhưng giờ đây, đất của vua ở đâu? Thần tử của vua ở đâu? Quả nhân chẳng qua chỉ là túm dây ngù nơi mũi thương, là chuỗi hạt bột trên chuôi kiếm của chúng mà thôi. Quả nhân… trong lòng quả nhân… thực là uất hận!”
Vương hậu nghe vậy, hết sức đau lòng, nhẹ nhàng thả những mảnh vỡ xuống, đưa bàn tay mềm mại nắm lấy tay Hiển Vương: “Bệ hạ, trong thiên hạ không phải chỉ có hai nhà Ngụy, Tần. Nếu bệ hạ không bằng lòng, có thể gả Tuyết Nhi cho nhà khác!”
Hiển Vương lập tức nhớ đến kế sách của Nhan thái sư, song ông khẽ lắc đầu, nói: “Chọn nhà khác ư? Công hầu trong thiên hạ, nước yếu dám giận mà không dám nói, còn nước mạnh, có nước nào biết đến lễ nghĩa liêm sỉ? Có nước nào tôn kính Chu thất? Chưa nói tới Ngụy, Tần, ngay cả người Sở xưa nay cũng không phục Chu, thời Trang Vương thậm chí còn khởi binh tranh giành vương vị. Triệu, Hàn vốn là đại phu cướp ngôi, cùng chung một giuộc với Ngụy. Còn nước Tề, sau thời Hoàn Công, đã không còn quân tử nữa. Tới khi họ Điền thay họ Khương, người Tề cũng đã chẳng còn biết trên đầu có ai. Lão Yên Công tuy vẫn còn chút chính khí, song đã già rồi, Yên thất yếu ớt lại xa xôi, chẳng thể cứu vãn được tình thế.”
Vương hậu dịu dàng an ủi: “Những việc này đâu phải mới chỉ ngày một ngày hai? Bệ hạ có chí phục hưng, cũng phải trù liệu dần dần.”
Hiển Vương rầu rĩ nói: “Nàng bảo quả nhân phục hưng thế nào đây? Trước đây, quả nhân vẫn còn chút ý chí phục hưng, sau triều hội Mạnh Tân, chút ý chí này cũng đã bay đi theo gió. Tử đồng, quả nhân giờ đây chỉ còn biết giương mắt đứng nhìn cơ nghiệp tổ tiên sụp đổ hoàn toàn mà thôi!”
Hiển Vương càng nói càng đau đớn, nước mắt bất giác chảy dài, rơi lộp độp xuống nền gạch.
Sau một hồi trầm ngâm, vương hậu khẽ thở dài một tiếng, ngẩng đầu lên nói: “Bệ hạ, nếu nhất thời không tìm được nhà nào phù hợp, vậy tại sao không tạm hoãn hôn sự của Tuyết Nhi lại?”
Chu Hiển Vương khẽ lắc đầu: “Nếu có thể hoãn được, cớ sao quả nhân còn phải phiền muộn nhường này? Giờ đây, không phải là việc gả hay không gả, mà là gả cũng không được mà không gả cũng không xong. Gả, thì gả cho nhà nào? Không gả, thì liệu có nhà nào chịu ngồi yên? Quả nhân suy đi tính lại, thấy đường nào cũng nan giải vô cùng. Vừa nãy cho mời hai vị thúc công tới bàn bạc, nhưng hai người mỗi người một ý, cãi nhau om sòm, càng khiến quả nhân phiền lòng. Than ôi, quả nhân một bụng bi ai, đường đường là thiên tử Chu thất, mà chẳng có lấy một ai để giãi bày tâm sự.”
Vương hậu vòng tay ôm lấy Hiển Vương, tựa như vỗ về một đứa trẻ đang tuyệt vọng: “Dưới gầm trời này, không có cửa ải nào không thể vượt qua, bệ hạ đừng nên lo lắng thái quá, làm tổn hại long thể… Còn về chuyện của Tuyết Nhi, xin cho phép thần thiếp suy nghĩ thử xem, biết đâu lại nghĩ được kế vẹn toàn.”
Chu Hiển Vương khép hờ hai mắt, hồi lâu mới ngẩng đầu lên hỏi: “Tuyết Nhi đã biết chuyện này chưa?”
Vương hậu gật đầu nói: “Khắp vương thành không ai không biết, sao có thể giấu được Tuyết Nhi?”
Chu Hiển Vương thở dài mà nói: “Than ôi, Tuyết Nhi không biết được, người trong vương thành cũng không biết được, trong lòng ta chua xót đến nhường nào!” Nói xong, lại thở dài thườn thượt, lắc đầu đứng dậy, lê bước chân nặng nề ra khỏi cửa cung.
Nghe tiếng bước chân của Hiển Vương xa dần, vương hậu vẫn đứng thẫn thờ tại chỗ. Vương hậu lúc này mới lờ mờ nhận ra, chuyện nan giải hiện tại, kỳ thực không phải là có gả Tuyết Nhi hay không.
Bên bờ hồ trước khuê phòng của công chúa, mặt nước trong vắt như gương, hoa sen từng cụm bồng bềnh trên sóng. Một vài bông đã nở xoè, bên cạnh những nụ nhỏ còn e ấp, tô điểm thêm vẻ yêu kiều cho mặt hồ xanh.
Cơ Tuyết trang phục gọn gàng, tư thái linh hoạt, đang múa kiếm bên hồ nước. Múa được một lát, động tác bỗng chậm dần, vẻ như có điều gì tư tự.
Rồi Cơ Tuyết dừng tay, đặt thanh bảo kiếm xuống đất, bước lại bên lan can ven hồ, tựa người vào thành lan can, nhìn đăm đăm vào cái bóng của mình in dưới nước.
Bỗng một hòn sỏi rơi tõm xuống mặt hồ, khuấy động từng vòng sóng nước, khiến cái bóng của Cơ Tuyết cũng rung rinh lay động. Cơ Tuyết ngoảnh đầu lại nhìn, thấy Cơ Vũ đã đứng ở sau lưng tự lúc nào, dựa vào một cây cột, nghiêng nghiêng đầu nhìn sang mà hỏi: “A tỷ, sao chị lại thất thần đến thế, đang suy nghĩ gì ư?”
Cơ Tuyết khẽ thở dài một tiếng, nói: “Nếu kiếp này được làm thân nam nhi, có phải tốt hơn không?”
Cơ Vũ cười khúc khích, nói liến thoắng như pháo rang: “Làm thân nam nhi? Đàn ông con trai thì có gì hay ho? Chị thử xem văn võ bá quan trong triều, có ai không phải đàn ông? Lại xem đám thiếu gia quý tộc ở Thái học, có ai không phải đàn ông? Mà nhìn xa hơn nữa, công hầu liệt quốc, và cả vô số thái tử, thế tử, công tử, có ai không phải đàn ông? Nhưng chị thử đếm xem, trong số những đấng mày râu đó, có mấy kẻ ra hồn? Nếu kẻ nào có được chút tài mọn, thì hống hách kiêu căng, tham lam vô độ; còn nếu bất tài, không phải phường giá áo túi cơm, thì cũng không bằng loài cầm thú!”
Cơ Tuyết ngẩng nhìn Cơ Vũ, lắc đầu mà nói: “Vũ Nhi, em chỉ nhìn thấy chỗ thiển cận mà thôi. Nếu như chị là nam nhi, thì chị đã…”
Cơ Vũ bắt chước giọng điệu của Cơ Tuyết, tiếp lời: “Thì chị đã chấn hưng cơ nghiệp tổ tiên, khôi phục tổ chế Đại Chu, khiến vạn dân trong thiên hạ an cư lạc nghiệp, không còn chinh chiến triền miên!”
Cơ Tuyết bực mình gắt: “Em lại giễu cợt chị ư?”
Cơ Vũ tiến lại gần Cơ Tuyết, nũng nịu dựa vào vai chị: “Vậy chị thử nói em nghe, nếu là nam nhi, chị sẽ làm gì?”
Cơ Tuyết trầm ngâm một lúc, rồi nhìn Cơ Vũ, nói: “Chị là chị, em là em, xét về lý, chị nên hỏi em trước. Vũ Nhi, nếu em là nam nhi, em muốn làm gì?”
Cơ Vũ không chút đắn đo, nói luôn: “Em vốn chẳng bao giờ muốn làm nam nhi!”
Cơ Tuyết ngạc nhiên hỏi: “Vũ Nhi không muốn làm nam nhi ư? Vậy là em thích làm phận nữ?”
Cơ Vũ khẽ lắc đầu.
Cơ Tuyết càng ngạc nhiên: “Vậy em muốn làm gì?”
Cơ Vũ kéo từ trong cổ áo ra con ve sầu bằng ngọc trắng muốt tựa mỡ dê, đưa tay vuốt khẽ rồi nói: “Em ư? Em muốn làm một con ve sầu tự do tự tại, muốn bay thì bay, muốn hót thì hót.”
Cơ Tuyết cười nói: “Nếu ai cũng như em, thiên hạ hẳn càng rối loạn!”
Cơ Vũ nghiêm túc nói: “Nếu ai cũng như Vũ Nhi, thiên hạ sẽ không còn loạn nữa!”
Cơ Tuyết lại cười: “Được rồi, được rồi, chị không tranh luận với em, chị muốn hỏi em một câu thực lòng. Vũ Nhi, theo em, thái tử nước Tần và thái tử nước Ngụy, bên nào tốt hơn?”
Cơ Vũ cười khúc khích mà nói: “Nói đi nói lại, hoá ra không phải chị muốn làm nam nhi, mà là muốn lấy chồng?”
Cơ Tuyết đỏ bừng mặt, lại mắng Cơ Vũ: “Em lại nói bừa đấy chăng?”
Cơ Vũ mím môi tủm tỉm cười: “Được rồi, được rồi. Theo Vũ Nhi, hai vị thái tử mà chị vừa nhắc tới, chẳng có ai ra hồn cả!”
Cơ Tuyết vội vàng giải thích: “Ý chị không phải là nói tới hai người họ!”
Cơ Vũ ngạc nhiên: “Thế chị muốn nói tới điều gì?”
“Chị muốn hỏi em, nước Tần và nước Ngụy, xét về lâu dài, nước nào có lợi hơn cho sự phục hưng của Đại Chu?”
Cơ Vũ sững lại, hồi lâu mới hiểu Cơ Tuyết muốn nói gì, thì khẽ thở dài một tiếng: “Chị ơi là chị, Vũ Nhi xin nói một lời đáng lẽ không nên nói, thiên hạ từ lâu đã không còn Đại Chu nữa! Chị hãy nhìn phụ vương, nhìn vào chư công rầu rĩ bên cạnh phụ vương, rồi hãy nhìn sang chư hầu liệt quốc…”
Sắc mặt Cơ Tuyết bỗng ủ ê rầu rĩ, nước mắt từ từ lăn xuống, vừa như tự nhủ, vừa như nói với Cơ Vũ: “Đại thế của thiên hạ, chị sớm đã nhìn ra. Song chị không cam lòng, chị tin Đại Chu vẫn còn hy vọng! Hy vọng này, dẫu chỉ là một tia mong manh, chị cũng sẵn sàng bám lấy. Vũ Nhi, mấy ngày qua, chị đã suy nghĩ kỹ rồi, nước Ngụy tuy ngoài mặt lớn mạnh, song vì thất đạo nên không ai ủng hộ, ắt không thể bền lâu. Người Tần tuy nói là thô bạo, hung hãn, song sức mạnh tiềm tàng. Nếu chị có thể làm thái tử phi của nước Tần, sẽ có một ngày thái tử lên ngôi, chị ít nhiều cũng nói được vài lời trước Tần Công tương lai, nhiều là chấn hưng Đại Chu, mà ít thì có thể giúp rập phụ vương!”
Cơ Vũ ứa nước mắt, bật thốt lên: “A tỷ!”
Cơ Tuyết khẽ thở dài: “Than ôi, tâm sự này của chị, biết nói với ai đây?”
Cơ Vũ lau vội nước mắt: “A tỷ, chị hãy yên tâm, Vũ Nhi đi nói với mẫu hậu đây!”
Cơ Tuyết ngạc nhiên, còn chưa kịp ngăn lại thì Cơ Vũ đã chạy biến mất. Cơ Vũ chạy thẳng một mạch tới cung Tịnh An, đang định bước vào cửa, thì từ xa đã nhìn thấy một tên quân uý dẫn theo Tống Kiển phục sức kỳ quặc đang hối hả tiến lại.
Cơ Vũ hết sức tò mò, vội nấp vào phía sau một gốc cây, đợi họ gần tới nơi thì nhảy vụt ra chắn ngang phía trước quân uý, chỉ vào Tống Kiển hỏi: “Xin hỏi quân úy, kẻ này là người nước nào?”
Quân uý giật nảy mình, lùi liền hai bước, nhận ra Vũ công chúa, vội vã vòng tay đáp: “Khởi bẩm công chúa, người này từ nước Sái tới, nói rằng có việc gấp, muốn cầu kiến nương nương.”
Cơ Vũ nhìn Tống Kiển một lượt từ trên xuống dưới, gật đầu nói: “Ồ, là trang phục của người Sái ư?” Rồi quay sang quân uý. “Hai người đứng đợi ở đây, để ta vào bẩm báo nương nương!”
Cơ Vũ bước vào trong cung, thấy vương hậu một mình quỳ trước cửa sổ, nhìn chăm chăm vào vật gì trên đất. Còn cung chính và hai cung nữ đều cúi đầu im thin thít, đứng hầu ở phía xa.
Cơ Vũ vội chạy về phía vương hậu, té ra vương hậu đang nhìn đăm đăm vào chiếc bình ngọc đã bị Hiển Vương đập vỡ.
Cơ Tuyết khẽ gọi: “Mẫu hậu!”
Vương hậu đang trầm tư, nhìn thấy Cơ Vũ, bèn chỉ vào nền gạch bên cạnh, nói: “Vũ Nhi, ngồi xuống đi.”
Cơ Vũ khuỵu hai chân xuống, quỳ bên cạnh vương hậu.
Vương hậu chỉ vào bình ngọc, nói: “Vũ Nhi, mẫu hậu hỏi con, có thứ nào hàn gắn được bình ngọc này chăng?”
Cơ Vũ nhìn vào bình ngọc. Những mảnh vỡ đã được vương hậu ghép lại đúng chỗ, song chằng chịt vệt chắp nối, chỉ là tạm thời ghép hờ với nhau, khẽ động vào sẽ lại tan tành thành từng mảnh vụn.
Cơ Vũ hiểu rõ mẫu hậu yêu quý chiếc bình ngọc này nhường nào, bèn hỏi khẽ: “Mẫu hậu… tại sao lại vỡ?”
Vương hậu khẽ thở dài một tiếng, nói: “Tại sao lại vỡ không quan trọng. Vũ Nhi, mẫu hậu hỏi con, có thứ nào hàn gắn được những mảnh vỡ này chăng?”
Cơ Vũ im lặng một lát, rồi khẽ lắc đầu. Nước mắt vương hậu trào ra đẫm mi, hậu chậm chạp đứng dậy.
Cơ Vũ sực hiểu ra, điều mẫu hậu đang ám chỉ không phải là bình ngọc vỡ. Bình ngọc tượng trưng cho vương quyền, chỉ là vật tượng trưng, nỗi đau xót trong lòng vương hậu không phải ở bình ngọc, mà ở bên ngoài bình ngọc.
Cơ Vũ chợt nhớ ra, bèn đứng dậy, thận trọng lên tiếng: “Mẫu hậu, Vũ Nhi… có việc muốn báo!”
Vương hậu dừng bước, ngoảnh đầu nhìn Cơ Vũ.
“Những mảnh vỡ này, có lẽ chị Tuyết Nhi sẽ có cách hàn gắn, mẫu hậu có muốn để chị thử chăng?”
“Thật ư?” Vương hậu suy nghĩ một lát. “Tuyết Nhi có cách gắn lại ư?”
Cơ Vũ khẽ gật đầu: “Vừa rồi, Vũ Nhi nghe chị nói, chị đã tìm được cách hàn gắn lại!”
“Tìm ở đâu?”
“Nước Tần! Chị muốn tới nước Tần, chị nói, nơi đó có lẽ sẽ có thứ keo để hàn gắn bình này!”
Vương hậu lại trầm tư một chốc, rồi ngoái đầu nhìn lại bình ngọc, khẽ thở dài: “Thôi bỏ đi, vỡ thì cũng đã vỡ rồi. Có gắn keo vào, cũng vẫn chỉ là mảnh vỡ mà thôi!”
“Nhưng chị…” Cơ Vũ sốt sắng nói.
“Vũ Nhi!” Vương hậu tỏ vẻ mệt mỏi, “nếu không có chuyện gì, mẫu hậu muốn nghỉ ngơi một lát.”
Cơ Vũ gật đầu, đang định đi ra, đột nhiên sực nhớ tới chuyện ở ngoài cửa khi nãy, vội quay lại bẩm báo: “Mẫu hậu, vừa nãy Vũ Nhi thấy quân uý dẫn một người tới, nói là muốn cầu kiến mẫu hậu!”
“Ồ!” Vương hậu thoáng ngạc nhiên, “là người nước nào vậy?”
“Con nghe nói là tới từ đất Sái, trên người mặc trang phục Sái, hẳn là…” Cơ Vũ nói tới đây thì dừng lại.
Vương hậu ngẫm nghĩ một lát, bảo cung nữ treo rèm hạt bột lên, ngồi ngay ngắn trước bàn, nói với cung chính: “Truyền cho người Sái vào gặp!”
Cung chính bước ra ngoài cửa, gọi lớn: “Nương nương có chỉ, truyền người Sái vào bái kiến!”
Tống Kiển bước vào, khấu đầu bái lạy trước rèm: “Thảo dân khấu kiến thiên quốc nương nương, chúc nương nương thiên tuế, thiên tuế, thiên thiên tuế!”
Vương hậu từ tốn nói: “Nhìn vào phục sức của ngươi, giống như người Sái, song nghe giọng nói lại không phải người Sái! Xin hỏi cao sĩ là người vùng nào?”
Tống Kiển lại bái lạy mà nói: “Nương nương anh minh! Thảo dân quả thực không phải người Sái. Bộ trang phục này là do gia sư may riêng cho thảo dân, nói là ăn mặc như vậy sẽ có thể bái kiến nương nương.”
Vương hậu thoáng ngạc nhiên, hỏi tiếp: “Gia sư phái cao sĩ tới đây là vì chuyện gì?”
“Gia sư muốn thảo dân trình lên nương nương một bức thư, mời nương nương ngự lãm!” Tống Kiển nói xong, lấy từ trong ống tay áo ra túi gấm của Tuỳ Sào Tử. Cung chính bèn nhận lấy, vén rèm bước vào, dâng lên vương hậu.
Vương hậu mở ra xem, vội hỏi: “Gia sư của cao sĩ hiện đang ở đâu?”
“Hôm qua gia sư vẫn ở trong vương thành, hôm nay không biết nơi đâu.”
“Xin hỏi quý tính đại danh của gia sư?”
“Gia sư dặn thảo dân chuyển tấu nương nương, gia sư chỉ là một lão già lang thang nay đây mai đó, nương nương bất tất phải bận tâm.”
Vương hậu trầm ngâm suy nghĩ, rồi khẽ gật đầu, quay sang cung chính: “Thưởng cho cao sĩ năm mươi lượng vàng, mười súc lụa.”
Tống Kiển vội bái tạ: “Thảo dân cảm tạ ân ban thưởng của nương nương! Thảo dân khẩn cầu nương nương thu hồi mệnh lệnh, không được sự đồng ý của gia sư, thảo dân tuyệt không dám nhận. Nương nương vạn an, thảo dân cáo từ!” Nói đoạn, vái liền ba vái, rồi chậm rãi lui ra.
Vương hậu quay sang Cơ Vũ: “Vũ Nhi, mau tiễn chân tiên sinh!”
Cơ Vũ “vâng” một tiếng, chạy ra khỏi cửa đuổi theo.
Nhìn thấy Cơ Vũ đã đi xa, vương hậu lại mở túi gấm Tống Kiển vừa dâng, đọc đi đọc lại mấy câu: “… Muốn qua cửa ải này, có thể uống xích đơn. Ngủ mê mệt nửa tháng, lại uống tiếp thanh huyền. Muốn trừ bệnh tận gốc, tới Quỷ Cốc cầu tiên…”
Vương hậu suy ngẫm một lúc, nhắm mắt lẩm nhẩm một hồi, sau đó đốt bức thư đi, lấy một mảnh da dê nhỏ, cắn rách đầu ngón tay, nặn máu vào nghiên, thảo một bức huyết thư. Thảo xong thư, đọc kỹ một lượt, tìm một chiếc túi gấm, cuộn mảnh da dê lại, nhét vào trong, rồi cẩn thận may kín miệng túi. Xong việc, khẽ gọi: “Người đâu!”
Cung chính bước vào: “Nương nương có gì sai bảo?”
Vương hậu chỉ vào túi gấm trên bàn, nói: “Ngươi mau tới núi Vân Mộng một chuyến, tìm bằng được đến Quỷ Cốc, dâng túi gấm này cho một vị tiên nhân có đôi mày trắng ở trong sơn cốc.”
“Tiên nhân có đôi mày trắng? Xin hỏi tôn danh là gì?”
“Tiên nhân mày trắng ở khe núi Quỷ Cốc, tự xưng là Quỷ Cốc Tử! Đi đi, đi nhanh lên, bất tất phải hỏi nhiều!”
Cung chính cầm lấy túi gấm, nhét vào trong ống tay áo: “Lão nô tuân chỉ!”
Cung chính đi rồi, vương hậu ngồi ủ ê một hồi, sau đó lấy hai viên thuốc trong túi gấm ra, một viên là xích đơn, một viên là thanh huyền. Rồi cầm viên xích đơn lên, lấy nước ấm uống xuống, sau đó cất viên thanh huyền đi.
Uống xong, vương hậu ngồi ngay ngắn trước bàn, khép hai mắt lại. Một lát sau, thuốc ngấm dần, vương hậu hét lớn một tiếng, ngã vật xuống nền nhà. Đám cung nữ nghe thấy tiếng hét, vội vã chạy lại, thấy vương hậu đã sùi bọt mép, hôn mê bất tỉnh, thảy đều kinh hãi kêu rú lên.
Bỗng chốc, hậu cung náo loạn.
Vương hậu đột nhiên mắc bệnh lạ, ngự y trong cung đều không thể chẩn đoán ra bệnh gì.
Chuyện này mau chóng truyền tới dịch quán, phó sứ nước Ngụy tức tốc vào phòng Trần Chẩn, bẩm báo: “Bẩm thượng khanh, Chu vương hậu đột nhiên mắc bệnh, nóng lạnh thất thường, hôn mê bất tỉnh, Chu thất đang dốc sức chữa trị. Nhan thái sư chuyển lời, xét thấy nương nương ngọc thể có bệnh, nên hôn sự của trưởng công chúa phải tạm hoãn!”
Trần Chẩn nghe xong, sắc mặt sầm xuống, suy nghĩ một hồi, dặn dò phó sứ: “Đây là kế hoãn binh của Chu thất! Bệnh không giấu được thầy thuốc, ngươi mau về An Ấp, tấu trình mọi việc lên bệ hạ, thỉnh cầu bệ hạ mau chóng phái ngự y tới thăm bệnh. Đợi rõ trắng đen, xem Chu thất còn gì để nói?”
Phó sứ vội dẫn theo hai người, mau chóng phi ngựa đi.
Nhìn theo bóng phó sứ nước Ngụy xa dần, Sư Lý Tật suy nghĩ một lát, bất giác nhếch mép cười, cũng thì thầm vài lời với phó sứ. Phó sứ gật đầu, mau chóng rời đi. Một lát sau, một kỵ sĩ lao ra khỏi Lạc Dương, thẳng tiến về tây.
Cung chính cầm theo túi gấm của vương hậu, gọi thêm một thái giám đi cùng. Hai người cải trang xong, tức tốc phi ngựa về phía núi Vân Mộng. Chưa tới năm ngày, hai người đã đến cửa Túc Tư, tìm tới Quỷ Cốc, đương nhiên cũng bị tiểu đồng chắn đường.
Hai người nói đến gãy lưỡi mà tiểu đồng vẫn không cho vào. Cung chính sốt ruột, lôi thông quan ngọc điệp của Đại Chu thiên tử từ trong ống tay áo ra, đưa cho tiểu đồng, nhờ dâng lên Quỷ Cốc tiên sinh. Tiểu đồng chưa từng nhìn thấy ngọc điệp, ngắm nghía hồi lâu, vẫn không biết là cái gì. Lại thấy người mới tới tâm trạng bất an, nghĩ là việc gấp, suy nghĩ một lát, bèn cầm ngọc điệp vào động bẩm báo.
Quỷ Cốc Tử nhìn thấy ngọc điệp, lập tức ra khỏi động gặp mặt cung chính. Cung chính nhìn thấy người bước ra có cặp lông mày dài trắng toát, biết là Quỷ Cốc Tử, hành đại lễ xong, trình túi gấm của vương hậu lên, rồi cáo từ ra khỏi động.
Quỷ Cốc Tử quay vào trong động, mở túi gấm ra, đọc qua một lượt, nhắm mắt trầm ngâm suy nghĩ. Một lát sau, lại mở mắt ra, đọc đi đọc lại vài lần bức huyết thư của vương hậu, khẽ thở dài một tiếng, nhét bức thư vào trong ống tay áo, đứng dậy bước ra khỏi cửa động.
Tiểu đồng chạy lên phía trước, nói: “Tiên sinh, hai người vừa rồi nhìn qua đã thấy rất kỳ lạ!”
“Kỳ lạ thế nào?”
“Tuổi thì rõ cao, song lại không thấy một cọng râu. Dáng dấp rõ là đàn ông, mà giọng nói lại ẽo ượt giống hệt đàn bà!”
Quỷ Cốc Tử phì cười: “Đó gọi là cung nhân!”
Tiểu đồng ngạc nhiên: “Cung nhân là thế nào?”
“Cung nhân chính là… là người trong vương cung!”
“Vương cung là thế nào?”
“Vương cung chính là…” Quỷ Cốc Tử ngừng lại một lát, tìm kiếm từ ngữ, “là rất nhiều rất nhiều ngôi nhà cao lớn nối liền với nhau.”
Tiểu đồng trợn tròn mắt: “Lẽ nào còn to hơn sơn cốc của chúng ta ư?”
“Đương nhiên rồi!” Quỷ Cốc Tử cười ha hả, “tiểu tử có muốn xuống núi mở mang tầm mắt không?”
“Xuống núi?” Tiểu đồng chớp chớp mắt, rồi cười toe toét, “nếu tiên sinh muốn xuống núi, tiểu đồng nguyện đưa tiên sinh đi một chuyến.”
Quỷ Cốc Tử lại cười vang: “Tiểu tử miệng lưỡi thực khôn khéo! Trong lòng ngươi nghĩ gì, đừng tưởng lão hủ không biết! Ở lì trong khe núi này đã vài năm, tiểu tử ngươi hẳn cũng đã cuồng chân. Lần này ta cho ngươi đi một chuyến, cho ngươi biết thế nào là trần gian dưới núi, xem ngươi có thấy phiền não hay không.”
Tiểu đồng bước lên, cười khúc khích mà nói: “Tiên sinh, dù tiên sinh có nói thế nào, tiểu đồng cũng sẽ xuống núi cùng tiên sinh. Có phải mang theo thứ gì không?”
Quỷ Cốc Tử dặn: “Trên gác có một cây phướn nhỏ, mấy năm qua không dùng tới, ngươi hãy lấy xuống, vác trên vai mà mang theo!”
Tiểu đồng chạy vào trong động, quả nhiên tìm thấy một cây phướn trên gác, bèn lấy xuống, vác trên vai, khấp khởi chạy ra, nhìn Quỷ Cốc Tử nói to: “Tiên sinh, đi nào!”
Quỷ Cốc Tử chắp tay sau lưng, nói: “Nào, đi!”
Một già một trẻ theo nhau ra khỏi Quỷ Cốc, vài canh giờ sau đã sắp xuống tới chân núi Vân Mộng. Không ngờ hai người vừa ra khỏi khe núi, đã lọt ngay vào tầm mắt của một người đang đứng trên đỉnh núi phía xa.
Chính là Tống Kiển.
Tiểu đồng vác cây phướn xem tướng trên vai đi phía trước, Quỷ Cốc Tử chắp tay sau lưng, thủng thẳng đi theo sau, hai bóng người bước đi chậm rãi vừa hay lọt vào đúng tầm mắt của Tống Kiển. Một lát sau, hai người đã tới ngã ba, tiểu đồng dừng bước, ngoảnh đầu nhìn Quỷ Cốc Tử. Quỷ Cốc Tử chỉ về phía con đường mòn hướng tới Lạc Dương, tiểu đồng bèn cất bước đi về phía tây.
Tống Kiển đã nhìn thấy rõ, vội quay lại, chạy về phía gốc cây, nơi Tuỳ Sào Tử đang ngồi nhắm mắt dưỡng thần, nói: “Bẩm tiên sinh, đúng như dự đoán, Quỷ Cốc tiên sinh đã xuất sơn rồi!”
Tuỳ Sào Tử đứng phắt dậy, hấp tấp leo lên đỉnh núi, đứng trên một tảng đá lớn, nhìn thấy rõ hai bóng người một lớn một bé đang di chuyển trong khe núi tít phía xa, một nụ cười hiếm hoi chợt nở trên khuôn mặt già nua đã phong sương dầu dãi.
Tuỳ Sào Tử vô cùng phấn khởi, song Tống Kiển lại rất đỗi băn khoăn: “Tiên sinh, đệ tử cảm thấy rất nghi hoặc!”
“Nói thử xem!” Tuỳ Sào Tử thu ánh nhìn lại, quay sang Tống Kiển, ôn tồn hỏi.
“Lần trước, tiên sinh đem cả tính mạng ra khẩn cầu mà Quỷ Cốc tiên sinh vẫn không mủi lòng. Lần này, thiên quốc nương nương mới chỉ đưa tới một bức thư mà Quỷ Cốc tiên sinh đã vội vàng xuống núi, đệ tử nghĩ mãi mà không hiểu tại sao.”
Tuỳ Sào Tử mỉm cười nói: “Mỗi chiếc chìa khoá chỉ mở được một ổ khoá mà thôi!”
Tống Kiển vẫn ngơ ngác không hiểu: “Nếu như vậy, Quỷ Cốc tiên sinh xuất sơn, lại không phải vì bách tính trong thiên hạ, mà vì thiên quốc nương nương?”
Tuỳ Sào Tử tựa như đã đoán chắc từ trước, vô cùng phấn chấn, cất giọng sang sảng: “Nương nương là nương nương của bách tính trong thiên hạ, tự nhiên cũng là bách tính trong thiên hạ. Tình cảnh hiện tại của nương nương cũng chính là tình cảnh của bách tính trong thiên hạ. Thiên hạ giống như một mớ bòng bong, nương nương chính là đầu mối của mớ bòng bong đó. Chỉ cần Quỷ Cốc Tử rút lấy đầu mối này, có muốn thoát thân, e rằng cũng khó!”
Tống Kiển hiểu rõ nỗi lao tâm khổ tứ của Tuỳ Sào Tử, không khỏi thán phục, liên tiếp gật đầu. Tuỳ Sào Tử lại ngoảnh đầu nhìn theo hai bóng người một già một trẻ, cho tới khi họ đi khuất hẳn mới quay lại, căn dặn Tống Kiển: “Sự việc đã đến lúc, chúng ta cũng nên đi thôi!”
Tống Kiển do dự một lát: “Vẫn đi Lạc Dương ư?”
“Quỷ Cốc Tử đã lên đường, Lạc Dương không cần chúng ta nữa!” Tuỳ Sào Tử bước lên phía trước, như thể đã trở về hiện thực, trên mặt lại lộ vẻ ưu tư. “Mấy ngày nay không hiểu vì sao, ta thường mơ thấy Bình Dương. Qua cơn thảm sát của người Ngụy, Bình Dương hàng vạn xác chết ngổn ngang, lại gặp đúng mùa nắng dữ, xác chết thối rữa ắt gây chuyện chẳng lành. Ngộ nhỡ hình thành dịch bệnh, người Vệ chẳng phải là đau thương chồng chất đau thương ư?”
Tống Kiển mặt đầy lo lắng, vội vã sải bước theo sau.
Hai thầy trò Quỷ Cốc Tử và tiểu đồng đi đứng thong dong, tới chập tối ngày thứ mười hai thì tới Lạc Dương. Nhìn thấy cổng thành hiện ra trước mặt, Quỷ Cốc Tử dừng bước, khẽ nói: “Tiểu tử, trời tối rồi, chúng ta hãy tìm chỗ nghỉ qua đêm!”
Tiểu đồng đưa mắt nhìn khắp bốn phía, rồi chỉ vào một căn nhà cách đó không xa: “Tiên sinh nhìn xem, đằng kia có nhà dân!” Nói dứt lời, ném ngay cây phướn xuống đất, co cẳng chạy đi, một lát sau quay lại, từ đằng xa vẫy tay rối rít, “tiên sinh mau lên, là một ngôi miếu, có thể dừng chân!”
Quỷ Cốc Tử nhặt cây phướn lên, đi về phía ngôi miếu. Tới trước cửa miếu, Quỷ Cốc Tử ngẩng đầu nhìn, thấy trên khung cửa có viết ba chữ lớn “Miếu Hiên Viên”. Cánh cửa khép hờ. Tiểu đồng gõ cửa, không thấy ai đáp, bèn đẩy cửa ngó đầu nhìn vào, thấy bên trong không một bóng người. Ngôi miếu trông hoang tàn đổ nát, xem ra bị bỏ hoang đã nhiều năm. Quỷ Cốc Tử quan sát kỹ một lượt, rồi nhấc chân bước qua ngưỡng cửa, tiểu đồng theo sát phía sau.
Trong miếu không có điện phụ, chỉ có ba gian chính điện, ở giữa không có tường ngăn, vô cùng trống trải. Hai bên trái phải có hai cột trụ, bên trên gác hai thanh xà lớn. Trong chính điện, sát với tường sau có một pho tượng đất, phía trước bày rất nhiều đồ cúng. Không cần nói cũng biết, chính là tượng Hiên Viên hoàng đế.
Quỷ Cốc Tử dẫn tiểu đồng tới trước tượng Hiên Viên hoàng đế, quỳ xuống lạy ba lạy. Khi quay đầu nhìn lại, tiểu đồng giật mình suýt kêu toáng lên; phía dưới cây cột bên trái, có một người đang ngồi xếp bằng ở đó, đầu cúi thấp. Do trời nhá nhem, lại chưa quan sát kỹ, nên tiểu đồng suýt không nhìn thấy người này. Người này cũng đang bận rộn làm gì đó, không để ý tới hai vị khách không mời mà tới.
Quỷ Cốc Tử nheo mắt nhìn, bên trái, sát với cửa sổ có rải một lớp cỏ khô, bên trên là một manh chiếu lau rách nát, hẳn là người này đã sống ở đây nhiều ngày. Quỷ Cốc Tử nhìn kỹ, thấy hắn tầm hơn hai mươi tuổi, mày rậm, mắt to, ngũ quan đoan chính, thiên đình đầy đặn, khí chính cốt trực, tuy trên mình mặc quần áo vải thô, song không che giấu được tướng quý. Quỷ Cốc Tử mắt bỗng sáng rực, khe khẽ gật gù.
Tiểu đồng nhìn kỹ một lượt, rồi dựng cây phướn phía sau cánh cửa, tìm một cây chổi, đi sang phía cột bên phải, quét sạch khoảnh đất dưới cửa sổ phía đông, nhìn thấy bên ngoài cửa miếu có một đống cỏ, bèn chạy ra ôm về vài bó, trải thành hai chiếc ổ. Quỷ Cốc Tử chậm rãi ngồi xuống lớp cỏ khô, khoanh chân lại, song khoé mắt vẫn liếc nhìn người kia.
Tiểu đồng sau một hồi bận rộn, cuối cùng đã thảnh thơi, lúc này không nén nổi tò mò, rón rén tiến lại gần người kia, ngồi xuống trước mặt hắn. Trời lúc này đã gần như tối hẳn, tiểu đồng giương mắt hết cỡ mới nhìn thấy người kia đang cầm một con dao ngắn, toàn thần chăm chú, đẽo gọt một thanh kiếm gỗ, bên cạnh còn đặt một bao kiếm bằng gỗ và một cái giũa.
Kiếm gỗ vốn là đồ chơi của trẻ nít, nên tiểu đồng trong lòng thích thú, cứ nhìn ngắm mãi, mà người kia vẫn không nói tiếng nào, chỉ chăm chú đẽo gọt. Cuối cùng, không nén được hiếu kỳ, tiểu đồng thò tay ra, với lấy bao kiếm bên cạnh.
Nói thì chậm, làm thì nhanh, người kia lập tức vung tay, thoắt cái đã chộp lấy bao kiếm kéo về, trừng mắt nhìn tiểu đồng. Chợt nhận ra là một đứa trẻ nít, thì nét mặt hơi dịu lại, đặt bao kiếm lên đầu gối, cười với tiều đồng như muốn tạ lỗi, rồi lại tiếp tục đẽo gọt thanh kiếm gỗ.
Phản ứng cực nhanh nhạy của người này khiến tiểu đồng vô cùng kinh ngạc. Thấy hắn cười, tiểu đồng biết hắn không có ác ý, đang muốn hỏi cho ra nhẽ thì ngoài cửa bỗng có tiếng bước chân vọng lại. Một lát sau, lại có người gõ cửa. Tiểu đồng ra mở cửa, nhìn thấy một gã trai hao hao giống với người kia cả về vóc dáng lẫn diện mạo. Gã trai nhìn thấy tiểu đồng, khựng lại một thoáng, nhưng rồi hỏi ngay: “Anh hai của ta đâu?”
Tiểu đồng ngạc nhiên: “Anh hai nào?”
“Có người nói, anh ấy sống ở đây, vậy người đâu rồi?”
Tiểu đồng thấy hắn nói tới tìm người, bèn chỉ vào trong điện: “Bên trong có một người, không biết có phải không.”
Gã trai sải bước tiến vào trong điện, rồi mừng rỡ reo lên: “Anh hai, em tìm anh khắp kinh thành suốt hai hôm nay, chập tối mới nghe nói anh sống ở trong miếu này!”
Người kia không trả lời, cũng chẳng buồn ngẩng đầu, vẫn chăm chú đẽo kiếm gỗ.
“Anh hai, cha gọi anh về nhà ngay! Cha nói, mấy hôm nay lúa lớn nhanh như thổi, cỏ mọc đầy ruộng, bận tối mắt tối mũi, bắt em đi tìm anh về bằng được.”
Người kia vẫn ngồi đẽo kiếm gỗ.
“Trời sắp tối rồi, chúng ta mau về thôi, phải đi hơn hai mươi dặm đấy!”
Người kia vẫn ngồi đẽo kiếm gỗ.
Gã trai tỏ vẻ sốt ruột, ra sức khuyên nhủ: “Anh hai, anh hãy từ bỏ ý nghĩ đó đi! Cha nói rồi, phú quý là tốt, song phú quý không thuộc về hạng người làm ruộng như chúng ta! Người làm ruộng như chúng ta là gì? Là bách tính lầm than, sinh ra đã chịu phận bán mặt cho đất bán lưng cho trời, sao có thể sánh với người phú quý? Cha còn nói, người phú quý từ nhỏ đã học lục nghệ, đọc thi thư, rèn lễ nghĩa. Còn chúng ta thì sao? Từ cha sinh mẹ đẻ, chỉ biết cày ruộng mà thôi!”
Thấy gã trai mới tới một điều cha, hai điều cha, người kia khó chịu ra mặt, lừ mắt nhìn gã trai. Rồi thình lình đứng bật dậy, thu dọn dao, giũa, còn cẩn thận nhét thanh kiếm gỗ vào trong bao kiếm, sải bước ra ngoài cửa.
Gã trai đứng sững một lát, cũng vội vã lao ra khỏi điện, đuổi theo.
Tiểu đồng chạy ra cửa, nhìn thấy hai người một trước một sau đã đi xa, thì quay trở vào trong, cười nói với Quỷ Cốc Tử: “Tiên sinh, quả nhiên dưới núi có lắm người quái lạ! Người kia lớn như vậy rồi mà còn chơi kiếm gỗ. Người em tới tìm, nói thao thao bất tuyệt, mà anh ta không đáp lại lấy một tiếng.”
Quỷ Cốc Tử cười cười, chỉ vào manh chiếu lau của người đó, nói: “Chiếu kia của ngươi, mau ngủ đi!”
***
Ở ngoại ô phía nam thành Lạc Dương, trên cánh đồng, nắng như thiêu đốt, bầu trời không một gợn mây. Giờ đang tháng sáu, lúa mới đâm đã xanh tốt bời bời, che khuất cả gốc rạ lúa mạch.
Trên thửa ruộng, một hàng bốn lưỡi cuốc dài đang tất bật lên xuống. Đứng ở mé trái hàng người là một hán tử tráng kiện tầm năm mươi tuổi, tên gọi Tô Hổ, tiếp đến, lần lượt là ba người con trai của ông ta. Người Chu khi làm việc cũng phân thứ tự lớn nhỏ, hán tử ngay sát Tô Hổ chưa tới ba mươi, là con trai cả của Tô Hổ, tên gọi Tô Lệ. Gã trai kỳ quặc đẽo kiếm gỗ trong miếu thổ địa đứng ở vị trí thứ ba, tên gọi Tô Tần. Còn gã trai đi tìm anh xếp ở cuối hàng, tên là Tô Đại, xem ra vẫn còn trẻ nít, chưa đến tuổi đội mũ.
Hôm nay ông trời thực tàn nhẫn quá lắm, mặt trời mỗi lúc một chói chang, không có lấy một mảy gió. Bốn cha con mồ hôi như tắm, song tám cánh tay vẫn thoăn thoắt lên xuống, hết sức khoẻ khoắn.
Trên người Tô Tần vẫn đeo cây kiếm gỗ, không biết đang nghĩ ngợi gì, thần sắc mỗi lúc một ngẩn ngơ. Bàn tay vừa hạ cuốc, nguyên một đám mạ non lập tức đổ gục, mà bản thân lại không hề hay biết.
Tô Hổ nghe thấy âm thanh khác lạ, liếc mắt nhìn sang, sắc mặt bỗng tối sầm, vội chạy thẳng tới phía sau lưng Tô Tần, cầm nắm mạ lên, vẻ đau xót vô cùng, quay phắt sang nhìn hắn trừng trừng. Tô Tần vẫn không hề phát giác, lại thêm một cuốc, vài khóm mạ non tiếp tục đổ gục.
Tô Hổ càng nhìn càng xót, quay đầu lại trông, thì trong bốn hàng Tô Tần vừa phạt cỏ, cứ cách một quãng lại có dăm cây mạ non gãy gục, trong khi hàng đám cỏ dại vẫn mọc dài trên ruộng. Tô Hổ càng thêm tức giận, cúi xuống quơ lấy vài cây mạ gãy, sầm sầm bước tới trước mặt Tô Tần, vứt toẹt xuống trước lưỡi cuốc của hắn, nghiêm giọng quát: “Tô Tần! Hồn phách bay hết vào nhà xí rồi ư? Ngươi hãy mở mắt ra xem, cỏ thì không phạt, phạt hết cả mạ là sao?”
Tô Tần giật nảy người, nhìn vào những thân mạ gãy, vội vàng đưa ống tay áo lên lau mồ hôi trên trán, vẻ mặt vừa hoảng hốt vừa ân hận. Tô Hổ không nói gì thêm, trừng mắt một cái, rồi quay ngoắt người bước đi, nhổ phì phì liền hai bãi nước bọt lên cán cuốc, tiếp tục cắm cúi cuốc đất.
Tô Tần lúc này mới định thần, chuyên chú vào việc làm cỏ.
Vừa cuốc được vài nhát, trên đường cái quan cách đó khoảng hai dặm đột nhiên cát bụi tung mù. Tô Tần ngẩng đầu nhìn về phía đó, thấy một cỗ xe ngựa đang phi lại. Phía sau xe, còn có hơn chục kỵ sĩ hộ vệ. Nhìn cảnh tượng này, có thể đoán ra, người ngồi trong xe hẳn có địa vị cao sang, chí ít cũng trên bậc đại phu.
Cổ họng Tô Tần bỗng trồi thụt lên xuống vài cái, hai mắt nhìn như hút vào cỗ xe ngựa lẫn trong cát bụi mù mịt.
Tô Đại thấy vậy, lập tức dừng cuốc, chỉ vào cỗ xe, nói với Tô Tần: “Anh hai, anh hiểu nhiều biết rộng, em hỏi anh người trên xe kia là đại phu hay là thượng khanh?”
Tô Tần như thể không nghe thấy, vẫn nhìn không chớp mắt vào con đường phía trước.
Tô Đại tặc lưỡi hai cái, định hỏi thêm nữa, song liếc thấy Tô Hổ đang sầm mặt nhìn lại, thì vội vàng cắm cúi tiếp tục làm việc. Song Tô Tần vẫn chưa hết ngẩn ngơ, tay vẫn nắm chặt cán cuốc, nhưng hai mắt thẫn thờ nhìn về cuối con đường.
Tô Hổ mặt đỏ phừng phừng, mắt nhìn xoáy vào Tô Tần, mấy lần muốn lên tiếng mắng chửi, song lại cố gắng nín nhịn.
Cỗ xe ngựa dần xa khuất, cát bụi cũng tan đi. Tô Tần mặt mày ủ dột, khẽ thở dài một tiếng, lúc này mới nhận ra mình đang nắm chặt cán cuốc trong tay, lại vội vã cắm cúi cuốc cỏ.
Cuốc vừa bổ xuống, lại thấy một đoàn người ngựa rầm rập đi tới từ hướng ngược lại, dẫn đầu là hai cỗ xe tứ mã, phía sau có rất nhiều kỵ sĩ bảo vệ, tiền hô hậu ủng. Từ xa đã nghe thấy tiếng móng ngựa lóc cóc, tiếng bánh xe lộc cộc, cát bụi mù trời, cảnh tượng vô cùng uy vũ.
Trong lòng Tô Tần cũng nhanh chóng hưng phấn theo, hai mắt nhìn không chớp về con đường cái quan, ngón tay phải nhịp lên nhịp xuống liên hồi, nhẩm đếm số kỵ sĩ tuỳ tùng. Mồ hôi ròng ròng từ trên trán chảy xuống, giọt cả vào trong mắt mà cũng chẳng buồn lau.
Mặt Tô Hổ đã tím bầm, hơi thở dồn dập. Tô Đại và Tô Lệ đưa mắt nhìn nhau, hoàng hốt lo sợ, biết rằng trận lôi đình sắp nổ. Duy có Tô Tần không hề hay biết, vẫn chìm đắm trong sự huyên náo trên con đường cái quan.
Tô Hổ sau một hồi nín nhịn, thình lình quát lên như sấm: “Nhìn nhìn nhìn, nhìn gì mà lắm thế? Chỉ là mấy ông quan lớn thôi mà! Nhìn từ nhỏ tới lớn, vẫn chưa chán mắt ư?”
Tô Tần giật bắn mình, lúc này mới nhận ra cha đang giận dữ, vội vã cúi đầu xuống tiếp tục cuốc.
Tô Hổ lại nhổ một bãi nước bọt vào lòng bàn tay, bổ xuống một nhát cuốc thực mạnh, lẩm bẩm một mình, song cũng đủ cho Tô Tần nghe thấy: “Hừm, sinh ra là nông dân, không chịu trồng trọt cấy cày, tối ngày chỉ dán mắt vào ngựa xe sang trọng của quý tộc phú gia, có ấm bụng được không?”
Bốn cha con cuốc cỏ tới tận sẩm tối, Tô Hổ sợ nếu làm nữa sẽ cuốc nhầm vào mạ non, nên mới bảo các con dừng tay ra về.
Tô gia sống ở thôn Hiên Lý tại bờ đông Y Thuỷ, đây là một thôn làng hạng trung có gần trăm hộ sinh sống. Thôn Hiên Lý vốn rất gần vương thành, song ngăn cách bởi Y Thuỷ, lại cách thêm Lạc Thuỷ, nên muốn tới vương thành, phải đi vòng tới bến đò, tính ra cũng đến hơn hai mươi dặm.
Đại viện của Tô gia ở chính giữa thôn Hiên Lý, từ đây đi ra ngoài thôn từ phía nào, khoảng cách cũng gần như nhau. Bốn người Tô Hổ vừa đặt cuốc xuống, Tô Đại đã kéo Tô Tần xuống sông Y Thuỷ tắm gội.
Tô Hổ rửa mặt xong, vừa ngồi xuống dưới gốc cây thường xuân trong viện được một lát, đã đứng bật dậy, bước vào gian chính, dọn dẹp hết các đồ vật tạp nham trên mặt bàn, sau đó xách một thùng nước lại, lấy giẻ lau chùi sạch sẽ mặt bàn. Thu dọn gian nhà chính xong xuôi, lại mang một chiếc ghế đẩu tới đặt ở giữa phòng, đứng lên ghế, với từ trên gác mái xuống một vật được bọc kín trong tấm lụa, cẩn thận gỡ ra, bên trong là một bức hoành phi đề bốn chữ đồng “Thiên đạo thù cần”(6).
Tô Hổ cẩn thận mang bức hoành phi treo lên tường nhà chính, còn lùi lại ngắm nghía chỉnh sửa cho ngay ngắn một hồi, mới gật gù hài lòng. Tiếp đó, lấy từ trong hộc bàn ra một loạt bài vị của liệt tổ liệt tông, sắp xếp đúng theo thứ tự.
Tô Hổ đang bày biện thì vợ là Tô Diêu thị bước vào trong cửa, nhìn thấy vậy thì kinh ngạc kêu lên: “Này ông, hôm nay có phải tết nhất gì đâu, sao lại bày biện như vậy?”
Tô Hổ lừ mắt nhìn vợ, gập ngón giữa lại, gõ cồng cộc xuống mặt bàn mà nói: “Là vì thằng con thứ có lớn mà không có khôn của bà đấy! Tôi đã nhìn thấu tâm tư của nó, nó chẳng hề để tâm gì tới cấy hái trồng trọt!”
Tô Diêu thị cảm thấy có chuyện bất thường, kinh ngạc hỏi: “Này ông nó, ông định làm gì thế?”
Tô Hổ thở phì phì mà nói: “Còn làm gì nữa? Chẳng lẽ lại ăn thịt nó ư? Mấy năm qua đã thử hết cách rồi, vậy mà nó có chịu tỉnh ngộ đâu, người lúc nào cũng ngơ ngơ ngẩn ngẩn. Hôm nay muốn nó quỳ trước bài vị liệt tổ liệt tông, thề độc một tiếng trước bức hoành phi mà thiên tử ban tặng!”
Tô Diêu thị thấy không phải là đánh đập gì, thì yên tâm hẳn, chỉ lẩm bẩm trong miệng: “Đều là cốt nhục nhà ta, thề độc cái gì?”
“Không bắt nó thề độc, nó sẽ không yên phận sống ở nhà này, cũng sẽ không yên phận với công việc đồng áng!”
Tô Diêu thị tán thành: “Được rồi, được rồi, chỉ cần lời thề độc hiệu nghiệm, chúng ta sẽ cảm tạ trời đất!”
Tô Hổ thấy mọi việc đã chuẩn bị hòm hòm, bèn bảo Tô Diêu thị: “Bà đi gọi thằng hai lại đây. À, nhớ bảo thằng cả, thằng ba tới luôn một thể.”
Đúng lúc này, Tô Đại tắm xong trở về, miệng hát nghêu ngao bước vào trong sân. Tô Diêu thị nghe thấy, vội vã bước ra, hỏi khẽ: “Đại Nhi, anh hai con đâu?”
Lúc này Tô Đại mới nhớ ra, khi hai anh em tắm xong, Tô Tần cứ đứng thẫn thờ ở bãi đập lúa phía bắc thôn không chịu về. Nhìn vào gian nhà chính, thấy đèn thắp sáng trưng, bài vị bày la liệt, biết là có chuyện, lập tức lắc đầu nói: “Con tắm xong, quay người lại đã không thấy anh hai đâu nữa!”
Tô Diêu thị kéo Tô Đại lại, thì thầm vào tai cậu ta mấy câu, dặn mau chóng đi gọi Tô Tần về.
Mặt trời đã xuống núi, Tô Tần ngồi xếp bằng trên bãi đập lúa, vẫn chuyên chú đẽo gọt thanh kiếm gỗ. Đẽo gọt một hồi, lại lấy giũa ra mài, sau đó cầm kiếm trên tay, ngắm nghía một lượt, nhét vào bao kiếm, rút ra rút vào mấy lượt, thấy chưa được trơn tru cho lắm, lại lôi ra cắm cúi mài giũa.
Đang chăm chú mài giũa thì Tô Đại bước lại, đứng ở bên cạnh nhìn một lúc rồi nói khẽ: “Anh hai, cha gọi anh về!”
Tô Tần không đếm xỉa tới Tô Đại, vẫn cắm cúi với công việc của mình.
“Cha bái tế tổ tiên ở nhà chính, hình như đang muốn giáo huấn anh! Mẹ dặn em bảo anh hãy nhớ nhận sai, cha nói gì thì cứ nghe thế!”
Tô Tần vẫn mải miết mài giũa, chẳng nói câu nào.
Tô Đại do dự một lúc: “Anh hai, hay là anh trốn đi đâu một thời gian?”
Nghe thấy câu này, Tô Tần giật mình kinh ngạc, rồi cất ngay cây giũa đi, vội vã đứng dậy, đút kiếm gỗ vào trong bao, khoác ngược trên vai.
Thấy Tô Tần đeo kiếm ngược, Tô Đại mấy lần định nhắc, song chẳng hiểu sao cứ thấy nghẹn lời, mãi sau mới nói khẽ: “Anh hai, anh đeo kiếm ngược rồi. Em thấy người ta đeo kiếm đều hướng chuôi lên trên.”
Tô Tần mỉm cười, quay người vái cậu em một vái thật sâu, vẫn đeo ngược kiếm trên lưng, quay người sải bước về phía bến đò. Tô Đại ngẩn ra một lát rồi vội vã đuổi theo, gọi với theo Tô Tần: “Anh hai, nếu em muốn tìm anh, biết tìm ở đâu?”
Tô Tần dừng bước, ngoái nhìn, lại vái một vái nữa, rồi quay người bước đi luôn.
Tô Đại gãi đầu, nhìn theo bóng Tô Tần xa dần, tới khi chìm hẳn vào bóng tối, mới thở dài một tiếng, đi về nhà. Tới trước gian nhà chính, Tô Đại nhìn thấy bài vị của liệt tổ liệt tông sắp xếp ngay ngắn, đồ cúng bày biện tinh tươm, hương cũng đã thắp, Tô Lệ đang quỳ phía dưới. Tô Hổ đứng nơi ngưỡng cửa, hai mắt nhìn chằm chằm ra ngoài, thấy Tô Đại về, bèn lớn giọng hỏi ngay: “Thằng kia đâu?”
Tô Đại cúi đầu đáp: “Con tìm khắp nơi, nhưng không thấy bóng dáng đâu cả!”
Tô Hổ mắt long sòng sọc, quát lớn: “Vùng đất này bé bằng mắt muỗi, nó có chạy đằng trời!” Rồi quay sang Tô Lệ, “Lệ Nhi, mau đi tìm nó về đây cho cha!”
Tô Lệ vội đứng dậy, cùng Tô Đại đi ra khỏi cửa. Hai người tìm khắp một lượt trong thôn, cũng chẳng thấy bóng dáng Tô Tần đâu. Hai người trở về nhà, báo lại với cha. Tô Hổ uất hận không nói nên lời, toàn thân run lên bần bật, giậm chân vài cái, đành phải cất dọn bài vị tổ tiên đi.
Sáng sớm hôm sau, Tô Hổ dậy đi làm đồng, vẫn không thấy Tô Tần đâu, thì hằm hằm hỏi Tô Đại: “Suốt đêm qua nó không về ư?”
Tô Đại lắc đầu nói: “Vâng. Anh hai có lẽ sợ bị mắng, trốn đi đâu ngủ rồi. Hay là chúng ta cứ ra ruộng trước, lát nữa anh hai về, chắc sẽ ra luôn thôi!”
Tô Hổ tức giận song cũng chẳng biết trút vào đâu, quay sang Tô Diêu thị dặn dò: “Đợi lát nữa thằng hai về, bảo nó vẫn ra thửa ruộng phía đông. Hôm nay phải nhanh tay một chút, may ra đến tối mới xong được.”
Tô Diêu thị đáp: “Bố nó yên tâm! Đợi thằng hai về, tôi sẽ bảo nó ra đồng ngay.”
Trên ruộng, ba người Tô Hổ đã cuốc một hồi lâu mà vẫn không thấy Tô Tần. Tô Hổ vô cùng giận dữ, thở phì phì mà nói: “Cả đêm qua trốn lão già này không về nhà, tới giờ vẫn chưa thấy ló mặt, rõ ràng muốn thách thức lão già này đây!”
Tô Đại cắm cuốc xuống, an ủi cha: “Cha ơi, anh hai có hoài bão lớn, thực sự không thích công việc đồng áng, theo con, hay là cứ kệ anh đi. Còn thửa ruộng này, cứ để con và anh cả mỗi người làm cố thêm một lúc, có được không?”
Tô Hổ mặt đằng đằng sát khí, mắt trợn trừng: “Được cái con khỉ!”
Tô Đại vội vàng cúi đầu cuốc cỏ, không dám ho he thêm nửa lời.
Tô Hổ trầm ngâm một lúc, rồi ngẩng lên hỏi: “Thằng oắt kia hẳn là lại tới vương thành rồi! Đại Nhi, mấy hôm trước con có tới vương thành phải không? Cha hỏi, mấy hôm nay trong vương thành có chuyện gì náo nhiệt không?”
Tô Đại suy nghĩ một lát, cười hì hì mà nói: “Quả là có chuyện náo nhiệt đấy. Mấy hôm trước khi ở trong thành, con thấy mọi người đều bàn tán xôn xao chuyện cầu thân công chúa.”
Mấy hôm nay, Tô Hổ chỉ chú tâm tới việc đồng áng, ngoài chuyện này ra, ông chẳng bận tâm tới điều gì khác. Nghe Tô Đại nói vậy, bèn vội vàng hỏi: “Là nhà nào muốn hỏi cưới công chúa?”
“Là Tần Công và Ngụy Hầu. Nghe nói cả hai nhà đều phái sứ thần tới hỏi cưới trưởng công chúa của thiên tử về làm thái tử phi, trong vương thành khắp nơi đều bàn tán xôn xao, đến cả đứa trẻ lên ba cũng biết.”
Tô Hổ lại trầm ngâm suy nghĩ, rồi lẩm bẩm: “Thảo nào thằng oắt kia thất thần như vậy!” Lời nói vừa dứt, trong lòng đột nhiên chùng xuống, tự nhủ thầm, “phải chăng nó đã đến tuổi biết tư tình?”
Tô Hổ suy tư khá lâu, cảm thấy nỗi bực bội như vơi đi phần nào. Nếu đúng như vậy thì hay quá. Có vợ quản, nó sẽ chí thú làm ăn hơn.
Nghĩ tới đây, trong đầu Tô Hổ lập tức loé lên một ý, bèn cắm cuốc xuống ruộng, nói: “Hai con làm tiếp đi, cha phải về nhà một lát!”
Tô Hổ cấp tập bước vào trong sân. Tô Diêu thị vẫn đang đứng đợi ở cửa, nhìn thấy chồng thì vội vàng nói: “Ông nó đấy ư? Tôi vẫn đang đợi đây, có lẽ Tần Nhi cũng sắp về rồi!”
Tô Hổ hổn hển nói: “Không phải đợi nữa. Bà vào chuồng gà vịt, bắt lấy một con gà và một con vịt ra đây!”
Tô Diêu thị ngạc nhiên: “Ông nó làm sao thế? Gà, vịt đều đang đẻ trứng mà!”
Tô Hổ trừng mắt nhìn vợ: “Bảo bà đi thì bà cứ đi, càm ràm cái gì?”
Tô Diêu thị không dám làm trái ý chồng, bèn làu bàu đi ra sân sau, một lát sau đã quay trở lại, một tay xách một con gà, tay kia xách một con vịt, mặt xị xuống tỏ vẻ không vui.
Tô Hổ tìm hai sợi dây, trói chặt chân gà và chân vịt lại, mỗi tay xách một con, đi ra khỏi cổng, loáng cái đã tới trước cánh cổng gỗ nhà bà mối Ma Cô đầu thôn phía tây.
Tô Hổ đứng ngoài cổng, gọi oang oang: “Bà chị ơi, có nhà không?”
Ma Cô nghe tiếng, mặc nguyên tạp dề từ trong bếp chui ra, nhìn thấy Tô Hổ, lập tức mồm miệng liến thoắng: “Sáng sớm nay thấy chim khách kêu ríu rít, nghĩ bụng làm gì có khách nào nhỉ? Thật không ngờ là ông anh đây tới nhà! Mau vào đi!”
Tô Hổ đẩy cửa, bước vào trong sân, đặt gà, vịt xuống đất. Ma Cô liếc mắt nhìn đôi gà vịt, đã hiểu ngay chuyện gì, song vẫn vờ hỏi: “Ông anh này, đang vào mùa bận rộn, ông anh không lo ra đồng làm việc, còn mang mấy thứ này tới chỗ tôi, không biết là có chuyện gì?”
Tô Hổ cười khà khà: “Còn chuyện gì nữa? Biếu bà chị tẩm bổ thôi!”
Ma Cô lập tức hỏi thẳng thừng: “Ông anh ơi, nói thẳng ra đi, là cậu nào?”
“Nhờ cả vào bà chị đấy! Thằng lớn đã lấy vợ rồi, giờ tới thằng hai!”
Ma Cô vừa nghe, vội đứng ngay dậy, xua tay rối rít mà nói: “Ông anh ơi, cặp gà vịt này tôi thực sự không dám nhận đâu, ông anh cứ mang về tự tẩm bổ cho mình đi!”
Tô Hổ ngạc nhiên: “Sao bà chị lại nói thế?”
“Còn sao trăng cái gì?” Ma Cô lập tức tuôn ra một tràng, “nếu là hỏi cưới giúp cậu ba nhà ông anh, tôi một câu cũng không dám chối, nhưng lại là cậu hai. Nói thực, cậu hai nhà ông anh, cả ngày cạy răng không nói một tiếng, đi đường cũng chẳng nhìn ai, từ sáng tới tối tâm trí cứ lơ lửng ngọn cây. Không giấu ông anh, tiếng tăm của cậu hai nhà ông anh đã lưu truyền mười dặm tám thôn, chẳng có cô gái nào chịu lấy đâu! Việc của ông anh lần này, dù tôi có nhận lời giúp, e rằng cũng chẳng nên cơm cháo gì!”
Tô Hổ móc từ trong túi ra vài đồng, dúi vào tay Ma Cô: “Khuê nữ chịu lấy hay không, đều nhờ vào miệng lưỡi ngọc ngà của bà chị cả. Chuyện này, tôi cũng chẳng biết nói sao, đành trông cậy cả vào bà chị!”
Ma Cô nhận tiền, khẽ thở dài một tiếng rồi nói: “Cái tính tôi đây, ngoài miệng nói cứng song lại dễ mủi lòng. Thôi được, hôm nay tôi sẽ nhận giúp ông anh chuyện này!”
Tô Hổ cúi gập người mà vái: “Nhờ cả vào bà chị!”
***
Buổi trưa hôm nay, tiểu đồng vác cây phướn trên vai đi trên phố lớn của vương thành, hai mắt tròn xoe nhìn ngang ngó dọc, ngắm nghía không chán mắt các hàng quán chạy dọc hai bên đường, một lúc lâu sau, bèn kinh ngạc nói với Quỷ Cốc Tử: “Tiên sinh, nhìn kia, chúng ta đã tới vương cung rồi!
Quỷ Cốc Tử nhìn quanh: “Đâu, vương cung ở đâu?”
Tiểu đồng chỉ vào những dãy hàng quán bên đường, hỏi: “Đây không phải là vương cung ư?”
Quỷ Cốc Tử vuốt râu cười vang: “Ha ha, đây mà là vương cung sao?”
Tiểu đồng ngạc nhiên hỏi: “Tiên sinh nhìn đi, những ngôi nhà kia cao to đẹp đẽ, dãy này tiếp dãy kia, còn dài hơn cả sơn động ở Quỷ Cốc của chúng ta, không phải là vương cung thì là cái gì?”
Quỷ Cốc Tử phá lên cười mà nói: “Tiểu tử thật là…”
Tiểu đồng đang định hỏi thêm, bỗng đứng khựng lại. Có một cỗ xe bò đỗ phía trước một cửa hàng gạo, tiểu đồng vừa nhìn thấy gã trai quái lạ từng gặp trong miếu Hiên Viên hai hôm trước đang dỡ gạo xuống khỏi xe cùng với một người khác. Chỉ thấy hắn cõng một bao to tướng trên lưng, sải bước vào trong hàng gạo, một lát sau lại thấy đi ra, tiếp tục vác một bao khác vào bên trong. Tiểu đồng bèn đưa tay chỉ vào Tô Tần, nói khẽ: “Tiên sinh, hãy nhìn con người kỳ quặc kia, anh ta ở đây!”
Quỷ Cốc Tử cũng đã nhận ra, nhìn Tô Tần một lúc, gật gật đầu, quay sang tiểu đồng: “Kỳ là không kỳ, không kỳ là kỳ. Tiểu tử mờ mắt rồi chăng?”
Nghe Quỷ Cốc Tử nói vậy, tiểu đồng càng thấy ngạc nhiên hơn. Tiểu đồng ngẫm nghĩ một lát, lẳng lặng đi sang lề đường, đứng tựa lưng vào một cây du, hai mắt dán chặt vào cửa hàng gạo, nhìn Tô Tần chăm chú, có vẻ rất tò mò với con người này.
Một lát sau, gạo đã được dỡ hết khỏi xe, gã trai kỳ quặc kia, cũng chính là Tô Tần, phủi hai tay, xách chiếc thùng, thoăn thoắt tới bên giếng, múc nước rửa mặt rửa tay, sau đó với lấy quần áo vắt trên bờ tường, mặc vào người, vòng ra trước quầy hàng. Nhìn thấy Tô Tần, ông chủ hàng gạo móc ra một đồng tiền bố, đặt lên trên mặt quầy, gật đầu với hắn. Tô Tần cười hồn hậu, cầm lấy đồng tiền, nhét vào ống tay áo, lại cầm lấy cây kiếm gỗ gác bên cạnh, vòng tay chào ông chủ, rồi chậm rãi bước ra phố.
Một cơn gió mát thổi tới, Tô Tần cảm thấy sảng khoái, bèn đưa tay lên vuốt tóc, phủi một lượt quần áo, ngẩng đầu nhìn mặt trời, đeo ngược kiếm gỗ, đi dọc theo phố lớn.
Nhìn thấy Tô Tần đeo kiếm gỗ ngược, tiểu đồng lại tròn mắt kinh ngạc, quay sang Quỷ Cốc Tử nói: “Tiên sinh, nhìn kìa!”
Quỷ Cốc Tử cười hỏi: “Tiểu tử có muốn tới xem vương cung không?”
Tiểu đồng vội gật lấy gật để, Quỷ Cốc Tử hất hàm về phía Tô Tần: “Vậy thì cứ đi theo hắn!”
Một lúc sau, họ theo Tô Tần tới một nơi, quả nhiên là cổng cao lầu lớn, sừng sững nguy nga, trên mi cửa là hai chữ lớn “Bích Ung”.
Tô Tần có vẻ rất thông thạo đường đi lối lại nơi đây, nhanh chóng xoay người, rẽ vào bên trong. Tiểu đồng vội vã đuổi theo tới cửa, thì không thấy bóng dáng hắn đâu nữa.
Trước cửa không thấy có ai canh gác, thầy trò hai người sải bước vào trong, lúc đi lúc dừng, tựa như đang du lãm.
Bích Ung là nhà Thái học của Đại Chu, được xây dựng sau khi Bình Vương dời đô tới Lạc Dương không lâu, vào thời Xuân Thu là hưng thịnh nhất. Thủ Tàng quán cực thịnh một thời cũng ở trong đây, thủ tàng sứ Lão Đam sống già nửa cuộc đời ở nơi này. Thời đó, sĩ tử, công tử, vương tôn của liệt quốc tới cầu học nhiều không kể xiết, do đông người học nên xin học cũng khó khăn, chứ đâu hoang tàn vắng lặng như hôm nay. Nhìn sâu vào trong, một học cung rộng lớn nhường đó, mà nay quạnh quẽ đìu hiu, cỏ dại um tùm, chỉ còn thấy đại viện tường cao và những toà nhà cổ xưa dãy dãy nối liền là còn gợi lại hồi ức về một thời huy hoàng quá khứ.
Tiểu đồng đã quá quen thuộc với cảnh thê lương lạnh lẽo, cỏ dại um tùm nên không có vẻ gì xót xa thương cảm, vừa bước vào cửa đã ngoảnh nhìn tứ phía, kinh ngạc thốt lên: “Tiên sinh, xem ra vương cung chẳng có gì hay ho cả!”
Quỷ Cốc Tử cười ha hả mà nói: “Tiểu tử, đây cũng không phải là vương cung!”
Tiểu đồng ngạc nhiên tròn mắt: “Không phải vương cung ư? Lại là chỗ nào thế?”
“Là Bích Ung, còn gọi là Thái học!”
“Thái học là thế nào?”
“Thái học ư, chính là nơi công tử vương tôn tu thân học nghệ.”
Tiểu đồng gãi đầu: “Tu thân học nghệ? Thế có giống như sơn cốc của chúng ta không?”
Quỷ Cốc Tử cười nói: “Thua xa!”
Tiểu đồng nghĩ ngợi một lát, gật đầu nói: “Vâng, nhìn của người ta khí thế nhường kia, sơn cốc của chúng ta còn thua xa!”
Quỷ Cốc Tử cười vang mà nói: “Tên tiểu tử này, nếu đã thích khí thế ở đây, thì ở lại đây đi!”
Tiểu đồng lắc đầu.
“Ồ, cớ sao ngươi không ở lại?”
Tiểu đồng nghĩ ngợi một lúc: “Ở đây không có hoa núi, cũng không có bướm bay.”
Quỷ Cốc Tử cười nói: “Tên tiểu tử này, cái đầu nhỏ xíu mà thay đổi cứ xoành xoạch!”
Tiểu đồng cười toe toét. Hai người nói cười một lúc, tiểu đồng chợt hỏi: “Tiên sinh vừa nói tới công tử vương tôn, sao không thấy đâu?”
Quỷ Cốc Tử chỉ tay về phía cách đó chừng trăm bước, nói: “Chính là nơi đó!”
Tiểu đồng nhìn theo hướng tay chỉ của Quỷ Cốc Tử, thấy Tô Tần đang ngồi xếp bằng dưới chân tường của một gian nhà, hai mắt nhắm lại, thần trí mê mẩn, dường như đang lắng nghe gì đó, vừa nghe vừa nâng hai tay ra trước mặt, tựa như gảy đàn, đầu còn lắc lư, trông rất nhập tâm.
Tiểu đồng chăm chú quan sát, rồi nghi hoặc hỏi: “Công tử vương tôn mà tiên sinh vừa nói tới, chính là con người kỳ quặc kia ư?”
Quỷ Cốc Tử cười cười, chỉ vào gốc cây to bên cạnh: “Ngồi xuống hóng mát đã, đợi lát nữa ngươi sẽ biết!”
Tiểu đồng “vâng” một tiếng, dựng cây phướn vào thân cây rồi ngồi xuống.
Quả nhiên, chỉ một lát sau, từ trong gian nhà mà Tô Tần đang ngồi dựa lưng vào, bỗng thấy vọng ra tiếng đàn, du dương trầm bổng, dìu dặt miên man. Tiểu đồng cũng hiểu âm luật, tiếng đàn vừa vọng lại, đã khép hờ hai mắt, chăm chú lắng nghe. Đây là khúc Cao sơn của Bá Nha, cũng là khúc nhạc mà tiểu đồng rất thông thuộc.
Khúc nhạc vừa dứt, Quỷ Cốc Tử khẽ gật đầu, lẩm bẩm như tự nhủ: “Ồ, có tiến bộ nhiều!”
Tiểu đồng ngơ ngác: “Tiên sinh, cái gì mà tiến bộ nhiều?”
“Chính là người gảy đàn! Ngươi cảm thấy người đó gảy đàn thế nào?”
“Còn thua xa tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử mỉm cười: “Ồ, ngươi thử nói xem, có chỗ nào không bằng ta?”
“Nghe tiếng đàn của ông ta, tiểu đồng chỉ thấy chim chóc, nước chảy, gió mát, cây cối, song không ngửi thấy hương hoa, không nhìn thấy bướm lượn!”
Quỷ Cốc Tử gật đầu: “Ngươi nói đúng đấy! Có điều, ông ta gảy đàn được như thế này đã là không hổ thẹn với ta rồi!”
Tiểu đồng có vẻ đã hiểu ra: “Tiên sinh quen người gảy đàn ư?”
“Đúng vậy!” Quỷ Cốc Tử từ tốn nói, “mấy năm về trước, ông ta đã vài lần lên núi, bái ta học cầm nghệ.”
Tiểu đồng vô cùng ngạc nhiên: “Tiên sinh không nhận ông ta làm đồ đệ ư?”
Quỷ Cốc Tử gật đầu: “Có nhận…”
“Vậy…” Tiểu đồng càng kinh ngạc, “vì sao ông ta không ở trong núi?”
“Cũng không nhận!”
Tiểu đồng sửng sốt: “Lúc thì tiên sinh bảo nhận, lúc lại bảo không nhận, chẳng phải là muốn tiểu đồng rối trí ư?”
Quỷ Cốc Tử cười vang, từ từ khép mắt lại.
Trong nhà Thái học mênh mông quạnh quẽ, cầm thất có lẽ là nơi duy nhất còn có hơi người, bởi lẽ cầm sư trong cung đình đang dạy hơn chục học trò gảy đàn. Đám học trò ngồi dưới chiếu, trước mặt mỗi người đều bày một cây đàn, trên giá đàn bày cầm phổ. Trương Nghi từ Trương Ấp, Hà Tây tới đây học nghệ, đang ngồi ở hàng cuối cùng, hai mắt dán chặt vào vị cầm sư nghe nói là thầy dạy đàn giỏi nhất trong thiên hạ.
Cầm sư đánh xong bản Cao sơn, nhẹ nhàng đẩy đàn lên phía trước, khép hai mắt lại, nói: “Người giỏi đàn thuở xưa có Bá Nha, có Tử Kỳ, có Chung Nghi, có Sư Khoáng. Khúc nhạc cổ có Cao sơn, có Dương xuân, có Bạch tuyết. Khúc lão hủ vừa gảy, chính là bản Cao sơn của Bá Nha…”
Cầm sư giảng giải một hồi, các học trò bắt đầu thấy chán, ngả ngốn xiêu vẹo, mắt lim dim buồn ngủ. Cầm sư dừng lại, đặng hắng một tiếng, thở dài thườn thượt, chậm rãi nói: “Các trò không muốn nghe thì tự tập đi! Hãy đặt cầm phổ lên giá, luyện khúc Cao sơn!”
Các học trò người lôi kẻ đẩy, theo nhau ngồi thẳng dậy, hai tay gảy đàn, mỗi người một phách, tiếng đàn rối loạn không ra thể thống gì. Chỉ có Trương Nghi ngồi ngay ngắn, im lặng không động chân tay.
Cầm sư nghe một lúc, lại thở dài thườn thượt, nói: “Trời ơi, các ngươi khác gì gỗ mục, không thể chạm khắc!”
Trương Nghi đột nhiên cười phì một tiếng.
Cầm sư kinh ngạc, nhìn về phía Trương Nghi: “Cớ sao trò lại cười?”
Trương Nghi dõng dạc nói: “Khúc Cao sơn của Bá Nha, vãn sinh năm bảy tuổi đã thuộc làu, muốn tiên sinh dạy cho nhã khúc khác!”
Đám học trò nghe vậy, thảy đều phấn chấn, đồng thanh cười rộ lên.
Cầm sư lắp bắp: “Trò… trò, trò, trò ăn nói thực quá ngông cuồng… Trò hãy thử đánh xem!”
Trương Nghi hai tay đặt xuống dây đàn, tiếng đàn lập tức ngân nga, quả nhiên âm vận đều đủ, chẳng khác chút nào so với cầm phổ, thật không có gì chê trách. Cầm sư trong lòng kinh ngạc, nghĩ ngợi một lát, lớn tiếng nói: “Để ta gảy thêm khúc nữa, trò hãy tạm nghe!”
Cầm sư gảy thêm một khúc, tiếng nhạc vừa dứt, Trương Nghi đã mở miệng nói ngay: “Đây là khúc Tưu thao, do đại nho Trọng Ni thời Xuân Thu sáng tác. Tiên sinh đổi khúc khác đi!”
Cầm sư suy nghĩ một lúc, lại gảy một khúc nhạc khác, vừa gảy được vài tiếng, Trương Nghi đã nói: “Đây là Thái Công thuỳ điếu của Chu Công Đán. Tiên sinh đổi khúc khác đi!”
Cầm sư không ngờ trong số những kẻ tầm thường kia vẫn có người tài giỏi, ngạc nhiên đến sửng sốt, thành ra cứ ngồi thần tại chỗ. Đám học trò cho rằng thầy đã hết bài, nhao nhao nói: “Tiên sinh, nghe nói tiên sinh là thiên hạ đệ nhất cầm sư, sao không gảy nữa?”
“Tiên sinh gảy tiếp đi, trò đang đợi đây!”
Cầm sư mặt đỏ bừng, đang nghĩ cách ứng phó, đột nhiên, Trương Nghi dường như nghe thấy gì đó, “suỵt” khẽ một tiếng, đưa tay ra hiệu. Đám học trò lập tức quay cả sang nhìn Trương Nghi, thấy hắn rón ra rón rén tới bên bức tường phía sau, vớ lấy một bó thẻ tre, lẹ làng đến sát cửa sổ, thình lình ném mạnh ra ngoài.
Bó thẻ tre vừa hay đập trúng đầu Tô Tần. Tô Tần bất ngờ không kịp đề phòng, ôm đầu hét toáng lên: “Ái chà!”
Có học trò nghe thấy tiếng kêu, hào hứng la lên: “Mau lại đây, bên ngoài có người!”
Đám học trò xô đổ cả giá đàn, tranh nhau chạy ra phía cửa. Tô Tần còn chưa kịp chạy, đám đông đã ào hết ra khỏi phòng. Tô Tần đứng ngây tại chỗ, đau cũng không dám kêu, chỉ biết cúi đầu ngồi yên.
Một trò có lẽ là cầm đầu, bước lên một bước, cất giọng hách dịch: “Ngươi từ đâu đến, sao dám ngồi đây nghe lén?”
Tô Tần kinh hãi lắp bắp: “Tôi… tôi… tôi…”
Đám học trò vẻ khoái chí, cười ầm lên.
Có kẻ nói: “Nhìn vẻ lam lũ quê mùa của hắn kìa! Nhìn đôi tay của hắn nữa, xù xì thô kệch thế kia, vậy mà cũng muốn học cầm nghệ!”
Lại có người chế nhạo: “Nhìn qua là biết dân làm ruộng chạy tới đây học đàn, đúng là cóc ghẻ mà đòi ăn thịt thiên nga, ha ha ha…”
Tô Tần không cam tâm chịu nhục, ngẩng đầu lên, mặt hằm hằm, gằn từng tiếng một: “Kẻ sĩ có… có thể giết… không… không thể… chịu nhục!”
Gã học trò cầm đầu vẻ như phát hiện ra điều gì thú vị, kinh ngạc kêu lên: “Nghe kìa, là một tên nói lắp!”
Có người phụ họa theo: “Đúng là tên nói lắp! Ha ha, một tên nông dân nói lắp lại đòi tự xưng là kẻ sĩ, đúng là không biết mình là ai!”
Đám học trò mồm năm miệng mười, hùa nhau chê bai dè bỉu.
“Nhìn cái bản mặt lơ ngơ của hắn kìa! Có làm thư đồng không công cho ta, ta cũng cóc thèm!”
“Tên nghèo hèn mạt rệp kia, hãy mở to mắt mà nhìn, đây là Thái học của thiên tử, không phải là nơi dành cho những kẻ mạt hạng như ngươi ra vào.”
Tô Tần cũng hiểu rõ nơi này không thể cãi liều, chỉ biết cúi gằm mặt, mặc cho đám học trò kia giễu cợt, không hé răng lấy một tiếng. Gã học trò cầm đầu nổi tính ngang tàng, chợt dạng hai chân ra, quát: “Này tên tiểu tử thối tha kia, bản thiếu gia có tiền, chỉ cần ngươi chịu chui qua đũng quần của bản thiếu gia, ta sẽ cho ngươi tiền học phí, ngươi có thể đường hoàng ngồi học trong học đường.”
Có người hùa theo: “Chui qua đi! Tiểu tử thối! Nếu ngươi chịu chui qua thì ta cũng sẽ cho ngươi một lượng vàng. Chui đi!”
Đám học trò đua nhau la ó, giục Tô Tần luồn qua đũng quần, song Tô Tần chỉ càng cúi đầu thấp hơn.
Không biết là kẻ nào cất lời xúi giục: “Tiểu tử thối không chịu nể mặt, đánh đi!”
“Phải đấy, không chui thì đánh! Nghe nhạc không mất tiền, trong thiên hạ này làm gì có chuyện cho không như vậy? Chui mau!”
Cầm sư cuống quýt đi lại quanh đám học trò, vung tay nói lớn: “Đám trò hư đốn kia, thật chẳng ra thể thống gì? Mau vào lớp!”
Trương Nghi nhìn thấy đám học trò có phần quá đáng, cũng lớn tiếng nói: “Đủ rồi đủ rồi, các vị nhân huynh, kẻ này là một tên khờ, thôi tha cho hắn lần này, để hắn cuốn xéo đi!”
Gã cầm đầu quay sang Trương Nghi nói: “Trương huynh, đừng làm mất hứng! Bản thiếu gia hứng thú đang lên, hôm nay không bắt tên tiểu tử thối kia luồn qua đũng quần, bản thiếu gia sẽ bắt Trương huynh chui qua đấy!”
Tiếng cười càng to hơn.
Cả đám công tử bột cười nhăn nhở vây kín lấy Tô Tần. Mặt Tô Tần dẫn dần chuyển từ xanh sang đỏ, môi run rẩy không nói nên lời, xấu hổ, tức giận, sợ hãi đan xen, chỉ biết co rúm người lại, nép sát vào tường.
Trương Nghi liếc thấy thanh kiếm gỗ bên chân Tô Tần, nhanh như sóc đưa tay nhặt lấy, rút kiếm khỏi bao, nói lớn: “Mọi người nhìn này, đây là thứ gì?”
Đám học trò nhìn thấy thanh kiếm gỗ, cười ồ cả lên. Có kẻ giật lấy thanh kiếm gỗ từ tay Trương Nghi, khua khoắng vài đường, kêu ré lên: “Hay quá, thú vị quá!”
Gã cầm đầu giật lấy thanh kiếm, lắc lắc trên tay rồi cười toáng lên: “Đây mà cũng gọi là kiếm sao? Khúc củi vứt đi này, tại hạ ấn khẽ là gãy đôi! Anh em nhìn đây!”
Thấy gã học trò nói muốn bẻ gãy kiếm yêu, Tô Tần lập tức lao vọt lại, xông thẳng vào hắn như con sói đói, xô hắn ngã lăn xuống đất, bẻ ngoặt cánh tay, cướp lại thanh kiếm gỗ. Gã học trò thẹn quá hoá giận, lăn đi một vòng, lật mình bật dậy, gầm lên một tiếng xông vào Tô Tần. Tô Tần không kịp né tránh, bị hắn xô ngã bổ chửng. Cả đám học trò đồng loạt ào tới, đè cứng Tô Tần dưới đất.
Loáng cái, Tô Tần đã bị chúng giữ chặt tay chân. Gã học trò cầm đầu cướp lại thanh kiếm gỗ, thở hổn hển, tung chân đá đạp Tô Tần túi bụi, miệng chửi rống lên: “Tên quê mùa thối tha, dám hỗn xược với bản thiếu gia ư? Các anh em, hôm nay thiếu gia không bắt hắn chui qua đũng quần nữa, có trò mới hay hơn nhiều!”
Có người hưởng ứng: “Nhân huynh mau nói, chúng tôi đều nghe huynh!”
“Chẳng phải hắn coi thanh kiếm giẻ rách này là bảo bối sao? Chúng ta sẽ cho hắn thoả nguyện! Anh em giữ chặt lấy hắn, xem tại hạ cho hắn đeo kiếm!”
Mấy gã học trò lập tức giữ chặt lấy Tô Tần, gã cầm đầu tháo bỏ thắt lưng trên người Tô Tần, rồi bẻ quặt hai tay Tô Tần ra phía sau, dùng thắt lưng trói chặt hai tay vào kiếm gỗ. Tô Tần đau đớn, mồ hôi vã ra đầy trán, song vẫn cắn chặt răng, mắt trợn trừng giận dữ.
Gã cầm đầu cho Tô Tần cõng kiếm, chỉ huy đám học trò đứng thành vòng tròn, miệng hô lớn, rồi đẩy Tô Tần về phía gã học trò đối diện. Mỗi tiếng hô cất lên, Tô Tần lại bị đẩy sang một người. Tô Tần hai tay bị đám học trò trói giật cánh khuỷu ra phía sau, hết đẩy sang bên này lại đẩy sang bên kia, đứng không được, ngã cũng chẳng xong. Đám học trò khoái chí, cười lên sằng sặc.
Cầm sư chưa từng nhìn thấy cảnh tượng quá quắt thế này, giận run cả người, đứng ở một bên, giậm chân quát lớn: “Đám trò hư đốn kia, thật chẳng ra thể thống gì! Chẳng ra thể thống gì! Trời ơi…”
Hồi Thứ 8
Trương Nghi đùa giỡn Tô Tần
Tần, Ngụy kịch chiến Hà Tây
Đúng lúc này, ở trong hậu cung Chu thất, nơi chỉ cách học cung một bức tường, đang diễn ra một tình cảnh khác hẳn. Chu vương hậu hôn mê bất tỉnh, Chu thiên tử đứng bên giường vương hậu, lớn tiếng trách mắng các ngự y.
Trưởng công chúa Cơ Tuyết đau buồn tuyệt vọng, ngồi khóc sụt sùi trên giường trong khuê phòng, đôi vai thon thả khẽ rung lên theo tiếng nấc. Cơ Vũ mắt đỏ hoe bước tới sau lưng Cơ Tuyết, đặt hai tay lên vai chị, khẽ gọi: “Chị ơi…”
Cơ Tuyết sau một hồi khóc lóc, giọng đã khản đặc, nói: “Vũ Nhi, nếu như mẫu hậu không tỉnh lại, chắc chị… hối hận đến chết!” Nói xong lại cúi mặt, nước mắt ròng ròng.
Cơ Vũ an ủi: “Chị ơi, chị đừng nghĩ quẩn. Bệnh của mẫu hậu là do hai nhà Tần, Ngụy ép bức mà nên nỗi, đâu có liên quan gì tới chị?”
Nghe những lời này, Cơ Tuyết càng khóc lóc thương tâm, giọng nấc nghẹn: “Vũ Nhi, em thử nghĩ xem, nếu không có chị, Tần, Ngụy liệu có ép cầu thân chăng, phụ vương có phải khó xử như vậy chăng, mẫu hậu cũng sẽ không…” Nói rồi nghẹn lại nửa chừng, khóc nấc lên.
“Chị ơi, chị trách móc bản thân như vậy, thật không công bằng. Dù có chị hay không, chuyện gì tới vẫn cứ tới!”
“Vũ Nhi, em nói xem, mẫu hậu…”
“Chị ơi, vừa rồi Vũ Nhi chợt nghĩ ra một cách, có thể thử xem sao. Mẫu hậu thích nghe đàn, nhất là hai khúc Cao sơn, Lưu thủy. Chúng ta hãy mời cầm sư lại, gảy thử một bản xem sao. Biết đâu nghe thấy tiếng đàn, mẫu hậu có thể tỉnh lại.”
Cơ Tuyết như bừng tỉnh, đứng ngay dậy, lau vội nước mắt, kéo Cơ Vũ đi qua cửa bên của hậu cung, xăm xăm bước tới Thái học viện. Tiến vào trong cửa chưa được bao xa, chợt nghe từng tràng cười rộ vọng lại từ phía cầm thất. Hai người sững lại một thoáng, bất giác rảo bước nhanh hơn. Sau khi ngoặt qua một góc tường, từ xa đã nhìn thấy đám học trò đang túm tụm lại một chỗ, cười ngả ngớn trên bãi cỏ.
Cơ Tuyết, Cơ Vũ không biết xảy ra chuyện gì, vội vã tiến lại xem, khi đã hiểu rõ sự tình, không hẹn mà cùng dừng bước, đưa mắt nhìn nhau, mặt hoa sầm lại, đưa ánh mắt lạnh lùng chiếu thẳng về phía đám học trò.
Đám học trò vây kín lấy Tô Tần, đang đu đẩy rất hăng. Đột nhiên, gã cầm đầu đứng khựng lại, rồi như chuột nhìn thấy mèo, toàn thân co rúm, lẩn sang một bên. Những gã học trò khác đa phần là đám công tử bột xuất thân từ gia đình giàu có quanh Lạc Dương, tới đây học chẳng qua là lấy tiếng, thực chất chẳng học hành gì, nhìn thấy bộ dạng lấm lét của gã cầm đầu, lấy làm ngạc nhiên, đều quay người lại nhìn. Rồi tất cả tựa như trúng tà, đứng ngây thuỗn như một bầy phỗng đất.
Tô Tần bị đám học trò xô đẩy tới hoa mắt chóng mặt, đột nhiên không bị đẩy nữa thì lập tức lảo đảo, đứng không vững, ngã sấp mặt xuống bãi cỏ. Do hai tay bị trói quặt ra phía sau nên cú ngã khác nào trời giáng, lại thêm cơ thể lúc này đã rời rã, gắng gượng mấy lần không thể đứng dậy nổi.
Khi đám học trò hành hạ Tô Tần, Trương Nghi tuy cũng cảm thấy quá đáng, song cũng ham vui, nên đứng ở bên ngoài xem. Tự dưng thấy đám học trò đột nhiên rúm ró như gà con thấy quạ, Trương Nghi hết sức ngạc nhiên, lại thấy tất cả đều đang nhìn về phía mình, bất giác cũng quay đầu lại. Và ngay lập tức, hắn cũng biến thành một ông phỗng ngây thộn, bởi lẽ trước mắt hắn là hai thiếu nữ tuyệt sắc tựa thần tiên, đứng ngay mé trái sau lưng hắn, cách hắn chưa đầy năm bước, mặt lộ sắc giận.
Cầm sư cũng đã trấn tĩnh lại, vội sải bước tới gần, cúi gập người vái dài mà nói: “Lão hủ xin bái kiến nhị vị công…”
Lời còn chưa dứt, Cơ Tuyết đã lập tức chặn ngang, đáp lễ mà nói: “Tiểu nữ tử bái kiến tiên sinh!”
Cầm sư lập tức hiểu ra, biết họ không muốn để lộ thân phận, lại vội vái tiếp mà nói: “Lão hủ xin bái kiến Cơ cô nương!”
Cơ Vũ bản tính lãnh đạm kiêu kỳ, lúc này càng mặt hoa nghiêm nghị, không giận mà uy, chỉ tay vào Tô Tần đang nằm sấp dưới đất, đưa ánh mắt sắc như ánh kiếm quét qua một lượt đám học trò, nghiêm giọng quát: “Là ai trong các ngươi làm trò này?”
Đám học trò đưa mắt nhìn nhau, không hẹn mà cùng nhìn vào Trương Nghi.
Cơ Vũ chuyển ánh mắt lạnh lùng sang Trương Nghi: “Là ngươi ư?”
Trương Nghi đứng ngây ra, bình thường miệng lưỡi trơn tru là thế, lúc này không nói nổi một lời, lùi về phía sau vài bước, lắp bắp: “Tôi… tôi…”
Cơ Vũ mày ngài dựng đứng, lạnh lùng: “Còn không mau cởi trói cho sĩ tử?”
Hệt như ma xui quỷ khiến, Trương Nghi không dám nhiều lời, vội vội vàng vàng bước tới bên Tô Tần, cởi trói cho hắn. Cơ Vũ lại lừ mắt nhìn khắp đám học trò, rồi quát lớn: “Nhìn cách hành sự của các ngươi xem, liệu có giống học trò Thái học không? Còn không mau cút vào cầm thất?”
Đám học trò tựa như bị sét đánh trúng, ai nấy rụt đầu rụt cổ, lủi vội vào trong cầm thất. Trương Nghi đã cởi trói xong cho Tô Tần, vẫn đứng như trời trồng bên cạnh, lúng túng không biết phải làm gì.
Cơ Vũ trừng mắt nhìn Trương Nghi: “Ngươi còn không đi?”
Trương Nghi nghệt ra tại chỗ, mãi mới hiểu giai nhân đang mắng mình, vội vàng quay đi, cun cút chạy về cầm thất.
Thấy đám học trò đã đi hết, Cơ Tuyết quay sang cầm sư, hỏi khẽ: “Tiên sinh, có chuyện gì mà ầm ĩ đến vậy?”
“Than ôi!” Cầm sư thở dài một tiếng, “đều là lão hủ đây vô dụng!” Rồi chỉ vào Tô Tần, “vị này ngồi ngoài cửa sổ nghe lén lão hủ dạy đàn, không ngờ bị đám học trò phát hiện, mới xảy ra chuyện vừa rồi!”
Cơ Tuyết trong lòng xúc động, chăm chú nhìn Tô Tần, rồi tiến lại gần, vòng tay vái dài một vái, cất giọng dịu dàng: “Sĩ tử xin chớ chấp đám công tử phách lối kia!” Rồi quay sang, hai mắt ngấn lệ nhìn cầm sư, “tiên sinh, bắt đầu từ ngày mai, xin hãy cho vị công tử này theo học tiên sinh!”
Cầm sư cúi gập người đáp: “Lão hủ vâng lời cô nương!”
Nghe thấy lời này, Tô Tần lồm cồm đứng dậy, quỳ xuống đất, dập đầu lia lịa: “Thảo… thảo dân… Tô… Tô Tần… tạ… tạ… ơn cô… cô… cô nương!”
Cơ Tuyết thấy Tô Tần nói lắp, bèn dịu dàng hỏi: “Sĩ tử tên gọi Tô Tần?”
“Thảo… thảo… thảo dân tên là Tô Tần, sống ở… ở… thôn Hiên… Hiên Lý… phía… phía… đông… đông thành.”
“Tô Tần!” Cơ Tuyết nhắc lại đi nhắc lại mấy lần, như thể muốn ghi nhớ cái tên này, “Tô Tần… Tô Tần…”
Còn Tô Tần ngẩng mặt, nhìn Cơ Tuyết chăm chú, tựa hồ muốn ghi lòng tạc dạ dung nhan của ân nhân. Một lát sau, Tô Tần lại khấu đầu, lắp bắp nói: “Dám hỏi quý… quý… tính… cô… cô… cô nương… đây, sau này nếu… nếu… có… có cơ hội… Tô Tần… nhất… nhất định… sẽ… sẽ báo… báo đáp.”
Đã rơi vào tình cảnh trớ trêu này, lại còn muốn báo đáp, Cơ Tuyết bất giác liếc nhìn Tô Tần, thấy dung mạo đoan chính, nghèo mà không hèn, một thân khí phách, trong lòng bỗng thấy xao động. Lại đưa mắt nhìn vào thanh kiếm gỗ bị Trương Nghi vứt chỏng chơ một bên, bước lại gần, cúi xuống nhặt lấy, chăm chú nhìn ngắm một lúc, hỏi khẽ: “Xin hỏi, kiếm này phải chăng là của Tô Tử?”
Thấy Cơ Tuyết cầm thanh kiếm gỗ đồ chơi của mình, Tô Tần xấu hổ đỏ bừng mặt, cúi gằm xuống, một lúc sau mới khẽ gật đầu.
“Tô Tử tự tay làm ư?”
Tô Tần lại gật đầu.
Cơ Tuyết rút kiếm ra, vuốt ve một hồi, lại tra vào bao kiếm, tấm tắc khen: “Tô Tử thực khéo tay, lại chuyên tâm trau chuốt, quả là một thanh kiếm đẹp!” Rồi tiến tới trước mặt Tô Tần, nâng hai tay đưa kiếm cho hắn, “Cơ Tuyết nể phục chí tiến thủ của Tô Tử, mong rằng Tô Tử sẽ ở đây học hành chăm chỉ, sớm ngày đạt chí, công thành danh toại.”
Tô Tần ôm kiếm trước ngực, nước mắt bỗng ứa ra, lại vái liên hồi: “Tô… Tô Tần… tạ… tạ ơn… Cơ… Cơ… Cơ cô … cô nương!”
Thấy Tô Tần chảy nước mắt, Cơ Tuyết khẽ thở dài, lấy từ trong tay áo ra một mảnh khăn lụa, cúi xuống lau nước mắt cho Tô Tần. Tô Tần không dám tin vào cảnh tượng trước mắt, hai mắt nhắm nghiền, dòng lệ cứ thế trào ra, càng không cầm được.
Cơ Vũ có lẽ cảm thấy Cơ Tuyết hơi quá trớn, vội bước lại níu cánh tay chị: “A tỷ!”
Nhìn thấy Tô Tần bị áp bức mà không chịu khuất, cảm ân mà rơi lệ, Cơ Tuyết bất giác liên tưởng tới vận mệnh của mình, nghĩ tới bản thân mình cũng đang phó mặc cho người đưa đẩy, không thể tự quyết, số phận chẳng khác nào gã nói lắp kia, trong lòng đau xót, không những không đi, mà còn nước mắt tuôn tràn, châu lệ thánh thót, rơi lã chã xuống đầu Tô Tần.
Tô Tần ngạc nhiên, đưa tay lên vuốt đầu, thấy toàn nước mắt, sửng sốt ngẩng mặt lên, thấy Cơ Tuyết đang nước mắt đầm đìa, cứ ngỡ nàng khóc vì mình, không biết phải nói thế nào, chỉ biết liên tục dập đầu xuống cỏ, khóc lớn mà nói: “Cơ… Cơ… Cơ cô nương…”
Cơ Tuyết không nhẫn nhịn thêm được nữa, vội quay người che mặt bước đi. Mảnh khăn lụa phất phơ rơi xuống, vừa hay rơi đúng vào lòng Tô Tần.
Cơ Vũ thấy Cơ Tuyết đột nhiên bỏ đi, bèn gọi với theo: “Chị ơi!”
Cơ Tuyết không quay đầu lại, cứ thế đi thẳng.
Cơ Vũ đứng khựng lại một lát, rồi tiến lại gần cầm sư, khẽ giọng nói rõ lý do tìm tới. Cầm sư nghe xong, khẽ gật đầu, đi theo Cơ Vũ, vội vã vào cung.
Trong cầm thất, Trương Nghi và đám học trò đứng thập thò bên cửa, hoặc chen chúc nơi cửa sổ, kiễng chân hết cỡ, nín thở, trợn mắt nhìn trộm sự việc xảy ra ngoài bãi cỏ. Thấy cầm sư và Cơ Vũ đã đi xa, đám học trò mới định thần trở lại, bắt đầu bàn tán xôn xao: “Trời ơi! Đúng là tiên nữ giáng trần! Tiểu tử thối kia thực là có đại phúc!”
“Các anh em nói xem, hai vị cô nương kia, ai xinh đẹp hơn ai?”
“Thế mà cũng phải hỏi, đương nhiên là cô nương không mắng chửi kia rồi. Các vị có biết nàng là ai không?”
“Phải rồi, phải rồi, cô nương ấy là ai vậy?”
“Cô nương ấy chính là đệ nhất mỹ nữ trong thiên hạ hiện thời, là trưởng công chúa Cơ Tuyết của Đại Chu thiên tử, thường gọi là Tuyết công chúa! Anh em biết không, người mà hai nhà Ngụy, Tần đang tranh nhau xin cưới, chính là nàng ấy đấy!”
Lời gã vừa dứt, toàn bộ đám học trò đều kinh ngạc đến há hốc miệng, cầm thất bỗng chốc lặng phắc như tờ, dường như không ai dám thở. Một lát sau, đám học trò mới định thần trở lại, đưa mắt nhìn nhau, dường như không ai tin vào sự thực mà họ vừa chứng kiến.
Một hồi lâu, gã cầm đầu mới thẽ thọt lên tiếng: “Chà chà, thảo nào vừa rồi tại hạ hồn xiêu phách lạc! Thế còn cô nương còn lại?”
Gã học trò hiểu biết kia vênh mặt đắc ý, dõng dạc nói: “Đương nhiên là em gái của Tuyết công chúa, chính là nhị công chúa của Đại Chu thiên tử, gọi là Vũ công chúa.”
Gã cầm đầu nuốt nước bọt đánh ực, hít sâu một hơi, rồi từ từ thở ra, hết ngó bên trái lại bên phải mà nói: “Không giấu các vị, bản công tử tới đây, mượn danh là học kỹ nghệ, kỳ thực chính là muốn được một lần chiêm ngưỡng phong tư của đệ nhất mỹ nữ trong thiên hạ! Hay quá, hôm nay đã được toại nguyện rồi!”
Một học trò khác gật gù hưởng ứng: “Tại hạ cũng vậy! Bị mắng một trận, cũng đáng!”
Một học trò khác bỗng chỉ tay ra ngoài cửa sổ: “Nhìn tên nói lắp kìa!”
Đám học trò lúc này mới sực nhớ tới Tô Tần, không hẹn mà cùng nhìn ra bãi cỏ bên ngoài cửa sổ, thấy Tô Tần chậm rãi đứng dậy, tay cầm mảnh khăn lụa mà Cơ Tuyết đánh rơi, ngẩn ngơ chốc lát, rồi nhét khăn vào trong ống tay áo. Sau đó, như biến thành một người khác hẳn, nhanh nhẹn đeo ngược kiếm trên vai, sải bước đi ra.
Có người nói: “Các anh em nhìn rõ cả chưa? Vừa rồi Tuyết công chúa còn lau nước mắt cho hắn!”
Gã cầm đầu tức tối nói: “Mẹ kiếp, thằng ăn mày này ăn may quá. Các anh em, chúng ta mau đuổi theo hắn, nện cho hắn một trận cho bõ tức!”
Gã học trò hiểu biết kia uể oải thở hắt ra, nói: “Nhân huynh muốn đi thì cứ đi, bản thiếu gia chỉ muốn về nhà trọ đánh một giấc say, để gặp hai nàng đó trong giấc mộng!” Quay người nhìn thấy Trương Nghi vẫn đang mở to đôi mắt, nhìn chằm chằm vào bóng hình mỹ miều đã đi tít phía xa, thì bật cười, “này Trương huynh, người đã đi xa, huynh làm gì mà vẫn đứng như trời trồng thế kia?”
Trương Nghi vẫn dán mắt vào Cơ Vũ, miệng tấm tắc không ngớt: “Ồ, quả nhiên là công chúa, tại hạ phục rồi!”
Tô Tần đã đi dọc theo bức tường tới cổng chính, Quỷ Cốc Tử dõi mắt trông theo, khẽ gật đầu, rồi chậm rãi đứng dậy, vươn vai duỗi tay, cười nói với tiểu đồng: “Tiểu tử, đã nhìn thấy công tử vương tôn chưa?”
Tiểu đồng vẫn đang ngẩn ngơ trước tình cảnh vừa chứng kiến, bàn tay siết lại thành nắm đấm: “Tiên sinh, khi đám học trò ức hiếp anh chàng kỳ quặc kia, tiểu đồng muốn đi cứu hắn, tại sao tiên sinh lại ngăn cản?”
Quỷ Cốc Tử cười vang mà nói: “Nếu tiểu tử ngươi xông vào, không biết là ai cứu ai đâu! Đi thôi!”
“Đi đâu?”
“Đi kiếm lấy một đồng tiền! Không có tiền, biết lấy gì bỏ vào bụng tiểu tử ngươi đây?”
Từ lúc phát bệnh, vương hậu nằm liệt giường đã nửa tháng trời, không ăn không uống, hôn mê bất tỉnh, nếu không phải trên người vẫn còn toả ra hơi ấm, mũi vẫn có hơi thở khe khẽ, thì chẳng khác gì một cái xác vô hồn. Tận mắt chứng kiến vương hậu nằm bất động trên giường, Chu Hiển Vương chẳng thiết ăn uống, ngày ngày lệnh cho ngự y theo dõi sát sao bệnh tình để kịp thời chữa trị. Ngự y trong cung, người nào có tài thì sớm đã sang nước khác mưu sinh, người ở lại đa phần là thầy thuốc tầm thường, gặp phải chứng bệnh kỳ lạ này, đừng nói là tìm nguyên nhân, dù là bắt mạch cũng khó mà tìm ra mạch. Khi Cơ Vũ dẫn cầm sư bước vào cung Tịnh An, mấy ngự y đang túm tụm ở ngoài cung bàn bạc, người nào người nấy mặt mày rầu rĩ âu sầu, nỗi lo lắng hiện rõ trên nét mặt.
Cơ Vũ và cầm sư bước vào cửa chính, bên ngoài tấm mành châu đã đặt sẵn một giá kê đàn. Cung chính nhìn thấy, trong lòng chợt hiểu, truyền lệnh cho ngự y tạm thời trở về Thái y viện bàn tiếp, còn mình trở vào cung, sắp xếp cung nữ hầu hạ, rồi sai cầm sư gảy đàn.
Biển người mênh mông, tri âm khó tìm. Đối với cầm sư, vương hậu không những là chủ nhân đem lại cho ông cơm ăn áo mặc, mà còn là tri âm khó gặp. Phàm có chuyện gì, bất luận vui buồn, vương hậu thường sai người mời cầm sư tới gảy đàn, hơn nữa, lần nào cũng chỉ thích nghe khúc Cao sơn, Lưu thủy của Bá Nha. Khúc nhạc này, đừng nói là Cơ Tuyết hay Cơ Vũ, mà tất cả người trong cung ai cũng thuộc làu. Do vậy, hễ tiếng đàn vang lên, nhận ra khúc nhạc này, mọi người đều biết là cầm sư đã tới.
Lúc này, nhìn thấy vương hậu mấy ngày trước còn cười cười nói nói, giờ nằm im lìm bất động, trong lòng cầm sư muôn mối thương tâm, hai tay vỗ đàn, một khúc Cao sơn, Lưu thủy bỗng chốc ngân nga bi thiết, trong bầu không tĩnh lặng như tờ, càng thêm ai oán thê lương, khiến người nghe không khỏi rung động cõi lòng.
Cơ Vũ quỳ trước giường vương hậu, nắm chặt tay mẹ, nghiêng tai áp bên ngực bà, lắng nghe tiếng tim đập khe khẽ. Khi cầm sư sắp gảy xong khúc nhạc, Cơ Vũ đột nhiên nghe thấy nhịp tim bất chợt rộn ràng, mạnh mà có lực, bỗng chốc kích động khôn tả, run rẩy kêu lên: “Tiên sinh, mau, hãy mau gảy nữa, gảy lại từ đầu!”
Cầm sư nghe nói vương hậu đã có phản ứng, càng thêm xúc động, phấn chấn tinh thần, hai tay lướt phím, lại bắt đầu từ khúc Cao sơn, rồi tới Lưu thủy. Mới gảy hết một lượt Cao sơn, còn chưa gảy xong Lưu thủy, Cơ Vũ bỗng cảm thấy ngón tay vương hậu khẽ động đậy, bèn nắm chặt tay bà hơn nữa, áp khuôn mặt sát bên má vương hậu, gọi khẽ: “Mẫu hậu, mẫu hậu…”
Cơ Vũ gọi liên mấy tiếng, vương hậu cuối cùng cũng đã từ từ tỉnh lại khỏi giấc ngủ dài, khó nhọc mở mắt. Cơ Vũ mắt lệ chan hoà, nghẹn ngào gọi: “Mẫu hậu, người đã tỉnh rồi! Mẫu hậu, cuối cùng thì người cũng đã tỉnh lại rồi!”
Vương hậu đưa mắt nhìn Cơ Vũ, khẽ mỉm cười, rồi lại khép mắt lại. Cung chính vui mừng không để đâu cho hết, vội rời khỏi cung, chạy như bay tới ngự thư phòng, muốn đích thân thông báo tin mừng cho bệ hạ. Cơ Vũ ra hiệu cho cầm sư, tiếng đàn lập tức trở nên thư thái, bớt đi một chút bi thương, thêm vào một chút hoan hỷ.
Lại một lúc sau, vương hậu một lần nữa mở mắt, nhìn Cơ Vũ mỉm cười, chậm rãi gọi: “Vũ Nhi!”
Vũ Nhi run giọng gọi: “Mẫu hậu!”
Giọng vương hậu vô cùng yếu ớt: “Vũ Nhi, mẫu hậu… mẫu hậu đang ở đâu?”
“Mẫu hậu, người đang ở trong cung!”
“Thật ư?” Vương hậu ngoảnh đầu, đưa mắt liếc nhìn xung quanh, thấy quả là vậy, bèn khẽ gật đầu, lại nhìn Cơ Vũ mỉm cười. “Đúng là đang ở trong cung! Xem ra những điều ta vừa trải qua, đều là hư ảo!”
“Đúng vậy, thưa mẫu hậu, người đã hôn mê suốt nửa tháng trời!”
“Nửa tháng?” Vương hậu không khỏi ngạc nhiên hỏi lại, dường như đã hoàn toàn trở về hiện thực, khẽ thở dài một tiếng não nề.
Cơ Vũ ngồi bên mép giường, nhìn cầm sư ngồi sau bức rèm, nói: “Mẫu hậu, nhờ có tiếng đàn của cầm sư, mới gọi được người tỉnh dậy.”
“Đúng vậy!” Vương hậu mỉm cười, “mẫu hậu đã nghe thấy rồi. Vũ Nhi, con hãy thay mẫu hậu cảm tạ cầm sư!”
Cơ Vũ “vâng” một tiếng, lắng nghe một lúc, nói khẽ: “Mẫu hậu, người hãy nghe đi, tiếng đàn của cầm sư thực thần kỳ! Mẫu hậu đã tỉnh lại, tiên sinh không biết vui mừng tới nhường nào!”
Vương hậu chăm chú lắng nghe. Cầm sư đang thả hồn vào khúc nhạc, hai mắt nhắm lại, mười ngón tay lướt nhẹ như bay, quên bẵng cả bản thân. Vương hậu lắng nghe một lúc, đột nhiên sực nhớ ra một chuyện, bèn nói với Cơ Vũ: “Vũ Nhi, có một việc này, con hãy mau chóng đi làm giúp mẫu hậu!”
“Con xin nghe lời căn dặn của mẫu hậu!”
“Con đi ra phố, giúp mẫu hậu tìm một người. Mẫu hậu đoán rằng, người này có lẽ đã tới!”
Cơ Vũ vô cùng ngạc nhiên: “Tìm người thế nào?”
“Một ông lão mày trắng.”
“Ông lão mày trắng?”
Vương hậu gật đầu, Cơ Vũ hỏi tiếp: “Nếu gặp được người này, Vũ Nhi sẽ mời vào cung ư?”
Vương hậu khẽ lắc đầu.
“Nếu gặp, con không cần phải nói gì, chỉ cần lập tức về bẩm báo với mẫu hậu là được.”
Cơ Vũ gật đầu, đứng dậy định đi, song lại quyến luyến bịn rịn, không nỡ rời xa.
Vương hậu thúc giục: “Đi mau, việc này rất gấp!”
Cơ Vũ buông tay vương hậu, vội vã bước ra khỏi cửa cung, từ xa đã nhìn thấy ba người Chu Hiển Vương, cung chính, nội thần đang từ ngự thư phòng hấp tấp bước lại. Từ một lối khác, Cơ Tuyết và đám ngự y cũng đang chạy như bay về phía này. Cơ Vũ cảm thấy yên tâm, tức tốc trở về khuê phòng, gọi cung nữ thân tín Xuân Mai cùng mình ra phố. Hai người cải trang thành dân thường, lặng lẽ lẻn ra ngoài vương cung theo lối cổng phụ, đi qua Thái học viện, chạy ra phố lớn.
Trên phố, người qua kẻ lại tấp nập, đâu đâu cũng thấy quầy hàng la liệt.
Cơ Vũ đầu đội một chiếc nón rộng vành, vai quàng khăn lụa, trông như một nữ thương khách, vai đeo bảo kiếm, đi dọc theo phố, hai mắt mở to, tìm kiếm ông lão có đôi mày trắng. Xuân Mai cải trang thành người hầu, theo sát Cơ Vũ không rời nửa bước.
Do cầm sư đã rời đi, lớp học không còn ai dạy, Trương Nghi cũng lẳng lặng chuồn ra phố. Lúc này, hắn đang vừa đi vừa ngó nghiêng, bất chợt thấy trước mắt sáng bừng, định thần nhìn kỹ, nhận ra ngay nàng công chúa vừa gặp trong Thái học, bất giác tim đập thình thịch như muốn bắn ra khỏi lồng ngực. Sau một hồi suy nghĩ, Trương Nghi cố gắng trấn tĩnh lại, giật áo Tiểu Thuận, lẳng lặng bám sát theo sau.
Cơ Vũ chỉ chăm chú tìm kiếm ông lão mày trắng, bởi vậy đừng nói là Trương Nghi đang bám sát phía sau, mà ngay cả Tô Tần đang đi phía trước có hai mươi bước chân, cũng không hề nhận thấy.
Là Xuân Mai phát hiện ra trước. Trong lúc đang đi, Xuân Mai bỗng kêu lên: “Công…” chữ “chúa” còn chưa kịp phát ra, cô nàng đã sực tỉnh, lập tức đổi lại, “tiểu thư, hãy nhìn người kia!”
Cơ Vũ nhìn theo tay Xuân Mai, phát hiện ra gã nói lắp vừa mới bị làm nhục ở Thái học.
Tô Tần cúi đầu chậm rãi bước đi, thanh kiếm gỗ đeo ngược trên vai, quả thật trông rất nực cười. Xuân Mai hạ thấp giọng nói khẽ: “Nhìn kiếm của hắn kìa, đeo ngược trên vai!”
Cơ Vũ lần đầu tiên để ý thấy bộ dạng đeo ngược kiếm của Tô Tần, khẽ bật cười một tiếng, rồi chậm rãi bước đi, kéo sụp nón xuống thấp hơn, tránh để Tô Tần nhận ra, cứ thế lẳng lặng đi theo sau hắn, trong khi hai mắt vẫn ngó nghiêng tìm ông lão mày trắng.
Tô Tần bước tới ngã ba, đứng đó đăm chiêu suy nghĩ. Lát sau, bèn lôi mảnh khăn lụa của Cơ Tuyết từ trong ống tay áo ra, đặt trên lòng bàn tay ngắm nghía một hồi, rồi nâng lên trước ngực, nhắm mắt lại lầm rầm vài câu gì đó, như thể đang cầu nguyện. Sau đó cẩn thận gập lại, nhét vào trong ống tay áo, ngẩng đầu bước đi.
Ở cách đó không xa, một cây phướn xem tướng đang giương cao, tiểu đồng tay cầm cán phướn, đứng thẳng một bên. Quỷ Cốc Tử ngồi ngay ngắn dưới đất, hai mắt khép hờ, giống như đang ngủ gật.
Người qua kẻ lại tấp nập, có người cứ thế đi qua, có người liếc mắt nhìn lá phướn, song không ai dừng lại xem tướng. Tiểu đồng bụng đói réo sôi ùng ục, không thể nhịn thêm được nữa, cúi đầu xuống, nói khẽ với Quỷ Cốc Tử: “Tiên sinh, bụng tiểu đồng kêu réo dữ quá!”
Quỷ Cốc Tử liếc mắt nhìn thấy Tô Tần, liền bật cười: “Tiểu tử mau đứng thẳng lên, có người mang tiền tới rồi!” Tiểu đồng phấn chấn, đứng thẳng người dậy, đưa mắt trông ra phía trước, thấy Tô Tần đang nhìn lá phướn, thì không cả cúi người chào, lập tức kêu lên: “Tiên sinh, chính là anh chàng kỳ quặc đó!”
Quỷ Cốc Tử gật đầu.
Tiểu đồng nhịn không nổi, hạ giọng cãi lại: “Tiên sinh, nhưng anh ta chỉ có một đồng, tiểu đồng thấy anh ta cũng đói lắm rồi!”
Quỷ Cốc Tử lại bật cười: “Tiểu tử đúng là có trái tim nhân từ, song người nhân từ không cần no bụng ư? Nếu tiểu tử không đói, ta sẽ thu phướn lại không xem tướng nữa!”
Tiểu đồng chưa kịp nói gì, Tô Tần đã bước lại gần. Quỷ Cốc Tử từ từ nhắm mắt, tiểu đồng cũng mau chóng dựng thẳng cây phướn lên.
Bước chân Tô Tần chậm lại, hai mắt nhìn chằm chằm vào hàng chữ lớn trên lá phướn: “Xa coi tiền đồ vạn dặm, gần đoán phúc họa sớm chiều”.
Tô Tần không nhận ra ông lão xem bói trước mặt chính là người mình đã gặp trong miếu đêm hôm trước. Cũng có lẽ do hai chữ tiền đồ quá ư thu hút, nên sau một hồi do dự, cuối cùng vẫn quyết định bước tới trước mặt Quỷ Cốc Tử, ngồi xuống, ngập ngừng gọi: “Tiên… tiên sinh…”
Mắt Quỷ Cốc Tử nheo lại thành hai khe hẹp, thủng thẳng: “Khách quan xin cứ nói!”
“Vãn… vãn sinh muốn… muốn… cầu tiên… tiên sinh… một quẻ!”
Quỷ Cốc Tử vẫn khép hờ hai mắt: “Xa có thể đoán quá khứ, tương lai; gần có thể xem phúc họa sớm tối; nhiều có thể hỏi thời vận đời người, ít có thể đoán trước chuyện hiếu hỷ! Không biết khách quan muốn xem chuyện gì?”
“Là… là muốn tiên… tiên sinh… xem… xem giúp vãn sinh… đời này có thể… có thể…”
Không đợi Tô Tần lắp bắp hết câu, Quỷ Cốc Tử đã cắt ngang, chậm rãi nói: “Xin khách quan đặt tiền xem quẻ trước!”
Người qua đường nhìn thấy có người coi bói, bèn xúm xít lại xem. Cơ Vũ liếc thấy cặp mày dài trắng toát của Quỷ Cốc Tử, trong lòng mừng rỡ, tim đập rộn ràng, thở phào một cái, vuốt lại mớ tóc, kéo Xuân Mai đứng lẫn vào trong đám đông đứng xem.
Tô Tần không để ý tới đám người vây quanh, vừa thò tay vào ống tay áo lần tiền, vừa hỏi: “Vãn… vãn sinh… dám hỏi… hỏi tiên sinh, cần… cần… trả bao nhiêu tiền?”
“Muốn biết thời vận đời người, một lượng vàng; muốn biết chuyện hiếu hỷ, mười xu tiền đồng!”
Tô Tần mặt biến sắc, bàn tay phải đang lần tìm trong ống tay áo chợt khựng lại: “Vãn… vãn… vãn sinh…”
Người vây quanh mỗi lúc một đông, Trương Nghi cũng dẫn Tiểu Thuận lách vào trong, chen lên đầu hàng. Tô Tần muốn bỏ mà không được, sắc mặt lúng túng, ấp a ấp úng nói: “Tiên sinh… vãn… vãn sinh… không… không có…”
Đám đông thấy Tô Tần lắp bắp, thì cười ồ cả lên. Tô Tần càng luống cuống, đang định đứng dậy bỏ đi thì Quỷ Cốc Tử thủng thẳng nói: “Nhìn dáng vẻ của khách quan, hẳn là muốn cầu thời vận đời người! Mau đưa tay ra đây!”
Giọng Quỷ Cốc Tử như có thần lực, Tô Tần vô thức chìa ngay tay trái ra. Bàn tay già nua của Quỷ Cốc tử lần bắt mạch của Tô Tần, hai mắt khẽ nhắm lại, giống như đang chẩn bệnh.
Có người nói to: “Hơ hơ, mọi người nhìn kìa, trên phướn viết rõ là xem tướng, không ngờ lại là khám bệnh!”
Có người phụ họa: “Này các vị, các vị đã nhìn thấy ai bắt mạch xem bói bao giờ chưa? Đây gọi là thầy bói biến thành thầy thuốc, ha ha ha!”
Mọi người lại cười rộ lên.
Trương Nghi dường như đã quên bẵng mất công chúa Cơ Vũ đang đứng ngay bên cạnh, hai mắt mở to nhìn chằm chằm vào bàn tay bắt mạch của Quỷ Cốc Tử.
Bắt mạch được một lúc, Quỷ Cốc Tử bèn buông tay, hai mắt nhắm lại, cất giọng sang sảng: “Khách quan có tư chất dị thường, sau này quý đến hàng khanh tướng, lão hủ xin được chúc mừng!”
Đám đông thảy đều trợn mắt kinh ngạc. Có người chỉ vào Tô Tần, cười ngặt nghẽo mà nói: “Hắn mà cũng quý đến hàng khanh tướng ư? Ha ha ha, mọi người thử nhìn hắn mà xem, thô kệch quê mùa, còn nói lắp nữa chứ! Ha ha ha, mọi người đã từng thấy khanh tướng nào nói lắp chưa?”
Đám đông lại cười ầm ĩ.
Có người nhận ra Tô Tần, lập tức kinh ngạc kêu lên: “Đây chẳng phải là cậu con trai thứ hai của Tô gia ở thôn Hiên Lý sao? Quý tới hàng khanh tướng? Giờ đang nổi tiếng chơi bời lêu lổng, khiến cha hắn suýt tức chết kia kìa!”
Có người giễu cợt: “Đấy chẳng phải là tư chất dị thường là gì?”
Tiếng cười chê càng lúc càng ồn ã.
Tô Tần vẫn thản nhiên như không, không xấu hổ cũng không tức giận, từ từ quỳ xuống, hướng về Quỷ Cốc Tử, vái liền ba vái: “Tạ… tạ ơn… những lời… may… may mắn… của… của tiên sinh! Vãn… vãn sinh… không có… một… một lượng vàng…” Rồi lần trong ống tay áo móc ra đồng tiền bố vừa kiếm được nhờ vác gạo thuê, cung kính đặt trước mặt Quỷ Cốc Tử, “vãn sinh chỉ… chỉ có đồng tiền này… không… không đủ… trả tiền công… cho… tiên… tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử mở mắt, nhìn Tô Tần một lát, lại khép mắt lại, thủng thẳng nói: “Khách quan đứng dậy đi! Lão hủ chỉ nhận đồng tiền này thôi, số tiền công còn thiếu, đợi khi khách quan làm tới chức khanh tướng, trả lại cho lão hủ cũng chưa muộn!”
Tô Tần lại lạy liền ba lạy: “Vãn… vãn… vãn sinh tạ… tạ ơn tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử còn chưa kịp đáp lại, bỗng từ trong đám đông vang lên tiếng cười chế giễu. Mọi người đồng loạt nhìn về phía đó, chính là tiếng cười của Trương Nghi.
Cơ Vũ quay sang nhìn, chợt nhận ra Trương Nghi, ngạc nhiên sửng sốt, bèn kéo sụp nón che kín mặt. Trương Nghi thấy nhị công chúa đã nhận ra mình, hiểu rằng cơ hội trổ tài đã tới, lập tức hào khí bừng bừng, vừa kín đáo liếc nhìn Cơ Vũ, vừa vòng tay hướng vào Quỷ Cốc Tử, dõng dạc nói: “Lão thầy tướng kia, lão khoác lác quá đà rồi đấy!”
Quỷ Cốc Tử từ từ mở mắt, liếc nhìn Trương Nghi, nhận ra ngay gã học trò ngông cuồng trong học cung hôm nọ, lập tức lên tiếng: “Khách quan dựa vào đâu mà nói vậy?”
Trương Nghi chỉ vào lá phướn: “Trên lá phướn của lão viết rành rành: Xa coi tiền đồ vạn dặm, gần đoán phúc họa sớm chiều. Tiền đồ đời người nhất thời không thể kiểm nghiệm, ai cũng có thể phán bừa. Vậy vãn sinh muốn hỏi phúc họa sớm chiều, liệu tiên sinh có đoán đúng được chăng?”
Quỷ Cốc Tử chậm rãi nói: “Tất nhiên!”
Trương Nghi chớp mắt một cái: “Nếu nói tới phúc họa sớm chiều, vãn sinh xin làm khó tiên sinh một chuyện. Vãn sinh xin hỏi, trong vòng một tháng tới, tại hạ có phúc họa nào chăng?”
Quỷ Cốc Tử không bắt mạch nữa, mở mắt nhìn Trương Nghi, quan sát kỹ một lượt, rồi nhắm mắt lại, nói: “Khách quan sắp gặp chuyện đại hung trong đời!”
Nghe nói gặp quẻ hung, Trương Nghi cho rằng Quỷ Cốc Tử cố ý chọc giận mình, hằm hằm tức tối: “Lão… lão ăn nói hồ đồ! Được rồi, vãn sinh hỏi tiếp lão, theo lão thì vị khách quan quý tới hàng khanh tướng này trong vòng một tháng tới có họa phúc nào chăng?”
Quỷ Cốc Tử cũng nhìn Tô Tần một lượt, trả lời ngay: “Hắn sắp gặp chuyện đại hỷ trong đời!”
Trương Nghi nổi giận đùng đùng: “Sao kia? Vãn sinh gặp đại hung, hắn lại đại hỷ, các vị nói thử xem, liệu trong thiên hạ có chuyện này chăng? Hừm, đích thị là ăn nói hồ đồ, cũng chỉ là vì một đồng xu kia mà thôi, Trương Nghi đã nhìn thấu bụng dạ lão rồi!”
Tiểu đồng nghe Trương Nghi ăn nói ngông cuồng vô lễ, trừng mắt tức giận, nhìn chòng chọc vào Trương Nghi. Quỷ Cốc Tử mở mắt, liếc Trương Nghi một cái, rồi lại khép mắt lại như cũ, nói chắc như đinh đóng cột: “Số mệnh đã định, tin hay không là tuỳ khách quan!”
Trương Nghi hừ mũi một tiếng, lên giọng: “Lão tiên sinh hãy khoan nhắm mắt. Vãn sinh hỏi lão, trong vòng một tháng tới, nếu lời phán của tiên sinh không linh nghiệm, sẽ thế nào đây?”
Quỷ Cốc Tử không thèm lý tới Trương Nghi, vẫn nhắm nghiền hai mắt.
Trương Nghi cười ha hả, nói: “Biết ngay là lão nói xằng nói bậy! Nếu không, cớ sao không dám trả lời!”
Quỷ Cốc Tử có vẻ đã nhập định, song từ trong miệng lại bật ra một câu: “Chàng trai, lão hủ sẽ ở đây một tháng chờ cậu!”
“Tốt!” Trương Nghi quay sang phía đám đông, vòng tay sang hai bên trái phải, “các vị, xin các vị hãy làm chứng giúp. Trong vòng ba mươi ngày tới, nếu linh nghiệm, vãn bối sẽ khấu đầu ba cái trước lão tiên sinh đây! Còn nếu không linh nghiệm, ha ha ha…” Liếc mắt nhìn lá phướn bên cạnh tiểu đồng, nói tiếp, “e rằng lá phướn nhỏ bé của lão tiên sinh đây sẽ thành trăm mảnh vụn!”
Tiểu đồng trừng mắt nhìn Trương Nghi: “Ngươi dám?”
Đám đông lại cười ồ lên.
Quỷ Cốc Tử lại nói tiếp: “Chàng trai, đợi tới lúc đó, e rằng cậu không còn mạnh miệng như hôm nay được nữa!”
Trương Nghi lại phá lên cười: “Được, chúng ta quân tử nhất ngôn!”
Nói xong lời này, Trương Nghi hăng máu như gà chọi đá thắng, ngẩng đầu ưỡn ngực, ngoảnh đầu tìm Cơ Vũ, nhưng thấy nàng và tỳ nữ đã ở tít phía xa. Trương Nghi vô cùng thất vọng, định đuổi theo, bỗng khoé mắt liếc thấy Tô Tần cũng đang đi ra phố theo chiều ngược lại, trong đầu bỗng nảy ra một ý, lập tức quên ngay nhị công chúa, kéo Tiểu Thuận, bám theo Tô Tần từ phía xa.
Đúng như tiểu đồng nói, Tô Tần đang bụng đói cồn cào. Mặt trời đã lặn xuống trời tây, đang là giờ cơm tối, mùi thức ăn từ các hàng quán trên phố toả ra thơm nức, tiếng rao mời khách của các chủ quán vang lên không ngớt bên tai. Tô Tần dừng bước, nhìn một vị khách đang ngồi ăn mà nuốt nước bọt, muốn bỏ đi, song hai chân nặng trịch.
Tô Tần lại nuốt nước bọt, đang dằn lòng định bước đi, bỗng có một bàn tay vỗ nhẹ lên vai. Tô Tần giật nảy mình ngoái đầu nhìn lại, thấy có hai người đang đứng ở sau lưng, chính là Trương Nghi và Tiểu Thuận.
Do đã gặp hai lần, Tô Tần nhận ra ngay, cúi gập người vái chào mà nói: “Tô… Tô Tần… bái kiến… sĩ… sĩ tử!”
Trương Nghi cất giọng châm biếm: “Nên gọi Tô Tử là Tô khanh hay là Tô tướng nhỉ? Tô khanh tướng nhé, như vậy mới đầy đủ. Tại hạ họ Trương tên Nghi, người Ngụy.” Rồi khoa trương vái đáp lễ, “Trương Nghi người Ngụy bái kiến khanh tướng đại nhân!”
Tô Tần đỏ bừng mặt: “Trương… Trương Tử chớ… chớ cười đùa! Tô… Tô Tần… không gánh… nổi tội…”
Trương Nghi tiếp tục giễu cợt: “Ồ, Tô khanh tướng nói gì lạ thế? Trương Nghi thấy Tô khanh tướng nấn ná mãi ở đây, có phải đã đói rồi chăng?”
Tô Tần bị Trương Nghi nhìn thấu tình trạng quẫn bách, mặt đỏ như gấc: “Tại… tại hạ…”
Trương Nghi cười vang: “Khanh tướng đại nhân, có thể khuất phục trời, khuất phục đất, khuất phục người, khuất phục mình, song không khuất phục nổi cái bụng đâu. Chỉ có điều… quán ăn ở đây quá dở, chỉ thích hợp để thoả mãn cái bụng của đám hạ nhân. Tôn quý như Tô khanh tướng đây, nên chọn chỗ tao nhã hơn mới phải!” Rồi quay sang nhìn Tiểu Thuận, “tiểu tử, có biết trong vương thành có chỗ nào thích hợp cho Tô khanh tướng dùng bữa chăng?”
Tiểu Thuận đảo con ngươi một vòng: “Bẩm thiếu gia, gần Văn miếu có quán Vạn Bang, nghe nói chuyên phục vụ quan lại quyền quý, sứ thần liệt quốc, nổi tiếng hạng nhất vương thành!”
Trương Nghi gật đầu: “Ồ, quán Vạn Bang, tên gọi hay lắm, rất phù hợp để khanh tướng đại nhân đây dùng bữa. Tô khanh tướng, tại hạ muốn mời đại nhân một chén rượu nhạt ở quán Vạn Bang, mong đại nhân nể mặt!”
Tô Tần nghe những lời này, biết là nói giễu mình, mặt đỏ bừng, lắp bắp từ chối: “Tôi… tôi… không… không…”
Trương Nghi không chịu buông tha: “Tô khanh tướng, tại hạ có lòng thành, xin đại nhân nhận lời, coi như để tại hạ chuộc lỗi!”
Tô Tần vô cùng ngạc nhiên: “Chuộc… chuộc lỗi?”
Trương Nghi nghiêm túc gật đầu: “Lúc trước ở Thái học, là Trương Nghi đã làm khó khanh tướng đại nhân!”
Tô Tần thấy Trương Nghi nói vậy, có phần xúc động, lắp bắp mà nói: “Tô… Tô Tần… không… không trách sĩ… sĩ tử!”
Trương Nghi lắc đầu quầy quậy: “Khanh tướng đại nhân có thể không trách, song xét về lễ, Trương Nghi cần phải tạ tội. Tô khanh tướng, mời!”
Tiểu Thuận cũng bước lại, kéo tay Tô Tần, cười hì hì mà nói: “Tô đại nhân, thiếu gia có lời mời, ngài không ăn thực là uổng phí, mà ăn cũng là miễn phí, hà tất phải sĩ diện để bụng đói meo? Đi thôi, quán Vạn Bang ở ngay phía trước kia rồi!”
Tô Tần thấy hai người không còn giễu cợt mình nữa, lại thấy Trương Nghi có vẻ hối lỗi thực lòng, bèn cúi gập người nói: “Tấm thịnh… thịnh tình của Trương… Trương Tử, Tô… Tô Tần xin… cảm… cảm tạ!”
Trương Nghi nhìn Tô Tần, cười vang, kéo tay hắn mà nói: “Ồ, như vậy mới giống khanh tướng chứ! Đi nào!”
Một lát sau, ba người đã tới trước quán Vạn Bang. Liếc mắt nhìn vào trong, thấy bài trí cực kỳ hoa lệ, Tô Tần dụi mắt như thể đang ngủ mơ.
Thấy Trương Nghi ăn mặc sang trọng, tiểu nhị tươi cười hớn hở, dẫn họ vào nhã thất ở tầng trên. Trương Nghi chìa tay, cung kính nói: “Khanh tướng đại nhân, mời!”
Tô Tần chưa hết ngỡ ngàng, cũng chìa tay mà nói: “Trương Tử, mời!”
Trương Nghi nhìn sang Tiểu Thuận, mắng khẽ: “Còn không mau dẫn khanh tướng đại nhân vào chỗ ngồi!”
Tiểu Thuận kéo ghế mời Tô Tần ngồi xuống, Trương Nghi cũng ngồi xuống theo.
Tiểu nhị bước lại gần, quỳ xuống đất nói: “Tiểu nhân kính mời hai vị thiếu gia chọn món!”
Trương Nghi xua tay nói: “Khỏi cần chọn món, ngươi tự đi chuẩn bị đi, cần tám món nóng tám món nguội. Mà này, nhớ kỹ, bốn thứ tay gấu, vi cá, môi báo, tim nai, không được thiếu món nào!”
Tiểu nhị nghe vậy, như mở cờ trong bụng, dõng dạc nói: “Thiếu gia yên tâm, đây đều là những món đặc biệt của bản quán, chắc chắn không thể thiếu được. Chư vị muốn dùng rượu gì?”
Trương Nghi nheo mắt lại: “Ở đây có những rượu gì?”
“Bẩm thiếu gia, toàn là rượu lâu năm của Đại Chu!”
“Rượu lâu năm của Đại Chu?” Trương Nghi ngẫm nghĩ một lát, “được bao nhiêu năm rồi?”
“Có loại ba năm, năm năm, bảy năm, mười năm, mười hai năm, mười lăm năm, còn có loại tám mươi năm, thiên hạ hiếm có, là cực phẩm!”
“Hay quá!” Trương Nghi cất giọng sang sảng, “cho một vò rượu tám mươi năm!”
Tiểu nhị phấn khởi ra mặt, cao giọng đáp lời: “Có ngay, có ngay!”
Chỉ một lát sau, thức ăn đã được dọn lên, hết đĩa này tới đĩa khác, cho tới khi bày chật kín cả mặt bàn, không còn một chỗ hở. Tô Tần không biết đây là những thứ gì, chỉ trố mắt ngẩn người nhìn đủ món sơn hào hải vị, lắp bắp nói: “Trương… Trương Tử… gọi nhiều… nhiều món như vậy, chẳng phải… lãng… lãng phí quá ư?”
Trương Nghi mở nắp vò rượu, hương rượu thơm nức xộc vào tận mũi. Trương Nghi rót đầy hai chén, cười sảng khoái, tiếp lời Tô Tần: “Tô khanh tướng thân phận cao quý, chỉ vài đĩa thức ăn, một hũ rượu lâu năm, sao có thể nói là lãng phí?” Lại quay sang Tiểu Thuận, “ta và khanh tướng đại nhân ngồi đây uống rượu, tiểu tử ngươi đứng đó làm gì? Mau ra ngoài đợi!”
Tiểu Thuận thấy Trương Nghi nháy mắt với mình thì hiểu ý, đành nuốt nước bọt ừng ực, vội vã đi ra khỏi cửa.
Tô Tần vội nói: “Trương… Trương Tử, nhiều… nhiều thức ăn như… như thế này… chúng… chúng ta ăn làm sao hết, sao… không… không bảo… bảo anh ta cùng… cùng ăn?”
Trương Nghi cười vang mà nói: “Kẻ hầu người hạ như hắn, sao có thể ngồi cùng mâm với khanh tướng đại nhân?” Rồi cầm một chén rượu lên, đẩy chén còn lại tới trước mặt Tô Tần, “khanh tướng đại nhân, mời!”
Tô Tần do dự một lát, rồi nâng chén lên, nói: “Trương… Trương Tử, mời!”
Trương Nghi liên tục rót rượu, hai người uống hết chén này đến chén khác, chỉ một loáng sau, vò đã trơ đáy. Rượu ủ lâu năm, uống đến đâu ngấm đến đấy, Tô Tần bình thường hiếm khi uống rượu, giờ không trụ nổi, vừa uống đã say mèm.
Trương Nghi bưng cả vò rượu lên, dốc nốt những giọt cuối cùng vào đầy một chén, đưa cho Tô Tần: “Chén rượu cuối cùng này, mời khanh tướng đại nhân thưởng thức!”
Tô Tần mặt đỏ phừng phừng, nhờ có men rượu mà cũng bạo gan hơn, đưa tay giật lấy chén rượu, lớn tiếng nói: “Trương… Trương Tử… thật… thật là… là hào kiệt… xuất… xuất chúng. Xem… xem… tại hạ đây!” Nói xong đưa chén rượu lên uống một hơi cạn sạch.
Trương Nghi cảm thấy đã đủ, đặng hắng liền ba tiếng. Tiểu Thuận đợi sẵn bên ngoài, nghe thấy, bèn đẩy cửa bước vào, thầm thì vài câu vào tai Trương Nghi. Trương Nghi nghe xong, vòng tay nói với Tô Tần: “Bên ngoài có người tìm tại hạ, khanh tướng đại nhân hãy ngồi chờ ở đây một lát, tại hạ ra ngoài có chút việc, lát nữa sẽ quay lại uống thêm vò nữa!”
Tô Tần đứng dậy, vòng tay nói: “Trương… Trương Tử cứ… cứ đi đi, Tô… Tô Tần sẽ… sẽ đợi… đợi Trương Tử quay… quay lại uống thêm vò… vò nữa.”
Trương Nghi làm bộ dạng say xỉn, vịn vai Tiểu Thuận ngật ngưỡng bước ra khỏi nhã thất, đi xuống dưới lầu.
Bên ngoài, trời tối đen như mực, đã tới canh hai. Tiểu nhị nhìn thấy Trương Nghi bước ra khỏi cửa thì vội vã đuổi theo, chặn ngang trước mặt: “Bẩm, thiếu gia đi đâu đấy?”
Trương Nghi miệng nồng nặc hơi rượu: “Bản thiếu gia mót tiểu!”
Tiểu nhị cười tít mà nói: “Thiếu gia, trong quán có chỗ tiểu tiện, để tiểu nhân dẫn thiếu gia đi!”
Trương Nghi sầm mặt lại, quát lớn: “Bản thiếu gia muốn tiểu tiện ở đâu còn cần ngươi chõ mũi vào ư?”
Tiểu Thuận vội kéo tiểu nhị lại, nói khẽ: “Thiếu gia uống say rồi, muốn ra ngoài hít thở khí trời cho tỉnh rượu, lát nữa sẽ quay lại. Nếu ngươi còn lằng nhằng gây sự với thiếu gia, thiếu gia dám phá luôn nhà hàng của ngươi đấy!”
Tiểu nhị nhớ ra trên lầu còn một người, hẳn họ sẽ không thể chạy làng, lại cười niềm nở mà nói: “Thiếu gia muốn tiểu tiện ở đâu, xin cứ tuỳ ý!”
Trương Nghi chỉ tay lên lầu, nói trong hơi rượu: “Ngươi nghe đây! Vị thiếu gia trên kia uống nhiều rồi, ngươi nhớ thay bản thiếu gia phục vụ cho chu đáo!”
“Thiếu gia yên tâm, tiểu nhân sẽ cho thiếu gia kia uống một bát canh giải rượu, đảm bảo không có chuyện gì!”
Trương Nghi gật gù, vịn vào người Tiểu Thuận, lảo đảo bước ra khỏi cửa.
Hai người đi tới một góc khuất, thấy tiểu nhị không nhìn theo nữa thì ba chân bốn cẳng chạy thẳng. Một lát sau, về tới phòng trọ, Tiểu Thuận vừa mở cửa phòng, Trương Nghi đã nằm vật ra giường, cười sằng sặc.
Cười một chập, Trương Nghi quay sang nói với Tiểu Thuận: “Ngươi thử chạy ra ngoài, nghe ngóng tình hình xem sao!”
Tiểu Thuận gật đầu, mở cửa đi ra ngoài. Chưa đầy nửa canh giờ sau đã thấy Tiểu Thuận tất tưởi trở về, Trương Nghi nghe thấy tiếng bước chân, vội bước ra hỏi: “Thằng oắt đó thế nào rồi?”
Tiểu Thuận thở hổn hển nói: “Khởi bẩm thiếu gia, có hai gã to con đứng chắn trước cửa nhã thất, bắt tên nói lắp đó trả tiền ăn!”
“Tên nói lắp đó đang làm gì?”
“Đang ngồi trong nhã thất đợi thiếu gia, nghe nói, hắn vẫn luôn mồm lải nhải đòi uống thêm vò nữa với thiếu gia, không say không về!”
Trương Nghi suy nghĩ một lát, gật gật đầu: “Được rồi, mau đi nghe ngóng tiếp!”
Tiểu Thuận quay người chạy đi. Khoảng nửa canh giờ sau lại quay trở về, phì phò nói: “Bẩm thiếu gia, ông chủ nhà hàng nổi trận lôi đình, đã treo tên nói lắp lên xà nhà, nói là sáng sớm mai sẽ áp giải lên quan huyện.”
Trương Nghi mỉm cười, hừ mũi một tiếng: “Quý tới hàng khanh tướng cái nỗi gì? Đại hỷ trong đời cái nỗi gì? Bản công tử thực sự muốn xem, tên nói lắp đó đại hỷ ở đâu, phú quý ở đâu?”
Tiểu Thuận hỏi thêm: “Thiếu gia, còn cần tiểu nhân làm gì nữa không?”
Trương Nghi ngáp một cái, nói: “Mau bưng nước rửa chân lại đây!”
Trời đã sáng bảnh, trên phố người qua kẻ lại tấp nập. Trong quán Vạn Bang, một trang hán mở cổng chính, ông chủ quán và tiểu nhị bước vào đại sảnh, hai hán tử theo sau. Ông chủ nhìn Tô Tần đã bị treo cả đêm trên xà nhà, hất hàm ra hiệu cho một hán tử. Hán tử tiến lại, tháo dây thừng buộc trên xà. Tô Tần rơi đánh “bịch” xuống đất như cái bao tải gai, đau quá kêu la ầm ĩ.
Tiểu nhị tiến lại, hằm hằm nhìn Tô Tần, chửi rủa: “Tên nói lắp thối tha kia, dám tới ăn không ở quán Vạn Bang, lại còn đòi ăn sơn hào hải vị, ngươi đúng là chán sống!”
Tô Tần lúc này đã tỉnh rượu, nghe thấy lời chửi mắng thì mặt mũi đỏ rần, cúi gằm mặt, im thin thít.
Tiểu nhị quát lớn: “Mau mang tiền đến trả, nếu không, ông chủ sẽ giải ngươi lên quan huyện, nhẹ thì giam vào đại lao ba năm, nặng thì thích chữ lên mặt, cho ngươi cả đời không thể làm người!”
Nghe những lời này, Tô Tần sợ hãi cuống quýt: “Tôi… tôi… tôi… không ăn… ăn không…”
Ông chủ lạnh lùng nói: “Hừm, đã tới nước này rồi, còn già mồm. Vả vào miệng hắn!”
Một hán tử nghe vậy, sải vài bước tới trước mặt Tô Tần, giơ tay lên đang chuẩn bị vả, thì từ ngoài cửa chợt vang lên một giọng nói: “Khoan!”
Mọi người đều ngạc nhiên, quay đầu lại nhìn, thì ra là Trương Nghi và Tiểu Thuận đang đứng trước cửa.
Nhìn thấy Trương Nghi, Tô Tần cảm kích khôn tả: “Trương… Trương Tử… đã tới!”
Trương Nghi mặt lạnh tanh, chậm rãi tiến tới trước mặt ông chủ, chỉ vào Tô Tần, nghiêm giọng trách mắng: “Sao các người lại cư xử như vậy với vị thiếu gia này?”
Ông chủ nhìn thấy Trương Nghi tới, lông mày đã giãn ra, vội cười tít mắt: “Bẩm thiếu gia, tại hạ… tại hạ…” Rồi vội quay người lại, nghiêm mặt quát hán tử, “còn đứng đần ra đó? Không mau cởi trói cho thiếu gia?”
Hán tử vội vã cởi trói cho cho Tô Tần.
Trương Nghi vẫn lạnh lùng nói: “Tổng cộng hết bao nhiêu tiền?”
Ông chủ quay sang tiểu nhị: “Điếc à? Thiếu gia hỏi ngươi, tổng cộng hết bao nhiêu?”
Tiểu nhị vội cầm một tấm thẻ tre, trình lên Trương Nghi: “Bẩm thiếu gia, tổng cộng đồ ăn thức uống đêm qua là tám lượng vàng, hai mươi tám xu đồng, đây là bản kê chi tiết, mời thiếu gia xem!”
Trương Nghi xua tay, nói với Tiểu Thuận: “Trả tiền!”
Tiểu Thuận móc ra chín lượng vàng, đưa cho tiểu nhị. Tiểu nhị đang tìm tiền lẻ trả lại, Trương Nghi đã xua tay nói: “Không cần!”
Ông chủ thấy vậy, gật đầu, khom lưng nói: “Sĩ tử gia, việc ngày hôm nay, tại hạ quả thực đắc tội, xin thiếu gia lượng thứ!”
Trương Nghi lừ mắt nhìn ông ta, cười khẩy mà nói: “Đắc tội với bản thiếu gia đây thì không sao, song đắc tội với Tô đại nhân đây, ông chủ sẽ phải trả giá!”
Ông chủ đảo mắt, quay sang tiểu nhị và hai hán tử: “Đêm qua, ai trong các ngươi đã treo Tô gia lên?”
Tiểu nhị và hai hán tử đưa mắt nhìn nhau, ông chủ lại đảo mắt, xỉa tay vào tiểu nhị quát lớn: “Chính là ngươi! Người đâu, treo hắn lên xà ngang cho ta, để cho Tô đại nhân đây hả giận!”
Hai hán tử chẳng nói chẳng rằng, bước tới bên tiểu nhị, loáng cái đã treo phắt hắn lên xà ngang, bất chấp hắn kêu la om sòm.
Ông chủ liếc mắt nhìn tiểu nhị, tỏ vẻ hài lòng, lại cúi gập người trước Trương Nghi, cười nịnh nọt mà hỏi: “Thiếu gia đây đã hả giận chưa?”
Trương Nghi gật đầu, giọng lạnh tanh: “Được rồi, ngươi treo Tô gia bao lâu thì cũng phải treo hắn bấy lâu!” Quay sang Tô Tần, “Tô đại nhân, đi thôi!”
Tô Tần muốn đi, song do hai chân bị trói đến tê dại, vừa bước một bước đã loạng choạng, ngã sấp xuống đất. Trương Nghi ra hiệu, Tiểu Thuận bèn dìu Tô Tần dậy, bước đi, ba người chậm rãi rời khỏi quán Vạn Bang.
Đi ra tới phố, Trương Nghi quay sang Tô Tần, vòng tay nói: “Tô khanh tướng, tối qua tại hạ có việc gấp, vốn chỉ định đi một lát, nào ngờ uống rượu say, ra cửa gặp gió thổi, người mềm nhũn như sợi bún, tới sáng nay mới tỉnh rượu. Chết thật, không ngờ đã làm khổ khanh tướng đại nhân!”
Tô Tần vòng tay đáp lễ, trong lòng đã hiểu rõ mười mươi, song miệng vẫn lắp bắp: “Sĩ… sĩ tử… chớ nên… tự… tự trách mình! Sĩ tử… đã cho Tô… Tô Tần này… hiểu được… thế… thế nào là… là phú quý chốn nhân… nhân gian, sao… sao có thể nói… nói là khổ?”
Trương Nghi cười: “Tô khanh tướng khoan dung độ lượng, Trương Nghi khâm phục!”
Tô Tần lại vòng tay nói: “Tạ… tạ ơn… bữa cơm thịnh… thịnh soạn của Trương… Trương Tử, Tô… Tô Tần … cáo… cáo từ!”
Trương Nghi cũng vòng tay nói: “Tô khanh tướng đi cẩn thận!”
Tô Tần quay người, loạng choạng bước đi. Nhìn theo bóng Tô Tần xa dần, Trương Nghi đảo mắt qua lại, lẩm bẩm một mình: “Không được! Nếu để kẻ này đi mất, làm sao có thể kiểm chứng được lời phán đoán hồ đồ của lão già mày trắng?” Rồi giơ tay lên gọi lớn. “Khanh tướng đại nhân, xin dừng bước!”
Tô Tần dừng lại, ngoảnh đầu nhìn Trương Nghi: “Trương… Trương Tử có… có gì dặn… dặn dò?”
“Tại hạ muốn biết, Tô khanh tướng sống ở đâu?”
“Thôn Hiên… Hiên Lý… phía… phía đông thành!”
“Tô khanh tướng lần này ra đi, có muốn về nhà không?”
Tô Tần ngẫm nghĩ một lát, lắc đầu.
Trương Nghi ngạc nhiên: “Không về nhà, thế khanh tướng đại nhân muốn đi đâu?”
Nghĩ tới thiên hạ bao la rộng lớn, mà mình lại không có chỗ nào nương thân, Tô Tần bất giác thấy hoang mang, cắn chặt môi một lúc, thở dài một tiếng, lắc đầu mà nói: “Tại… tại hạ… cũng… cũng… không biết!”
Trương Nghi dường như đã hiểu ra, ngẫm nghĩ một lát, bỗng nảy ra một ý, vòng tay mà nói: “Chỗ tại hạ vẫn còn rộng rãi, khanh tướng đại nhân nếu không ngại, có thể tới ở cùng tại hạ.”
Tô Tần mừng rỡ, cúi gập người vái Trương Nghi: “Tô… Tô Tần… tạ .. tạ ơn… thành ý của sĩ… sĩ tử!”
***
Khi Cơ Vũ trở về tới cung Tịnh An, bên cạnh vương hậu chỉ còn một mình cung chính. Thái y và Cơ Tuyết đều đã về cả, đến Hiển Vương cũng không còn ở đó. Cơ Vũ lấy làm lạ, nhìn thấy cung chính ra đón, vội hỏi ông ta: “Phụ vương, chị ta và ngự y đâu?”
Cung chính bẩm báo: “Nương nương muốn yên tĩnh, nên bảo họ về hết rồi!”
Cơ Vũ vội hỏi: “Mẫu hậu sao rồi?”
Cung chính nói khẽ: “Nương nương đỡ nhiều rồi, đang đợi công chúa!”
Cơ Vũ gật đầu, bước tới bên giường. Vương hậu hai mắt nhắm hờ, vẫn rất yếu ớt, có điều, khí sắc trông đã tốt hơn.
Cơ Vũ tiến lại gần, nói khẽ: “Mẫu hậu, Vũ Nhi đã về!”
Vương hậu từ từ mở mắt: “Mau đỡ mẫu hậu dậy!”
Cơ Vũ đỡ vương hậu dậy, để bà tựa lưng vào gối, phấn khởi nói: “Mẫu hậu, Vũ Nhi đã nhìn thấy ông lão mày trắng.”
“Ồ?” Vương hậu khẽ mỉm cười, gật đầu, trìu mến vuốt nhẹ mái tóc mượt mà của Cơ Vũ. “Nào, hãy lại ngồi cạnh mẫu hậu, kể rõ cho mẫu hậu nghe!”
Cơ Vũ ngồi xuống cạnh vương hậu, ngả vào lòng bà, kể lại từ đầu tới cuối sự việc mà mình đã gặp trên phố. Vương hậu nghe xong, thở phào một tiếng, mỉm cười nói: “Nghe con nói như vậy, chắc hẳn đúng là người này rồi!”
Cơ Vũ băn khoăn hỏi: “Mẫu hậu, lão trượng mày trắng là ai thế? Vì sao mẫu hậu lại muốn gặp?”
Vương hậu ngẫm nghĩ một lát, rồi chậm rãi nói: “Lão trượng là cao nhân đắc đạo, sống ở núi Vân Mộng, hiệu là Quỷ Cốc Tử.”
Cơ Vũ kêu lên thất thanh: “Lão trượng chính là Quỷ Cốc Tử ư?”
Tới lượt vương hậu ngạc nhiên: “Sao thế, con biết lão trượng ư?”
Cơ Vũ gật đầu: “Vâng, con vẫn thường nghe cầm sư nhắc tới cái tên này, nói rằng lão trượng chính là đương kim cầm thánh. Cầm sư còn nói, cho dù Bá Nha tái thế, e rằng vẫn kém lão nửa cái đầu!”
Vương hậu mỉm cười, nói: “Quỷ Cốc tiên sinh không chỉ là một cầm thánh!”
Cơ Vũ mắt tròn xoe, càng thêm kinh ngạc: “Mẫu hậu, lẽ nào lão trượng là bậc thần tiên?”
Vương hậu gật đầu: “Trong mắt mẫu hậu, lão trượng quả là bậc thần tiên!”
“Vâng!” Cơ Vũ cười nói, “lão trượng xem ra quả cũng có chút đạo cốt tiên phong. Mẫu hậu, sao người biết lão trượng đã đến Lạc Dương? Có phải lão trượng đã báo mộng cho mẫu hậu?”
Vương hậu lắc đầu: “Không phải, là mẫu hậu thỉnh cầu lão tới.”
Cơ Vũ có vẻ không tin: “Mẫu hậu quen lão trượng ư?”
Vương hậu gật đầu.
Cơ Vũ vô cùng phấn khích: “Mẫu hậu, người mau nói đi, làm sao người lại quen biết vị thần tiên này?”
“Ồ!” Vương hậu vỗ nhẹ vào đầu Cơ Vũ, dường như đang hồi tưởng lại chuyện năm xưa, “đó là chuyện nhiều năm về trước, khi đó mẫu hậu còn nhỏ, da sần sùi, tóc vàng quạch, xấu xí nổi tiếng trong cung. Song ông ngoại con đã nhiều tuổi mới có được một mụn con gái, bởi vậy vô cùng yêu thương mẫu hậu. Năm mẫu hậu mười hai tuổi, đột nhiên mắc một chứng bệnh lạ, sốt cao không giảm, tóc vàng gãy rụng, thần trí mê man, hôn mê liền bốn mươi tám ngày. Ông ngoại con vô cùng lo lắng, tìm kiếm thầy thuốc giỏi ở khắp nơi về trị bệnh cho mẫu hậu, song bệnh tình không chút thuyên giảm. Tới ngày thứ bốn mươi chín, bên ngoài cung có một lão trượng có đôi mày bạc trắng cầu kiến, nói là chuyên trị chứng bệnh này. Ông ngoại con nghe vậy, hết sức vui mừng, xuống tận bậc thềm nghênh đón lão trượng. Lão trượng đưa ra một yêu cầu, nói rằng mẫu hậu là nhân tài tu đạo bẩm sinh, sau khi trị khỏi bệnh, cần theo lão trượng lên núi tu đạo. Ông ngoại con chỉ mong chữa khỏi bệnh cho mẫu hậu, nên lập tức đồng ý. Lão trượng châm rất nhiều kim lên người mẫu hậu, để lại mười túi thảo dược, rồi cáo từ. Mẫu hậu cứ đúng giờ uống thuốc, bốn mươi chín ngày nữa trôi qua, sức khoẻ của mẫu hậu không những hồi phục như thường, mà tóc mọc đen bóng, lớp da sần sùi toàn thân bong tróc, thay thế bằng lớp da mới mịn màng, sau này, nghe mọi người nói đây gọi là ‘thoát thai hoán cốt’. Không chỉ có vậy, từ đó về sau, cơ thể mẫu hậu luôn toả hương thơm ngào ngạt, hết sức thần kỳ!” Nói tới đây, bà chợt dừng lại, thở dài.
Cơ Vũ đang chăm chú lắng nghe, vội hỏi: “Sau này thế nào? Mẫu hậu vì sao không theo Quỷ Cốc tiên sinh vào núi tu đạo?”
“Than ôi!” Vương hậu lại thở dài, “đều trách ông ngoại con! Một trăm ngày sau, Quỷ Cốc tiên sinh đúng hẹn tới đón, ông ngoại con bỗng nhiên đổi ý, tìm cách thoái thác, xin Quỷ Cốc tiên sinh đợi thêm ba năm nữa. Ba năm sau, Quỷ Cốc tiên sinh lại đúng hẹn tìm tới, ông ngoại con vẫn không chịu, bất chấp mẫu hậu năn nỉ cầu xin, nhất quyết gả mẫu hậu cho Chu thất. Ngày mẫu hậu xuất giá, Quỷ Cốc tiên sinh đứng bên ngoài cung, nhìn mẫu hậu nước mắt lưng tròng bước lên xe đón dâu. Quỷ Cốc tiên sinh thở dài thườn thượt, rồi quay người bước đi. Chỉ ba năm sau, người Sở khởi binh tiêu diệt nước Sái, ông ngoại con cũng qua đời vì chiến họa!”
“Sau đó thì sao?”
“Quỷ Cốc tiên sinh từ đó không còn thấy xuất hiện. Sau này, mẫu hậu sinh ra hai chị em con, dần dần cũng thôi không còn nghĩ đến việc tu đạo nữa. Ba năm trước, mẫu hậu đột nhiên mơ thấy Quỷ Cốc tiên sinh, tiên sinh nói rằng, nếu mẫu hậu muốn, tiên sinh sẽ lập tức tới đón mẫu hậu lên núi. Mẫu hậu tỉnh dậy, nghĩ tới những lỡ dở trong đời, cảm thấy thực xót xa!”
“Mẫu hậu, phải chăng người… người vẫn muốn tu đạo?”
Vương hậu lại thở dài: “Than ôi, tu đạo trước tiên phải vứt bỏ toàn bộ ý phàm. Tuy mẫu hậu có lòng này, song không thể dứt bỏ phụ vương của các con, cũng không thể dứt bỏ hai chị em con. Trước mắt Tần, Ngụy tranh nhau cầu hôn Tuyết Nhi, phụ vương con tiến thoái lưỡng nan, mẫu hậu khổ sở vì không có kế hay, mới cầu Quỷ Cốc tiên sinh giúp đỡ. Thật không ngờ tiên sinh vẫn còn nhớ tới mẫu hậu, đã tới đây thật rồi!” Nói tới đây, trên mặt bà thoáng lộ nét cười.
“Mẫu hậu, Quỷ Cốc tiên sinh thực sự có thể giúp chúng ta vượt qua cửa ải khó khăn này ư?”
Vương hậu khẽ gật đầu, giọng đầy tự tin: “Mẫu hậu tin rằng, trong trời đất này, không có chuyện gì tiên sinh không làm được. Chỉ cần tiên sinh ở đây, mẫu hậu đã thấy vững tin!” Rồi lại nằm xuống giường, “Vũ Nhi, con hãy về đi, mẫu hậu mệt rồi, muốn nghỉ ngơi chốc lát. Nên nhớ, chuyện này không được kể với bất cứ ai!”
Cơ Vũ gật đầu, bái lạy lui ra.
Hôm sau, Hiển Vương, Cơ Tuyết, Cơ Vũ tới thăm vương hậu. Bốn người đang trò chuyện, Đông Chu Công đột nhiên dẫn theo Trần Chẩn và ngự y mà Ngụy Huệ Hầu phái đến, xồng xộc xông thẳng vào cung.
Nội tể ngăn họ lại, bước vào cung bẩm báo: “Khởi bẩm bệ hạ, Đông Chu Công dẫn sứ Ngụy Trần Chẩn tới hỏi thăm bệnh tình nương nương!”
Chu Hiển Vương sững sờ, đưa mắt nhìn vương hậu. Vương hậu trầm ngâm một lát, lần tìm viên thuốc thanh huyền dưới gối, lấy nước uống vào. Một lát sau, bèn gật đầu với Hiển Vương.
Cung chính buông rèm, Chu Hiển Vương sắc mặt trầm tư, chậm rãi nói: “Truyền sứ Ngụy bái kiến!”
Chỉ một lát sau, Đông Chu Công, Nhan thái sư dẫn Trần Chẩn và ba vị ngự y bước vào cung, khấu bái ngoài rèm. Trần Chẩn cất giọng sang sảng: “Bệ hạ Đại Ngụy nghe nói nương nương bệnh nặng, có ý tốt phái ngự y tới chẩn trị, xin bệ hạ Đại Chu cho phép!”
Trần Chẩn thản nhiên gọi “bệ hạ Đại Ngụy” ngay trong chính cung Đại Chu, lời lẽ càn rỡ khiến tất thảy những người có mặt đều kinh ngạc. Chu Hiển Vương sắc mặt tím tái, Cơ Tuyết mày ngài nhíu chặt, bàn tay nhỏ bé của Cơ Vũ từ từ siết chặt chuôi kiếm.
Sau một hồi im lặng đầy căng thẳng, Nhan thái sư quỳ bên cạnh Trần Chẩn chậm rãi lên tiếng trách móc: “Ngụy sứ các hạ, đây là cung thất Đại Chu, không được nói năng bừa bãi!”
Trần Chẩn sững lại một thoáng, rồi đổi giọng châm biếm: “Trần Chẩn biết tội!” Sau đó hất hàm về phía tấm rèm. Hai nữ y quỳ trên đất hiểu ý, lập tức đứng dậy, nội tể bèn dẫn họ vào sau rèm để chẩn bệnh cho vương hậu.
Vương hậu vẫn nằm trên giường, thần thái tươi tắn, hai mắt nhắm nghiền. Hai nữ y trước hết bắt mạch, sau đó xem rêu lưỡi, cẩn thận xem xét hồi lâu, sắc vẻ mặt lộ rõ vẻ ngạc nhiên, đưa mắt nhìn nhau khó hiểu, rồi từ từ lui ra.
Thấy hai người đã lui ra, Trần Chẩn khấu đầu mà nói: “Sứ Ngụy Trần Chẩn cáo lui!”
Chu Hiển Vương cười nhạt, nói: “Tiễn khách!”
Đám Trần Chẩn về tới dịch quán, hai nữ y miêu tả lại tỉ mỉ về mạch đập và rêu lưỡi của vương hậu cho một ngự y lớn tuổi khác nghe. Ngự y nghe xong, vẻ cũng mơ hồ, chẳng hiểu ra sao. Trần Chẩn thấy ba người đều cúi đầu suy nghĩ, bèn hỏi nhỏ: “Nương nương mắc bệnh gì vậy?”
Ngự y vòng tay nói: “Khởi bẩm thượng khanh, nương nương mắc một căn bệnh rất lạ, ngờ là chứng hàn, song lại giống chứng nhiệt, hạ quan… hạ quan khó mà suy…”
Chữ “đoán” còn chưa nói ra đã bị Trần Chẩn chặn ngang: “Chứng nhiệt, chứng hàn cái gì? Ta chỉ hỏi ngươi, nương nương mắc bệnh thật hay là giả?”
Ngự y đáp ngay không chút do dự: “Bệnh thật!”
Trần Chẩn kinh ngạc, khẽ phẩy tay: “Biết rồi, lui ra!”
Ba người bèn lui ra.
Hai đầu lông mày của Trần Chẩn càng chau tít lại.
Sự ngông cuồng vô lễ của sứ Ngụy rõ ràng đã khiến Chu Hiển Vương nổi giận. Sau khi sứ Ngụy đi khỏi, Hiển Vương từ từ đứng dậy, mặt đầy nộ khí, nặng nề bước về phía cửa cung. Trước khi ra khỏi cửa, lại quay người lại nhìn cung chính, nói giọng lạnh tanh, gằn từng tiếng một: “Từ nay về sau, bất luận là ai, nếu tới hậu cung, đều phải bái kiến theo nghi lễ Đại Chu. Kẻ nào trái lệnh, trị tội theo luật pháp Đại Chu!”
“Lão nô lĩnh chỉ!”
Chu Hiển Vương thở gấp, trở về ngự thư phòng, ngồi còn chưa ấm chỗ, sứ Tần Sư Lý Tật lại dẫn theo một nữ vu y vào cung cầu kiến. Nữ vu y là một trong những đệ tử của Hàn Tuyền Tử, gọi là Lâm tiên cô, từ nhỏ đã theo Hàn Tuyền Tử học y đạo, tinh thông y thuật. Hoá ra, Công Tôn Ưởng nhận được cấp báo của Sư Lý Tật, đã vào núi thỉnh cầu Hàn Tuyền Tử, Hàn Tuyền Tử bèn sai Lâm tiên cô tới Lạc Dương, chẩn bệnh cho vương hậu Đại Chu.
Nội tể bẩm báo: “Muôn tâu bệ hạ, sứ Tần Sư Lý Tật cầu kiến ngoài cung!”
Chu Hiển Vương chau mày nói: “Nói với sứ Tần, nương nương ngọc thể bất an, quả nhân không muốn tiếp khách!”
“Lão nô cũng đã bẩm báo như vậy, song sứ Tần kiên quyết nói, họ đến đây cũng vì chuyện này. Tần Công nghe nói nương nương ngọc thể bất an, đã vào tận núi Chung Nam mời một vị đạo cô tới. Người này thần thông quảng đại, có thể sẽ chữa khỏi bệnh cho nương nương!”
Nghe nói đạo cô tới từ núi Chung Nam, Chu Hiển Vương suy nghĩ một lát, khẽ gật đầu: “Truyền cáo sứ Tần, dù là thần y được Tần Công mời từ núi Chung Nam tới, cũng phải tuân theo nghi lễ của Đại Chu. Đưa thần y tới hậu cung chẩn đoán bệnh tình nương nương!”
Nội tể đi ra, truyền đạt ý chỉ của Hiển Vương cho Sư Lý Tật. Sư Lý Tật dặn Lâm tiên cô theo nội tể vào Thái y viện, rồi cùng cung chính, nội tể và thái y của vương thất tới cung Tịnh An. Cung chính vén rèm, dẫn Lâm tiên cô bước tới bên giường vương hậu. Vương hậu đầu quấn khăn lụa, nằm im như đang hôn mê.
Lâm tiên cô không bắt mạch, cũng không xem bệnh, mà đứng cách vương hậu một bước chân, nhắm mắt vận công, khai thông thiên mục, quan sát vương hậu từ trên xuống dưới. Lâm tiên cô cứ nhìn như vậy khoảng chừng một khắc, bèn lui trở ra.
Cung chính, nội tể chưa từng nhìn thấy cách chẩn bệnh nào kỳ lạ như vậy, liền đưa mắt nhìn nhau, rồi gọi tiên cô dừng lại.
Nội tể vòng tay vái mà nói: “Xin hỏi thần y, có thể đoán ra bệnh của nương nương chăng?”
Lâm tiên cô không nói là bệnh gì, cũng không nói là không đoán ra bệnh, chỉ mỉm cười, vòng tay đáp lễ một vái, rồi quay người bước đi. Trở về dịch quán, Sư Lý Tật và phó sứ đều chạy ra đón, hỏi ngay: “Xin hỏi tiên cô, nương nương mắc bệnh gì?”
Lâm tiên cô nói khẽ: “Nương nương không có bệnh!”
Khoé miệng Sư Lý Tật khẽ nhếch lên, lộ rõ một nét cười, gật đầu nói: “Tiên cô quả nhiên y thuật cao siêu!” Suy nghĩ một lát, quay sang phó sứ, “mau truyền tin này ra ngoài, nói rõ cho người Ngụy biết!”
“Hạ quan tuân lệnh!”
Một tuỳ tùng sứ Ngụy nhận được mật báo, vội vã tới chỗ Trần Chẩn bẩm lại: “Hạ quan nghe phong thanh được từ chỗ dịch quán Tần, nói là Tần Công mời tiên cô từ núi Chung Nam tới chẩn bệnh cho nương nương, tiên cô nói là bệnh giả.”
“Hừm!” Trần Chẩn khẽ gật đầu, mặt sầm xuống, “ta sớm đã nhìn thấu kế hoãn binh của Chu thất, nên mới mời ngự y tới, không ngờ, ngự y cũng bị họ qua mặt nốt!”
Tuỳ tùng lo lắng hỏi: “Sứ Tần đã nhận ra chân tướng, ắt sẽ tới Chu thất truy hỏi thiên tử. Chu thiên tử cùng đường đuối lý, có lẽ sẽ gả trưởng công chúa cho Tần thất!”
Trần Chẩn cười nhạt: “Hừm, không có chuyện đó đâu! Chuẩn bị xe!”
Trần Chẩn đánh xe thẳng tới Chu cung, cầu kiến Hiển Vương. Ngự sử trực trong cung nhìn thấy sắc mặt tối sầm của Trần Chẩn, không biết có chuyện gì, cũng không dám hỏi nhiều, lập tức tìm gặp nội tể.
Nội tể đắn đo một lát, khấu kiến Hiển Vương nói: “Sứ Ngụy Trần Chẩn cầu kiến!”
Chu Hiển Vương khẽ chau mày: “Chẳng phải ông ta vừa tới hậu cung ư, còn đến đây làm gì nữa?”
“Bẩm bệ hạ, nghe ngự sử nói, Trần Chẩn sắc mặt hằm hằm, có lẽ là tới gây sự!”
“Truyền ông ta bái kiến ở chính điện!”
Trần Chẩn sắc mặt khó coi, bước vào chính điện, tiến thẳng tới triều đường, quỳ xuống khấu đầu nói: “Sứ thần Đại Ngụy Trần Chẩn khấu kiến bệ hạ Đại Chu!”
Chu Hiển Vương liếc nhìn ông ta, nói: “Sứ Ngụy bình thân!”
Trần Chẩn vẫn quỳ dưới đất, cất giọng sang sảng: “Khởi bẩm bệ hạ, Trần Chẩn thân không thể bình!”
Chu Hiển Vương thoáng ngạc nhiên: “Ồ, vì sao không thể bình?”
“Trần Chẩn phụng mệnh bệ hạ Đại Ngụy, tới quý quốc cầu hôn. Nay đã tới Lạc Dương gần một tháng trời, quý quốc vẫn chưa trả lời về hôn sự. Trần Chẩn hổ thẹn với sứ mệnh, nên tới đây thỉnh cầu, bất luận bệ hạ cho phép hay không, Trần Chẩn chỉ cầu một câu trả lời, để còn hồi triều phục mệnh!”
Chu Hiển Vương sắc mặt sa sầm, quay sang nhìn ngự sử. Ngự sử bèn đáp lời: “Sứ Ngụy nghe đây! Theo đại lễ Đại Chu, nếu long thể bệ hạ, ngọc thể nương nương bất an thì vương thất không bàn chuyện hôn nhân. Hiện nay nương nương bệnh nặng chưa khỏi, vương thất trên dưới lo lắng không yên, còn thời gian đâu mà bàn đến hôn sự của công chúa? Nếu sứ Ngụy có lòng thành cầu hôn, xin nhẫn nại chờ đợi, lúc nào ngọc thể nương nương hồi phục, bàn chuyện kết hôn vẫn chưa muộn!”
Trần Chẩn cười khẩy một tiếng: “Nhưng Trần Chẩn nghe nói, ngọc thể nương nương bình yên vô sự, không hề mắc bệnh! Nếu bệ hạ không muốn kết thân với Đại Ngụy, cứ nói thẳng ra, hà cớ phải kiếm cớ thoái thác?”
Tận mắt nhìn thấy vương hậu lâm bệnh nặng, mà sứ thần nước Ngụy lại nói “bình yên vô sự”, Đại Chu thiên tử tức giận tới mặt mày biến dạng, toàn thân run bắn. Ngự sử cũng không thèm nghe nữa, nghiêm giọng nói: “Sứ Ngụy chớ nói năng bừa bãi, hãy tuân theo lễ nghi của thiên triều!”
“Được, Trần Chẩn này sẽ tuân theo lễ nghi của thiên triều!” Trần Chẩn lại giễu cợt một câu, từ từ dập đầu xuống đất, “sứ thần Đại Ngụy Trần Chẩn lần cuối cùng khấu thỉnh bệ hạ Đại Chu, bệ hạ Đại Ngụy thành tâm kết thông gia với bệ hạ Đại Chu, mong tìm kiếm đạo hoà hợp trong thiên hạ. Nếu bệ hạ Đại Chu khăng khăng cố chấp, Trần Chẩn đành phải hồi triều phục mệnh. Bệ hạ Đại Chu nên biết, bệ hạ Đại Ngụy xưa nay coi trọng thể diện, vạn nhất bệ hạ…” Nói tới đây thì cố tình lấp lửng.
Thấy Trần Chẩn một câu “bệ hạ Đại Ngụy” hai câu “bệ hạ Đại Ngụy”, ngự sử sắc mặt tím bầm, đang định khiển trách thì Chu Hiển Vương đã không nhẫn nhịn thêm được nữa, đập mạnh tay xuống bàn, giọng nói tuy chậm rãi, song rất mực uy nghiêm: “Ngụy Hầu đã muốn có câu trả lời, vậy thì mời sứ Ngụy vào giờ Thìn ngày mai, lên điện nghe chỉ!” Rồi cao giọng nói, “tiễn khách!”
Lời nói vừa dứt, liền phẩy ống tay áo bỏ đi.
Sáng sớm hôm sau, Chu thất bỗng tuyên bố đại triều, các quan từ cấp đại phu trở lên đều tập trung ở chính điện. Sứ thần cầu hôn của ba nước là Sư Lý Tật, Trần Chẩn và Thuần Vu Khôn đều tới triều đường, đợi ở trước điện.
Chu Hiển Vương đưa mắt nhìn khắp lượt quần thần, chậm rãi nói: “Chư vị ái khanh, quả nhân đã lâu không lên triều. Hôm nay cho gọi chư vị vào triều là để tuyên một ý chỉ!” Rồi quay sang phía ngự sử, “tuyên chỉ!”
Ngự sử rút chiếu thư từ trong ống tay áo ra, dõng dạc tuyên bố: “Chiếu theo vương chế Đại Chu, trưởng công chúa Cơ Tuyết đã tới tuổi cập kê, đến thì xuất giá. Hôm nay có Yên Công, Tần Công và Ngụy Hầu lần lượt sai sứ thần tới cầu thân, chư công Chu thất tuân theo ý trời, gả trưởng công chúa Cơ Tuyết cho Yên Công Cơ Mẫn. Nhân đây hạ chiếu, bố cáo thiên hạ…”
Quyết định của Chu Hiển Vương nằm ngoài dự đoán của Trần Chẩn và Sư Lý Tật. Hai bên đưa mắt nhìn nhau, rồi kinh ngạc nhìn sững vào sứ thần nước Yên. Thuần Vu Khôn phất ống tay áo, bước tới trước điện, khấu đầu tạ ơn: “Sứ thần cầu hôn nước Yên Thuần Vu Khôn khấu tạ long ân của thiên tử Đại Chu, cung chúc thiên tử bệ hạ vạn thọ vô cương, long thể an khang!”
Chu Hiển Vương giọng khàn đặc, thốt lên hai chữ “bãi triều”, lập tức đứng dậy bỏ đi. Quần thần cũng lục tục ra về. Trần Chẩn, Sư Lý Tật lại nhìn nhau, hậm hực rời khỏi cửa cung, sánh vai bước xuống bậc thềm bên ngoài chính điện.
Trai cò đánh nhau, ngư ông hưởng lợi. Hai nhà Tần, Ngụy tranh chấp kịch liệt, cuối cùng đều thất bại thảm hại, để cho lão Yên Công hưởng lợi, kết cục này, cả Trần Chẩn và Sư Lý Tật đều không thể ngờ tới. Khi cùng bước tới bậc thềm cuối cùng, Trần Chẩn và Sư Lý Tật không hẹn mà cùng dừng bước, bật cười sằng sặc một tràng dài.
Sư Lý Tật quay sang Trần Chẩn, vái dài một cái, giễu cợt mà rằng: “Vẫn nghe có câu, Kẻ hấp tấp không thể ăn đậu phụ nóng. Chuyện ngày hôm nay, câu nói này thật đúng với thượng khanh!”
Trần Chẩn cũng đáp lễ, mỉa mai lại: “Vẫn nghe có câu, Lợn lành chữa thành lợn què. Chuyện ngày hôm nay, câu nói này đã ứng nghiệm với Ngũ đại phu!”
Sư Lý Tật mỉm cười nói: “Thượng khanh đại nhân, là lợn lành hay lợn què, hiện tại nói ra, e vẫn hơi sớm!”
Trần Chẩn cũng cười mà đáp: “Ngũ đại phu, đậu phụ nóng có ăn được hay không, hiện tại nói ra, cũng hơi sớm chăng?”
Hai người nói xong, lại phá lên cười một tràng.
Cười xong, Sư Lý Tật vòng tay nói: “Thượng khanh đại nhân, tại hạ cáo từ, hẹn gặp ở Hà Tây!”
Trần Chẩn cũng vòng tay nói: “Ngũ đại phu, cứ quyết định như vậy, hẹn gặp ở Hà Tây!”
***
Trần Chẩn quay trở về An Ấp, thuật lại chuyện Chu vương hậu giả bệnh thế nào, Chu Vương hứa gả trưởng công chúa cho Yên Công ra sao cho Ngụy Huệ Hầu nghe, cuối cùng tự trách mình: “Đều do vi thần hành sự nóng vội, không thể lo liệu chu toàn mọi việc, xin bệ hạ giáng tội!”
Ngụy Huệ Hầu xuýt xoa mấy lượt, rồi than: “Than ôi, chuyện này cũng thật sự làm khó cho Chu thiên tử! Vương hậu giả bệnh, Cơ Biển gả con gái yêu cho lão Yên Công, đều là cùng bất đắc dĩ mà thôi. Ái khanh lần này đi sứ, không để cho Tần Công toại nguyện, đã là thành công lớn!”
Trần Chẩn đứng dậy, lại khấu đầu nói: “Tạ ân không trách phạt của bệ hạ! Vi thần nghe nói thượng tướng quân ở Hà Tây liên tiếp báo tiệp về triều, quả là chuyện đáng mừng. Công Tôn Ưởng dù mưu kế khôn lường, song chuyện xông pha trận mạc, sao có thể là đối thủ của thượng tướng quân?”
Ngụy Huệ Hầu gật đầu: “Đúng vậy! Gần đây Hà Tây liên tiếp báo tin thắng trận, cũng thu phục không ít thành ấp. Có điều, quả nhân vẫn cảm thấy không yên tâm.”
“Dám hỏi bệ hạ còn vướng mắc điều gì?”
“Nhìn vào toàn cục, tuy Hà Tây liên tiếp thắng trận, song lại đều là thắng lợi nhỏ, quân Tần chẳng qua chỉ sứt sát chút da thịt, đại chiến thực sự vẫn chưa bắt đầu. Điều quả nhân lo lắng, chính là e sợ Ngang Nhi say sưa với những thắng lợi lặt vặt, mà để lỡ mất đại sự!”
“Bệ hạ suy nghĩ sâu xa, vi thần vô cùng khâm phục!”
“Hôm nay ái khanh trở về, cũng vừa hay đúng lúc. Quả nhân muốn khanh tới Hà Tây một chuyến, một là để quan sát tình thế hiện tại, hai là nhắc nhở Ngang Nhi. Khanh hãy truyền khẩu dụ của quả nhân tới Ngang Nhi, nói rằng trận chiến này liên quan tới vận mệnh tương lai của nước Ngụy, căn dặn Ngang Nhi phải tuyệt đối thận trọng, mọi việc đều phải thỉnh giáo Long tướng quân, đánh đến đâu chắc đến đó, không được nóng vội cầu thắng!”
Trần Chẩn lại bái lạy: “Vi thần lập tức lên đường, truyền đạt ý chỉ của bệ hạ tới thượng tướng quân.”
Ngụy Huệ Hầu cười vang: “Cũng không cần gấp gáp quá. Sau chuyến đi Lạc Dương vừa rồi, ái khanh hẳn cũng đã mệt mỏi, hãy về phủ nghỉ ngơi một ngày, sáng mai lên đường cũng chưa muộn!”
“Tạ ơn bệ hạ quan tâm!”
Đúng đêm hôm đó, trong doanh trại quân Ngụy đóng trong một thung lũng rộng rãi trống trải, tiếng trùng rền rĩ, đuốc thắp sáng trưng. Chủ tướng ba quân công tử Ngang đắc ý đứng trước sa bàn, hết nhìn tham tướng, lại nhìn hai lá cờ nhỏ của quân Ngụy cắm trên hai thành trì phía đầu trường thành bên phải. Đứng bên trái công tử Ngang là phó tướng Long Giả, bên phải là tiên phong Bùi Anh.
Đưa mắt nhìn bao quát, trên sa bàn có rất nhiều chấm nhỏ song rời rạc, cắm đầy cờ Ngụy màu xanh, còn cờ đen của quân Tần đã trở nên thưa thớt, gần mười vạn đại quân nước Tần co cụm lại trong tuyến phòng ngự trường thành chỉ vỏn vẹn rộng sáu mươi dặm, dài ba mươi dặm ở phía tây Đỗ Bình. Quân Tần đang phải đối mặt với sáu vạn trung quân của công tử Ngang, bên trái còn có ba vạn võ binh Hà Tây, trong đó có hai vạn lính mới, do phó tướng Long Giả thống lĩnh. Bên phải có ba vạn kỵ mã, là đại quân thiện chiến, do tiên phong tả quân Bùi Anh, ái tướng của công tử Ngang thống lĩnh. Quân Tần gần như đã sa vào bại cục, lúc này chỉ biết dựa vào trường thành kiên cố do người Ngụy xây dựng, quyết liệt chống trả tới cùng.
Tham quân cắm xong cờ, lùi lại tránh sang một bên.
Công tử Ngang dịch chuyển ánh mắt tới hai lá cờ mới cắm, nhìn Bùi Anh khen ngợi: “Bùi tướng quân, hôm nay tướng quân vừa xuất binh đã giành về hai thành ấp Đỗ Bình và Tân Thành, hoàn toàn chặn kín bên phải trường thành, quả là tuyệt diệu!”
Bùi Anh dõng dạc nói: “Là nhờ thượng tướng quân tính toán chu toàn, mạt tướng không dám kể công!”
Công tử Ngang cười vang mà nói: “Có công thì bảo có công, từ chối làm gì?” Rồi quay sang Long Giả, “Long tướng quân, đã đến lúc quyết chiến với người Tần chưa?”
Long Giả do dự một lát: “Khởi bẩm chủ tướng, mạt tướng đã giao chiến nhiều năm với người Tần, chưa từng thấy họ nhẫn nhịn như hiện nay. Mạt tướng e rằng, Công Tôn Ưởng lần này có lẽ là giả vờ bại trận, chúng ta nên thận trọng đề phòng là hơn.”
Công tử Ngang bật cười vài tiếng, quay sang hỏi Bùi Anh: “Bùi tướng quân, Long tướng quân nói người Tần vờ bại trận, ý của tướng quân thế nào?”
Bùi Anh mặt hơi căng lên, dõng dạc nói: “Khởi bẩm chủ tướng, người Tần tuyệt đối không thể vờ bại trận. Theo mạt tướng thấy, người Tần không hề đáng sợ như người ta vẫn đồn. Lần trước, người Tần chẳng qua là bày gian mưu quỷ kế, mới bất ngờ chiếm được Hà Tây. Thế nhưng, vài vạn quân Tần còn không làm gì nổi năm nghìn tàn binh già yếu của Thiếu Lương ta, chứ chưa nói tới Âm Tấn và Lâm Tấn quan. Tới lúc đại quân ta trở về chi viện, quân Tần khác nào lá mùa thu, chưa động vào đã rơi rụng lả tả, gần đây lại liên tục thảm bại, thương vong nặng nề. Người Tần vừa đánh đã thua, mạt tướng mới đầu cũng hơi hoài nghi, song về sau quan sát kỹ dấu vết bại trận của người Tần, thì thấy không hề giả chút nào, đều là toàn quân tan rã, đến cờ hiệu tướng quân cũng bị chúng giẫm đạp lên mà chạy.”
Công tử Ngang gật gù: “Đúng vậy, Bùi tướng quân nói rất hợp tình hợp lý. Nếu quân Tần giả thua, sẽ không có chuyện vứt cả lương thảo, quân nhu và thương binh như vậy!”
Long Giả vội nói: “Chính vì vậy, chúng ta mới phải đề phòng!”
Công tử Ngang khinh khỉnh nhìn Long Giả, cười khẩy mà nói: “Lão tướng quân đã bị người Tần doạ đến mất cả hồn vía rồi chăng? Đúng là thần hồn nát thần tính!”
Long Giả không ngờ công tử Ngang lại nói vỗ mặt như vậy, giận tới run người, miệng lắp bắp: “Thượng tướng quân, tướng quân…”
Công tử Ngang không thèm đếm xỉa đến, quay sang tham tướng bên cạnh, dõng dạc hạ lệnh: “Truyền lệnh, bao vây Đỗ Bình. Sáng mai chuẩn bị một ngày, ngày kia sẽ quyết chiến một trận ở trường thành với quân Tần!”
“Mạt tướng nhận lệnh!”
Công tử Ngang quay sang quân tiền ngự sử: “Soạn chiến thư theo lời bản tướng vừa nói.”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Quân tiền ngự sử dường như đã chuẩn bị sẵn sàng, loáng cái đã soạn xong chiến thư, trình lên công tử Ngang. Công tử Ngang đọc xong, gật gù khen ngợi: “Được lắm, viết rất hay, tám tội trạng liệt kê trong chiến thư đều rất rõ ràng xác đáng. Doanh Cừ Lương, Công Tôn Ưởng lật lọng phản phúc, nói một đằng làm một nẻo, giở thủ đoạn bỉ ổi cướp đoạt Hà Tây, đúng là bất nhân bất nghĩa, không biết liêm sỉ, ai ai cũng muốn tiễu trừ! Có điều, phần cuối cần thêm vào một câu, đó là tuy Tần Công bạc tình bạc nghĩa, khiến người người khinh miệt, song Tử Vân công chúa do hắn sinh ra lại đoan trang hiền thục, rất được bản tướng yêu mến, lần này xuất chinh cũng không nỡ rời xa, nên đã mang theo đến trong doanh trại. Còn Công Tôn Ưởng, bản tướng niệm tình có công mai mối, vào ngày bắt sống, có thể đổi từ hình phạt lăng trì sang chém ngang lưng. Ha ha! Chủ tướng ba quân của Đại Ngụy Ngụy Ngang!”
“Việc này…” Ngự sử do dự, “thượng tướng quân, viết ra những lời này trên chiến thư, e rằng không thích hợp!”
Công tử Ngang quát lớn: “Có gì không thích hợp? Cứ y thế mà viết, một chữ cũng không được cắt bỏ!”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Long Giả trở về doanh trại, nặng nề bước tới trước án, ủ rũ ngồi xuống, một lát sau đập mạnh nắm đấm xuống bàn: “Thằng nhãi ranh đắc chí, thật là tức chết!”
Công Tôn Diễn đang quan sát tình hình chiến trận trên sa bàn, khẽ gọi: “Long tướng quân!”
Long Giả đứng dậy, sắc mặt trầm trọng, tiến tới trước sa bàn. Công Tôn Diễn chỉ tay vào sa bàn, chậm rãi nói: “Tướng quân xem này, phía tây Đỗ Bình là vùng núi, cây cối rậm rạp, gập ghềnh trắc trở, vừa bất lợi cho xe ngựa, vừa không tiện sử dụng vũ khí dài, càng bất lợi cho bài binh bố trận. Chỉ xét riêng về cục diện này, đã thấy võ binh Đại Ngụy ta mất hoàn toàn ưu thế. Ngược lại, quan sát trận thế tuyến phòng thủ trường thành của người Tần ở Đỗ Bình, chiến tuyến rộng sáu mươi dặm, dài ba mươi dặm, lui có thể bảo vệ trường thành, tiến có thể quyết chiến với ta. Hiện tại, thời tiết đang vô cùng oi bức, nguồn nước ở vùng núi đa phần do người Tần chiếm giữ, võ binh của ta toàn thân giáp sắt, chẳng cần tới ba ngày, không chiến cũng tự loạn. Lúc này, nếu như quân Tần nhân cơ hội…” Nói tới đây thì dừng lại, đưa mắt nhìn Long Giả.
Long Giả hít vào một hơi khí lạnh, đứng trơ trơ hồi lâu mới hỏi: “Theo ý Công Tôn huynh, có cách phá giải chăng?”
Công Tôn Diễn gật đầu, nói: “Trận chiến này không thể nôn nóng cầu chiến thắng, chỉ có thể kéo dài. Hơn nữa, quân ta vừa phải vượt đường dài trở về tập kích, sớm đã mệt mỏi, cần được nghỉ ngơi dưỡng sức. Do vậy, tại hạ cho rằng, thượng sách là rút lui năm mươi dặm, dựng thành luỹ cố thủ ở vùng đất bằng phẳng rộng rãi, đối đầu với người Tần. Đồng thời, âm thầm điều động năm vạn tinh binh ra khỏi Hàm Cốc, Âm Tấn, men theo bờ Lạc Thủy đánh vào, cướp lại thành luỹ dọc bờ Lạc Thủy, đặc biệt là cửa khẩu Đại Lệ quan, xây thành luỹ canh phòng cẩn mật. Làm như vậy, thứ nhất có thể cắt đứt đường lương thảo và đường rút lui của kẻ địch, thứ hai có thể ngăn chặn quân chi viện của kẻ địch. Hiện giờ vừa hay là mùa hè, nước sông dâng cao, có thể chống chọi được mười vạn hùng binh. Quân Tần bị chặn đường chi viện, chủ lực lại bị vây khốn ở tuyến phòng thủ trường thành, bên trong không có lương thảo, bên ngoài không có viện binh, muốn tiến không được, muốn lùi chẳng xong. Lại thêm nguồn nước ở vùng núi bị cắt đứt, lương thảo không được tiếp tế, toàn bộ thế trận chẳng khác nào trâu rơi xuống giếng, có sức mà không dùng được, chẳng cần tới ba tháng, tất không chiến mà tự loạn! Lúc đó, bị bức bách tới cùng đường, chỉ có thể tiến về phía đồng bằng, quyết chiến với ta.”
Long Giả nghe vậy, gật đầu lia lịa, chẳng nghĩ ngợi gì thêm, lập tức kéo Công Tôn Diễn dậy: “Chúng ta lập tức tới gặp thượng tướng quân!”
Công Tôn Diễn suy nghĩ một lát, lắc đầu, thở dài mà nói: “Thôi, tướng quân đi một mình đi! Tại hạ không chức không tước, sao dám vào trại trung quân?”
Long Giả giậm mạnh chân một cái, chạy thẳng tới trại trung quân, thuật lại y nguyên lời của Công Tôn Diễn.
Công tử Ngang nghe xong, trầm tư suy nghĩ, một lát sau, mới ngẩng đầu lên hỏi: “Long tướng quân, những lời này của tướng quân, sao vừa nãy lại không nói ra?”
Long Giả do dự một lát: “Không giấu thượng tướng quân, mạt tướng vừa nãy cũng không nghĩ ra.”
“Ồ?” Công tử Ngang kinh ngạc, “chẳng nhẽ những kế sách vừa rồi, đều là của người khác ư?”
Long Giả quyết định nhân cơ hội này tiến cử Công Tôn Diễn, bèn gật đầu nói: “Đúng vậy! Mạt tướng trở về doanh trại, nghe tham tướng bộ hạ Công Tôn Diễn phân tích cục thế, thấy rất có lý, lập tức cầu kiến tướng quân, mong tướng quân nắm lấy thời cơ, y kế tiêu diệt giặc Tần.”
Kế sách của Long Giả hợp tình hợp lý, công tử Ngang vốn đã xuôi tai. Thế nhưng, vừa nghe nói là chủ trương của Công Tôn Diễn, máu nóng trong người bỗng bốc lên ngùn ngụt, cười nhạt mà nói: “Hừm, việc dụng binh giao chiến, một tên môn khách của phủ tướng quốc thì hiểu cái gì? Đánh như vậy, e rằng ba năm cũng không đuổi được người Tần!”
Long Giả cuống quýt: “Thượng tướng quân, hơn chục vạn đại quân, tuyệt không phải trò đùa!”
Nghe thấy hai chữ “trò đùa”, công tử Ngang càng bừng bừng giận dữ: “Trò đùa? Bản tướng từ nhỏ đã làu thông đủ loại binh thư, phá Vệ, đánh Tề, lui Triệu, ngự Hàn, kinh qua trăm trận, lẽ nào còn cần một tên môn khách dạy cho cách dụng binh?”
Long Giả gượng cười mà mặt méo xệch: “Kinh qua trăm trận? Khi lão hủ đây tới trấn thủ Hà Tây, thượng tướng quân vẫn chưa lọt lòng mẹ!”
Công tử Ngang đập bàn quát lớn: “Được lắm Long Giả, cuối cùng thì ông cũng đã lộ ra ý nghĩ thực lòng! Bản tướng sớm đã nhận ra, phụ vương không cho ông làm chủ tướng, trong lòng ông đương nhiên không phục! Được, ông đã dám lộ chân tướng trước mặt bản tướng, bản tướng cũng nói thẳng với ông. Bản tướng từ ngày tới Hà Tây, cũng đã trải qua ba mươi cuộc chiến lớn nhỏ với người Tần, liên tiếp chiến thắng, chưa bại trận nào. Hãy nhìn quân Tần, tan tác tơi bời chẳng khác gì hoa trôi theo nước, vứt cả mũ áo, chưa đánh đã thua. Còn ông ở Hà Tây từng ấy năm, nay lại năm lần bảy lượt phóng đại sức mạnh của người Tần, là có ý gì? Lẽ nào là muốn nhân cơ hội phòng ngự Hà Tây để xin xỏ phụ vương ta tiền bạc, lương thực, rồi lên đây tư túi?”
Long Giả giận đến cả người run lên bần bật: “Thượng… thượng… tướng quân…”
Công tử Ngang giận dữ xua tay: “Đủ rồi, Long lão tướng quân, bản tướng niệm tình ông già cả, tạm thời không so đo tính toán. Nếu không còn việc gì, xin mời về cho, chờ xem ngày kia bản tướng bắt sống Công Tôn Ưởng! Tiễn khách!”
Long Giả quay người, lập tức sải bước ra khỏi trại trung quân. Vừa tới cửa, lại nghe giọng công tử Ngang nói với theo: “Còn nữa…”
Long Giả dừng bước.
“Tên môn khách của phủ tướng quốc kia từ lúc nào đã trở thành tham tướng bộ hạ của ông? Là ai bổ nhiệm hắn? Ông hãy về nói với hắn, lập tức cút ra khỏi doanh trại, nếu không, bản tướng sẽ trị tội mạo xưng chức tước!”
Long Giả bước ra ngoài trại, ngửa mặt nhìn trời than thở: “Than ôi, có tên bất tài kia, khí số của nước Ngụy quả thực tận rồi!”
Long Giả bước sầm sập về trại, lại ngồi ủ rũ. Công Tôn Diễn không cần hỏi cũng đoán được sự tình, thở dài thườn thượt mà nói: “Bảy trăm dặm Hà Tây, hơn chục vạn lính thiết giáp, vài chục vạn bách tính sẽ bị chôn vùi dưới tay hai cha con họ, thực khiến người ta nghĩ mà đau xót!”
Long Giả bật khóc mà nói: “Công Tôn huynh, đừng nói nữa! Huynh mau rời khỏi nơi này, đi xa được bao nhiêu thì cứ đi!”
“Tại sao?” Công Tôn Diễn ngạc nhiên, “chẳng lẽ Long tướng quân lại e ngại có thêm một cỗ xác chết tại đây?”
Long Giả đành phải nói thật: “Là ý của thượng tướng quân!”
Công Tôn Diễn trầm tư hồi lâu, lại thở dài đánh sượt: “Than ôi, tên bất tài vô dụng này, không dung tha cho tại hạ cũng chẳng sao, song còn tước đoạt cả cơ hội tận trung với nước của tại hạ! Được thôi, tại hạ sẽ cho hắn thoả lòng, tại hạ sẽ lập tức đi ngay!”
Công Tôn Diễn chỉ vài bước đã tới bên vách trại, gỡ lấy thanh bảo kiếm của Ngũ Tử Tư xuống, đeo lên mình, rồi quay người bước thẳng ra ngoài.
Long Giả vội vã đuổi theo: “Công Tôn huynh định đi đâu?”
“Âm Tấn!”
Vừa nghe thấy vậy, Long Giả trong lòng chấn động, lập tức hiểu ra dụng ý của Công Tôn Diễn. Công Tôn Diễn đoán chắc Hà Tây chắc chắn sẽ thất thủ, do vậy muốn tới bảo vệ Âm Tấn. Âm Tấn là cửa tây cửa ải Hàm Cốc, nếu có thể giữ được, chính là đã để lại một bàn đạp cho người Ngụy đợi dịp báo thù sau này. Chờ khi nguyên khí hồi phục, quân Ngụy có thể từ Mạnh Tân vượt sông, băng qua tuyến Hào Quan, Hàm Cốc, Âm Tấn, uy hiếp kinh thành Hàm Dương của nước Tần.
Nghĩ tới đây, Long Giả trong lòng cảm động, lập tức trở vào trong trại, lấy ra một tấm lệnh bài, đưa cho Công Tôn Diễn: “Trương Mãnh ở đó, Công Tôn huynh hãy cầm theo thứ này, khi có việc gấp, hắn sẽ nghe theo sự điều động của Công Tôn huynh.”
Công Tôn Diễn gật đầu, nhận lấy lệnh bài, dắt ngựa chiến, ôm quyền hướng về phía Long Giả mà nói: “Long tướng quân, xin hãy bảo trọng!”
Long Giả mắt ngấn lệ, cũng ôm quyền đáp: “Công Tôn huynh, bảo trọng!”
***
Khi chiến thư của công tử Ngang được đưa tới doanh trại quân Tần, Công Tôn Ưởng cẩn thận đọc kỹ một lượt, rồi sai người mang năm lượng vàng lại thưởng cho tên quân uý mang thư, dặn hắn mau về truyền đạt với thượng tướng quân, nói rằng thư hồi âm sẽ nhanh chóng chuyển tới. Quân uý vừa đi khỏi, Công Tôn Ưởng lệnh cho tham tướng thông báo cho chư tướng ba quân đến trại trung quân nghị sự.
Không tới một canh giờ sau, chư tướng ba quân đều đã tới đông đủ, tề tựu trước trại. Công Tôn Ưởng nhìn khắp lượt chư tướng, rồi từ từ mở chiến thư của công tử Ngang, giơ lên cao, cất giọng trầm trầm nói lớn: “Chư vị tướng quân, người Ngụy đã hạ chiến thư!”
Các tướng đều phấn chấn, mỗi người một câu ồn ã: “Tướng quân, chiến thư của chó Ngụy viết gì?”
“Phải rồi, có hẹn ngày mai lúc nào giao chiến không? Chúng ta đã đợi lâu quá rồi!”
“Quân Ngụy chó má, bố mày đã lùi bước hết lần này đến lần khác, nhẫn nhịn hết lần này đến lần khác, để cho chúng mày hí hửng được mấy ngày, chúng mày lại tưởng thật mà làm già!”
Công Tôn Ưởng đặng hắng một tiếng, chư tướng lập tức im bặt.
Công Tôn Ưởng xếp lại chiến thư, vẫn với giọng trầm trầm, chậm rãi mà nói: “Chư vị tướng quân, chư vị đều muốn biết chiến thư này viết gì, vậy bản tướng sẽ đọc cho nghe. Phía trước tạm thời lược bỏ, bản tướng chỉ đọc vài câu cuối cùng: Tần Công bạc tình bạc nghĩa, khiến người người khinh miệt, song Tử Vân công chúa do hắn sinh ra lại đoan trang hiền thục, rất được bản tướng yêu mến, lần này xuất chinh cũng không nỡ rời xa, nên đã mang theo đến trong doanh trại. Còn Công Tôn Ưởng, bản tướng niệm tình có công mai mối, vào ngày bắt sống, có thể đổi từ hình phạt lăng trì sang chém ngang lưng. Chủ tướng ba quân Đại Ngụy Ngụy Ngang!”
Công Tôn Ưởng đọc chậm rãi, tựa như ngâm đọc thi thư thường ngày. Song Công Tôn Ưởng đọc xong, trong trại trung quân lại không hề ồn ào như dự đoán, mà im phăng phắc đến lạ thường, tựa hồ nghe thấy cả tiếng cây kim rơi xuống đất.
Tướng lĩnh dường như đã quên cả tức giận, cũng không chửi bới ồn ào, mà giống như đang đau buồn truy điệu vong linh. Phó tướng Xa Anh quỳ xuống trước tiên, tiếp đó chư tướng theo nhau quỳ xuống, ai cũng giàn giụa nước mắt.
Công Tôn Ưởng cũng quỳ xuống, cất giọng bi thiết: “Chư vị tướng quân, Tử Vân công chúa chính là một tướng lĩnh, một tướng lĩnh đã xung trận trước tiên! Trước Tử Vân công chúa, Công Tôn Ưởng ta chẳng biết nói gì hơn, chỉ biết vung kiếm, đánh bại người Ngụy, thu hồi Hà Tây, báo thù cho công chúa!”
Chư tướng đồng thanh hô lớn: “Báo thù cho Tử Vân công chúa!”
“Chư vị tướng quân!” Công Tôn Ưởng chậm rãi đứng dậy, “hiện giờ, Tử Vân công chúa đang ở trong trại trung quân của người Ngụy. Báo thù thế nào, chúng ta hãy cùng bàn bạc, chư vị mau đứng dậy đi!”
Công Tôn Ưởng bước tới trước sa bàn, các tướng đi theo sau, quây thành vòng tròn xung quanh. Công Tôn Ưởng quay sang Xa Anh, nói: “Biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng. Xa tướng quân, hãy nói về tình hình quân Ngụy!”
Xa Anh hắng giọng, dõng dạc nói: “Chư vị tướng quân, quân Ngụy hiện có ba cánh. Một là năm vạn võ binh phạt Vệ của công tử Ngang, sau khi từ biên giới Vệ rút về còn lại hơn bốn vạn. Hai là võ binh Hà Tây của Long Giả, vốn có năm vạn, đã bị quân ta tiêu diệt hơn vạn, giờ còn không tới bốn vạn, ngoài ra, còn có thêm hai vạn tân binh, nên có tổng cộng sáu vạn. Ba là cánh quân được điều động tạm thời từ An Ấp tới, không tới sáu vạn. Tổng cộng ba lộ quân là mười sáu vạn, bốn vạn trấn giữ các trấn mới thu phục gần đây và một số nơi như Lâm Tấn quan, Thiếu Lương và Âm Tấn. Mười hai vạn quân còn lại, lần lượt chia làm hữu quân, trung quân và tả quân. Ba vạn hữu quân, trong đó có một vạn là võ binh, hai vạn là lính mới, do Long Giả thống lĩnh. Ba vạn tả quân, là kỵ sĩ thiết giáp hùng mạnh nhất, cũng gây uy hiếp lớn nhất, do Bùi Anh thống lĩnh. Số còn lại là trung quân, do công tử Ngang đích thân thống lĩnh.”
Những điều này rõ như ban ngày, các tướng đều đã thuộc làu, Xa Anh chẳng qua chỉ là nói cho đúng lệ. Đợi Xa Anh dứt lời, Công Tôn Ưởng cầm một cây thước, chỉ vào các điểm khác nhau trên sa bàn, giọng nói sang sảng: “Chư vị nhìn xem, từ đây tới đây là hữu quân của Long Giả; từ đây tới đây là tả quân của Bùi Anh; từ đây tới đây là trung quân của công tử Ngang! Cho tới hiện giờ, kế dụ địch của ta đã thành công, mười hai vạn con lợn ngu xuẩn đều đã nhảy lên trên thớt theo đúng dự tính của chúng ta, chờ đợi các vị tướng quân đây băm chặt. Có điều, lũ lợn ngu đần này tuy đã nhảy lên thớt, song sẽ không bó tay chờ giết. Nếu muốn làm thịt chúng, còn phải trông chờ vào tài trí của chư vị tướng quân!”
Chư tướng đồng thanh nói lớn: “Hạ đao thế nào, xin chủ tướng xuống lệnh!”
“Tốt, chư tướng nghe lệnh!”
Chư tướng lập tức đứng thẳng, ánh mắt đổ dồn vào Công Tôn Ưởng.
Công Tôn Ưởng cất giọng sang sảng: “Bản tướng quyết định, dựa vào trường thành, dùng thế trận Trường xà chữ nhất trói chặt bầy lợn Ngụy. Tư Mã Thác!”
Tư Mã Thác bước lên đáp lớn: “Có mạt tướng!”
“Đội quân mà người Ngụy tin tưởng nhất chính là ba vạn kỵ mã thiết giáp của Bùi Anh. Khi giao chiến, tướng quân mang theo một vạn kỵ binh, nghênh chiến với kỵ mã thiết giáp của quân Ngụy, dụ chúng vào khe Hồ Lô, coi như đã thành công. Sau đó, tướng quân cố gắng dẫn quân chạy xuyên qua khe núi, không phải bận tâm về đám kỵ mã thiết giáp phía sau, đi đường tắt tới thẳng Đỗ Bình, chặn đường rút lui của công tử Ngang!”
“Mạt tướng nhận lệnh!”
Công Tôn Ưởng quay sang một tướng quân khác: “Lý tướng quân!”
“Có mạt tướng!”
“Tướng quân dẫn hai vạn lính chùy, phục ở bên trái khe Hồ Lô, đợi sau khi quân kỵ mã của Ngụy đã lọt vào khe núi, dùng tật lê sắt(1) phong toả hai đầu khe, rồi nhằm đánh vào đầu ngựa!”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Công Tôn Ưởng quay sang một người đứng ngay cạnh Lý tướng quân: “Triệu tướng quân!”
“Có mạt tướng!”
“Tướng quân dẫn hai vạn lính bộ binh, phục ở bên phải khe Hồ Lô, đợi chiến mã khuỵu xuống, lập tức tấn công lính thiết giáp ngã ngựa!”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Công Tôn Ưởng chậm rãi quay sang Xa Anh: “Tướng quân!”
“Có mạt tướng!”
“Tướng quân dẫn năm vạn lính bộ binh khinh giáp, phục trong rừng rậm sát trường thành, cắt đứt tất cả mọi nguồn nước, đợi võ binh Ngụy xông tới, thì dụ chúng vào trong rừng rậm, tránh giao chiến trực diện, cần đánh tỉa du kích, chia ra bao vây, dồn lại mà diệt!”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Công Tôn Ưởng đưa mắt nhìn các tướng lĩnh còn lại: “Các vị tướng quân còn lại, dẫn theo cánh quân của mình, theo bản tướng nghênh chiến với công tử Ngang!”
Chư tướng đồng thanh đáp: “Mạt tướng tuân lệnh!”
Chư tướng đã lui ra hết, Công Tôn Ưởng chỉ giữ lại Tư Mã Thác, dặn riêng rằng: “Tư Mã tướng quân, sau khi chặn được công tử Ngang, nhất thiết phải cứu Tử Vân công chúa! Nhớ kỹ, nếu công chúa có mệnh hệ nào, bản tướng sẽ hỏi tội tướng quân!”
Tư Mã Thác dõng dạc đáp: “Mạt tướng tuân lệnh!”
Tiễn Tư Mã Thác về xong, Công Tôn Ưởng trở vào trong trại, ngồi trầm tư một lát, rồi đích thân viết thư hồi âm, sau đó lệnh cho quân uý mang tới cho công tử Ngang.
Công tử Ngang nhận thư hồi âm, đưa cho tham tướng, phẩy tay: “Bóc, đọc đi!”
Tham tướng bóc thư, dõng dạc đọc: “Nhận được chiến thư của thượng tướng quân, Ưởng đọc đi đọc lại ba lần, không khỏi hoang mang. Tướng quân trong thư có liệt kê tội trạng của Tần Công và Ưởng, Ưởng không có gì phản bác. Hôm nay hồi đáp một góc thư này, xin cho Ưởng giải thích đôi lời. Hà Tây vốn là đất của Tần, sáu mươi năm trước bị Ngô Khởi cướp mất. Ngày nay hai nước đã kết tình thân, như người một nhà. Đã là người một nhà, Tần Công đương nhiên cho rằng, xét về lý, bệ hạ nên trả lại Hà Tây cho Tần. Tần Công sai Ưởng tới nhận, cũng là chức phận bề tôi. Ưởng đã nhận lệnh của chúa thượng, đương nhiên không dám lơ là. Ưởng khẩn cầu tướng quân phân trần giúp nỗi khổ tâm của Ưởng lên bệ hạ Đại Ngụy. Chỉ cần bệ hạ trả lại Hà Tây, Tần Công đảm bảo đời đời nghe theo sự sai khiến của bệ hạ. Nếu tướng quân vẫn khăng khăng muốn chém giết, tuy Ưởng không địch nổi hổ uy của tướng quân, song do cùng đường, chỉ có thể giương mâu chờ đợi. Ưởng không thông võ nghệ, thuở nhỏ chỉ đọc qua trận pháp ‘Trường xà chữ nhất’, nay sẽ bày dưới chân trường thành. Ngày mai trước trận, Ưởng sẽ dẫn ba quân cung nghênh tướng quân!
Chủ tướng ba quân nước Tần Công Tôn Ưởng khấu đầu.”
Công tử Ngang nghe xong, cười vang, nói với quân uý chuyển thư của Tần: “Được, ngươi hãy quay về, chuyển lời tới Công Tôn Ưởng, rằng bản tướng cho phép hắn vươn cổ chờ sẵn trước trận, giờ Thìn ngày mai, bản tướng sẽ tới đập nát đầu rắn của hắn!”
Quân uý nước Tần quay người lui ra, Công tử Ngang nhìn theo bóng hắn, cười khẩy một tiếng, quay sang tham tướng: “Hừm, thế trận Trường xà chữ nhất cũng dám rêu rao! Truyền chư tướng tới trướng nghe lệnh!”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Sáng sớm hôm sau, trên vạt đất bằng phẳng rộng rãi phía tây Đỗ Bình, công tử Ngang lên đài quan sát, nhìn về phía xa, thấy đại quân nước Tần, quả đúng như Công Tôn Ưởng đã nói, đang bày thế trận Trường xà chữ nhất rộng vài dặm trước trường thành.
Công tử Ngang cười thầm, quyết định cho toàn quân Ngụy nhất loạt xông lên, tiến đánh từ đầu rắn tới tận đuôi rắn, chặt đứt hình rắn thành ba khúc, chia ra bao vây, công phá từng khúc.
Công tử Ngang bước xuống khỏi đài quan sát, triệu tập chư tướng, truyền lệnh cho ba quân cũng triển khai thế trận chữ nhất.
Một canh giờ trôi qua, trận thế quân Ngụy đã dàn xong, ba vạn kỵ binh thiết giáp đặt ở bên trái, từ xa nhìn lại, chỉ thấy một vạt áo giáp sáng loáng. Đại tướng tiên phong Bùi Anh hiên ngang dựng thẳng cây thương, đứng trên cỗ chiến xa ở giữa. Đối đầu với ba vạn kỵ binh thiết giáp phía Ngụy là một vạn kỵ binh khinh giáp của Tư Mã Thác, tướng quân tiên phong phía quân Tần là Tư Mã Thác cầm ngang cây thương, đứng ngay trước trận. Nhìn vào tình thế trước mắt, sự chênh lệch lực lượng giữa hai bên đã rất rõ ràng.
Trước trận trung quân, Công Tôn Ưởng, công tử Ngang đều đứng trên xe chủ soái phía mình. Giờ Thìn đã tới, hai bên đồng thời nổi trống thùng thùng. Trong tiếng trống trận rền vang, hai vị chủ soái đều cho xe tiến lên trăm bước, rồi ghìm ngựa dừng lại cách nhau một tầm tên bay.
Tuy Công Tôn Ưởng cũng toàn thân giáp trụ, song hai tay trống không, đứng trên xe chiến, đợi xe dừng lại, bèn ôm quyền hướng về phía công tử Ngang, vái mà nói: “Công Tôn Ưởng bái kiến thượng tướng quân!”
Công tử Ngang tay trái cầm thương, tay phải chỉ vào Công Tôn Ưởng, quát lớn: “Công Tôn Ưởng, người ngay thẳng không làm chuyện mờ ám! Bản tướng vốn trọng ngươi là trang hán tử, hôm nay mới thấy, chẳng qua chỉ là kẻ tiểu nhân khua môi múa mép, lòng dạ phản phúc! Bản tướng phụng mệnh bệ hạ Đại Ngụy, tới đây bắt ngươi! Hãy cầm thương lên, bản tướng không giết kẻ tay không tấc sắt!”
Công Tôn Ưởng lại ôm quyền hành lễ mà nói: “Thượng tướng quân võ công thâm hậu, Công Tôn Ưởng không dám cầm thương!”
“Đã không dám cầm, vậy thì mau xuống xe chịu trói!”
Công Tôn Ưởng cười vang, nói: “Thỏ con trong lúc cấp bách còn biết cắn người, huống chi Công Tôn Ưởng đây còn có quân binh dũng mãnh. Thượng tướng quân nếu có bản lĩnh, chỉ cần phá được thế trận Trường xà chữ nhất này, Công Tôn Ưởng sẽ không nói nửa lời, tự khắc xuống xe chịu trói.”
Công tử Ngang ngửa mặt lên trời cười một tràng dài: “Ha ha ha, thế trận Trường xà chữ nhất là cái thá gì! Trong mắt bản tướng, chẳng qua chỉ là một con rắn chết! Công Tôn Ưởng, hãy nhìn thương!” Lời vừa nói dứt, lập tức vung thương đánh xe lao tới.
Chiến xa của Công Tôn Ưởng lập tức xoay vụt đi, chạy thẳng về trước trận. Công tử Ngang cũng chẳng qua làm động tác giả, để nhân thế quay vòng đầu xe.
Giờ đang giữa mùa hè, trời nóng như đổ lửa. Trên hai trận quân, chỉ thấy quân kỳ phấp phới, giáo mác sáng loà, kiếm rút cung giương, song không nghe thấy bất cứ âm thanh nào khác, tĩnh lặng đến âm trầm.
Công tử Ngang lớn tiếng quát hỏi: “Ai muốn lập công đầu tiên?”
Bùi Anh trả lời ngay: “Có mạt tướng!”
Một hồi trống trận dồn dập, Bùi Anh giục chiến xa ào ào lăn bánh, xông lên trước trận, dựng đứng mũi thương, hét lớn về phía trận quân Tần: “Tiên phong Đại Ngụy Bùi Anh ở đây, kẻ nào dám tới chịu chết?”
Bùi Anh vừa dứt lời, trước quân trận nước Tần, một kỵ mã xông ra, chính là tiên phong quân Tần Tư Mã Thác.
Tiếng trống trên hai trận vang rền điếc óc. Chẳng mấy chốc, chiến xa của Bùi Anh và ngựa của Tư Mã Thác đã quấn vào nhau, một xe một ngựa bắt đầu quần thảo.
Hai bên qua lại hơn mười hiệp, Tư Mã Thác đã kém thế thấy rõ, gần như chỉ còn biết chống đỡ, không ra nổi một đòn tấn công, Bùi Anh ngược lại càng đánh càng hăng, cây ngân thương trong tay lên xuống tít mù, khiến ba quân tướng sĩ Đại Ngụy hò reo ầm ĩ.
Tư Mã Thác không chống đỡ nổi, thúc ngựa bỏ chạy. Bùi Anh làm gì có chuyện bỏ qua, lập tức đánh xe đuổi theo. Công tử Ngang không bỏ lỡ thời cơ, vung tay hô lớn: “Tả quân tấn công!” Nói xong cướp lấy cây dùi, đích thân đánh trống.
Tả quân kỵ mã thiết giáp phía Đại Ngụy vốn đã chuẩn bị sẵn sàng, chỉ chờ có vậy, lập tức ùa lên, bám theo Bùi Anh, khí thế hừng hực như dời non lấp biển, áp sát quân Tần. Đội kỵ mã quân Tần kinh hoàng chết lặng, tới khi định thần trở lại, lập tức hậu quân biến thành tiền quân, đội hình rối loạn, nháo nhác bỏ chạy.
Chủ tướng quân Tần Công Tôn Ưởng nhìn thấy kỵ mã thiết giáp quân Ngụy đã bị dụ đi, liền ra vẻ kinh hãi, lập tức hạ lệnh lui quân. Lúc này, lính bộ binh của Tần cũng không chiến mà tan, hè nhau bỏ chạy.
Công tử Ngang nào biết là trúng kế, hăm hở phất cờ lệnh, hô hào hữu quân của Long Giả xuất kích. Quân Tần không chiến tự nhiên tan rã, đôi mắt tinh tường của Long Giả đã nhìn thấu tỏ, vội sai kỳ thủ phất cờ lệnh, ra hiệu rằng đối phương đang dùng kế dụ địch vào tròng, nhất thiết không được tấn công.
Nhìn thấy hữu quân lề mề bất động, công tử Ngang sốt ruột, chửi mắng Long Giả ầm ĩ, rồi xông lên dẫn đầu, điên cuồng đuổi theo. Tướng sĩ trung quân nhìn thấy chủ soái dẫn đầu xung trận, lập tức tranh nhau xông lên, khí thế hừng hực, ồ ạt đuổi theo bộ binh nước Tần đang tháo chạy tan tác.
Bùi Anh nóng lòng muốn diệt gọn toán kỵ binh khinh giáp phía Tần, dẫn theo ba vạn kỵ sĩ thiết giáp đuổi riết theo sau, quyết không buông tha. Quân Tần dần dần bị “ép” vào trong khe Hồ Lô. Bùi Anh dù sao cũng có nhiều năm kinh nghiệm sa trường, nhìn thấy trong khe núi địa thế hiểm trở, thì do dự một lát, ghìm ngựa dừng trước cửa khe. Tuy nhiên, nghe thấy tiếng người hét ngựa hí vẳng lại từ phía xa trong khe núi, xem chừng địch đang hoảng loạn thực sự, thì lại không thể kiềm lòng, bèn vung tay ra hiệu cho quân đuổi vào trong khe.
Kỵ sĩ quân Ngụy đuổi theo vài dặm trong khe núi, nhìn thấy hai bên vách đá vươn cao sừng sững, cây cối um tùm, dây leo chằng chịt, trên đường núi lại tuyệt nhiên không thấy một kỵ sĩ nào của quân Tần, tướng Ngụy cảm thấy nghi ngờ, vội hạ lệnh rút quân. Song đã muộn rồi, hai đầu khe núi thình lình xuất hiện dễ đến vài nghìn quân Tần, ào ào xông tới, mang theo vô số rào gỗ, tật lê sắt, ném đầy vào miệng khe, vây thành trận thế, cắt đứt trong ngoài.
Tiếp đến, trống trận lại nổi thùng thùng, tiếng hô giết vang trời như sấm, vô số lính chùy xông ra từ trong các lùm cây rậm rạp, nhờ vào cây cối che chắn, chỉ nhắm vào đầu ngựa mà phang. Ngựa chiến trúng đòn, hoặc ngã khuỵu, hoặc nhảy dựng điên cuồng, khiến lính Ngụy liên tiếp bị hất văng khỏi yên ngựa. Đa số họ còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra, đã bị bộ binh quân Tần không biết từ đâu bất ngờ nhảy tới, vung đao ngang cổ. Còn những kẻ chưa bị trúng đòn, do cây thương dài rất khó sử dụng nơi rừng rậm, nên không thể địch lại với bộ binh phía Tần tiến lui linh hoạt, với vũ khí ngắn trên tay.
Bùi Anh tiếp ứng ở ngoài khe, nghe thấy bên trong tiếng hô giết động trời, biết rằng có chuyện chẳng lành, vội vã dẫn số quân còn lại xông vào trong khe. Kỵ binh Ngụy xông lên đến mấy lần, song chiến mã giẫm phải tật lê sắt, theo nhau ngã xuống. Bùi Anh hoảng hốt, nhảy xuống khỏi chiến mã, rút đoản kiếm ứng chiến. Kỵ binh Ngụy thấy vậy, thảy đều nhảy xuống ngựa, kỵ binh biến thành bộ binh, trường thương đổi thành đoản kiếm, vội vã bám sát Bùi Anh, đá văng tật lê, dọn quang rào gỗ, hò hét vang động, xông vào trong khe. Quân Tần trấn giữ ở cửa khe không đủ sức ngăn cản khí thế của võ binh phía Ngụy, đã để quân Ngụy tràn vào.
Cảnh tượng trong khe vô cùng thê thảm, lính Ngụy kẻ chết người bị thương, ngổn ngang la liệt. Ngựa chiến lăn ngang, ngã dọc, hoặc chổng bốn vó hí lên thảm thiết. Những người chưa trúng thương từ từ tụ lại thành đám, đánh đỡ quyết liệt.
Bùi Anh liều mạng cứu thoát được đám lính bị bao vây, rút lui từng bước tới cửa khe. Khi tất cả thoát được ra ngoài, điểm lại quân số, ba vạn kỵ binh thiết giáp đã thiệt hại tới hơn hai vạn.
Còn về phía công tử Ngang dẫn đầu trung quân đuổi đánh quân Tần, đuổi thẳng một mạch tới chân trường thành. Quân Tần đã bày sẵn thế trận dọc theo đồi núi, bắt đầu kiên cường chống trả. Công tử Ngang nổi giận đùng đùng, lại đánh trống xung trận, quân Tần lại tan rã, tháo chạy tứ tán, chui hết vào rừng cây. Công tử Ngang dương dương tự đắc, hò hét lệnh cho tướng sĩ mau chóng tản ra truy kích, chiếm lấy trường thành.
Tuy nhiên, tới khi võ binh Ngụy đuổi tới rừng cây, quả đúng như lời Công Tôn Diễn dự đoán, trường thương không thể phát huy tác dụng, ngược lại còn vướng víu phiền toái, cộng thêm khí hậu nóng bức, người Ngụy do thiếu chuẩn bị, đều không mang theo nước uống, mồ hôi như tắm, khát cháy cổ họng, vội vàng tìm tới bên khe suối. Nguồn suối đã sớm bị người Tần cắt đứt, giờ đều cạn khô, lính Ngụy trong lúc cấp bách, không tìm thấy một giọt nước. Lính Ngụy bàng hoàng lo sợ, muốn tìm quân Tần để đánh, song lại không thấy một bóng người. Muốn tìm nơi nghỉ ngơi, lại bị quân Tần bất ngờ tập kích, không thể đề phòng cho xuể.
Hai bên giao chiến kịch liệt tới giữa trưa, Bùi Anh dẫn vài nghìn tàn binh tả tơi chui ra khỏi khe Hồ Lô, vội vã chạy tới. Công tử Ngang nhìn thấy, kinh hoàng thất sắc, lập tức ra lệnh gióng chiêng thu quân.
Song lúc này, có muốn thu quân cũng đã muộn rồi. Nghe thấy tiếng chiêng của quân Ngụy, Công Tôn Ưởng đang ngồi bình thản uống trà trên luỹ trường thành, lập tức truyền lệnh thúc trống tấn công. Tiếng trống trận phía quân Tần vừa vang lên, có đến vài vạn quân Tần ồ ạt xông ra từ trường thành và rừng cây, khí thế như núi lở, lao thẳng về phía quân Ngụy. Lính Đại Ngụy vừa trải qua nửa ngày quần thảo, mệt mỏi rệu rã, giờ nghe thấy tiếng chiêng, sớm đã không còn ý chí chiến đấu, trong lúc hoảng loạn, lập tức trở thành mục tiêu sát phạt của quân Tần. Quân Ngụy hỗn loạn tan hoang, trong lúc nguy cấp, may sao ba vạn hữu quân của Long Giả kịp thời xông tới, vững vàng như bàn thạch giữa dòng nước xiết, chặn đứng quân Tần, vừa chiến vừa lui một cách trật tự.
Công tử Ngang cũng vội vã tháo chạy. Trong lúc nguy cấp, bánh xe của công tử Ngang sa xuống hố đất. Từ xa nhìn thấy quân Tần đuổi sát tới nơi, công tử Ngang không kịp suy nghĩ, nhảy xuống xe chiến, chặt đứt càng xe, chẳng kịp lắp yên, cứ thế nhảy lên ngựa kéo, hoảng hốt tháo chạy dưới sự bảo vệ của đám tướng Bùi Anh.
Trận chiến bắt đầu vào giờ Thìn, tới lúc hoàng hôn đã gần như kết thúc.
Bóng tối vừa ập xuống, chiến báo từ các ngả tới tấp truyền đến doanh trại quân Tần. Xa Anh xem qua một lượt, phấn khởi báo với Công Tôn Ưởng: “Cuộc chiến đã kết thúc, tình hình sơ bộ như sau: Trong khe Hồ Lô, kỵ binh thiết giáp của địch thiệt hại hai vạn hai nghìn, trong đó chém đầu một vạn tám nghìn, bắt sống bốn nghìn. Dọc tuyến trường thành, ước tính chém đầu bốn vạn bảy nghìn võ binh, bắt sống một vạn một nghìn, thu giữ vô số quân nhu. Thương vong phía ta vẫn chưa thống kê đầy đủ, tạm ước tính, có lẽ không quá ba vạn.”
Công Tôn Ưởng gật đầu: “Còn phía Tư Mã tướng quân thế nào?”
“Đang truy kích công tử Ngang!”
Công Tôn Ưởng khẽ chau mày, hỏi: “Nghe nói Tử Vân công chúa đã được cứu ra, vậy người đâu?”
Xa Anh hạ giọng bẩm báo: “Tư Mã tướng quân đã đích thân cứu ra. Hạ quan sợ xảy ra bất trắc, đã sai người hộ tống công chúa tới Lạc Thủy, có lẽ giờ này đã gặp chúa thượng, anh em điện hạ hẳn đang đoàn tụ.”
“Ồ!” Công Tôn Ưởng thở phào nhẹ nhõm, từ từ khép mắt lại, một lát sau, mới ngẩng đầu lên nói, “dọn dẹp xong chiến trường, cho anh em tướng sĩ nghỉ ngơi lấy sức. Suốt mấy ngày qua, họ đã lao lực quá rồi!”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Xa Anh đang định truyền lệnh, bỗng thấy tham tướng của Tư Mã Thác hộc tốc chạy vào trong trại: “Báo, Tư Mã tướng quân đã bao vây công tử Ngang và Bùi Anh ở phía đông Đỗ Bình. Để chúng sống hay là giết chết, Tư Mã tướng quân sai mạt tướng tới nhận lệnh!”
Xa Anh mừng rỡ đập bàn nói: “Truyền lệnh Tư Mã tướng quân, bắt sống công tử Ngang!”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Tham tướng đang định lui ra thì Công Tôn Ưởng mở bừng mắt, nói: “Khoan đã!”
Tham tướng quay người lại.
“Truyền lệnh Tư Mã tướng quân, chém đầu Bùi Anh, thả công tử Ngang!”
Tham tướng vẫn đứng đực như trời trồng, kinh ngạc nhìn Xa Anh. Xa Anh tuy chưa thực hiểu, song vẫn quát lên: “Còn đứng ngẩn ra đó làm gì? Mau đi truyền lệnh chủ tướng!”
Tham tướng vội đáp “tuân lệnh”, gấp rút rời khỏi trại. Thấy tham tướng phi ngựa đi khỏi, Xa Anh mới nhìn Công Tôn Ưởng, nghi ngờ hỏi: “Trong các cuộc giao chiến từ xưa tới nay, bắt sống chủ tướng phía địch mới được coi là toàn thắng. Nay công tử Ngang chẳng khác gì vật ở trong túi, cớ sao đại lương tạo lại cho hắn cơ hội sống?”
Công Tôn Ưởng trả lời: “Công tử Ngang dù gì cũng là thái tử của bệ hạ Đại Ngụy, ít nhiều vẫn phải giữ chút thể diện cho ông ta!”
Xa Anh suy nghĩ một lát, dường như đã hiểu ra: “Ý đại lương tạo là…”
Công Tôn Ưởng bật cười vang: “Bảo bối sống này vẫn nên giữ lại cho bệ hạ Đại Ngụy dùng thì tốt hơn!”
***
Công Tôn Diễn chạy tới Âm Tấn, gặp tướng thủ thành Trương Mãnh. Hai người trò chuyện rôm rả, đương nhiên lại nói tới chiến sự Hà Tây. Công Tôn Diễn thuật lại sơ qua tình hình ta địch, Trương Mãnh nghe xong, mặt mày biến sắc, mãi lâu sau mới nói nên lời: “Công Tôn tiên sinh, có cách nào cứu vãn chăng?”
Công Tôn Diễn sắc mặt nặng trịch, khẽ lắc đầu, ngửa mặt nhìn sắc trời, thở dài một tiếng: “Than ôi, nếu đúng như dự tính, người Tần giờ đây đã bắt đầu thảm sát!”
Trương Mãnh vội nói: “Công Tôn tiên sinh, mạt tướng sao có thể giương mắt đứng nhìn tướng sĩ của chúng ta bị thảm sát?”
Công Tôn Diễn lại thở dài: “Còn cách gì nữa đây? Thảm sát lính Ngụy lại không phải là người Tần, mà chính là bệ hạ của chúng ta và con trai bảo bối.”
Dù thời tiết vô cùng nóng nực, song Trương Mãnh lại rùng mình ớn lạnh, hồi lâu sau mới mới hỏi một câu chẳng ăn nhập gì: “Tiên sinh tới đây, là muốn giúp mạt tướng bảo vệ Âm Tấn?”
Công Tôn Diễn lại lắc đầu: “Hiện tại người Tần vẫn chưa để ý tới Âm Tấn!”
“Vậy… Trương Mãnh có thể làm được gì?”
“Tại hạ muốn mượn sức của tướng quân, đi một nước cờ hiểm!”
Trương Mãnh vội nói: “Tiên sinh mau nói! Chỉ cần có thể cứu vãn được tình thế thất bại, đừng nói là một nước cờ hiểm, dù là cả cái đầu của Trương Mãnh, tiên sinh cũng có thể mang đi!”
Công Tôn Diễn rút từ thắt lưng ra tấm lệnh bài của Long Giả: “Tướng quân chọn giúp tại hạ năm nghìn tinh binh tráng kiện, điều thêm một viên hổ tướng!”
“Tiên sinh yên tâm, thuộc hạ của mạt tướng ai cũng tráng kiện. Còn về hổ tướng, mạt tướng được chăng?”
“Được! Cho anh em tướng sĩ nghỉ ngơi ngay bây giờ, nổi lửa nấu cơm, rồi xuất phát trong đêm nay. Còn nữa, mỗi người mang theo một dải khăn trắng.”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Trời đã tối sập, Công Tôn Diễn dẫn theo năm nghìn dũng sĩ, âm thầm rời khỏi cổng tây của Âm Tấn, men theo Lạc Thủy tới Đỗ Bình. Âm Tấn cách Đỗ Bình một trăm năm mươi dặm, đám Công Tôn Diễn quá nửa đêm thì tới nơi. Công Tôn Diễn lệnh cho người ngựa chui vào lùm cây nghỉ ngơi một lát, rồi xuất kích trước lúc bình minh.
Trước lúc bình minh là thời điểm tối tăm nhất. Phía tây Đỗ Bình, trên sườn núi rộng chừng vài dặm dọc theo tuyến trường thành, vài vạn người ngựa trung quân của nước Tần sau vài ngày căng thẳng và một ngày giao chiến kịch hệt, lúc này đã hoàn toàn thả lỏng, chìm vào giấc ngủ say sưa. Kể cả những người lính đang canh gác cũng khó lòng cầm chắc được cây thương, thậm chí đã ôm thương ngáy khò khò.
Từ trong lùm cây không xa, năm nghìn lính Ngụy sẵn sàng chờ chiến. Công Tôn Diễn lấy ra một mảnh khăn trắng, buộc vào cánh tay trái, nói với Trương Mãnh: “Truyền lệnh, hễ thấy ai trên tay không buộc khăn trắng, giết ngay không hỏi! Ngoài ra, chỉ được đánh mạnh đánh nhanh, song không được tham đánh! Khi trời vừa sáng, đánh trống làm hiệu lệnh, lập tức rút về theo đường cũ!”
Trương Mãnh ngạc nhiên: “Đánh trống?”
Công Tôn Diễn gật đầu: “Đúng vậy, nghe thấy tiếng trống, lập tức rút quân!”
Trương Mãnh có vẻ đã hiểu ra, gật đầu lia lịa.
Công Tôn Diễn chỉ tay vào một vạt lều trại rộng lớn trước mặt, nói khẽ: “Trương tướng quân, phía sườn núi đằng kia, lều trại dày đặc nhất, hẳn là khu trại của Công Tôn Ưởng!”
Trương Mãnh cũng lấy từ trong ống tay áo ra một mảnh khăn trắng, buộc vào cánh tay trái, nghiến răng mà nói: “Truyền lệnh, phàm thấy ai không có khăn trắng trên tay, giết ngay không hỏi! Đến khi trời sáng, nghe thấy tiếng trống, lập tức rút quân!”
Từ xa, vọng lại tiếng gà gáy lác đác.
Công Tôn Diễn vung mạnh cánh tay, năm nghìn lính Ngụy lập tức ào lên như tên bắn, tràn vào vào doanh trại quân Tần đang lặng im phăng phắc. Chỉ một lát sau, suốt mười mấy dặm doanh trại quân Tần, lửa cháy rợp trời, tiếng hô giết vang dậy. Doanh trại Tần đại loạn, quân lính giẫm đạp lên nhau, tử thương nhiều không kể xiết. Quân Ngụy tứ phía thẳng tay chém giết, quân Tần không kịp trở tay, tiếng gào rú thảm thiết liên miên bất tuyệt.
Trong trại trung quân, Công Tôn Ưởng sau mấy ngày mệt mỏi, giờ đang ngủ say như chết. Bỗng nghe tiếng hô dậy đất, giật mình choàng tỉnh, bật người ngồi dậy, còn chưa kịp nói gì đã thấy Xa Anh hốt hoảng chạy vào bẩm báo: “Mau! Quân Ngụy đột nhập doanh trại, mau theo mạt tướng xông ra!”
Công Tôn Ưởng vốn mặc nguyên áo giáp đi ngủ, giờ nghe tin dữ, lập tức rút kiếm xông ra khỏi trại, đã có binh sĩ dắt ngựa đợi sẵn. Công Tôn Ưởng lập tức lên ngựa, cùng Xa Anh và đám quân thân tín mở đường máu xông ra.
Chạy chưa được bao xa, Trương Mãnh, Công Tôn Diễn đã lao thẳng tới, nhìn thấy hai người, bèn tức tốc đuổi theo. Xa Anh quay lại, thúc ngựa, cầm thương chặn đường Trương Mãnh, hét lớn: “Đại lương tạo, mau chạy đi!”
Công Tôn Diễn nghe thấy, vội hô lớn: “Anh em tướng sĩ, Công Tôn Ưởng ở đây!”
Vài chục lính Ngụy đang chém giết gần đó, nghe thấy tiếng hô, đồng loạt xông lại, vây kín lấy đám Công Tôn Ưởng, tình thế cực kỳ nguy cấp. Cũng may Công Tôn Ưởng khí số chưa tận, Tư Mã Thác nhìn thấy lửa cháy ở Đỗ Bình, đã vội vã chạy tới cứu viện, dẫn quân xông thẳng vào vòng vây, bảo vệ đám Công Tôn Ưởng, Xa Anh rút chạy an toàn.
Công Tôn Diễn thấy trời đã sáng, hạ lệnh gõ trống. Trong đêm tối, Tư Mã Thác vốn không biết số quân Ngụy đột nhập vào trại nhiều ít ra sao, lại nghe thấy tiếng trống trận nổi lên dồn dập, vội vàng dàn quân phòng ngự, tới khi nhận ra chân tướng, người Ngụy đã ung dung rút hết.
Khi trời sáng hẳn, điểm lại quân số, chỉ riêng trong cuộc chiến này, quân Tần đã thiệt hại đến một vạn ba nghìn tướng sĩ, số quân bị thương nhiều không đếm xuể.
Nhìn một vạt doanh trại tan hoang và xác quân lính ngổn ngang la liệt, Công Tôn Ưởng chết lặng, mãi không nói nổi một lời. Những xác chết này không phải ngã xuống nơi sa trường, mà ngã xuống ngay trong giấc ngủ, thân là chủ tướng, lúc này ông còn nói được gì đây?
Không biết bao lâu sau, Công Tôn Ưởng mới ngẩng lên hỏi: “Đã điều tra ra ai là kẻ đột nhập doanh trại chưa?”
Tư Mã Thác giọng khàn đặc: “Công Tôn Diễn!”
Công Tôn Ưởng thất thần ngồi phịch xuống đất, cổ họng tắc nghẹn.
***
Sau khi yết kiến Ngụy Hầu, Trần Chẩn nghe theo lời Ngụy Hầu, nghỉ ngơi một đêm, sáng sớm hôm sau mới lên đường tới Lâm Tấn quan. Do việc không gấp, nên Trần Chẩn đi rất thong dong. Khi qua cầu phao Hà Thủy, đột nhiên nhận được tin báo, chiến cục Hà Tây đã định đoạt.
Trần Chẩn gấp rút tới Lâm Tấn quan, vừa vào trong phủ tướng, đã có tướng sĩ chạy tới bẩm báo chi tiết tình hình. Trần Chẩn bàng hoàng kinh hãi, ngã quỵ xuống đất. Ông ta đã đặt cược hết thảy vào cuộc đại chiến này, vậy mà than ôi, gã công tử Ngang đúng là phường bị thịt vô tích sự!
Rạng sáng hôm sau, trong lúc Trần Chẩn đang đau đầu nhức óc, thì công tử Ngang toàn thân đẫm máu vừa thoát khỏi trùng vây chạy được vào trong quan ải, được thủ tướng đón đưa vào trong phủ. Công tử Ngang nhìn thấy Trần Chẩn, đã không chào hỏi, cũng chẳng nói gì, cứ thế ngồi phệt xuống. Đúng là thất thần thê thảm hai hàng lệ, ủ ê đờ đẫn một thân sầu.
Hai người ngồi đờ đẫn hồi lâu, công tử Ngang gọi thủ tướng mang lại hai bình rượu, cũng không cần đồ nhắm, cứ ngồi tại chỗ, ngửa cổ uống hết chén này đến chén khác.
Trần Chẩn không khuyên gì, chỉ nhắm hờ hai mắt, chau tít đôi mày. Rất lâu sau, Trần Chẩn mới thở dài một tiếng: “Công tử bại trận lần này, đúng là đi sai một nước cờ khiến toàn cục thất bại!”
Công tử Ngang lừ mắt nhìn Trần Chẩn, thình lình ném vụt chén rỗng đi, bê cả bình rượu lên tu ừng ực một hơi, sau đó quăng luôn bình rượu, rút kiếm đưa ngang cần cổ.
Trần Chẩn thấy vậy, lao vội tới giằng lấy thanh kiếm. Công tử Ngang ngẩng đầu lên, hai mắt đỏ ngầu, trợn trừng nhìn Trần Chẩn: “Tướng bại trận, chỉ còn nước chết mà thôi! Sao lại cản ta?”
Trần Chẩn lại ngồi xuống, tiếp tục thở dài: “Than ôi, sự việc đã tới nước này, dù tướng quân có chết, cũng làm được gì đây?”
Công tử Ngang cất giọng bi thương: “Ba quân Đại Ngụy tan tác, ông bảo ta… bảo ta… còn mặt mũi nào gặp phụ vương?”
Trần Chẩn chưa kịp nói gì, thủ tướng của Lâm Tấn quan đã tất tả chạy vào, vui mừng thông báo: “Báo! Rạng sáng nay, thủ tướng Âm Tấn Trương Mãnh dẫn năm nghìn binh lính đột kích trung quân của Công Tôn Ưởng, chặt đầu hơn vạn, quân số bị thương chưa rõ bao nhiêu, suýt bắt sống được Công Tôn Ưởng!”
Công tử Ngang không dám tin vào những lời vừa nghe thấy, đứng sững hồi lâu, mãi mới lắp bắp: “Trương Mãnh? Năm nghìn binh lính? Tập kích trung quân? Quân số bị thương chưa rõ bao nhiêu?”
Trần Chẩn mừng rỡ, suy nghĩ một lát, phẩy tay bảo thủ tướng lui ra, thở phào một tiếng, quay sang công tử Ngang: “Đúng là trời không tuyệt đường sống của người!”
Công tử Ngang nghe thấy vậy, vội hỏi: “Xin hỏi thượng khanh, câu này có nghĩa gì?”
“Hạ quan có một kế, có thể cứu nguy cho công tử!”
Công tử Ngang mắt sáng rỡ, như thể chết đuối vớ được cọc: “Thượng khanh có diệu kế gì?”
Trần Chẩn ghé sát tai công tử Ngang thì thầm.
Công tử Ngang đứng dậy, bái lạy sát đất: “Lần này nhờ vào ân cứu mạng của thượng khanh, xin nhận của Ngụy Ngang một lạy!”
Trần Chẩn kéo công tử Ngang dậy, vội vã cáo từ, cấp tốc quay trở về An Ấp, đi thẳng tới cung Ngụy. Nhìn thấy Ngụy Huệ Hầu đang ngồi ngây như tượng trước bàn, mắt đẫm lệ, Trần Chẩn vội quỳ rạp sát đất, mông chổng lên cao, không dám thở mạnh.
Một lát sau, tỳ nhân tay cầm chiến báo, chậm rãi bước vào thư phòng: “Bệ hạ, có chiến báo của thượng tướng quân!”
Tỳ nhân trình chiến báo lên trước Ngụy Huệ Hầu, Ngụy Huệ Hầu vẫn không hề nhúc nhích. Tỳ nhân thoáng ngạc nhiên, chầm chậm lui ra. Vừa lui tới cửa, bỗng nghe thấy giọng nói trầm nặng của Ngụy Huệ Hầu: “Truyền chỉ!”
Tỳ nhân dừng bước.
“Ban ba thước lụa trắng, cho tên bại tướng kia vĩnh viễn ở lại Hà Tây, cùng với tám vạn lính thiết giáp của quả nhân!”
Tỳ nhân như không nghe thấy, đứng im bất động.
Ngụy Huệ Hầu trợn trừng hai mắt, quát lên như sấm: “Còn không đi mau!”
Tỳ nhân quỳ xuống: “Bệ hạ…” Rồi lại ngẩng nhìn Ngụy Hầu, lắp bắp, “lão… lão nô tuân chỉ!”
Tỳ nhân đang định lui ra, Trần Chẩn bèn ngẩng lên gọi: “Khoan đã!”
Tỳ nhân bèn đứng lại.
Trần Chẩn lại dập đầu lạy: “Bệ hạ, vi thần có đôi lời muốn nói!”
Ngụy Huệ Hầu không thèm đếm xỉa tới ông ta, quay mặt nhìn sang hướng khác.
Trần Chẩn cầm chiến báo trên bàn lên, làm ra vẻ chăm chú đọc một hồi, lại dập đầu nói: “Hà Tây thất bại, không phải lỗi của thượng tướng quân, khẩn cầu bệ hạ thu hồi chỉ lệnh.”
Ngụy Huệ Hầu quay mặt lại, chỉ tay vào Trần Chẩn, toàn thân run bắn, nói: “Trần Chẩn… quả nhân còn chưa hỏi tội ngươi, vậy mà ngươi còn dám khua môi múa mép nói đỡ cho tên nghiệt tử kia! Quả nhân hỏi ngươi, chỉ trong hai ngày ngắn ngủi, tám vạn lính thiết giáp của quả nhân đã bị tiêu diệt trong tay tên vô tích sự ấy, ngươi nói không phải lỗi của hắn, lẽ nào là quả nhân đã sai?”
Trần Chẩn không hề hốt hoảng, thủng thẳng dập đầu mà nói: “Xin bệ hạ hãy nghe vi thần nói, rồi trị tội thượng tướng quân và vi thần cũng chưa muộn!”
Ngụy Huệ Hầu hừ mũi một tiếng, giọng lạnh tanh: “Nói đi!”
“Vi thần đã đọc kỹ chiến báo, biết rõ nguyên nhân thất bại ở Hà Tây là do phó tướng Long Giả. Trước khi trận chiến bắt đầu, Long tướng quân liên tục xin đừng đánh, song thượng tướng quân đều không đồng ý. Vào ngày đại chiến, thượng tướng quân hạ lệnh hữu quân xuất kích, trống trận đã nổi, mà Long tướng quân lại ôm hận trong lòng, không chịu nghe hiệu lệnh, hữu quân lề mề chậm trễ, để lỡ quân cơ, dẫn đến toàn cục thất bại.”
Ngụy Huệ Hầu sửng sốt: “Long tướng quân không nghe quân lệnh? Chuyện này không thể!”
“Vi thần vốn cũng không tin, nên đã đích thân tới ba quân điều tra, tướng sĩ ba quân đều nói như vậy. Bệ hạ, Long tướng quân án binh bất động, ba quân đều biết, vi thần đâu dám nói bừa!”
Ngụy Huệ Hầu sắc mặt lạnh lùng, dường như đang suy xét thực giả.
Trần Chẩn dõng dạc nói: “May mà thượng tướng quân lâm nguy không loạn, chỉ huy như thần, trước hết ổn định thế trận, sau đó ngầm lệnh cho thủ tướng Âm Tấn Trương Mãnh dẫn thuộc hạ tập kích trung quân Tần ngay trong đêm đó, đốt cháy hai mươi dặm trại giặc, chém chết ba vạn quân, lính Tần bị thương nhiều không đếm xuể, suýt nữa còn bắt sống chủ tướng quân Tần Công Tôn Ưởng và phó tướng Xa Anh!”
Ngụy Huệ Hầu trong lòng kích động, nôn nóng hỏi dồn: “Chiến báo đâu?”
Trần Chẩn trình chiến báo lên Huệ Hầu, Huệ Hầu gấp gáp đọc một lượt từ đầu tới cuối, tức giận mà nói: “Lão già Long Giả, quả là đã làm lỡ việc lớn của quả nhân! Người đâu!”
Trần Chẩn lập tức khấu đầu: “Vi thần còn có một thỉnh cầu, mong được bệ hạ ân chuẩn!”
“Ái khanh mau nói!”
“Long lão tướng quân trấn giữ Hà Tây suốt mấy chục năm, cũng đã một đời chinh chiến. Lần này lâm trận rụt rè, có lẽ là do tuổi cao sức yếu. Vi thần dám liều thỉnh cầu bệ hạ, nể tình Long lão tướng quân từng có công lớn với nước, tạm tha cho lão một lần!”
Ngụy Huệ Hầu trầm tư một hồi, lắc đầu than thở: “Than ôi, sự việc ra nông nỗi này, cũng là lỗi của quả nhân. Đã cho Ngang Nhi làm chủ tướng, sao lại để Long Giả làm phó tướng? Được, quả nhân chấp thuận thỉnh cầu của khanh, cho Long Giả cáo lão về quê, vĩnh viễn không dùng đến nữa!”
“Bệ hạ thánh minh!” Trần Chẩn lại dập đầu nói, “thượng tướng quân tấu xin tạm thời rút quân khỏi Hà Tây, đợi thời cơ chín muồi, lại quyết chiến một trận với người Tần, xin bệ hạ minh xét!”
“Chuẩn cho thỉnh cầu của thượng tướng quân!”
“Vi thần tuân chỉ!”
Hồi Thứ 9
Tránh họa lớn, thiên tử gả con
Bị bức hôn, công chúa bỏ trốn
Tuân theo ý chỉ của Ngụy Huệ Vương, công tử Ngang từ bỏ các ấp trọng yếu ở Hà Tây như Thiếu Lương, Lâm Tấn quan, rút về Hà Đông, tự tay đốt cháy cầu phao, đối đầu với quân Tần qua sông Hà Thuỷ.
Phó tướng Xa Anh nhận được tin báo, vội về bẩm tấu: “Khởi bẩm chúa thượng, tướng Ngụy công tử Ngang rút quân về Hà Đông, ngoài cô thành Âm Tấn vẫn do tướng Ngụy là Trương Mãnh và Công Tôn Diễn trấn giữ, toàn bộ Hà Tây hiện không còn bất cứ người Ngụy nào nữa.”
Doanh Kiền mừng rỡ, bước lên trước nói: “Thần đệ cho rằng, có thể thừa thắng tấn công Âm Tấn, chiếm lấy cửa ải Hàm Cốc hiểm yếu!”
Mắt thấy cơ hội hiếm có, Tần Hiếu Công cũng vô cùng phấn khởi, bèn quay sang Công Tôn Ưởng, hỏi: “Ý ái khanh thế nào?”
“Vi thần cho rằng không thể xuất quân! Thường có câu, Giặc cùng đường chớ đuổi, quân đau thương chớ bức. Nước Ngụy nguyên khí hao tổn nghiêm trọng, không còn đủ sức tiếp tục xưng bá. Âm Tấn đã trở thành một thành trơ trọi, thu phục chỉ là việc sớm muộn, sao phải vội vàng?”
Doanh Kiền cười nhạt vài tiếng, châm chọc: “Phải chăng đại lương tạo bị người ta nửa đêm đột kích sợ đến vỡ mật, nên khiếp hãi Công Tôn Diễn rồi ư?”
Công Tôn Ưởng chưa kịp trả lời, Tần Hiếu Công đã lừ mắt nhìn Doanh Kiền, rồi quyết định: “Việc Âm Tấn không cần bàn cãi nữa, hãy làm theo lời Công Tôn ái khanh!”
“Chúa thượng thánh minh,” Công Tôn Ưởng dường như đã có tính toán tiếp theo. “Chiến sự Hà Tây đã kết thúc, vi thần cho rằng, tiếp đến phải tính đến chuyện lập thái tử phi. Thiên hạ đã trải qua một cơn hỗn loạn, không thể không có một kết cục!”
Tần Hiếu Công ngẫm nghĩ một lát rồi nói lớn: “Sư Lý Tật nghe chỉ!”
Sư Lý Tật bước lên một bước: “Có vi thần!”
“Chuẩn bị lễ vật, tới Chu thất cầu thân!”
“Vi thần tiếp chỉ!”
Rồi Hiếu Công quay sang Tư Mã Thác: “Tư Mã tướng quân!”
“Có mạt tướng!”
“Khanh dẫn ba vạn bộ binh, mượn đường nước Hàn, hộ tống Sư Lý đại phu tới Chu thất cầu thân. Sau khi đến Chu, khanh hãy giúp quả nhân bày tỏ thành ý tới Chu thiên tử bệ hạ!”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
***
Hay tin quân Tần đại thắng Hà Tây, Cơ Tuyết vô cùng kích động, nằm phục xuống giường khóc mãi không thôi. Sau khi đã khóc chán, Cơ Tuyết bèn lau nước mắt, đứng dậy, đi về phía cung Tịnh An.
Vương hậu dù rằng không có bệnh, nhưng nằm liệt giường lâu ngày, cơ thể đã yếu đi nhiều, mới đi mấy bước đã thở hổn hển. Lại thêm giả bệnh dù chỉ là diễn kịch, nhưng cũng phải diễn cho giống thực, nên cho dù sứ thần Ngụy, Tần đã rời đi, vương hậu thường ngày vẫn nằm nghỉ trên giường phượng, để ngọc thể từ từ hồi phục.
Cơ Tuyết đi vào cung, chậm rãi quỳ xuống trước giường vương hậu, nước mắt đầm đìa, giọng nức nở: “Mẫu hậu…!”
Mắt vương hậu cũng nhoà lệ, đưa tay vuốt nhẹ mái tóc Cơ Tuyết: “Tuyết Nhi, mẫu hậu biết, gả con cho Yên Công, thật thiệt thòi cho con, mẫu hậu…”
“Mẫu hậu, nước Ngụy đã bị đánh bại, người Ngụy sẽ không dám bức hôn nữa. Mẫu hậu, con…”
Vương hậu biết Cơ Tuyết đang nghĩ gì, liền dịu dàng nói: “Tuyết Nhi, tâm sự của con, Vũ Nhi đã nói cho ta nghe từ lâu. Thế nhưng… chúng ta là thân nữ nhi, không thể làm chủ chuyện hôn nhân đại sự!”
Cơ Tuyết lại vái lạy, khóc mà nói: “Tuyết Nhi biết không thể làm chủ, Tuyết Nhi chỉ khẩn cầu mẫu hậu cầu xin phụ vương, xin phụ vương tác thành cho Tuyết Nhi!”
Vương hậu ôm chặt con gái: “Tuyết Nhi…”
Hai mẹ con ôm nhau khóc thảm thiết, đau thương tột độ. Một lát sau, Cơ Tuyết cáo từ, vương hậu trầm ngâm suy nghĩ một lát, sau đó cho gọi cung chính đến, bảo ông ta đỡ mình ra khỏi cung. Một lúc sau, vương hậu đã đến ngự thư phòng. Nội tể nghe báo, liền chạy ra lạy chào.
Vương hậu hỏi: “Bệ hạ có ở đây không?”
Nội tể đáp: “Xin nương nương đợi một lát, nô tài lập tức bẩm báo!”
Nội tể đứng dậy, đẩy cửa đi vào, thấy Hiển Vương đang nằm trên giường ngủ lơ mơ. Nội tể do dự một lát, rồi nói khẽ: “Bệ hạ, nương nương giá lâm!”
Hiển Vương giật mình, vừa định đứng dậy thì vương hậu đã tự bước vào, tiến lên bái lạy: “Thần thiếp khấu kiến bệ hạ!”
Hiển Vương vội đứng dậy, đưa tay đỡ lấy vương hậu: “Tử đồng, sao khanh lại tới đây?”
Vương hậu khẽ cười: “Hôm nay thần thiếp thấy trong người khoẻ hơn chút ít, muốn ra ngoài đi lại chốc lát. Sau khi ra khỏi cửa, không biết thế nào mà lại đi đến thư phòng của bệ hạ!”
Hiển Vương dìu vương hậu tới bên chiếc giường êm, thận trọng đỡ vương hậu ngồi xuống, vui vẻ nói: “Lúc nãy quả nhân vừa nhắc tới khanh, đang định tới thăm, ai ngờ khanh lại tự đến được. Tử đồng, ngồi đi!”
Hiển Vương dìu vương hậu ngồi xuống, rồi quay sang sai bảo nội tể: “Pha trà cho nương nương!”
Nội tể dâng trà, vương hậu nhấp một ngụm nhỏ, cười khẽ mà nói: “Thần thiếp tạ ơn trà thơm của bệ hạ!”
Vương hậu cứ mở miệng là xưng thần thiếp, nội tể biết ý, liền vội vàng lui ra, tiện tay đóng cửa lại.
Thấy không còn ai nữa, vương hậu từ từ đứng dậy rồi quỳ xuống trước mặt Hiển Vương. Hiển Vương giật mình, đứng ngẩn ra một lúc mới thốt nên lời: “Tử đồng… nàng…”
Vương hậu nghẹn ngào nhỏ lệ, khóc sùi sụt một hồi mới nói: “Thần thiếp đến đây là có việc muốn cầu xin bệ hạ!”
Hiển Vương từ từ định thần lại, đỡ vương hậu đứng dậy, rồi nói: “Tử đồng, giữa nàng và quả nhân sao lại nói đến chữ cầu xin? Nàng có chuyện gì, hãy cứ nói ra!”
“Thần thiếp không có chuyện gì, mà là Tuyết Nhi… Bệ hạ, dù sao Yên Công cũng là một ông già, còn Tuyết Nhi…” Vương hậu càng nói càng nước mắt giàn giụa.
Nghe đến chuyện của Tuyết Nhi, sắc mặt Hiển Vương lập tức sầm lại, hai tay từ từ buông vương hậu ra, hai chân lảo đảo, lùi lại mấy bước, rồi ngồi phịch xuống chiếu. Vương hậu gạt lệ, ánh mắt khẩn thiết nhìn vào Hiển Vương.
Không gian lặng phắc như tờ.
Vương hậu bỗng nhìn thấy hai giọt nước mắt từ từ ứa ra bên khoé mắt Hiển Vương. Rất lâu sau Hiển Vương mới thở dài sườn sượt, rồi khẽ lắc đầu.
Cơ Tuyết nặng trĩu tâm sự, đang trên đường trở về tẩm cung, chợt thấy Cơ Vũ và thị nữ Xuân Mai cải trang thành thôn nữ, tay xách giỏ tre đựng lá dâu, chân bước hối hả chuẩn bị ra khỏi cửa.
Thấy Cơ Tuyết sắc mặt rầu rĩ, Cơ Vũ liền dừng chân, hỏi: “A tỷ, có chuyện gì ư?”
Cơ Tuyết gượng cười: “Không có gì, chỉ hơi đau đầu thôi. Vũ Nhi, em cải trang thế này, lại muốn đi đâu?”
Cơ Vũ thì thầm bên tai Cơ Tuyết, Cơ Tuyết giật mình: “Gì kia? Đi tìm Quỷ Cốc tiên sinh?”
“Vâng!” Cơ Vũ phấn khởi đáp.
“Tại sao lại đi tìm lão?”
“Cầm sư nói lão trượng là cầm thánh, mẫu hậu nói lão trượng là thần tiên, chuyện gì cũng biết. Chị thử nói xem, liệu trong thiên hạ thực sự có thần nhân chăng? Vũ Nhi thì không tin!”
Cơ Tuyết vội nói: “Cầm sư nói lão trượng ở tận Quỷ Cốc, em tới đó bằng cách nào?”
“Không giấu gì chị, hiện giờ, lão trượng đang ở Lạc Dương.”
Cơ Tuyết ngơ ngác: “Lạc Dương? Chỗ nào kia?”
“Trên phố! Vũ Nhi không những biết rõ hiện giờ lão trượng đang ở trên phố, mà còn biết được lão chính là một thầy đoán mệnh, Vũ Nhi muốn thử xem, lão trượng đoán mệnh tướng có đúng hay không.”
Cơ Tuyết ngần ngừ một lát, sau đó khẽ giọng trách: “Vũ Nhi, thân nhi nữ không được tuỳ tiện lộ diện bên ngoài, nếu phụ vương và mẫu hậu biết được, hẳn là…”
Cơ Vũ cười khúc khích, nói: “A tỷ yên tâm, Vũ Nhi đi một lát sẽ về ngay. Nếu phụ vương mẫu hậu có hỏi, phiền chị che giấu giúp cho.”
“Được rồi, đi nhanh về nhanh, đừng để chị lo lắng!”
Cơ Vũ vâng dạ, sau đó cùng Xuân Mai nhanh chóng lẻn ra ngoài theo cửa bên.
Một lát sau, hai người đã ra đến phố, lại tìm đến ngã ba lần trước. Từ xa nhìn lại, thấy tiểu đồng vẫn cầm phướn, đứng thẳng ở bên đường.
Cơ Vũ chậm rãi bước tới trước mặt Quỷ Cốc Tử, từ từ ngồi xuống. Quỷ Cốc Tử hai mắt vẫn nhắm nghiền, ngồi ngay ngắn trên mặt đất.
“Tiên sinh!” Cơ Vũ khẽ cất tiếng gọi.
Quỷ Cốc Tử dường như không nghe thấy, vẫn ngồi lặng phắc.
Cơ Vũ hơi cao giọng: “Tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử vẫn không có phản ứng gì.
Xuân Mai khẽ kéo áo Cơ Vũ, rồi ghé sát tai nàng nói: “Công chúa, chắc tiên sinh ngủ thiếp đi rồi!”
Bất đồ vọng lại tiếng cười phì của tiểu đồng: “Hi hi, nhà chị ngủ thì có! Còn với gia sư, phải gọi là nhập định.”
Cơ Vũ ngẩng nhìn tiểu đồng, cười ngọt ngào: “Chị đây muốn nhờ tiên sinh xem cho một quẻ, làm phiền tiểu đồng mời tiên sinh xuất định.”
Tiểu đồng chỉ cười, tay vẫn giữ thẳng cây phướn đứng ngay ngắn. Cơ Vũ liếc nhìn Xuân Mai, chau mày mấy lần, đang định đứng dậy thì Quỷ Cốc tiên sinh bỗng lên tiếng: “Cô nương muốn cầu chuyện gì?”
Cơ Vũ mừng rỡ, vội ra hiệu cho Xuân Mai. Xuân Mai bèn lấy ra một đĩnh vàng, Cơ Vũ nhận lấy, hai tay dâng lên trước mặt Quỷ Cốc Tử, rồi nói: “Tiểu nữ muốn biết chuyện tương lai, khẩn cầu tiên sinh chỉ giáo!”
Quỷ Cốc Tử hai mắt vẫn nhắm nghiền: “Lão hủ đây lớn có thể đoán vận số thiên hạ, vừa có thể đoán vận số bang quốc, nhỏ có thể đoán vận số gia đình, không biết cô nương muốn hỏi chuyện gì?”
Cơ Vũ ngẫm nghĩ một lát: “Bang quốc không phải thứ tiểu nữ muốn cầu, thiên hạ cũng chẳng phải thứ tiểu nữ muốn có, điều tiểu nữ muốn biết chỉ là chuyện thân gia, mong tiên sinh chỉ dạy!”
Quỷ Cốc Tử khẽ gật đầu, chậm rãi nói: “Vận số của cô nương, có thể đoán biết thông qua quẻ tượng, tướng mặt, tướng tay, tướng mạch, tướng xương, tướng tâm, cũng có thể đoán biết qua giải chữ. Cô nương muốn xem cách nào?”
“Tiểu nữ muốn nhờ tiên sinh giải chữ.”
“Giải chữ lại chia thành giải hình và giải ý, cô nương muốn giải hình hay giải ý?”
Cơ Vũ lập tức trả lời: “Giải ý!”
“Nói đi! Cô nương muốn giải chữ nào?” Quỷ Cốc Tử mỉm cười hỏi.
Cơ Vũ không chút do dự, đưa tay lấy từ trong ngực áo ra con ve sầu bằng ngọc trắng: “Chính là hai chữ này, ‘ngọc thiền’.”
Quỷ Cốc Tử mở mắt, ánh nhìn sắc bén như lưỡi kiếm chiếu thẳng vào Cơ Vũ, quan sát nàng khắp một lượt từ đầu tới chân, sau đó lại nhìn vào con ve sầu bằng ngọc. Nhìn một lát, Quỷ Cốc Tử khẽ gật đầu: “Con ve ngọc thực đẹp!” Rồi hai mắt lại nhắm nghiền, giống như nhập định.
Cơ Vũ chờ đợi sốt ruột, đang định lên tiếng hỏi, thì Quỷ Cốc Tử đã chậm rãi cất tiếng: “Ngọc do tinh khí trời đất hoá thành, phẩm tính tôn quý; ve sinh ra nhờ sương ngọt, phẩm tính thanh nhã. Ngọc qua mài giũa mà thành ve sầu, là món đồ trong vương thất. Thế nhưng…” Đến đây, tựa như muốn nói lại thôi.
Nghe thấy hai chữ “thế nhưng”, Cơ Vũ chột dạ hỏi: “Tiên sinh cứ nói, không phải ngại ngần.”
“Ngọc dù tôn quý, song lại là thứ bị phàm tục tranh cướp. Ve dù thanh nhã, nhưng không thể bay cao, phải bám cành bám lá mới có thể sống tạm qua ngày.”
Cơ Vũ trong lòng chấn động, song ngoài mặt vẫn cố giữ vẻ điềm tĩnh, muốn thăm dò Quỷ Cốc Tử thêm nữa, nên cố tình không thừa nhận.
“Lời của tiên sinh mặc dù hữu lý, nhưng lại không hề liên quan đến tiểu nữ!”
Quỷ Cốc Tử dường như không nghe thấy, lại nói tiếp: “Ngọc hình thành từ núi này, từ lâu đã bị thiên hạ săn đuổi; cây mà ve này đậu, từ lâu đã cội mục thân tàn!”
Cơ Vũ giật mình, hít ngược một hơi khí lạnh. Không ngờ, Quỷ Cốc Tử không những biết rõ thân thế của mình, mà còn nhìn thấu hoàn cảnh hiện tại, dường như tất cả những gì liên quan đến Cơ Vũ, ông đều nhìn rõ như lòng bàn tay.
Cơ Vũ hai mắt tròn xoe, nhìn chằm chằm vào Quỷ Cốc Tử, thấy ông vẫn hai mắt nhắm nghiền, dường như những điều vừa nói không liên quan gì đến hiện tại, cũng chẳng liên quan gì đến thiếu nữ trước mặt.
“Những điều tiên sinh vừa nói…” Cơ Vũ vừa nói vừa khẽ đảo mắt, “chẳng qua đều từ hai chữ ‘ngọc thiền’. Xin cho tiểu nữ được hỏi, con ve ngọc của tiểu nữ, tình cảnh hiện tại ra sao?”
“Có người đang giăng lưới, muốn bắt làm đồ chơi!”
Cơ Vũ tim nảy lên một cái, kinh ngạc đến buột kêu lên thất thanh: “Vậy… tiên sinh, nó… nó phải làm thế nào đây?”
“Bay đi! Chẳng phải nó có đôi cánh ư?”
Cơ Vũ vội hỏi: “Tiên sinh, lưới giăng khắp thiên hạ, ve dù có muốn bay, nhưng cánh mỏng sức yếu, cũng không biết bay về đâu!”
Quỷ Cốc Tử đột ngột mở choàng hai mắt, nhìn thẳng vào Cơ Vũ, nhấn mạnh từng tiếng: “Ve sinh từ đất, sống bám trên cây, tự do trong rừng. Nếu ve muốn tự cứu mình, có thể bay về nơi rừng sâu núi thẳm.”
Cơ Vũ nghe vậy, tựa hồ như trút được gánh nặng, liền thở hắt ra một hơi dài, mắt nhìn Quỷ Cốc Tử, đúng lúc gặp phải ánh mắt sáng quắc tinh anh của Quỷ Cốc Tử chiếu lại. Cơ Vũ cảm thấy ánh mắt ấy thật thân thiết hiền từ, xuyên thấu tất thảy, dường như nhìn thấu tận tâm can mình, lại dường như đã tiếp nạp mình.
Cơ Vũ bỗng thấy tâm tư bình yên trở lại, bèn hướng về Quỷ Cốc Tử lạy liền ba lạy: “Tiểu nữ xin thay ve ngọc cảm tạ tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử hai mắt từ từ khép lại: “Cô nương đi đường cẩn thận!”
Cơ Vũ quay đầu đi được mấy bước, bỗng sực nhớ ra một điều, liền quay lại hỏi: “Nếu tiểu nữ lại muốn nhờ chỉ giáo, không biết phải đến đâu để tìm tiên sinh?”
“Miếu Hiên Viên phía đông thành!”
Người Tần mượn đường đi qua đất Hàn, lại muốn ép Chu thất gả công chúa, những người Hàn ủng hộ Chu thất lập tức đến báo tin cho nhà Chu.
Nhan thái sư nhận được tin báo, vội vã vào cung yết kiến Hiển Vương: “Khởi tấu bệ hạ, Tần Công phái Tư Mã Thác mang theo ba vạn binh, đi vòng qua đất Hàn, đang tiến thẳng đến Lạc Dương!”
Hiển Vương vô cùng kinh ngạc: “Người Tần đến có chuyện gì?”
“Cầu hôn!”
Hiển Vương chau mày: “Chẳng phải đã cầu hôn rồi ư, sao lại còn cầu nữa?”
Nhan thái sư cúi đầu ủ rũ.
Hiển Vương sắc mặt sa sầm: “Việc này làm sao có thể! Quả nhân đã bố cáo liệt quốc, gả trưởng công chúa cho Yên Công. Nay nếu phản phúc, quả nhân còn mặt mũi nào?”
“Bệ hạ!” Nhan thái sư ngẩng đầu bẩm tấu. “Người Tần vừa đại thắng quân Ngụy, đoạt lại Hà Tây, Tần Công thừa thắng cầu hôn, mục đích ắt cũng là vì thể diện! Bệ hạ, người Tần lần trước dùng lễ cầu hôn, lần này dùng binh bức ép, xem ra quyết đoạt cho bằng được!”
Hiển Vương nghe vậy, vô cùng căng thẳng.
“Tần vốn là đất nước sài lang, nay lại thừa thắng mà tới, nếu bệ hạ cố chấp không nghe theo, quân Tần chắc chắn sẽ kéo đến chân thành, hậu quả thật khó tưởng tượng!”
Chu Hiển Vương sắc mặt trắng bệch, lắp bắp: “Ý ái khanh là, lần này quả nhân không thể không cúi đầu trước người Tần?”
“Bệ hạ!” Nhan thái sư lắc đầu thở dài. “Vi thần cho rằng, chuyện đến nước này, đã không còn là có cúi đầu hay không nữa!”
Chu Hiển Vương kinh hãi: “Hả?”
“Lần này nước Ngụy đại bại, tuy nói bá khí không còn, song vẫn là nước lớn. Nước Tần đại thắng, mặc dù uy chấn liệt quốc, nhưng uy thế vẫn chưa đủ để xưng bá thiên hạ. Phía tây Lạc Dương có hai quan ải Hào, Hàm, phía bắc có sông Hà Thuỷ hiểm trở bao quanh, cho dù người Tần có dũng mãnh đến đâu, đối với Đại Chu ta, vẫn là roi dài khó với. Lần này họ dẫn cường binh bức ép, nhưng vẫn phải mượn đường qua nước Hàn. Ngược lại, người Ngụy gần trong gang tấc, giống như hổ nằm bên giường. Nếu bệ hạ gả công chúa cho Tần, bản thân nuốt lời chưa tính, Ngụy Anh chắc chắn sẽ ôm hận trong lòng, thậm chí còn trút mối nhục Hà Tây lên đầu Chu thất!”
Nhan thái sư vừa dứt lời, Chu Hiển Vương liền toát mồ hôi lạnh, thẫn thờ mất một hồi lâu, mới ngập ngừng hỏi: “Ái khanh có kế sách nào chăng?”
“Theo ý vi thần, bệ hạ cần gả trưởng công chúa đi trước khi sứ Tần kịp đến. Khi sứ Tần đến nơi, thì ván đã đóng thuyền, người Tần cũng không thể làm gì được!”
Chu Hiển Vương suy nghĩ một lát, rồi khẽ gật đầu: “Theo ý ái khanh, ngày nào có thể xuất giá?”
“Theo vi thần được biết, lúc này người Tần đã đến Nghi Dương, chậm thì hai ngày, nhanh thì một ngày nữa sẽ đến nơi. Hôn sự của công chúa, không thể kéo dài đến ngày mai!”
“Ngày mai?” Chu Hiển Vương thảng thốt, mắt nhìn Nhan thái sư trân trân, vừa như muốn hỏi, vừa như muốn thương lượng. “Liệu có gấp quá chăng? Hơn nữa, mai là ngày Giáp Tý, có cát lợi hay không, vẫn phải chờ xem quẻ…”
“Bệ hạ!” Nhan thái sư quyết không nhân nhượng, rõ ràng ông đã suy tính rất chu toàn. “Vi thần đã xem quẻ, nói giờ Thìn cát lợi, hợp để cưới gả!”
“Nếu đã như vậy, việc này giao lại cho khanh!”
“Của hồi môn đã chuẩn bị xong xuôi, người Yên cũng đang chờ đợi, vi thần đã gửi dụ cho họ. Nay chỉ còn công chúa, vi thần lo rằng công chúa…”
“Than ôi!” Chu Hiển Vương thở dài. “Trẫm biết rồi, khanh cứ lo liệu đi!”
“Vi thần lĩnh chỉ!”
Nhan thái sư cáo lui. Hiển Vương suy nghĩ chốc lát, rồi chậm chạp quay người, cùng nội tể đi tới cung Tịnh An. Vương hậu nghe cung nữ bẩm báo, vội ra quỳ trước cửa đón. Hiển Vương dìu bà đứng dậy, hai người cùng nắm tay bước vào trong cung. Sau khi an toạ, vương hậu nhìn Hiển Vương đăm đăm, cất giọng quan hoài: “Thần sắc bệ hạ không tốt, hẳn là có chuyện hệ trọng?”
Hiển Vương gật đầu: “Phải! Người Tần lại đến bức hôn!”
“Là ép gả Tuyết Nhi?”
Hiển Vương gật đầu.
Vương hậu trầm ngâm hồi lâu, rồi nói: “Người Tần đã không chịu buông tha, Tuyết Nhi cũng muốn được gả cho người Tần, bệ hạ tại sao… sao lại không tác thành?”
“Tử đồng!” Hiển Vương thở dài. “Không phải quả nhân không tác thành, mà là không thể tác thành!”
Vương hậu vội hỏi: “Tại sao lại không thể?”
“Đừng hỏi nữa! Nhan thái sư đã chuẩn bị hôn sự xong xuôi, giờ Thìn ngày mai, Tuyết Nhi buộc phải xuất giá!”
“Giờ Thìn ngày mai?” Vương hậu giật mình đánh thót. “Chẳng phải gấp gáp quá ư, vậy Tuyết Nhi…”
“Đúng là quá gấp gáp!” Hiển Vương cắn chặt môi, ngồi lặng hồi lâu, rồi nhìn sang vương hậu. “Quả nhân đến đây, là muốn nhờ nàng. Quả nhân suy đi nghĩ lại, chuyện của Tuyết Nhi, phải nhờ nàng nói giúp. Hãy nói với Tuyết Nhi, rằng quả nhân có lỗi với nó, oán cũng được, hận cũng được, quả nhân…” Hiển Vương nói tới đây, nước mắt trào ra giàn giụa, lập cập rút khăn lụa ra lau mắt.
Vương hậu cũng bật khóc nức nở: “Bệ hạ, không cần nói nữa! Tuyết Nhi là đứa biết điều, nó sẽ hiểu. Thần thiếp biết, Tuyết Nhi sẽ không oán hận người đâu!”
Hiển Vương lại thở dài thườn thượt, chậm chạp đứng dậy, nặng nề lê bước khỏi cung.
Có lẽ do thâm tâm vương hậu không đủ sức chịu đựng sự biến thình lình, sau khi Hiển Vương đã đi xa, vương hậu đang định đứng dậy đi tìm Cơ Tuyết, bỗng thấy đầu óc choáng váng, liền vội lần đến bên giường, nghiêng người nằm xuống, khẽ giọng gọi: “Người đâu!”
Cung chính nghe tiếng, vội chạy vào.
“Gọi Tuyết Nhi đến đây!”
Cung chính nghe lệnh, một lát sau đã dẫn Cơ Tuyết đến. Vương hậu phẩy tay, ra hiệu cho cung chính lui ra, tiện tay đóng cửa lại. Cơ Tuyết cảm thấy có chuyện hệ trọng, bèn chầm chậm đi đến trước giường vương hậu, quỳ xuống bái lạy: “Tuyết Nhi khấu kiến mẫu hậu!”
Vương hậu nhìn Cơ Tuyết, khuôn mặt trắng bệch thoáng lộ một nụ cười: “Tuyết Nhi, lại đây, ngồi bên cạnh mẫu hậu!”
Cơ Tuyết đứng lên, đến ngồi bên cạnh vương hậu, lo lắng thấp thỏm, nhìn vào vương hậu. Vương hậu vươn tay ra, nhẹ nhàng vuốt ve khuôn mặt kiều diễm của Cơ Tuyết, rồi chậm rãi nói: “Tuyết Nhi, lại gần hơn nữa, để mẫu hậu được nhìn con thật kỹ!”
Những ngón tay vương hậu đang vuốt ve trên khuôn mặt Cơ Tuyết bỗng nhiên run rẩy, mắt lệ lưng tròng cứ chực trào ra. Cơ Tuyết dường như dự cảm được điều gì, bèn gục đầu vào lòng vương hậu, khóc oà lên: “Mẫu hậu, cho dù có chuyện gì, người hãy cứ nói ra đi!”
Vương hậu sụt sùi nói: “Tuyết Nhi, giờ Thìn ngày mai, con… con sẽ phải đi xa, xuất giá về Yên quốc.”
Cơ Tuyết chết sững, hồi lâu vẫn không thốt nổi một lời. Sau khi cơn bàng hoàng qua đi, bỗng toàn thân run bắn, bật khóc thất thanh: “Mẫu hậu!”
Vương hậu ôm chặt lấy con gái, nước mắt chan hoà. Hai mẹ con cùng khóc than thảm thiết. Một lúc sau, Cơ Tuyết buông vương hậu ra, rồi lui về sau mấy bước, từ từ quỳ xuống trước giường, vái lạy vương hậu liền ba lạy, giọng run rẩy: “Mẫu hậu, Tuyết Nhi bất hiếu, không thể phụng dưỡng người!”
Vương hậu nghẹn ngào: “Tuyết Nhi con, lần này con đi, mẫu hậu sợ, mẫu hậu e rằng… sẽ không bao giờ còn được gặp lại con nữa!”
Tuyết Nhi gượng nuốt nước mắt: “Mẫu hậu, Tuyết Nhi ngày nào cũng sẽ nhớ đến người. Tuyết Nhi thỉnh cầu mẫu hậu… hãy bẩm lại với phụ vương, rằng Tuyết Nhi cũng sẽ rất nhớ người…”
Vương hậu không thể nhẫn nhịn thêm được nữa, lăn người xuống giường, ôm chầm lấy Cơ Tuyết, hai mẹ con lại ôm nhau khóc ngất…
Khi Cơ Tuyết ra khỏi cung Tịnh An, vương cung khắp trên dưới đều biết công chúa sẽ xuất giá vào giờ Thìn ngày Giáp Tý.
Cơ Vũ cũng đã biết chuyện. Nàng mím chặt đôi môi, đứng đợi bên ngoài tẩm cung, từ xa nhìn thấy Cơ Tuyết đang đi tới, bèn vội vã chạy ra đón đầu. Hai chị em dừng lại cách nhau mấy bước chân, nhìn sững vào nhau.
Hồi lâu sau, Cơ Tuyết khẽ gật đầu với Cơ Vũ, rồi bước thẳng vào tẩm cung. Cơ Vũ không nói một lời, lặng lẽ theo sau. Hai người cùng vào trong phòng. Cơ Tuyết bắt đầu lật hòm lục tủ, một lát sau, lấy từ trong rương ra bộ xiêm y lụa tía mà mình thích nhất, khoác lên người, ôm hộp đàn bằng gỗ đàn hương, chậm rãi bước ra khỏi tẩm cung, đi thẳng đến bên hồ hoa sen trong viện.
Sắc trời tối thẫm, không chút ánh trăng, chỉ thấy ánh sao dày đặc. Không một gợn gió, không khí ẩm ướt oi ả, nặng nề đến khó chịu. Cơ Tuyết mở hộp đàn, cẩn thận dựng giá, rồi nhẹ nhàng đặt cây đàn cầm mà nàng đã gảy từ nhỏ đến lớn lên trên, khoanh chân ngồi xuống, nâng ống tay áo khẽ thấm những giọt mồ hôi lấm tấm trên mặt, đưa ngón tay nuột nà vuốt nhẹ lọn tóc mây trước trán, rồi khẽ gọi: “Vũ Nhi!”
Cơ Vũ lại gần, lặng lẽ đứng nhìn Cơ Tuyết. Ánh nến chiếu qua song cửa sổ, hắt bóng loang lổ trên hai thân hình thiếu nữ.
Ngón tay Cơ Tuyết lướt nhanh trên mặt đàn, phát ra một chuỗi âm thanh trong vang gấp rút. Cơ Tuyết lắng nghe tiếng đàn, đưa tay khẽ vặn một dây, lại lướt qua một lượt, cảm thấy âm sắc đã đúng, mới nhìn sang Cơ Vũ, êm giọng mà nói: “Vũ Nhi, ngày mai vào giờ này, chị đã trên đường tới nước Yên. Chị em chúng ta ngày nào gặp lại, hoạ có ông trời mới biết!”
Cơ Vũ nãy giờ đã nước mắt lưng tròng, giờ nghe vậy, bật khóc mà gọi: “A tỷ!”
Cơ Tuyết lại đưa bàn tay lướt qua phím đàn, giọng vẫn dịu dàng: “Mang kiếm của em lại đây, chị sẽ đàn cho em nghe một khúc!”
Cơ Vũ đi vào phòng, lấy thanh bảo kiếm treo trên tường xuống, rồi trở lại bên ao sen, rút kiếm khỏi bao.
Cơ Tuyết bắt đầu gảy đàn, là khúc Cao sơn mà Cơ Vũ yêu thích nhất. Tiếng đàn nhu hoà chậm rãi. Cơ Vũ tay cầm bảo kiếm, sắc mặt thẫn thờ, bước chân trì trệ, múa theo tiếng đàn tựa như con rối.
Tiếng đàn của Cơ Tuyết mỗi lúc càng du dương dìu dặt, mỗi lúc càng chậm rãi buông chùng, cuối cùng rơi từng tiếng tựa như nấc nghẹn. Hai hàng nước mắt lặng lẽ chảy xuống má Cơ Tuyết, rơi trên dây đàn, từng giọt, từng giọt.
Cơ Vũ nào có thể tiếp tục múa được nữa? Quăng vụt cây kiếm trong tay xuống đất, nàng chạy ào đến, ôm chặt lấy Cơ Tuyết, rồi khóc oà lên nức nở: “A tỷ…”
Hai chị em ôm nhau khóc thảm thiết. Khóc một lúc, Cơ Vũ bỗng ngẩng phắt đầu lên, giọng gấp gáp: “A tỷ, chị đừng lấy lão già đó! Chúng ta chạy trốn đi, giờ vẫn còn kịp!”
Cơ Tuyết thần người chết lặng, gạt nước mắt nhìn sững vào Cơ Vũ, một lúc lâu sau mới hỏi: “Trốn? Trốn đi đâu?”
“Núi Vân Mộng! A tỷ, em mới gặp được Quỷ Cốc Tử tiên sinh, lão trượng đúng là một vị thần tiên, thấu suốt mọi thế sự. Lão trượng nói vận số Đại Chu đã hết, còn nói, chị em ta là con ve sầu mùa thu, hoặc là về rừng sống tiêu dao tự tại, hoặc sẽ trở thành món đồ chơi của người ta!”
Cơ Tuyết trầm ngâm một lát, rồi gượng cười, khẽ lắc đầu.
“A tỷ!” Cơ Vũ phát khóc. “Chị chẳng khác gì mẫu hậu, mặc kệ mình uất ức đến chết, cũng…”
Cơ Tuyết lấy khăn lụa ra, lau dòng nước mắt, rồi cười ảo não mà nói: “Tuyết Nhi, số kiếp của chị đã là như vậy. Mẫu hậu làm thế là đúng, phận nữ nhi, nên hiểu thời nhận mệnh!”
“Em, em thì thà chết…”
Cơ Tuyết lại cười: “Vũ Nhi, đừng nói nhảm nữa! Trong ngày hôm nay, chị cũng nghĩ thông suốt rồi. Gả cho Yên Công chưa chắc đã là chuyện xấu. Mặc dù Yên Công đã già, nhưng có chính khí. Nước Yên liền sát với Tề, Triệu, nếu chị trợ giúp Yên Công, hoặc giả sẽ giúp được nước Yên cường thịnh. Nếu nước Yên cường thịnh, Yên Công có thể gây ảnh hưởng tới Tề Công và Triệu Hầu. Có Yên Công, Tề Công và Triệu Hầu cùng bảo vệ Chu thất, thì Nguỵ, Tần dù hung hãn đến mấy, cũng không dám vọng động với Chu thất chúng ta!”
Cơ Vũ nghe những lời này, càng thấy thương tâm, giọng nói cũng trở nên run rẩy: “A tỷ, chị như vậy là châu chấu đá xe, kiến vống lay cây đó!”
Cơ Tuyết thở dài sườn sượt, cúi đầu ủ rũ.
Cơ Vũ cũng cảm thấy lời mình có phần thái quá, bèn khuyên bảo: “A tỷ, tổ đã rơi há còn trứng lành, chị chỉ là một cô gái yếu đuối, sao có thể chèo chống được thế cục?”
Cơ Tuyết trầm tư hồi lâu, lại thở dài ảo não: “Ôi, Vũ Nhi, lời em nói đều rất đúng, là chị đang nằm mơ! Chị cũng biết là mình đang nằm mơ. Nhưng chị không còn sự lựa chọn nào khác, đành phải chấp nhận số mệnh mà thôi! Chị chấp nhận, chấp nhận…”
Cơ Tuyết càng nói càng lạc giọng, nấc nghẹn không thành tiếng.
Cơ Vũ lay khẽ Cơ Tuyết: “A tỷ, hãy trốn đi! Nếu không trốn, chỉ sẽ hối hận cả đời!”
Cơ Tuyết không chút động lòng: “Vũ Nhi, chị không cầu xin em điều gì, chỉ xin em về sau nếu có tới nước Yên, hãy đến thăm chị…”
Cơ Vũ ôm chầm lấy Cơ Tuyết, khóc đến thất thanh: “A tỷ…”
Cơ Tuyết nhẹ nhàng vuốt tóc Cơ Vũ, giọng nói như thầm thì: “Vũ Nhi, đất Yên xa xôi, chị đi lần này, e rằng khó có ngày trở lại. Khi nhớ đến em, chị sẽ gửi tâm sự cho chim nhạn. Chim nhạn biết giữ lời hứa, hẳn sẽ chuyển lời chị đến cho em. Vũ Nhi, khi mùa thu đến, nếu nhìn thấy chim nhạn bay về phương nam, em hãy để tâm lắng nghe.”
Cơ Vũ ôm chặt lấy Cơ Tuyết, khóc nức nở như đứa trẻ. Hai chị em lại khóc lóc một chặp, rồi Cơ Tuyết thu đàn, cất vào hộp gỗ, ngoảnh sang nói với Cơ Vũ: “Chị chẳng có gì đáng giá, cây đàn này đã theo chị suốt mười hai năm nay, chính là trái tim của chị. Chị tặng lại cho em, nếu em vui, nó cũng sẽ vui cùng em; nếu em đau buồn, nó… cũng sẽ khóc theo em!”
Cơ Vũ càng ôm chặt lấy Cơ Tuyết, khóc như mưa như gió.
Từ ngoài sân có tiếng bước chân vọng lại, Cơ Vũ vừa nghe, đã biết là thị nữ tâm phúc Xuân Mai, vội vàng nén tiếng khóc, quay ra ngoài cất tiếng gọi: “Xuân Mai!”
Xuân Mai bước đến, quỳ xuống trước mặt hai người.
Cơ Vũ nói với Cơ Tuyết: “A tỷ, Vũ Nhi chẳng có gì đáng giá để tặng chị, hãy để Xuân Mai đi theo hầu hạ chị. Suốt bao năm nay, Xuân Mai với em như hình với bóng, chị nhìn thấy Xuân Mai, cũng giống như nhìn thấy em!”
Rồi quay sang nói với Xuân Mai: “Xuân Mai, bắt đầu từ hôm nay, phải hầu hạ chu đáo chị ta, không được phép lơ là!”
Xuân Mai khấu đầu, chảy nước mắt mà nói: “Xuân Mai tuân mệnh!”
***
Gần Thái học có một con hẻm, tên gọi Quý Nhân Cư, hai bên toàn là quán trọ. Vào thời Xuân Thu, Thái học đông đúc, con ngõ này tấp nập sĩ tử từ khắp mọi nơi đến thuê trọ. Hiện nay Chu thất đã suy, Thái học hoang vu, nhà trọ nơi đây cũng vắng vẻ tiêu điều, không có mấy người đến ở. Vì vậy, Trương Nghi không phải bỏ ra quá nhiều tiền đã thuê được một khu phòng trọ hạng nhất trong con ngõ. Đó là một toà tứ hợp viện kiểu Chu, bên ngoài kiểu cách cầu kỳ, bên trong xà chạm cột vẽ, cực kỳ hoa lệ, đáng tiếc đều đã cũ kỹ. Tiện tay nhặt lấy bất cứ thứ gì trong nhà mang ra ngoài cũng sẽ trở thành đồ cổ.
Trương Nghi đương nhiên ở nhà trên, gian phòng chái phía đông là của Tiểu Thuận, còn lại hai phòng chái phía tây dành cho Tô Tần.
Từ sau cái hôm đám học trò náo động học cung, ép Tô Tần đeo kiếm, cầm sư ngày nào cũng vào cung đánh đàn cho vương hậu nghe, phía học cung cũng không còn người trông nom. Đám học trò tự do tự tại, người thì quay trở về phủ, người thì chơi nhởn trong thành Lạc Dương.
Cũng vào lúc này, chiến sự Hà Tây ngày càng kịch liệt, Trương Nghi nhớ nhung mẫu thân, vốn muốn về nhà thăm nom, nhưng lại liên tiếp nhận được ba bức thư nhà, mẫu thân khăng khăng ở nhà vẫn tốt, dặn đi dặn lại phải chăm chỉ đọc sách, sớm ngày thành danh. Trương Ấp cách Thiếu Lương những ba mươi dặm, lại không phải cứ điểm quân sự trọng yếu, mẫu thân đã nói như vậy, Trương Nghi cũng thấy yên tâm, ngày ngày rong chơi khắp thành Lạc Dương.
Từ sau khi gặp Tô Tần, cuộc sống của Trương Nghi đã có thêm nhiều điều thú vị, không cần nói đâu xa, chỉ cần chọc cho Tô Tần nói chuyện đã khiến Trương Nghi vui thích. Do có tật nói lắp, nên bình thường Tô Tần không thích nói năng, hễ mở miệng là lắp ba lắp bắp, mà càng lắp bắp, lại càng bị trêu chọc.
Còn nữa, Tô Tần tuy xuất thân thấp kém, gia cảnh bần hàn, song tâm trí lúc nào cũng ở trên mây, mơ tưởng xa vời, lúc nào cũng chỉ nghĩ đến uy quyền khanh tướng, nhấc tay động chân cũng muốn khác biệt với người thường, thành ra chẳng khác gì một quái nhân. Đối với Trương Nghi bẩm sinh sẵn tính hiếu kỳ, còn có gì thú vị hơn việc sớm tối được ở cùng với một quái nhân như vậy?
Trương Nghi có thói quen ngủ sớm dậy sớm, ăn tối xong, trước tiên phải trêu chọc Tô Tần một lát, sau đó mới lên nhà trên nằm ngủ.
Buổi tối hôm nay, trời oi bức lạ thường. Trương Nghi vừa nằm xuống giường một chốc, người đã ướt đẫm mồ hôi. Trương Nghi liên tục trở mình, không tài nào ngủ được, cuối cùng đành phải ngồi dậy, đưa tay sờ xuống giường, thấy mảng chiếu lau đã ướt đẫm.
Trương Nghi tiện tay nhấc chiếu lên, đi khỏi phòng, ra sân, ném vụt manh chiếu xuống đất, rồi nằm kềnh lên chiếu, chõ về phía gian phòng chái tây mà gọi: “Khanh tướng đại nhân, đã ngủ chưa?”
Thời tiết thế này, Tô Tần làm sao ngủ nổi? Một lát sau, Tô Tần cũng ôm chiếu xuống sân, trải xuống bên cạnh chiếu của Trương Nghi rồi nằm xuống.
“Cái thời tiết quái quỷ gì thế này,” Trương Nghi bắt đầu gợi chuyện. “Nóng chết mất thôi! Khanh tướng đại nhân, ngài là người lịch duyệt, đã bao giờ gặp kiểu thời tiết nóng nực đến nhường này chưa?”
“Hồi… hồi bẩm sĩ tử, Tô… Tô Tần đã… đã gặp rồi!”
“Ồ!” Trương Nghi rất thích gợi cho Tô Tần nói chuyện, nên vội giục giã. “Mau nói thử xem, nóng nực thế nào?”
“Giống… giống như thế… thế này!”
Trương Nghi vặc lại: “Nói thế cũng bằng thừa! Tại hạ hỏi là nóng như thế nào, tức là, có nghĩa là, phải nói cho cụ thể, nóng nực đến mức như thế nào?”
Tô Tần ngẫm nghĩ một lát: “Nó…nó giống như đang hấp… hấp… hấp… hấp…”
Tô Tần cứ ngắc ngứ mãi ở chữ “hấp”, khiến Trương Nghi nghe mà khoái trá, nghe Tô Tần hấp đi hấp lại một hồi, thì phá lên cười ha hả: “Khanh tướng đại nhân, phía sau phải chăng là chữ ‘hơi’?”
“Đúng… đúng thế!”
“Ồ!” Trương Nghi tỏ vẻ tán đồng. “Khanh tướng đại nhân miêu tả thật chí lý, kiểu thời tiết quỷ quái này, thật giống như bị hấp hơi!” Nằm yên một lát, lại gọi. “Khanh tướng đại nhân!”
Tô Tần không đáp. Trương Nghi thấy lạ, liền quay sang nhìn Tô Tần, thấy hắn đang ngưng thần chăm chú nhìn lên bầu trời đêm. Trương Nghi thấy hiếu kỳ, cứ nhìn chằm chằm vào Tô Tần. Nhìn một lúc lâu, Tô Tần vẫn hai mắt dán lên bầu trời, và chỉ nhìn về một hướng.
Trương Nghi không nhịn nổi nữa, liền gọi toáng lên: “Khanh tướng đại nhân, đang nhìn gì thế?”
Tô Tần giơ tay, chỉ lên bầu trời: “Trương… Trương Tử, có nhìn thấy… thấy ngôi sao kia… kia không? Nó… nó… nó chính là tại… tại… tại hạ!”
Trương Nghi nhìn về hướng Tô Tần chỉ, chỉ thấy khắp trời dày đặc những sao, không biết hắn muốn chỉ ngôi nào, liền hỏi: “Khanh tướng đại nhân, là ngôi sao nào?”
“Chính… chính là ở… ở bên trái… trái… sông… sông Ngân Hà, bên cạnh có ba… ba… ba ngôi sao… vuông… hình vuông!”
Trương Nghi nhìn thật kỹ, một lát sau, quả nhiên nhìn thấy bờ bên trái dải Ngân Hà có bốn ngôi sao xếp thành hình vuông, liền hào hứng nói: “Nhìn thấy rồi, xin hỏi, ngôi sao nào là khanh tướng đại nhân?”
“Ngôi sao… ở góc… góc phía bắc!”
Trương Nghi nhìn vào ngôi sao đó, rồi cười ầm lên: “Khanh tướng đại nhân, ngôi sao này không sáng, hãy nhìn ngôi sao của tại hạ!”
Trương Nghi lựa chọn một hồi, sau đó nói lớn: “Tại hạ chọn ngôi sao ở phía đối diện, nằm đối diện với ngôi sao của khanh tướng đại nhân đó!”
Tô Tần khen ngợi: “Nó… nó… nó sáng thật… thật đấy!”
Trương Nghi khoái chí cười vang: “Đã chọn sao, thì phải chọn ngôi thật sáng chứ! Đại trượng phu sống ở trên đời, tuyệt đối không thể giống phường phàm phu tục tử, ngài thấy có đúng không, khanh tướng đại nhân?”
“Lời… lời sĩ tử…nói rất… rất đúng!”
Trương Nghi lại nhìn ngôi sao của Tô Tần, chỉ tay mà hỏi: “Đã là đúng, vậy tại sao khanh tướng đại nhân lại chọn cho mình ngôi sao nhỏ nhoi kia?”
“Tại… tại hạ không… không biết, từ nhỏ… tại… tại hạ đã… đã thích… thích nó rồi!”
“Nhưng nó mờ nhạt quá! Ngài nhìn xem, nếu không quan sát kỹ, sẽ không thể tìm ra!”
“Có… có một ngày, nhất định nó… nó sẽ… sáng… sáng!”
Trương Nghi lại được một trận cười thoả thích: “Khanh tướng đại nhân, ngài thực là quái đản. Khắp bầu trời đầy sao, sao sáng, sao lớn nhiều không đếm xuể, ngài không chọn ngôi sao to nhất sáng nhất, mà lại chọn ngôi sao đã nhỏ lại mờ. Điều này cũng khó trách, dù sao thì mỗi người một chí hướng. Song ngài đã chọn ngôi sao nhỏ, lại hy vọng nó sẽ lớn lên, sẽ toả sáng, thật không hiểu ngài đang nghĩ cái gì!
“Chà chà!” Tô Tần thở dài. “Trên bầu… bầu trời này, sáng… sáng nhất chính… chính là… sao… sao băng, lớn nhất chính… chính là chổi… sao chổi.”
Trương Nghi giật mình ngơ ngẩn, đang ngẫm nghĩ về lời nói của Tô Tần, bỗng nghe thấy tiếng bước chân huỳnh huỵch ngoài cửa, Tiểu Thuận từ bên ngoài ba chân bốn cẳng chạy vào, chưa kịp đến sân, miệng đã oang oang: “Thiếu gia, thiếu gia…”
Trương Nghi cười với Tô Tần: “Được rồi, ngài là khanh tướng đại nhân, bản công tử không tranh cãi nữa!”
Rồi ngồi thẳng dậy, thấy Tiểu Thuận lao vào như bay, suýt chút nữa giẫm cả lên người mình, liền quát: “Cái tên tiểu tử này, không có mắt à?”
Tiểu Thuận giật bắn cả mình, đến khi nhìn rõ hai người đang nằm trong sân, liền vội vàng dừng bước, thở hổn hển mà gọi: “Thiếu gia…!”
“Hừm, bản thiếu gia đang định tìm ngươi đây! Nói mau, ngươi vừa đi đâu về?”
Tiểu Thuận cười hì hì, rồi hạ giọng đáp: “Bẩm thiếu gia, lúc nãy nóng quá, tiểu nhân ra sông tắm cho mát ạ!”
Nghe bảo xuống sông tắm, Trương Nghi liền quát: “Giỏi cho tên tiểu tử nhà ngươi, có chuyện hay ho như vậy mà lại hưởng thụ một mình, bắt bản thiếu gia phải ở trong cái lồng hấp hơi này chịu nóng chịu khổ!”
Tiểu Thuận lại cười hì hì: “Không dám giấu thiếu gia, tiểu nhân vốn định gọi cậu đi, nhưng lại nhớ ra con sông đó có ma, nên không dám gọi nữa!”
Trương Nghi giận dữ nói: “Ngươi dám qua mặt bản thiếu gia? Đã có ma, tại sao ngươi còn đi?”
Tiểu Thuận cười đáp: “Là ma nữ, tiểu nhân mệnh hèn, con ma đó không thèm để mắt, không đến quấy nhiễu tiểu nhân đâu!”
Trương Nghi nhổm dậy định đánh, thì Tiểu Thuận vội quỳ xuống, tự vả vào miệng mình: “Tiểu nhân đáng chết, thiếu gia…”
Trương Nghi đá mạnh một cái vào mông Tiểu Thuận, giận dữ quát lên: “Tên tiểu tử này, từ ngày rời khỏi Trương Ấp, không chịu quản giáo, cái gan chó càng ngày càng lớn!”
Tiểu Thuận không hề tức giận, vẫn quỳ mọp dưới đất, rồi dịch gối về phía Trương Nghi, hạ giọng thầm thì, vẻ vô cùng bí mật: “Thiếu gia đừng vội tức giận, lần này tiểu nhân ra ngoài, đã do thám được một chuyện trọng đại!”
“Tên tiểu tử kia, có gì thì nói mau, còn làm bộ làm tịch nữa ư?”
“Thiếu gia, trên đường quay về, tiểu nhân đã nghe được một tin, vào giờ Thìn ngày mai, trưởng công chúa của Chu thiên tử sẽ xuất giá sang nước Yên!”
Trương Nghi, Tô Tần bốn mắt nhìn nhau, không khỏi chấn động. Chưa kịp lên tiếng, ngang trời thình lình xẹt qua một đường sáng quắc. Chốc lát, từ đằng xa vọng lại một tiếng sấm rền, cây cối trong sân bắt đầu lay động. Lại ngẩng đầu nhìn lên, chỉ thấy một vạt mây đen cuồn cuộn từ phía trời tây ập đến, mây kéo đến đâu, sao trời lập tức khuất dạng.
Mưa mùa hạ nói đến là đến. Chỉ một thoáng sau, đã thấy mây đen kín đầu, gió tốc dữ dội, chớp giật sấm rền, rồi mưa ào ạt trút xuống, hạt nào hạt nấy bằng hạt trân châu, bầu oi bức nháy mắt đã bị quét sạch. Trương Nghi, Tô Tần vội vàng cuộn chiếu, ai về phòng nấy.
Mưa sầm sập từ nửa đêm đến gần sáng mới ngớt, đến giờ Thìn chỉ còn sợi thưa lất phất tựa mưa dầm mùa thu.
Trời đã sáng bạch. Tô Tần, Trương Nghi ra khỏi phòng, thấy nơi tối qua nằm ngắm sao trời giờ nước đã ngập đến bắp chân. Bước ra khỏi cổng, đường phố đâu đâu cũng ngập úng, ở những chỗ trũng, nước ngập đến rốn, nhiều người đang vừa gọi mẹ chửi cha, vừa vác bao cát, gạch đá bít cổng, nam nữ già trẻ đều lăm lăm xô chậu, tất bật tát nước ra ngoài.
Trương Nghi mình khoác áo tơi, Tiểu Thuận đầu đội mũ lá, Tô Tần không có gì che, tiện tay ngắt một bẹ lá chuối lớn đội lên đầu, theo hai người đội mưa ra phố. Ba người bước vào một quán nhỏ, gọi ba bát cháo loãng, ba cái bánh bao và một đĩa thức ăn. Ăn cháo xong, đang ăn bánh bao, bỗng từ phía vương cung vang lên từng tràng pháo nổ đì đùng. Ngay sau đó, kèn trống rộn rã. Một lát sau, đoàn xe xuất giá của công chúa ra khỏi cửa cung, đi dọc theo con phố chính, tiến về phía cổng thành đông.
Công chúa xuất giá vốn dĩ là chuyện đại hỷ, nếu là ngày trước, trong thành hẳn sẽ náo nhiệt khác thường. Nhưng hôm nay ngày giờ không tốt, mưa gió dầm dề, nhà nhà đều lo chống lụt, người người hối hả tát nước be bờ, chẳng ai còn tâm trí đâu để ý đến chuyện công chúa xuất giá.
Nước đã rút bớt, nơi nào trũng cũng chỉ còn ngập đến đầu gối, nơi nông thì mấp mé mu bàn chân. Xe kiệu, xe hoa, xe chở của hồi môn, tổng cộng ba mươi sáu cỗ, từ từ di chuyển, nước đọng trên phố bắn lên tung toé.
Có lẽ là do trời mưa âm u, nên tiếng kèn trống thanh la từ xa vẳng lại nghe không rộn rã như thường lệ. Trên phố hầu như không một bóng người qua lại, những cung nhân từ trong vương thành ra tiễn cũng e sợ trời mưa, phần lớn chỉ đưa đến cửa cung là quay về hết. Ngoài tiếng kèn trống trầm buồn, cảnh tượng đưa dâu vô cùng nhạt nhẽo. Nghĩ đến thanh thế tưng bừng náo nhiệt khi hai nhà Tần, Ngụy đến cầu hôn, thực không khỏi não lòng.
Đi đầu tiên là phường nhạc, theo sau là vệ binh và nghi trượng, sau nữa là một cỗ xe kiệu bằng đồng thau, ngồi trong xe là sứ thần nước Yên, đầu trọc nhẵn thín, chính là Thuần Vu Khôn. Ngồi trong chiếc xe tiếp theo là Nhan thái sư tóc bạc phơ phơ. Nhan thái sư khép hờ hai mắt, vẻ mặt đau buồn, dường như không phải đang đưa dâu, mà giống như đưa tang hơn. Phía sau Nhan thái sư là cỗ xe hoa rực rỡ tám ngựa kéo của công chúa Cơ Tuyết. Sau xe hoa là một đoàn xe chở của hồi môn, sau cùng là đoàn vệ binh. Cả đội ngũ người ngựa xe cộ kéo dài lê thê đến hơn một dặm.
Thấy đoàn xe từ từ tiến lại, ba người Trương Nghi bỏ cả bánh bao, vội vàng chạy ra phố. Tô Tần lần đầu tiên nhìn thấy thiên tử gả con gái, hết sức hiếu kỳ, hai mắt mở to, nhìn không chớp vào cảnh tượng xa hoa trước mắt.
Đến tận khi xe hoa đi qua trước cửa, những người dân nước Chu đang luôn tay tát nước mới bỏ xô chậu xuống, khom lưng hành lễ, tiễn đưa công chúa. Phía dưới mái hiên, vài cụ bà nâng tay áo lau nước mắt.
Có lẽ là muốn được nhìn lần cuối cùng đô thành xinh đẹp, nơi mình đã gắn bó từ thuở ấu thơ, cánh rèm cửa xe hoa đột ngột vén lên, Cơ Tuyết trong phục sức tân phu nhân hoa lệ, ghé đầu qua ô cửa, mắt lệ rưng rưng, khẽ vẫy tay với những người dân đang hành lễ hai bên đường.
Tô Tần cũng đang khom lưng đứng ở bên đường, trong một khắc hiếu kỳ, ngẩng đầu nhìn lên, vô tình trông thấy người trong xe kiệu. Vừa kịp nhìn rõ, lập tức la lên thất thanh: “Cơ… Cơ… Cơ… Cơ cô nương! “
Tiếp đó, Tô Tần như kẻ phát cuồng, vụt đứng thẳng lên, bất chấp tất cả lao thẳng vào màn mưa, chạy đến trước xe kiệu, hét lớn: “Cơ… Cơ… Cơ… Cơ cô nương!”
Cơ Tuyết nghe thấy tiếng gọi, quay đầu nhìn thấy Tô Tần, bỗng chốc lặng người! Mãi một hồi lâu, Cơ Tuyết vẫn như kẻ ngẩn ngơ, ánh mắt không rời khỏi Tô Tần, tựa như muốn ghi khắc sâu vào tâm khảm.
Tô Tần cũng như kẻ mất trí, đối diện với ánh mắt của Cơ Tuyết, hai hàng lệ bỗng lăn dài. Xe kiệu từ từ di chuyển, băng qua bên cạnh Tô Tần. Cơ Tuyết nhìn sững ra ngoài cửa sổ, khuôn mặt từ từ di chuyển theo xe, dường như muốn ngưng tụ tất cả vào hai ánh mắt, cứ nhìn Tô Tần đăm đăm. Tô Tần tựa như kẻ mất hồn, vô thức cất bước theo xe, dường như muốn theo Cơ Tuyết đến tận Yên quốc.
Đột nhiên, dường như sực nhớ ra điều gì, Tô Tần tháo ngay thanh kiếm gỗ khỏi lưng, rồi vội vã chạy lên vài bước, chặn trước xe kiệu, hai tay nâng kiếm, giơ cao quá đầu.
Tất cả mọi người đều kinh hoàng thất sắc, đồ rằng người này định hành thích công chúa. Còn chưa ai kịp phản ứng, Cơ Tuyết đã hạ lệnh dừng xe. Tô Tần thấy xe dừng lại, liền quỳ xuống lê gối trên đất, đến tận phía dưới kiệu hoa, hai tay vẫn nâng cao thanh kiếm. Cửa xe mở ra, Xuân Mai bước xuống kiệu, đưa tay nhận lấy kiếm gỗ, rồi lập tức trở lên, nâng hai tay đưa cho Cơ Tuyết. Cơ Tuyết nhận kiếm, nước mắt tuôn như suối chảy. Rồi nàng đột ngột kéo kín cánh rèm, truyền lệnh khởi giá. Tô Tần nghe như có tiếng sụt sùi vẳng ra từ phía sau rèm.
Xe kiệu từ từ di chuyển, bánh xe lăn thẳng về phía trước. Tô Tần vẫn quỳ trên đất, cúi đầu khóc lạy, miệng lắp ba lắp bắp không ngừng: “Cơ… Cơ… Cơ… Cơ… Cơ…!”
Trương Nghi nhìn mà đờ dại cả người. Cho dù hắn có gan lên trời xuống biển, không sợ hãi việc gì, song cũng chẳng dám có hành động như vừa rồi, huống hồ lại vừa tận mắt chứng kiến mỹ nữ đệ nhất thiên hạ thân phận cao quý nhường kia lại cho dừng xe, nhận món lễ vật kỳ quặc của một gã nói lắp nghèo hèn.
Đoàn đưa dâu đã đi xa, Tô Tần vẫn quỳ trên đất, miệng cứ lắp bắp mãi một chữ “Cơ”. Trương Nghi đã định thần lại, sải bước tới trước mặt Tô Tần, vỗ mạnh một cái vào vai hắn: “Này, ngớ ngẩn rồi à?”
Tô Tần nhìn thấy Trương Nghi, cũng đã từ từ trấn tĩnh trở lại, song vẫn lảm nhảm trong miệng: “Trời ơi, nàng… nàng ấy… là công… công chúa… Đại Chu!”
Trương Nghi cố nhịn cười, nói với hắn: “Ôi, khanh tướng đại nhân, ngài quả là gan lớn tày trời, tại hạ phục rồi!”
Tô Tần đứng dậy, cười ngượng nghịu.
Trương Nghi nửa đùa nửa thật mà nói: “Khanh tướng đại nhân, nói đến chuyện này, quả thật diễm phúc của ngài không nhỏ! Tại hạ dám chắc, đám công tử bột trong học cung kia, kẻ nào cũng sẵn sàng bỏ ra cả mười lượng vàng để mua lấy một nụ cười của công chúa! Còn như nước mắt của công chúa, một giọt chí ít cũng đáng giá trăm lượng! Lúc nãy công chúa vì ngài mà nhỏ lệ nhiều như vậy, còn nhận lễ vật của ngài, khiến tại hạ nhìn mà muốn rớt con ngươi, trong lòng ghen tức không để đâu cho hết! Xem ra khanh tướng đại nhân thực chẳng phải dạng phàm phu, nếu để công chúa tự chọn rể, chưa biết chừng công chúa sẽ ưng đại nhân ngài cũng nên!”
Tô Tần mặt đỏ bừng: “Trương… Trương sĩ tử, đừng… đừng đùa… đùa… nữa! Tại… tại hạ…”
Trương Nghi bật cười: “Nói đùa thôi, có phải là thật đâu! Nhưng nói qua cũng phải nói lại, nàng ấy là một, em gái của nàng ấy là hai, chính là tiểu cô nương đã chửi mắng lũ công tử bột một trận nên thân hôm trước, quả là trang tuyệt sắc trong thiên hạ. Khanh tướng đại nhân đã nhắm lấy cô chị, thì cô em sẽ là của tại hạ!”
Tô Tần vẻ tức giận, trừng mắt nhìn Trương Nghi: “Người… người ta sinh… sinh ly tử… tử biệt, gả đến… đến phương xa, sĩ… sĩ tử lại… lại cười cợt, chẳng phải là… là bất nhẫn lắm… lắm ư?”
Trương Nghi vội vàng cười trừ: “Được rồi, được rồi, coi như tại hạ nói càn! Đi thôi, tại hạ mời đại nhân uống rượu, coi như chuộc lỗi!”
***
Nhan thái sư hộ tống công chúa ra khỏi cổng thành đông, chuẩn bị mượn đường nước Hàn qua Triệu để đến nước Yên. Đoàn xe đi đến Lạc Thuỷ, mưa đã tạnh hẳn, nước sông cuồn cuộn dâng cao. Mọi người phải dừng lại hai canh giờ, mất rất nhiều công sức mới vượt qua được Lạc Thuỷ. Phía đông Lạc Thuỷ là vùng đất phong của Đông Chu Công, theo như ước định, Tuyết công chúa sẽ do Đông Chu Công đưa sang nước Hàn. Nhan thái sư thở dài, tiễn biệt công chúa bên bờ Lạc Thuỷ, căn dặn Thuần Vu Khôn mấy câu, sau đó quay xe trở lại vương thành.
Thuần Vu Khôn, Cơ Tuyết đi thêm được một đoạn, đột nhiên nghe tiếng vó ngựa rầm rập, phía trước có một đoàn kỵ binh kéo đến. Ngước mắt nhìn lên, thấy người ngựa nghìn nghịt, chí ít cũng phải đến năm nghìn.
Binh mã rầm rầm kéo đến, thế như vũ bão, mãi khi tới gần, Thuần Vu Khôn mới nhìn rõ cờ của nước Tần, trên có viết “sính” “Tần” “Tư Mã” “Sư Lý”. Thì ra là Sư Lý Tật, Tư Mã Thác đã mang theo năm nghìn tinh binh đi trước.
Đúng là oan gia ngõ hẹp! Thuần Vu Khôn kinh sợ, song vì không có đường lui, nên đành phải tiến lên đón đầu.
Hai bên dừng lại cách nhau năm chục bước.
Thấy đối thủ cũ Sư Lý Tật một người một ngựa dẫn đầu, Thuần Vu Khôn bèn ôm quyền hành lễ: “Đặc sứ nghênh thân nước Yên là Thuần Vu Khôn bái kiến Sư Lý đại phu!”
Sư Lý Tật vái lại một vái: “Ngũ đại phu nước Tần bái kiến đặc sứ nước Yên!”
“Yên Công đón dâu, phải chăng Sư Lý đại nhân muốn đến chúc mừng?”
Tư Mã Thác nộ khí ngút trời, quất ngựa định lao tới, nhưng Sư Lý Tật đã đưa tay cản lại, nói: “Đúng thế! Sư Lý Tật đến chúc mừng Yên Công!” Rồi quay sang Tư Mã Thác. “Tư Mã tướng quân, hãy nhường đường cho phu nhân nước Yên!”
Nói đoạn, giật cương ngựa lánh sang vệ đường.
Tư Mã Thác lo lắng: “Sư Lý huynh…”
Sư Lý Tật vô cùng dứt khoát, quyết đoán ra lệnh: “Nhường đường!”
Tư Mã Thác đành phải tránh sang bên đường, quay đầu nói lớn: “Truyền lệnh, nhường đường cho phu nhân nước Yên!”
Binh sĩ nước Tần theo nhau dạt sang hai bên đường.
Thuần Vu Khôn ôm quyền bái tạ Sư Lý Tật, Tư Mã Thác: “Phu nhân nước Yên, đặc sứ nước Yên cảm tạ đại nhân Sư Lý Tật, tướng quân Tư Mã Thác đã nhường đường!”
Sau đó ngoảnh lại, vẫy tay ra hiệu, đoàn xe lập tức rậm rịch lăn bánh.
Tiếng kèn trống thanh la lại vang lên loảng xoảng, đoàn xe rước dâu từ từ di chuyển qua con đường hẹp trước mặt lớp lớp quân Tần. Đợi đoàn rước dâu đã đi xa, Tư Mã Thác ảo não thở dài, lớn tiếng hỏi: “Sư Lý huynh, huynh và tại hạ phụng chỉ cầu thân, mà trưởng công chúa lại bị gả cho người ta mất, chúng ta quay về biết ăn nói với chúa thượng thế nào đây?”
Sư Lý Tật lẩm bẩm như tự nhủ, lại như trả lời Tư Mã Thác: “Chu Vương hành động quả là chóng vánh!”
Tư Mã Thác vội vã cắt lời: “Sư Lý đại nhân, ra tay đi, bây giờ cướp công chúa lại vẫn còn kịp!”
“Tư Mã tướng quân, không thể cướp được!”
“Tại sao không thể cướp?”
“Chu thất đã sớm bố cáo thiên hạ, đem trưởng công chúa gả cho Yên Công. Yên Công cưới vợ đường đường chính chính, nếu tướng quân cướp dâu, thì khác nào hành vi của lũ cường hào ác bá, sẽ trở thành trò cười cho liệt quốc. Còn nữa, làm như vậy ắt sẽ gây rạn nứt bang giao, trái với mục đích kết thân của chúa thượng!”
“Cái gì mà rạn nứt bang giao?” Tư Mã Thác nổi giận vặc lại. “Nước Yên nhỏ yếu lại xa xôi, Yên Công chỉ là một lão già lọm khọm, thì làm gì được ta?”
Sư Lý Tật lừ mắt nhìn Tư Mã Thác: “Mặc dù nước Yên cách xa chúng ta, song lại gần Tề, Triệu. Nếu ta muốn chiếm lấy Tề, Triệu, thì phải kết giao với Yên! Sự việc đã đến nước này, không những không được cướp dâu, mà còn phải biếu tặng lễ vật!”
Tư Mã Thác ngẫm nghĩ một lát, cũng dần sáng tỏ: “Phải, lời Sư Lý huynh rất có lý! Có điều chúng ta đã điều động binh mã, phô trương thanh thế, nhưng lại một chuyến công toi, giờ phải thu xếp thế nào? Tay không trở về, phải bẩm báo với chúa thượng ra sao?”
Sư Lý Tật mỉm cười: “Tư Mã tướng quân yên tâm, tại hạ đã có chủ ý!”
“Ồ, là diệu kế gì?”
“Chu thiên tử chỉ nghĩ đến chuyện gả gấp Tuyết công chúa, nhưng lại quên bẵng mất vẫn còn Vũ công chúa! Lần này chúng ta đến hỏi cưới Vũ công chúa, không những hợp tình, mà còn hợp lễ, xem Chu thiên tử còn làm gì được!”
Tư Mã Thác lớn tiếng khen ngợi: “Diệu kế!” Rồi quay lại nói với binh sĩ. “Truyền lệnh, băng qua sông, hạ trại ở bờ bên kia Lạc Thuỷ!”
***
Đối với vương hậu, ngày hôm nay còn đau thương hơn cả cái ngày mình bị gả cho Chu thất. Bắt đầu từ giờ Thìn, vương hậu không chịu gặp ai. Ngay cả khi Cơ Tuyết vào cung từ biệt, bà cũng không chịu mở mắt. Cơ Tuyết cắt một lọn tóc, đặt xuống bên giường vương hậu, quỳ lạy ba lạy, rồi cúi xuống hôn khẽ lên trán bà.
Vương hậu trước sau không nói nửa lời, hai mắt đờ đẫn, ngồi lặng trên giường. Cơ Tuyết không đủ sức đối diện với bộ dạng đau khổ tột cùng của vương hậu, vội vã quay người, hai tay bưng mặt, khóc nghẹn mà lui ra. Một lát sau, từ phía cửa cung, vọng lại tiếng pháo vang rền, sau đó là tiếng đàn sáo trống chiêng ồn ã. Vương hậu vẫn ngồi bất động, chẳng khác gì một kẻ mất hồn.
Tất cả cung nhân đều đã đi tiễn Cơ Tuyết. Ngoài vương hậu, trong cung không còn lại một ai, ngay cả cung chính cũng không có bên mình. Vương hậu vẫn ngồi đờ đẫn như pho tượng, mặt trắng nhợt như sáp, tai nghe tiếng kèn trống dần xa, rồi lại nghe tiếng đám cung nhân lục tục trở về.
Mới đầu, đám cung nhân cũng không để ý, cho rằng do vương hậu thương tâm quá độ, ngồi một lát sẽ bình tâm trở lại. Nhưng mãi tới tận giữa trưa, thấy vương hậu vẫn ngồi bất động, dù có gọi thế nào cũng không phản ứng, lúc này mọi người mới lo sợ cuống cuồng. Cung chính cho người cấp báo với bệ hạ, chỉ một lát, sau Chu Hiển Vương được nội tể dìu đỡ, đã bước thấp bước cao chạy đến.
Nhìn thấy bộ dạng bất thường của vương hậu, Chu Hiển Vương hoảng hốt, bước đến nắm lấy hai tay vương hậu, hạ giọng mà gọi: “Tử đồng, tử đồng, nàng làm sao thế? Nàng nói gì đi! Tử đồng, nàng… nàng nói gì đi!”
Nghe Chu Hiển Vương gọi, vương hậu mới như tỉnh lại, nước mắt dâng ngập bờ mi. Hiển Vương ngồi xuống bên giường, nhẹ nhàng ôm lấy vương hậu, vỗ về bà như một đứa trẻ. Nhờ sự an ủi của Hiển Vương, nước mắt vương hậu lúc này mới như suối vỡ bờ, khóc lớn mà gọi: “Tuyết Nhi…”
Hiển Vương ôm vương hậu một lát, mới đỡ hậu nằm xuống, kê gối dưới đầu, còn mình ngồi trực bên giường, cầm khăn lụa nhẹ nhàng lau nước mắt cho vương hậu, dịu giọng khuyên nhủ: “Tử đồng, đừng nên quá đau lòng vì chuyện của Tuyết Nhi. Quả nhân cũng đã nghĩ kỹ rồi, mặc dù nước Yên xa xôi, nhưng lại ít chiến loạn, có lẽ Tuyết Nhi sẽ được sống bình an suốt đời!”
Vương hậu nhìn Hiển Vương, khe khẽ gật đầu, rồi vươn tay ra, ôm lấy Hiển Vương. Đúng lúc đó, nội tể hốt hoảng chạy vào, đang định bẩm báo, song nhìn thấy tình cảnh này, liền khựng lại.
Chu Hiển Vương hỏi: “Có chuyện gì?”
Nội tể trấn tĩnh lại, nói: “Bệ hạ, sứ giả nước Tần cầu kiến!”
Chu Hiển Vương trong lòng kinh hãi: “Biết rồi! Sắp xếp cho họ ở tạm dịch quán, ngày mai lên triều sẽ tiếp kiến!”
“Việc này… việc này…”
Chu Hiển Vương ngạc nhiên: “Sao thế?”
Nội tể chần chừ một lát, sau đó nói nhỏ: “Tây Chu Công, Nhan thái sư đều đang đợi, bệ hạ…”
Chu Hiển Vương linh tính thấy có chuyện chẳng lành, vội vàng đứng dậy. Nội tể ghé sát tai nói nhỏ mấy câu, Chu Hiển Vương lập tức mặt mày biến sắc, đưa mắt liếc sang vương hậu, rồi khẽ truyền lệnh: “Truyền chỉ, tuyên họ vào thiên điện gặp mặt!”
“Lão nô lĩnh chỉ!”
Khi Chu Hiển Vương hấp tấp lên thiên điện, ba người Tây Chu Công, Nhan thái sư, ngự sử cùng với sứ Tần Sư Lý Tật đã ngồi đợi ở sảnh phụ. Thấy Chu Hiển Vương vào điện, mọi người nhất tề khấu bái. Hiển Vương đi thẳng lên điện, ngồi xuống ngai vàng. Tây Chu Công, Nhan thái sư, ngự sử ai về chỗ của người ấy, Hiển Vương giơ tay: “Truyền sứ Tần!”
Sư Lý Tật tiến vào, dập đầu lạy: “Sứ Tần Sư Lý Tật khấu kiến thiên tử bệ hạ Đại Chu, cung chúc bệ hạ vạn thọ vô cương, long thể an khang!”
Chu Hiển Vương nói: “Sứ Tần miễn lễ!”
“Tạ ơn bệ hạ!”
Sư Lý Tật đứng dậy, vỗ tay. Mười mấy binh sĩ nước Tần lập tức khiêng sính lễ vào, bày thành một hàng dài ở giữa điện, rồi từ từ lùi ra.
Chu Hiển Vương ngơ ngác không hiểu, nhìn Sư Lý Tật hỏi: “Chuyện này là thế nào?”
Sư Lý Tật lại khấu bái: “Tần Công có thành ý kết thân với bệ hạ, nên đã lệnh cho vi thần đến Chu thất cầu hôn, mong bệ hạ ân chuẩn!”
Chu Hiển Vương đưa mắt sang Nhan thái sư, Nhan thái sư chậm rãi nói: “Sứ Tần hãy nghe cho kỹ, trưởng công chúa Cơ Tuyết hứa gả cho Yên thất, giờ Thìn hôm nay đã rước dâu sang Yên!”
“Nhan thái sư hiểu lầm rồi!” Sư Lý Tật nhìn sang Nhan thái sư, ôm quyền mà nói. “Bệ hạ gả đi Tuyết công chúa, song lần này Tần Công lại muốn hỏi cưới Vũ công chúa!”
Lời vừa nói dứt, mọi người thảy đều điếng người kinh hãi, đưa mắt nhìn nhau. Ngay đến Tây Chu Công cũng không dự liệu được tình huống này, đưa ánh mắt kinh ngạc nhìn trừng trừng vào Sư Lý Tật.
Chu Hiển Vương sắc mặt trắng bệch, hồi lâu sau vẫn không thốt nổi một câu. Vẫn là Nhan thái sư lịch duyệt hơn người, phong thái điềm tĩnh, chậm rãi đáp lời: “Mời sứ giả nước Tần quay về, ý tốt của Tần Công, Chu thất xin nhận. Có điều hiện giờ Vũ công chúa vẫn còn nhỏ tuổi, đợi đến tuổi cập kê lại cầu hôn cũng chưa muộn!”
Sư Lý Tật cất giọng sang sảng: “Vũ công chúa năm nay đã mười bốn, đã sắp đến tuổi cập kê. Tần Công có chỉ, để tránh gây tranh chấp hôn sự như lần trước, lần này xin cho nạp thái trước, rồi đón công chúa về Tần thất, đợi đến khi công chúa đến tuổi cập kê, lại chọn ngày tốt thành hôn!”
Nhan thái sư vội nói: “Điều này… không hợp lễ chế!”
“Được!” Sư Lý Tật cười nhạt, hai mắt nhìn thẳng vào Nhan thái sư. “Lão thái sư đã nhắc đến lễ chế, tại hạ cũng sẽ nói về lễ chế! Theo tại hạ được biết, Thuần Vu Khôn chẳng qua chỉ là một du sĩ lang thang chứ không phải quan đại phu của Yên quốc, cũng chẳng phải sứ thần đến cầu thân. Tại hạ điều tra rõ ràng, kỳ thực người này đã đến Lạc Dương từ lâu theo lệnh của thái sư, ở ngay trong phủ thái sư. Vậy mà một du sĩ bỗng chốc biến thành sứ thần cầu thân, thì lễ chế của Đại Chu ở đâu? Đó là còn chưa kể cho dù là dân nữ xuất giá, cũng phải chọn ngày giờ hoàng đạo, vậy mà công chúa Đại Chu xuất giá, lại quá ư qua loa đại khái. Dựa theo phong tục, ngày hôm nay không nên xuất giá, lão thái sư lại coi chuyện thiên tử gả con như trò đùa, tự ý khăng khăng giờ Thìn đưa dâu, vội vội vàng vàng đưa Tuyết công chúa lên đường! Tại hạ đã phái người dò hỏi, cho tới tận hôm qua, ngày xuất giá của Tuyết công chúa vẫn chưa định đoạt, dám hỏi thái sư, công chúa xuất giá vội vàng đại khái như vậy, là hợp với lễ chế nào?”
Lời Sư Lý Tật lý lẽ rõ ràng, chứng cứ đầy đủ, Nhan thái sư cứng họng không nói được lời nào, mặt đỏ phừng phừng, rồi hổ thẹn cúi đầu ủ rũ. Sư Lý Tật quay sang Chu Hiển Vương, lại khấu lạy mà nói: “Tần Công có thành ý cầu thân, mong bệ hạ tác thành!”
Chu Hiển Vương tức nghẹn: “Nói như vậy, là Tần Công đã cố ý làm khó quả nhân!”
Sư Lý Tật lại bái lạy, nói dõng dạc: “Bệ hạ quá lời! Theo vi thần được biết, Tần Công chưa bao giờ làm khó bệ hạ, cũng không có ý làm khó bệ hạ, có chăng là do bệ hạ hiểu sai thành ý của Tần Công mà thôi! Ở triều hội Mạnh Tân, Tần Công thấu tỏ lòng dạ đen tối của Ngụy Hầu, nên cố tình không đến. Quả nhiên không ngoài tiên liệu, sau đó chưa đầy tháng, dã tâm của Ngụy Hầu đã hiện Nguyên hình, dám tự lập làm vương. Đúng vào lúc thiên hạ bàng hoàng, Tần Công lại lấy thiên hạ làm trọng, không sợ cường địch, đã khởi binh thảo phạt giặc Ngụy, đại phá quân Ngụy tại Hà Tây. Tất cả những sự việc này đều cho thấy, Tần Công không những không có nghịch tâm, mà còn có tâm với Chu thất, thành khẩn muốn kết thân cùng bệ hạ, một lòng muốn bảo vệ xã tắc nhà Chu. Tấm lòng của Tần Công có trời đất chứng giám, nhật nguyệt sáng soi, mong bệ hạ minh xét!”
Chu Hiển Vương phản bác: “Tần Công đã có lòng bảo vệ Chu thất, tại sao lại đưa đại quân áp sát biên giới, uy hiếp quả nhân?”
“Bệ hạ lại hiểu lầm rồi! Việc cầu thân lần trước, không ngờ gặp người Ngụy làm càn, kinh động thánh giá. Tần Công biết được việc này, cảm thấy rất bất an. Lần này cầu thân, Tần Công vì muốn đề phòng bất trắc nên đã phái Tư Mã tướng quân dẫn theo ba vạn tinh binh hộ giá, hai vạn đóng quân phía ngoài Nghi Dương, một vạn đóng ở bên bờ Lạc Thuỷ. Tần Công không có ý khác, chỉ là muốn đề phòng quân Ngụy, vỗ yên lòng dân Chu thất! Tần Công thành tâm như vậy, kính mong bệ hạ soi xét!”
Cường đạo cũng có cường lý, Sư Lý Tật miệng lưỡi khôn ngoan, nói năng kín kẽ, không chút sơ hở, cứ như Tần Công thực sự một lòng son sắt trung trinh với Chu thất.
Chu Hiển Vương nào có chịu tin, suy nghĩ một lát, lại chậm rãi nói: “Ý tốt của Tần Công, quả nhân xin nhận. Có điều tiểu nữ xấu người trắc nết, thật không tương xứng với hổ tử của Tần Công, xin Sư Lý tiên sinh trở về bẩm rõ với Tần Công, mong Tần Công hãy chọn dâu hiền khác!”
Lời này của Chu Hiển Vương, rõ ràng là một lời từ chối thẳng thừng. Sư Lý Tật sững người, rồi lập tức sa sầm nét mặt, lại bái lạy mà nói: “Thái tử Tần Doanh Tứ tuổi trẻ anh tuấn, văn nhã phong lưu, văn tài võ lược không gì không thạo, bất kể điểm nào đều hơn đứt lão Yên Công! Hơn nữa, Tần Công là cùng tông với vương thất, bảy trăm năm trước đã máu thịt tương liên, hai nhà kết thân làm một, chưa từng làm ô nhục huyết mạch vương thất, mong bệ hạ đừng nên lần lữa chối từ!” Nói xong lại dập đầu.
Đối mặt với lời cầu hôn cứng rắn như vậy, Chu Hiển Vương giận đến không nói nên lời: “Ngươi… ngươi…”
Sư Lý Tật đưa mắt nhìn Tây Chu Công, liên tục ra hiệu. Tây Chu Công thở dài, rồi khuyên Chu Hiển Vương: “Bệ hạ, theo ý của quý thúc, hay là cứ đồng ý với chuyện này. Việc nhà Tần đến cầu thân đã náo động khắp nơi, thiên hạ ai ai cũng biết, nếu không có một kết cục, thì thể diện của Tần Công còn biết để vào đâu? Còn về Vũ Nhi, lão thần bấm tay nhẩm tính, chỉ vài tháng nữa sẽ đến tuổi cập kê, theo lý cũng nên xuất…”
Tây Chu Công chưa kịp nói nốt chữ “giá”, liếc thấy sắc mặt của Hiển Vương đã trắng bệch như sáp, toàn thân run rẩy, liền vội vàng câm bặt.
“Bệ hạ!” Sư Lý Tật vẫn không chịu buông tha.
Hiển Vương hai vai co giật, khuôn mặt rúm ró, hai mắt như toé lửa. Ngự sử nhìn Nhan thái sư, thấy lão thái sư vẫn cúi gục đầu, chưa kịp lấy lại tinh thần, trong lòng lo sợ, vội điều hoà ngữ khí, ôm quyền quay sang Sư Lý Tật mà nói: “Sứ Tần hãy nghe tại hạ nói vài câu! Việc kết thân liên quan đến tông pháp xã tắc, không nên nóng vội. Bệ hạ hôm nay vừa gả ái nữ, tâm tư vẫn còn xáo trộn, chuyện này hãy để hôm khác bàn tiếp được chăng?”
Sư Lý Tật biết cũng không nên bức ép thêm nữa, ngẫm nghĩ một lát rồi gật đầu nói: “Cũng được!” Rồi lấy sính thư và danh sách sính lễ từ trong tay áo ra, nói. “Đây là sính thư và danh sách sính lễ, mong bệ hạ nhận cho! Sư Lý Tật quay về doanh trại ở Lạc Thuỷ chờ tin tốt đẹp!”
Nói xong, Sư Lý Tật đứng bật dậy, quăng đánh vụt sính thư cùng danh sách sính lễ về phía ngự sử, rồi ngẩng đầu ngạo nghễ bước ra khỏi điện.
Một đại phu của chư hầu lại không từ từ lùi ra khỏi điện thiên tử, mà lại ngẩng cao đầu quay lưng bước ra, đây không chỉ là thất lễ, mà rõ ràng mang ý khiêu khích. Những người trong điện thảy đều sững sờ nhìn nhau.
Chu Hiển Vương chỉ tay vào Tây Chu Công, Nhan thái sư và ngự sử, toàn thân run rẩy: “Ngươi, các ngươi, lui hết ra!”
Sau khi Chu Hiển Vương vội vàng rời bước, vương hậu cảm thấy mệt mỏi nên ngủ thiếp đi, nhưng vừa chợp mắt, đã choàng tỉnh bởi một cơn ác mộng. Vương hậu giật bắn mình, ngồi bật dậy, muốn bước xuống giường, nhưng lại hoa mắt chóng mặt, đành phải nằm xuống, xoay người nói với thị nữ: “Ngươi lên điện xem bệ hạ thế nào. Ta vừa gặp ác mộng, tỉnh dậy thấy mi mắt giật liên hồi, hẳn là có chuyện chẳng lành!”
Thị nữ vâng lệnh, cắm đầu chạy đi. Nhưng khi đến thiên điện, lại thấy bên trong không một bóng người. Thị nữ đang đứng ngơ ngẩn, may sao gặp một cung nhân, nói rằng bệ hạ đã tới ngự thư phòng. Thị nữ đi về phía ngự thư phòng, từ xa đã nhìn thấy thị tùng của Chu Hiển Vương đứng hầu bên ngoài, đang nghiến răng kèn kẹt ngước cổ nhìn lên ngọn cây lớn trước cửa. Trên ngọn cây, một con ve sầu không biết nấp ở chỗ nào, đang kêu ra rả đến đinh tai nhức óc.
Thị tùng càng nghe càng bực dọc, lại không tìm được con ve sầu, nên vô cùng giận dữ, vận hết sức lực, đá mạnh một cái vào gốc cây. Thân cây khẽ rung lên vài cái, rồi lại im phăng phắc. Con ve sầu không những không bay đi, mà còn kêu inh tai hơn nữa.
Thị tùng đang lúc cáu bẳn, thì thị nữ đã lại gần, thấy bộ dạng phẫn nộ của hắn, thì cười mà hỏi: “Anh hết chuyện để làm rồi ư, sao lại đi đá gốc cây?”
Thị tùng tức tối chỉ tay lên ngọn cây: “Cô nghe xem, cái giống chết tiệt kia cứ ra rả suốt ngày không chịu câm miệng!”
Thị nữ lại cười: “Đang yên đang lành, sao anh lại bực bội với một con ve sầu làm chi?”
Thị tùng thở dài sườn sượt, rồi ngoảnh nhìn vào thư phòng: “Bệ hạ đang buồn khổ, mà con ve lại không biết điều, cứ ở đây quấy nhiễu, cô nói xem có đáng giận không?”
“Bệ hạ buồn khổ chuyện gì vậy?” Thị nữ hỏi.
Thị tùng ghé sát tai thị nữ thì thầm vài câu, thị nữ giật nảy mình kinh sợ: “Trời ơi! Vũ công chúa khác hẳn Tuyết công chúa, tính khí cương liệt, huống hồ nương nương còn đang bệnh nặng!”
Thị tùng gạt nước mắt mà nói: “Than ôi, cũng chính vì chuyện này nên bệ hạ như muốn phát điên, mà tiểu nhân lại chẳng thể giúp được gì!”
Thị nữ còn lòng dạ nào nghe hắn thở than, lập tức co giò chạy một mạch về cung Tịnh An. Vào đến cửa, thị nữ mới thấy đắn đo, liền vội dừng bước, tựa vào khung cửa thở hổn hển một hồi, sau đó chỉnh sửa lại xiêm y, rồi mới bước vào cung.
Vương hậu khẽ nhấc người dậy hỏi: “Đã gặp được bệ hạ chưa?”
Thị nữ thần sắc không giấu được vẻ hoảng hốt: “Bẩm đã gặp… gặp được rồi!”
“Có chuyện gì chăng?”
“Bẩm không… không có chuyện gì!”
Vương hậu cảm thấy đáng ngờ, vội vàng ngồi dậy: “Có chuyện gì mà ấp a ấp úng như thế? Nói mau!”
Thị nữ gắng trấn tĩnh lại, bước lên một bước: “Nương nương, quả thực là không có chuyện gì!”
Vương hậu không tin, ánh mắt nhìn xoáy vào thị nữ, hồi lâu sau mới lên tiếng: “Nếu ngươi không nói, bản cung sẽ tự đi hỏi?”
Nói đoạn liền ngồi thẳng dậy, hai chân tuột xuống dưới giường, đứng lên, bước được hai bước thì loạng choạng, cơ thể lảo đảo, suýt chút nữa thì ngã quỵ.
Thị nữ vội chạy lại đỡ lấy vương hậu, dìu bà ngồi trở xuống giường, sau đó quỳ xuống, bật khóc: “Nương nương, xin nương nương đừng làm vậy, nô tỳ sẽ nói!”
Vương hậu lại nằm xuống, mắt nhìn thẳng vào thị nữ, giục giã: “Nói đi!”
“Nương nương, là sứ thần nước Tần lần trước đến cầu hôn Tuyết công chúa bây giờ lại đến, nghe nói dẫn theo ba vạn đại quân, đang… đang hạ trại bên bờ Lạc Thuỷ!”
Vương hậu khẽ chau mày: “Chẳng phải Tuyết Nhi đã xuất giá rồi ư?”
“Họ… họ không phải tới cầu hôn Tuyết công chúa, mà họ muốn… muốn…”
Dường như vương hậu đã đoán ra chuyện gì, liền ngồi bật dậy: “Họ muốn gì?”
Thị nữ khóc nấc: “Muốn cầu hôn Vũ công chúa!”
Vương hậu cả kinh: “Vũ Nhi?”
Thị nữ gật đầu.
Sắc mặt vương hậu thình lình trắng bệch, miệng lắp bắp liên hồi: “Vũ Nhi? Vũ Nhi! Vũ Nhi…” Rồi cứ lặp đi lặp lại như kẻ mất hồn, một lát sau, chỉ nghe đánh “huỵch” một tiếng, bà đã lăn người xuống giường, phăm phăm lao ra phía cửa.
Sự việc quá ư thình lình, thị nữ hốt hoảng, chưa kịp ngăn lại thì vương hậu đã ra đến cửa, như muốn chạy ra ngoài, song đột nhiên chân tay líu ríu, ngã nhào xuống đất.
Thị nữ đã kịp định thần, vội vàng chạy lại, hét lên thất thanh: “Nương nương, nương nương!” Rồi ngoảnh ra ngoài cửa kêu toáng lên. “Người đâu, mau đến đây, người đâu! Nương nương…”
Cung chính và đám cung nhân nghe thấy, cuống quýt chạy vào, tay năm tay mười vực vương hậu vào giường. Cung chính giọng gấp gáp: “Mau, truyền thái y! Mau, bẩm báo bệ hạ! Mau, mau lên!”
Đám cung nữ chia nhau chạy như bay về các hướng.
Vương hậu lại một lần nữa đổ bệnh. Tin truyền đến bên bờ Lạc Thuỷ, Sư Lý Tật lạnh lùng cười nhạt, nói với Tư Mã Thác: “Hừm, tại hạ đã sớm đoán được chuyện này!” Rồi quay sang quân uý. “Đi mời tiên cô!”
Một lát sau, quân uý dẫn theo Lâm tiên cô vào trong trại. Sau khi hành lễ xong xuôi, Sư Lý Tật vòng tay vái mà nói: “Vương hậu của Đại Chu lại ngã bệnh, xem ra lại phải phiền tiên cô vất vả một chuyến!”
Tiên cô đáp lễ rồi trả lời: “Xin được góp chút sức mọn!”
Sư Lý Tật, Tư Mã Thác dẫn tiên cô đi thẳng đến phủ Nhan thái sư bái kiến. Nhan thái sư không tìm được lý do từ chối, đành phải dẫn hai người vào gặp Hiển Vương. Hiển Vương vẫn theo tiền lệ, lệnh cho ngự y trong cung dẫn tiên cô đến cung Tịnh An.
Trên giường, vương hậu sắc mặt vàng võ, hơi thở yếu ớt, hai mắt nhắm nghiền, đã chìm vào hôn mê. Lâm tiên cô cũng giống như lần trước, đứng cách vương hậu chừng một bước chân, phát công chẩn thị, một lát sau thì thu công, cáo từ.
Sau khi Lâm tiên cô ra khỏi cửa, cung chính đến hỏi bệnh tình, Lâm tiên cô vẫn không mở miệng, chỉ vòng tay thi lễ rồi đi thẳng ra khỏi cung. Sư Lý Tật đợi ở ngoài cung, vội tiến đến đón, khẽ hỏi: “Xin hỏi tiên cô, bệnh tình của vương hậu có giống lần trước chăng?”
Lâm tiên cô khẽ lắc đầu.
“Xin hỏi tiên cô, vương hậu mắc bệnh gì?”
“Cấp tâm phong!”
“Cấp tâm phong?” Sư Lý Tật khẽ lẩm nhẩm, rồi lại hỏi. “Xin hỏi tiên cô, cớ sao vương hậu lại mắc bệnh này?”
“Đau buồn quá độ, nằm liệt giường lâu ngày, hư hoả quá thịnh, nguyên thần kinh hãi, dương thần thoát vị, âm tà xâm nhập, nên mới mắc bệnh này.”
“Vậy…” Sư Lý Tật suy nghĩ một lát. “Bệnh này có cứu được chăng?”
“Cần phải tĩnh dưỡng. Nếu đoạn tuyệt được tất cả phiền não nhân gian, điều hoà tâm trí, phục dương chế âm, may ra có thể bình phục.”
“Đa tạ tiên cô!” Sư Lý Tật quay sang nói với tuỳ tùng. “Tiễn tiên cô về doanh trại!”
Nhìn thấy xe của tiên cô đã đi xa, Sư Lý Tật thoáng chau mày, ngẫm nghĩ một lát, rồi quay sang nói với Tư Mã Thác: “Tư Mã tướng quân, chúng ta hãy đến gặp Tây Chu Công.”
Hai người quay ngựa, cùng tiến về phía phủ Tây Chu Công. Sư Lý Tật vẫn dâng lễ như trước, nhưng Tây Chu Công đã không còn thấy của sáng mắt, vẻ mặt hết sức ủ ê.
Sư Lý Tật vòng tay nói: “Nhìn sắc mặt tiền bối không được tốt. Vãn bối dám hỏi tiền bối, phải chăng là có chuyện buồn?”
“Hỡi ôi!” Tây Chu Công thở dài. “Tại sao sự việc lại đến nước này? Vốn dĩ nên để Tuyết Nhi gả cho nước Tần làm thái tử phi là chuyện tốt đẹp biết mấy. Lão hủ nghe nói, Tuyết Nhi cũng thấy ưng thuận, song bệ hạ lại không chịu, khăng khăng nghe theo chủ ý của Nhan thái sư, bắt Tuyết Nhi phải hầu hạ lão Yên Công. Ngươi nói xem, một thiếu nữ tuyệt sắc nhường đấy, mà cả ngày phải ở bên một lão già đầu tóc bạc phơ, thực không biết là nghiệp chướng gì! Tuyết Nhi vừa mới xuất giá, các người lại đến cầu hôn Vũ Nhi, người khác có thể không hiểu Vũ Nhi, song lão hủ hiểu rất rõ, Vũ Nhi khác hẳn với Tuyết Nhi, từ nhỏ đã bướng bỉnh, vô pháp vô thiên. Đại phu thử nói xem…”
Nói đến đây, Tây Chu Công lại thở dài sườn sượt.
“Tiền bối yên tâm, chỉ cần tiền bối có thể khiến Vũ công chúa gả cho nhà Tần, vãn bối đảm bảo Vũ công chúa sẽ hữu pháp hữu thiên!”
Tây Chu Công lại than thở: “Này Sư Lý đại phu, không phải là lão hủ không muốn giúp, nhưng bây giờ… nương nương đã ra nông nỗi này, lão hủ làm sao có thể…”
Sư Lý Tật mỉm cười, ôm quyền mà nói: “Vãn sinh đã biết tại sao tiền bối đau buồn, thì ra là vì bệnh của nương nương. Lần này vãn sinh đến đây chính là muốn báo cho tiền bối một tin mừng, nương nương căn bản không có bệnh tật gì hết!”
Tây Chu Công kinh ngạc: “Ngươi nói gì?”
“Tiền bối có điều chưa biết, lần trước ba nhà tranh giành Tuyết công chúa, vào đúng thời khắc quan trọng, nương nương đột nhiên đổ bệnh. Tần Công hay tin, vô cùng lo ngại, đã mời một đạo cô ở núi Chung Nam đến chẩn bệnh cho nương nương. Tiên cô đạo thuật cao thâm, đã phát hiện ra bệnh của nương nương chỉ là bệnh giả. Vãn bối muốn giữ thể diện cho vương thất, nên cố ý che giấu sự tình. Vậy mà không biết vì lý do gì, việc này lại bị sứ thần nước Ngụy là Trần Chẩn biết được, Trần Chẩn đã đến cật vấn bệ hạ, trong lúc nóng giận, bệ hạ đã quyết định gả Tuyết công chúa cho Yên Công. Tần Công không còn cách nào khác đành phải quay sang cầu hôn Vũ công chúa. Tần Công có ý muốn kết thân với Chu thất, ai ngờ nương nương cố ý giả bệnh, thật khiến vãn bối cảm thấy đau lòng.”
Tây Chu Công bán tín bán nghi: “Sư Lý đại phu, lão hủ nghe nói nương nương bệnh nặng, đã đích thân tới thăm, nhìn bệnh trạng của nương nương, tuyệt đối không phải giả dạng. Lão hủ còn đi hỏi thái y, thái y cũng nói nương nương mắc phải bệnh cấp.”
“Không dám giấu tiền bối, lúc nãy vãn bối đã dẫn vị tiên cô ở núi Chung Nam đến chẩn bệnh, tiên cô đã chứng thực, nương nương đích thực là giả bệnh, chỉ có điều lần này giả bộ quá giống mà thôi!”
Tây Chu Công lặng đi một lúc, dường như đã tin vào lời của Sư Lý Tật, liền gật đầu nói: “Chuyện này hẳn còn có điều uẩn khúc. Nghe nói nương nương là một kỳ nhân, thuở nhỏ đã từng mắc chứng bệnh lạ, phải nhờ một tiên nhân tên Quỷ Cốc Tử chữa trị. Xem ra…”
Sư Lý Tật vội ôm quyền mà nói: “Chuyện này tiền bối biết là được rồi, nếu chẳng may để lộ ra ngoài, thì nương nương còn biết để mặt mũi vào đâu, đối với vương thất, cũng chẳng phải chuyện quang minh chính đại. Vãn bối chỉ mong tiền bối tâu lại với bệ hạ, Tần Công thành tâm kết thân, mong bệ hạ minh xét!”
Tây Chu Công gật đầu đáp: “Được! Lời của Sư Lý đại phu, lão hủ nhất định sẽ tấu lại với bệ hạ!”
Tây Chu Công vội vội vàng vàng vào cung, gặp được Hiển Vương, thuật lại toàn bộ những lời của Sư Lý Tật cho Hiển Vương nghe. Nghe thấy người Tần vu oan nương nương giả bệnh, Hiển Vương thương tâm tột độ, chỉ mặt Tây Chu Công, khắp người run rẩy, khóc không thành tiếng: “Quý thúc ơi quý thúc, thúc… thúc hồ đồ mất rồi, hay là đã bị người Tần mua chuộc mất? Chu thất đã đến nông nỗi này, mà người Tần vẫn bức bách không chịu buông tha! Vương hậu đã thê thảm đến thế, mà các người vẫn nói là giả bệnh! Khi tiên vương qua đời đã phó thác quả nhân và cả Chu thất cho hai vị thúc công, thế mà… các vị phò tá quả nhân như thế này ư?”
Càng nói càng thương tâm, Hiển Vương khóc rống lên. Tây Chu Công mặt đỏ tận tai, vội quỳ sụp xuống, liên tục dập đầu, giọng nói run rẩy, cũng khóc mà nói: “Bệ hạ, lão… lão thần… đáng chết…!”
Đúng vào lúc này, cung chính cho người đến bẩm báo, nương nương đã tỉnh lại. Hiển Vương thấy vậy, không thèm đếm xỉa tới đến Tây Chu Công nữa, vội vàng đứng dậy, cùng nội tể đi thẳng đến cung Tịnh An.
Trước giường vương hậu, Cơ Vũ đang quỳ dưới đất, hai mắt đỏ mọng, không biết đã khóc bao lâu. Vương hậu nằm bất động trên giường, hai mắt cũng sưng húp.
Hiển Vương vội vàng tiến lại, ngồi lên mép giường, đưa tay đặt lên trán vương hậu, dịu giọng mà gọi: “Tử đồng, Tử đồng…”
Vương hậu nhìn Hiển Vương đăm đắm, giọng nói yếu ớt: “Bệ hạ, thần thiếp e rằng… e rằng không thể hầu bệ hạ thêm được nữa!”
Chu Hiển Vương nắm chặt tay bà, nói: “Tử đồng, có chứ, nàng sẽ khoẻ lại, nhất định sẽ khoẻ lại!”
Vương hậu cười gượng: “Bệ hạ…”
Chu Hiển Vương đỡ lấy đầu vương hậu, nhẹ nhàng đặt vào lòng mình. Nhìn thấy bát thuốc trên bàn, liền bưng lên, đích thân nếm thử một ngụm: “Nào, tử đồng, hãy uống một ngụm! Uống xong bát thuốc này, bệnh của nàng sẽ khỏi!”
Vương hậu nhấp một ngụm nhỏ, sau đó ngẩng đầu nhìn Hiển Vương: “Bệ hạ, nghe nói người Tần đã đến, Tây Chu Công cũng lại vào cung?”
Chu Hiển Vương nhìn vương hậu, chậm rãi nói: “Không có chuyện gì đâu! Tử đồng, nàng hãy yên tâm dưỡng bệnh, chỉ cần quả nhân còn sống, sẽ không có chuyện gì xảy ra!”
Cơ Vũ chưa bao giờ thấy phụ vương nói ra những lời kiên định đến vậy, vừa kinh ngạc vừa cảm động, liền dịch lại gần, vùi đầu vào hai gối Hiển Vương.
Thấy hai cha con như vậy, vương hậu cũng nở một nụ cười, dịu dàng nói với Cơ Vũ: “Vũ Nhi, mười sáu năm trước, khi mẫu hậu mới quen phụ vương con, phụ vương của con cũng hệt như lúc này!”
Cơ Vũ ngẩng đầu, nhìn thẳng vào Hiển Vương một lúc, sau đó lại cúi xuống, càng áp sát mặt vào đầu gối Hiển Vương. Vương hậu bỗng nhắm nghiền hai mắt, ho lên vài tiếng, sau đó uống một mạch hết bát thuốc đắng. Hiển Vương đặt chiếc bát không sang một bên, đỡ vương hậu nằm xuống.
Vương hậu nhìn Hiển Vương, chậm rãi nói: “Bệ hạ…”
“Tử đồng?”
Vương hậu mỉm cười: “Bệnh của thần thiếp, có lẽ còn chữa được!”
Hiển Vương mừng rỡ: “Thật ư?”
“Lúc nãy thần thiếp nằm mơ, trong giấc mơ có một vị thần tiên nói với thần thiếp, chỉ cần bệ hạ đưa ra thông cáo, tự sẽ có cao nhân tìm đến chữa trị.”
Chu Hiển Vương lập tức gọi lớn: “Người đâu!”
Nội tể tiến vào.
“Truyền chỉ, dán bố cáo, bất kể là người nào, ai có thể chữa khỏi bệnh cho vương hậu, sẽ trọng thưởng ba trăm lượng vàng, phong quan tấn tước.”
“Lão nô tuân chỉ.”
Hiển Vương ngồi thêm một lát, vẫn cảm thấy không yên tâm về bố cáo, bèn đích thân đi kiểm tra. Hiển Vương vừa đi, Cơ Vũ liền nói với vương hậu: “Mẫu hậu, cao nhân mà người vừa nói, phải chăng là Quỷ Cốc Tử tiên sinh?”
Vương hậu khẽ gật đầu.
Cơ Vũ bước lên một bước, khẽ nói: “Tiên sinh ở miếu Hiên Viên phía đông thành, Vũ Nhi sẽ đi mời lão đến.”
“Khoan đã!” Vương hậu khẽ lắc đầu. “Vũ Nhi, con có điều chưa biết, nếu tiên sinh muốn đến, cho dù tường cao nhà rộng cũng không thể ngăn được tiên sinh. Nhưng nếu tiên sinh không muốn đến, cho dù ai mời cũng chỉ vô dụng. Chắc chắn tiên sinh cũng đã biết tình cảnh hiện tại của chúng ta, và đã có cách ứng phó, mẫu hậu không hề lo lắng. Kế này của mẫu hậu, chẳng qua chỉ là để ứng phó với người Tần, kéo dài thời gian.”
“Mẫu hậu…” Cơ Vũ đã hiểu ra, gọi một tiếng rồi gục đầu vào lòng vương hậu.
Tin Chu thất bố cáo thiên hạ, tìm thần y chữa bệnh cho vương hậu nhanh chóng truyền đến doanh trại quân Tần. Sư Lý Tật chau mày, cười gằn với Tư Mã Thác: “Chúng ta vừa rêu rao vương hậu giả bệnh, Chu Vương đã công khai bố cáo cầu y. Chu thiên tử kia đúng là muốn chống đối chúng ta!”
Tư Mã Thác vội hỏi: “Vậy phải làm thế nào?”
Sư Lý Tật trầm tư một lát, cười nhạt: “Tư Mã tướng quân, đi, chúng ta lại đi một chuyến, xem vị thần tiên nào dám bóc tờ thông cáo xuống!”
“Được!” Tư Mã Thác phấn khích nói lớn. “Nếu quả thật có thằng đần nào không biết hay dở, tại hạ sẽ cho hắn chết không kịp ngáp!”
Hai người chọn lấy mấy binh sĩ, tất cả cải trang thường phục, đi thẳng đến vương thành.
Đến ngoài cổng vương cung, quả nhiên thấy trên tường dán một tờ bố cáo, bốn binh sĩ mặc áo giáp đứng canh hai bên. Phía dưới tờ bố cáo, mọi người chen nhau đến đọc.
Trên khoảng đất trống phía trước dám người, Quỷ Cốc Tử ngồi ngay ngắn trên đất, tiểu đồng cầm cây phướn đứng bên cạnh. Có người lớn tiếng đọc nội dung bố cáo: “… Trong triều ngoài nội, bất luận là ai, chỉ cần chữa khỏi bệnh cho ngọc thể của vương hậu, thưởng ba trăm lượng vàng, phong quan tấn tước…”
Đám Sư Lý Tật vừa bước lại gần, bỗng thấy có hai người bộ dạng giống như sơn nhân chạy ngang qua trước mặt. Tư Mã Thác thấy kẻ chạy qua lưng cõng một sọt thảo dược, bèn giật áo Sư Lý Tật. Sư Lý Tật ngẩng đầu nhìn, thấy hai người quả nhiên hành nghề y, một người tuổi khoảng lục tuần, nhìn qua đã biết là thầy lang. Người còn lại tuổi không quá ba mươi, xem ra đây là hai cha con.
Hai người cấp tốc bước vào giữa đám đông, mọi người vừa thấy sọt thuốc của họ, liền vội vã nhường đường. Hai người chẳng mất công chen lấn, đã đến được trước tờ cáo thị. Tư Mã Thác đưa mắt ra hiệu, mấy binh sĩ lập tức tiến lên theo, đứng sát sau lưng hai người.
Có người hô to: “Lão thầy lang, xé cáo thị đi!”
Rất nhiều người đồng thanh: “Mau xé cáo thị đi, những ba trăm lượng vàng kia đấy, các vị có sống mười đời nữa cũng chưa chắc kiếm được từng đấy tiền đâu!”
Người trẻ tuổi vốn cũng vì lý do này mà tìm đến, thấy mọi người đồng thanh cổ vũ, không kìm nổi hưng phấn, liền sải một bước lên phía trước, đưa tay định bóc tờ cáo thị xuống. Tư Mã Thác chau mày, đang định ra ám hiệu để thủ hạ ra tay, nhưng lão thầy lang già lại đột ngột kéo tay áo con trai, lôi hắn trở ra.
Người con trai vội hỏi: “Cha, tại sao lại ngăn con?”
Lão thầy lang không giải thích, vừa lôi vừa đẩy, nhanh chóng lách ra khỏi đám đông. Người con trai có vẻ bực bội, nói: “Cha, chẳng phải cha nói bệnh của nương nương không hề khó chữa?”
Lão thầy lang gằn giọng: “Đúng là ta có nói chữa trị không khó, nhưng không nói là dễ chữa!”
“Cha?” Người con trai rõ ràng không hiểu ý, ngờ vực nhìn cha. “Chúng ta đã chữa khỏi không biết bao nhiêu chứng bệnh nặng bệnh nhẹ, lẽ nào bệnh của nương nương lại khó chữa đến vậy?”
“Hừm!” Lão thầy lang lừ mắt nhìn cậu con trai, rồi quở trách. “Con đúng là học bao nhiêu năm cũng chỉ tổ phí công! Ta hỏi con, chúng ta chẩn bệnh dựa vào cái gì?”
Người con trai trả lời ngay không cần suy nghĩ: “Còn phải hỏi! Là vọng văn vấn thiết(1)!”
Lão thầy lang lại hừ mũi một tiếng: “Được, vậy thì nói về vọng văn vấn thiết! Nương nương là bậc cao quý chí tôn trong nước, phận thảo dân như cha con ta há lại được nhìn? Chẩn bệnh cho nương nương, trước tiên cần phải cách một bức màn! Đã không được nhìn, còn nói gì đến nghe, hỏi? Lại còn bắt mạch, con có biết không, phải dùng sợi tơ để bắt mạch cho nương nương. Con có bản lĩnh bắt mạch qua sợi tơ chăng?”
Người con trai nghe cha nói vậy, hai môi bậm chặt, không nói được lời nào. Lão thầy lang lừ mắt nhìn con trai, rồi quay đầu bước đi. Người con trai đờ ra một lát, rồi cũng ngoan ngoãn theo sau, nhanh chóng khuất dạng.
Thấy hai người đã đi xa, Sư Lý Tật, Tư Mã Thác liền nhìn nhau cười.
Tư Mã Thác khẽ nhún vai: “Cứ tưởng cao nhân phương nào, té ra là hai thầy lang tầm thường!”
“Không, không, không!” Sư Lý Tật giọng đầy khâm phục. “Tư Mã huynh nhìn lầm rồi, lão tiên sinh kia chắc chắn là cao thủ. Hẳn là ông ta đã phát giác ra điều bất thường, nên mới ngăn cản gã con trai ngốc lại!”
“Cũng may lão ta ngăn kịp, nếu không thì…”
Chưa đợi Tư Mã Thác nói dứt lời, Sư Lý Tật đã chặn họng: “Xem ra, trước mắt sẽ không có ai dám bóc cáo thị, chúng ta cứ ở lì đây cũng chướng mắt. Đằng kia có một quán trà, chúng ta hãy đến đó uống vài chén đã!”
Tư Mã Thác gọi một binh sĩ lại, căn dặn: “Các ngươi đứng canh ở đây! Nếu có người bóc cáo thị, lập tức đến quán trà kia bẩm báo!” Nói đoạn, chỉ tay về phía quán trà ở đằng xa.
Hai người quay lưng bước đi, vừa lúc ba người Trương Nghi, Tô Tần và Tiểu Thuận hay tin chạy đến. Tô Tần nhìn thấy lá phướn của Quỷ Cốc Tử, tâm tư phân tán, đâm đánh sầm vào người Tư Mã Thác. Tư Mã Thác không kịp đề phòng, suýt chút nữa ngã nhào, sau khi đứng vững, đang định nổi giận thì Tô Tần đã vội vàng bái lạy xin lỗi. Tư Mã Thác thấy hắn không cố ý, nên chỉ trừng mắt một cái rồi phất áo mà đi.
Quỷ Cốc Tử ngồi ở phía xa, hai mắt hé mở nhìn sang, sau đó lại nhắm nghiền như cũ.
Ba người Trương Nghi cũng chen vào đám đông để đọc cáo thị. Đọc một lát, Trương Nghi khẽ đảo con ngươi, rồi đưa tay vỗ nhẹ vào vai Tiểu Thuận, hai người từ từ rời khỏi đám đông. Đi đến chỗ vắng người, Trương Nghi đưa mắt nhìn Quỷ Cốc Tử phía xa, hỏi khẽ: “Này, Tiểu Thuận, ta hỏi ngươi, cái gã nói lắp kia đã ở cùng chúng ta bao lâu rồi?”
Tiểu Thuận gãi đầu: “Hồi bẩm thiếu gia, khoảng hơn hai mươi ngày.”
Trương Nghi trừng mắt nhìn gã: “Ta biết là hơn hai mươi ngày, nhưng chính xác là hai mươi mấy ngày?”
Tiểu Thuận cười hì hì: “Xin đợi tiểu nhân tính toán một lát!” Rồi gập các ngón tay nhẩm đếm một hồi, lại cười tít mắt. “Hồi bẩm thiếu gia, chính xác là hai mươi tám ngày!”
“Ừm!” Trương Nghi gật đầu. “Cộng thêm một ngày tên tiểu tử đó bị treo, tổng cộng là hai mươi chín ngày, qua ngày mai chính là ba mươi ngày, ngươi thấy có đúng không?”
“Đúng đúng đúng!” Tiểu Thuận vội đáp. “Thiếu gia nói không sai chút nào, qua ngày kia sẽ là ba mươi mốt ngày!”
“Cái tên tiểu tử chết tiệt!” Sắc mặt Trương Nghi sầm xuống. “Còn dám bỡn cợt, xem ta cắt lưỡi ngươi xuống!”
Tiểu Thuận cười hinh hích vài tiếng, tặc tặc lưỡi, rồi rụt cổ đứng sang bên cạnh.
Trương Nghi lại nhìn Quỷ Cốc Tử vẫn ngồi nhắm mắt, ngẫm nghĩ một lát rồi bất giác cười nhạt, quay sang quát Tiểu Thuận: “Trời nóng thế này rụt đầu rụt cổ cái nỗi gì? Đi gọi tên nói lắp ấy lại đây!”
Một lúc sau, Tiểu Thuận kéo Tô Tần rảo bước tới. Trương Nghi đưa mắt ra hiệu, Tiểu Thuận biết ý, bèn tránh ra phía xa. Trương Nghi hơi ôm quyền, nghiêm túc nói với Tô Tần: “Khanh tướng đại nhân, cơ hội của ngài đã đến!”
Tô Tần kinh ngạc hỏi: “Cơ… cơ hội… gì kia?”
Trương Nghi hất hàm vê phía cáo thị mà nói: “Nhìn thấy bố cáo của thiên tử không?”
Tô Tần nhìn về phía cáo thị, gật đầu.
“Chỉ cần đại nhân gỡ cáo thị xuống, thiên tử sẽ thưởng cho ngài ba trăm lượng vàng, phong quan tấn tước! Mặc dù ba trăm lượng vàng không phải số tiền lớn, nhưng đối với dân đen mà nói, cũng đủ để sống sung túc cả đời. Phong quan tấn tước, nhỏ cũng được làm đại phu, tuy chưa phải khanh tướng, song cũng là ngưỡng cửa tiến thân.”
“Sĩ… sĩ tử!” Tô Tần lắc đầu quầy quậy. “Chớ… chớ có… đùa, Tô… Tô Tần không… không thông y… y đạo, làm sao có… có thể?”
“Nói sai rồi!” Trương Nghi cười ha hả. “Khanh tướng đại nhân, ngài hãy nhìn xem trên cáo thị viết gì? Bất luận là ai, chỉ cần chữa khỏi bệnh cho ngọc thể của vương hậu, thưởng ba trăm lượng vàng, phong quan tấn tước. Đã nghe thấy chưa? Chữa khỏi bệnh sẽ thưởng vàng, thăng quan! Còn không chữa được? Trên cáo thị không thấy viết chữ phạt, có nghĩa là khanh tướng đại nhân đã gặp được vận may lớn. Nếu chữa được, sẽ thành phú quý, còn nếu không, cũng chẳng mất cọng tóc nào!”
Tô Tần lại lắc đầu.
Trương Nghi thấy hắn không chút động lòng, suy tính một lát, rồi nhướng mày, xáp lại gần: “Không giấu khanh tướng đại nhân, thực ra tại hạ đã biết nương nương mắc bệnh gì, và cũng đã biết cách điều trị!”
Tô Tần ngờ vực nhìn Trương Nghi: “Sĩ… sĩ tử đã biết, vậy… vậy tại sao không… không tự… tự mình gỡ… gỡ cáo thị… thị xuống?”
Trương Nghi khẽ thở dài: “Mặc dù tại hạ có thể đoán được bệnh của nương nương, cũng biết cách chữa trị, nhưng người chữa bệnh, nhất định phải là khanh tướng đại nhân!”
“Sao… sao lại… lại như vậy?”
“Là thế này. Nương nương sống trong thâm cung, tâm trạng hẳn rất u uất. U uất lâu ngày, bệnh tật tự đến. Vì vậy tại hạ đoán rằng, bệnh mà nương nương đang mắc chính là tâm bệnh!”
Tô Tần ngẫm nghĩ một lát, chậm rãi gật đầu.
Trương Nghi tiếp lời: “Tâm bệnh, thuốc bình thường không thể chữa được, nếu không, tại sao bao nhiêu ngự y tài giỏi trong cung đều phải bó tay, bệ hạ lại phải bố cáo thiên hạ?”
Lời của Trương Nghi quả thật có lý. Tô Tần ngẫm ngợi một lát, rồi nhìn Trương Nghi mà hỏi: “Điều… điều này… có liên quan gì.. gì đến… đến Tô Tần?”
“Có liên quan, có liên quan!” Trương Nghi liên miệng khẳng định. “Chuyện này có liên quan rất nhiều đến đại nhân. Theo lý thì bệnh nào phải dùng thuốc ấy mới có thể chữa tận gốc được. Nương nương u uất lâu ngày thành bệnh, nếu muốn trừ tận gốc, thì phải giải toả u uất. Làm thế nào để giải toả u uất? Vui cười! Khanh tướng đại nhân đọc rộng hiểu nhiều, chắc có biết sự tích U Vương phóng hoả làm trò cho chư hầu. Tại sao U Vương phải pha trò cho chư hầu? Để làm cho nương nương cười! Hiện giờ thứ gì có thể làm nương nương cười? Đương nhiên phải là người bất thường nhất trong thiên hạ, hoặc là chuyện bất thường nhất trong thiên hạ! Người nào, việc gì là bất thường nhất? Theo tại hạ thấy, đó chính là khanh tướng đại nhân đây!”
Tô Tần kinh ngạc: “Tại hạ?”
Trương Nghi ra vẻ thành thực: “Khanh tướng đại nhân, ngài xem, người ta ai cũng đeo kiếm đồng kiếm sắt, đại nhân lại đeo kiếm gỗ; người ta thường đeo kiếm thuận, khanh tướng đại nhân lại đeo ngược; người ta nói năng lưu loát, song thường không biết ngượng mồm, khanh tướng đại nhân nói năng trì trệ, song thường lời lời chấn động; người ta ai cũng không biết cầu tiến, chỉ an phận thủ thường, song khanh tướng đại nhân lại ôm chí lớn, bền bỉ không ngừng. Đại nhân thử nghĩ xem, người bất thường nhất, việc bất thường nhất trong thiên hạ, chẳng phải khanh tướng đại nhân thì còn ai vào đây nữa?”
Tô Tần đỏ mặt xấu hổ, nghiêm giọng mà nói: “Tô… Tô Tần là… là kẻ nghèo… nghèo hèn, sĩ… sĩ tử xin… đừng… đừng cười chê!”
Trương Nghi ôm quyền vái dài, khẩn thiết mà nói: “Khanh tướng đại nhân nói gì vậy? Chuyện liên quan đến phượng thể của nương nương, tại hạ nào dám đùa cợt? Hơn nữa, mặc dù tại hạ hay nói đùa, nhưng đã từng làm việc gì hồ đồ chưa? Khanh tướng đại nhân thân là con dân Chu thất, lẽ ra phải hết lòng vì Chu thất. Nương nương thân là quốc mẫu, quốc mẫu có bệnh, đại nhân biết rõ cách chữa mà không chịu ra tay, đó là bất hiếu; bệ hạ lo lắng, đại nhân có thể giúp người hoá giải mà không chịu làm, đó là bất trung. Khanh tướng đại nhân, cho dù ngài không coi trọng phú quý trước mắt, nhưng cũng không thể làm chuyện bất trung bất hiếu, đúng không? Khanh tướng đại nhân, những lời tại hạ nói là đúng hay sai, mong đại nhân minh xét!”
Nhìn thấy bộ dạng nghiêm túc của Trương Nghi, Tô Tần chợt thấy do dự. Trương Nghi liếc sang Quỷ Cốc Tử, chợt nảy ra một ý, lại bước lên một bước, hất hàm về phía Quỷ Cốc Tử: “Khanh tướng đại nhân, chẳng phải vị tiên sinh kia xem quẻ cho ngài, nói rằng trong vòng một tháng sẽ có chuyện đại hỉ ư? Thời hạn một tháng cũng đã tới, việc hỉ của khanh tướng đại nhân đáng lẽ phải đến rồi. Nhưng việc hỉ ở đâu? Có lẽ ở ngay trước mắt. Đây là số mạng, không thể tin hoàn toàn, nhưng cũng không thể không tin!”
Tô Tần càng thêm bối rối: “Việc này…”
“Khanh tướng đại nhân nếu còn do dự, tại sao chúng ta không đi xin thêm một quẻ? Nếu là quẻ hung, đại nhân không cần đi gỡ cáo thị. Nếu là quẻ cát, đại nhân không đi, vậy chẳng phải đã bỏ lỡ cơ hội ư?”
Tô Tần nghe thấy có lý, bất giác đưa tay sờ túi.
Trương Nghi vỗ ngực nói: “Đi nào! Tiền bói quẻ tại hạ sẽ trả!”
Nói đoạn, lập tức kéo thẳng Tô Tần đến trước mặt Quỷ Cốc Tử.
Trương Nghi móc ra một lượng vàng, đặt xuống trước mặt Quỷ Cốc Tử, vòng tay mà nói: “Lão tiên sinh, tại hạ muốn gieo một quẻ cho vị khanh tướng đại nhân đây!”
Quỷ Cốc Tử liếc hắn một cái: “Khách quan muốn xem chuyện gì?”
“Xem cát hung ngày hôm nay!”
Quỷ Cốc Tử không buồn nhướng mắt: “Không cát không hung!”
Trương Nghi khựng lại, rồi quay sang nói lớn với Tô Tần: “Đã nghe thấy chưa, khanh tướng đại nhân? Hôm nay đại nhân không hung cũng không cát, còn chần chừ gì nữa?”
Tô Tần quỳ xuống, vái liền ba vái: “Tiên… tiên sinh, Trương… Trương sĩ tử… nhất quyết… quyết muốn vãn… vãn bối đi… đi gỡ cáo… cáo thị, vãn… vãn bối mong… mong tiên sinh… chỉ… chỉ dạy!”
Quỷ Cốc Tử thuận miệng nói luôn: “Vị sĩ tử này đã muốn ngươi đi gỡ cáo thị, vậy ngươi cứ đi đi!”
Tô Tần giật mình: “Vãn… vãn bối không… không thông y… y thuật, làm… làm sao có… có thể chữa… chữa bệnh cho nương… nương nương?”
“Việc này không khó!” Quỷ Cốc Tử bật cười vang. “Lão hủ cho ngươi một túi gấm, ngươi hãy đưa nó cho nương nương!” Nói đoạn, liền móc từ trong tay áo ra một chiếc túi may bằng gấm, đưa cho Tô Tần.
Tô Tần nhận lấy, vái ba vái rồi đứng dậy. Trương Nghi trong lòng ngờ vực, song vì muốn biết kết cục, lại e đêm dài lắm mộng, nên lập tức đẩy Tô Tần về phía cáo thị, vừa đẩy vừa hô: “Mọi người tránh ra, có người đến gỡ cáo thị rồi đây!”
Đám đông đang bàn tán ồn ào, nghe thấy tiếng hô, đều quay đầu nhìn lại, thấy Trương Nghi đang đẩy Tô Tần đến, lập tức phấn chấn hẳn lên. Mọi ánh mắt đều đổ dồn vào hai người, đám đông theo nhau tản ra nhường đường.
Bị Trương Nghi xô đẩy, Tô Tần hoang mang lại gần cáo thị. Đối diện với cáo thị của thiên tử, Tô Tần có phần do dự. Trương Nghi liền đẩy mạnh một cái, khiến Tô Tần bật đến sát dưới chân cáo thị. Mọi người nhất loạt reo hò cổ vũ, Tô Tần không còn đường lui, chỉ biết nhắm chặt hai mắt, vươn tay về phía cáo thị.
Sự việc xảy ra quá ư đột ngột, gần như chỉ trong khoảnh khắc. Đám người Tần đứng canh còn chưa kịp phản ứng, Tô Tần đã giật phắt tờ cáo thị xuống, rồi bị đám võ sĩ vây kín xung quanh. Một binh sĩ vội vã lao như bay về phía quán trà, kêu lên: “Báo, có người gỡ cáo thị!”
Tư Mã Thác kinh ngạc: “Sao nhanh vậy, trà còn chưa kịp nguội!”
Sư Lý Tật vội hỏi: “Là người nào gỡ?”
“Chính là gã vừa nãy đâm vào Tư Mã tướng quân!”
Tư Mã Thác, Sư Lý Tật đều sững sờ, hai mặt nhìn nhau, vẻ không dám tin: “Là hắn?”
Tên lính bẩm báo: “Gã này là một tên ngốc, có tật nói lắp, vốn chẳng hiểu gì về y thuật, là một người đi cùng đã đẩy hắn lên!”
Sư Lý Tật thoáng chau mày: “Tại sao người đó lại đẩy hắn lên gỡ cáo thị?”
“Tên tiểu tử đó trông giống con nhà giàu, có lẽ muốn lấy gã ngốc kia ra làm trò đùa!”
Tư Mã Thác vội đứng dậy: “Đi, đi xem thế nào!”
Hai người đặt chén trà xuống, vội vã bước đi, từ xa đã nhìn thấy cửa cung mở rộng, bốn giáp sĩ đang dẫn theo Tô Tần mặt mày hớt hải đi về phía cánh cổng sơn son, một toán người hiếu sự xúm xít theo sau. Kỳ lạ là không nghe thấy những tiếng cổ vũ huyên náo như khi nãy, mà ai nấy chỉ lặng lẽ đi theo, hệt như đang tiễn một anh hùng lên đoạn đầu đài.
Tô Tần vừa bước qua, cánh cổng đã “sầm” một tiếng đóng lại im ỉm.
Nhìn thấy Tô Tần áo quần nhếch nhác, mặt mày hốt hoảng, lại nhìn bộ dạng kinh hãi, xót thương của dân chúng, Sư Lý Tật, Tư Mã Thác đưa mắt nhìn nhau, cùng bật cười, rồi quay đầu trở về Lạc Thuỷ.
Trò đùa có vẻ đã hơi quá lố.
Nhìn thấy tình cảnh trước mắt, Tiểu Thuận đang trợn mắt há miệng cuối cùng cũng đã định thần lại được, chạy đến bên cạnh Trương Nghi hỏi nhỏ: “Thiếu gia, gã nói lắp… còn có thể trở ra không?”
Trương Nghi nhìn chằm chằm vào cánh cổng vương cung đỏ chót, dường như không nghe thấy gì. Tiểu Thuận hỏi lại lần nữa, lúc này Trương Nghi mới trừng mắt: “Ngươi nhiều lời quá!” Rồi quay ngoắt đầu, sải bước đi.
Tiểu Thuận lẽo đẽo theo sau, đi được mấy bước, bỗng Trương Nghi quay lại, quát tướng lên: “Tên tiểu tử này, định đi đâu? Ngồi nguyên tại chỗ cho bản thiếu gia, mở to mắt ra mà nhìn, nếu có tin của khanh tướng đại nhân, lập tức báo ngay cho ta!”
Tiểu Thuận đứng khựng tại chỗ, nói lớn: “Tiểu nhân tuân lệnh!”
Trong hậu cung, bốn giáp sĩ tay cầm cáo thị, hộ tống Tô Tần tiến về phía cung Tịnh An. Thị nữ đang nghe ngóng tình hình, từ xa nhìn thấy, vội quay người chạy vào tẩm cung của công chúa.
Một lát sau, đám giáp sĩ đã đưa Tô Tần đến trước cửa cung Tịnh An. Chu Hiển Vương nhận được tin báo, bèn đích thân tới xem. Thái y, cung chính, nội tể… đều đứng hầu bên cạnh.
Nội tể bẩm báo: “Khởi bẩm bệ hạ, người gỡ cáo thị đang chờ yết kiến!”
Chu Hiển Vương đưa mắt nhìn vương hậu, thấy vương hậu gật đầu, liền nói: “Cho mời tiên y!”
Nội tể ra hiệu, cung nữ liền buông rèm xuống. Một lát sau, nội tể dẫn Tô Tần tiến vào trong cung.
Từ nhỏ đến giờ, Tô Tần chưa từng nhìn thấy cảnh tượng xa hoa tráng lệ nhường này, cứ nghệt ra như gã thộn. Chưa kịp đến nơi, hai chân đã mềm nhũn, lóng nga lóng ngóng quỳ sụp xuống đất, mông chổng lên trời: “Thảo… thảo dân Tô… Tô Tần khấu… khấu kiến bệ… bệ… bệ… bệ… bệ hạ, khấu kiến nương… nương… nương nương!”
Thấy bộ dạng ngây ngô và giọng nói lắp bắp của Tô Tần, tất cả những người trong cung đều cố nhịn cười, song không nhịn nổi, nên ai nấy cùng đưa tay bịt miệng, không dám nhìn hắn, đều quay mặt đi hướng khác.
Chu Hiển Vương đôi mày nhíu chặt, chậm rãi nói: “Tiên y bình thân!”
Nhưng Tô Tần lại như không nghe thấy, vẫn chổng mông chúi đầu quỳ nguyên tại chỗ.
Nội tể khẽ giục: “Bệ hạ mời tiên y bình thân, tiên y còn không mau tạ ơn?”
Lúc này Tô Tần mới bừng tỉnh: “Thảo… thảo… thảo… thảo dân tạ… tạ… tạ ân!”
Chu Hiển Vương ngần ngừ một thoáng, rồi vòng tay nói: “Mời tiên y chẩn bệnh cho nương nương!”
Tô Tần vẫn khấu đầu trên đất: “Thảo… thảo dân không… không… không biết chẩn… chẩn bệnh!”
Chu Hiển Vương kinh ngạc, đưa mắt nhìn vương hậu, rồi quát lớn: “Ngươi không biết chẩn bệnh, vậy tại sao dám gỡ cáo thị?”
“Thảo… thảo dân vốn… vốn… vốn không dám gỡ, là người… người khác ép… ép thảo dân gỡ… gỡ!”
Chu Hiển Vương kinh ngạc: “Là người nào bắt ngươi gỡ cáo thị?”
“Trương… Trương… Trương Tử!”
“Trương Tử?” Chu Hiển Vương nhìn sang vương hậu, thấy vẻ mặt vương hậu đầy nghi hoặc, lại hỏi. “Là kẻ nào?”
“Là bạn… bạn… của thảo… thảo dân!”
“Tại sao Trương Tử lại ép ngươi gỡ cáo thị?”
“Để… để thảo dân… chẩn… chẩn bệnh… cho… cho nương nương!”
Chu Hiển Vương thở phào: “Nói như vậy là ngươi biết chẩn bệnh?”
“Thảo… thảo dân không… không biết!”
Thấy Tô Tần lời lẽ trước sau không ăn nhập, rõ ràng là nói năng bừa bãi, Chu Hiển Vương nổi giận, đưa mắt nhìn vương hậu. Vương hậu dường như cũng bất ngờ trước tình cảnh này, đôi mày liễu cũng nhíu lại.
Chu Hiển Vương chán nản phẩy tay, nói: “Giải đi!”
Tô Tần vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì mấy giáp sĩ đã ập tới xốc nách, áp giải ra ngoài cửa cung. Đi được mấy bước, thì nội tể vội vàng chạy theo, căn dặn quân uý: “Nhốt tên này vào đại lao, chờ bệ hạ xử tội!”
Quân uý vâng lời, rồi gông cổ Tô Tần lại ngay tắp lự, áp giải về phía thiên lao đặt tại một góc cung thành. Thấy mình bị gông lại, Tô Tần mới kinh hãi, vừa đi vừa hét toáng lên: “Bệ… bệ hạ… thảo… thảo… thảo… thảo…”
Càng hốt hoảng thì càng lắp bắp, chỉ nói được đến chữ “thảo” thì không thể rặn thêm được tiếng nào nữa, chốc lát đã bị đám giáp sĩ lôi đi xa.
Thị nữ quay về gặp Cơ Vũ, kể lại đầu đuôi câu chuyện về kẻ gỡ cáo thị. Cơ Vũ nghe kể, thấy vừa không phải ông lão mày trắng, cũng chẳng phải tiểu đồng, thì nhíu mày băn khoăn, vội vàng đứng dậy chạy về phía cung Tịnh An. Từ xa đã nhìn thấy binh lính và giáp sĩ đang áp giải chính người nói lắp mà mình đã từng gặp, liền chạy vội đến, chặn đám giáp sĩ lại hỏi: “Có chuyện gì vậy?”
Quân uý bẩm báo: “Khởi bẩm công chúa, kẻ này đã gỡ cáo thị, nhưng lại không biết chữa bệnh, khiến bệ hạ tức giận, hạ lệnh nhốt vào thiên lao!”
Cơ Vũ đưa mắt liếc nhìn Tô Tần: “Tô Tần, ngươi biết tội chưa?”
Nghe thấy có người gọi thẳng tên mình, Tô Tần vô cùng kinh ngạc, ngẩng đầu nhìn lên, thì ra chính là vị tiểu cô nương đã quát mắng đám lưu manh trong học cung để cứu mình hôm trước, biết nàng là nhị công chúa, hai đầu gối liền quỳ phịch xuống đất, run rẩy mà nói: “Tô… Tô Tần không… không biết!”
“Ngươi đã phạm tội khi quân, theo luật phải chém đầu!”
Tô Tần kinh hãi, vội nói: “Tô… Tô Tần không… không… không… không khi… khi quân, công… công… công chúa cứu… cứu…”
Cơ Vũ chau mày nói: “Ta hỏi ngươi, ngươi đã không biết chữa bệnh, cớ sao còn gỡ cáo thị?”
Mãi đến lúc này Tô Tần mới nói đúng lời cần nói: “Có… có… có người đưa túi… túi gấm… nhờ thảo… thảo dân… trình… trình lên nương… nương nương, nói… nói là có… có thể chữa… chữa bệnh… cho… cho… nương nương!”
Cơ Vũ hai mắt sáng rỡ: “Túi gấm ở đâu?”
“Trên… trên người thảo… thảo… thảo dân!”
Cơ Vũ đưa mắt cho quân uý: “Tháo gông!”
Quân uý ra hiệu, vệ sĩ lập tức tháo gông, Tô Tần lôi từ ống tay áo ra túi gấm mà Quỷ Cốc Tử đã đưa, rồi trao cho Cơ Vũ. Cơ Vũ nhận lấy túi gấm, trong lòng đã hiểu ra mọi chuyện, liền hỏi: “Túi này phải chăng là do một ông lão mày trắng đưa cho?”
Tô Tần kinh ngạc: “Tại… tại sao… công… công chúa lại biết… biết?”
Cơ Vũ không trả lời, hỏi tiếp: “Tại sao lúc nãy không trình lên bệ hạ chiếc túi này?”
“Chưa… chưa kịp trình… trình lên, bệ… bệ hạ đã… đã…”
Cơ Vũ đã hiểu ra mọi chuyện, liền ngắt lời Tô Tần, quay sang nói với quân uý: “Không được xử tệ với vị tiên sinh này, ta sẽ đi cầu kiến bệ hạ!”
Quân uý vâng lệnh, rồi vòng tay nói với Tô Tần: “Tô tiên sinh, mời!”
Cơ Vũ cầm lấy túi gấm, vội vàng đi đến cung Tịnh An, thấy mọi người đều đã tản đi, Hiển Vương cũng không còn ở đó nữa. Cơ Vũ đi đến trước giường vương hậu, khấu đầu nói: “Cơ Vũ khấu kiến mẫu hậu.”
“Vũ Nhi, lại đây, ngồi cạnh ta!”
Cơ Vũ đứng dậy, ngồi xuống mép giường, hỏi: “Mẫu hậu, phụ vương đâu rồi?”
“Lúc nãy có người gỡ cáo thị, phụ vương của con rất vui, cho rằng đã cầu được tiên y, nhưng không ngờ lại là một gã ngốc. Phụ vương con nhất thời tức giận nên đã quay về thư phòng.”
“Lúc nãy trên đường đến đây, Vũ Nhi đã gặp gã ngốc đó, hắn lấy ra một túi gấm, muốn Vũ Nhi trình lên mẫu hậu.”
Vương hậu thoáng vui mừng: “Túi gấm? Ở đâu?”
Cơ Vũ lấy túi gấm ra, hai tay trình lên vương hậu. Vương hậu mở ra, thấy bên trong có một cuộn lụa. Vương hậu mở cuộn lụa, vừa liếc mắt, nét mặt lập tức mừng rỡ. Đọc một lúc, sắc mặt lại dần dần ủ rũ, khe khẽ thở dài, rồi từ từ cuốn tấm lụa lại, nhắm mắt trầm tư. Không biết bao lâu sau, vương hậu mới mở mắt ra, nhìn Cơ Vũ với ánh mắt chan chứa yêu thương.
Hai mắt Cơ Vũ nãy giờ vẫn mở to, nhìn chằm chằm vào vương hậu, thấy mẫu thân lúc vui lúc buồn, nhưng lại không biết trên tấm lụa viết gì, ruột gan như lửa đốt. Lúc này thấy vương hậu nhìn mình, bèn hạ giọng hỏi khẽ: “Mẫu hậu, trên tấm lụa viết gì thế?”
Vương hậu nhét tấm lụa vào trong tay áo, khẽ mỉm cười: “Không có gì! Là Quỷ Cốc Tử tiên sinh, ông ấy chỉ cho mẫu hậu phương thuốc chữa bệnh.”
Cơ Vũ mừng rỡ: “Ồ, là phương thuốc gì vậy?”
“Là một phương thuốc bí mật!” Rồi vương hậu lảng sang chuyện khác. “Vũ Nhi, ta có chuyện muốn hỏi con!”
“Mẫu hậu cứ hỏi.”
“Vũ Nhi, xem ra lần này Tần Công rất thành tâm thành ý muốn cưới con làm thái tử phi, con hãy nói thật cho mẫu hậu nghe, con có muốn gả cho thái tử nước Tần hay không?”
Cơ Vũ lập tức quả quyết: “Vũ Nhi thề chết không chịu!”
Vương hậu điềm tĩnh nhìn con gái: “Ngay cả thái tử phi của nước Tần con cũng không muốn, vậy con muốn gì?”
“Vũ Nhi chỉ muốn hầu hạ mẫu hậu, chữa khỏi bệnh cho mẫu hậu!”
Vương hậu cười hiền từ, nắm lấy bàn tay nhỏ của con gái: “Con gái ngốc, làm sao con có thể hầu hạ mẫu hậu cả đời được? Mẫu hậu hỏi con, giả dụ trăm năm sau, mẫu hậu băng hà, con sẽ thế nào?”
“Vũ Nhi nguyện theo Quỷ Cốc Tử tiên sinh lên núi tu đạo!”
Vương hậu nói: “Ồ, Vũ Nhi quả nhiên kiên cường hơn mẫu hậu! Nghe nói con lại đi gặp tiên sinh, có đúng không?”
“Vâng!” Cơ Vũ gật đầu, rồi ngạc nhiên nhìn vương hậu. “Mẫu hậu, sao người biết được chuyện này?”
“Chẳng phải là tự con nói ra ư?” Vương hậu phì cười. “Nếu như không gặp, làm sao con biết được tiên sinh ở trong miếu Hiên Viên phía đông thành?”
Cơ Vũ cũng cười: “Vũ Nhi nghe mẫu hậu nói, không biết tiên sinh có thực sự thần thánh như vậy không, nên đã đi nhờ tiên sinh giải chữ.”
“Ồ! Con nhờ tiên sinh giải chữ gì?”
Cơ Vũ lấy ra con ve sầu bằng ngọc từ trong ngực áo: “Chính là hai chữ ‘ngọc thiền’.”
“Tiên sinh giải thế nào?”
“Tiên sinh nói, con ve này sinh ra từ đất, sống bám trên cây, tự do nơi rừng núi.”
“Vậy… Vũ Nhi có định rời xa trần thế, sống đời tự do tự tại?”
“Vâng!” Cơ Vũ gật đầu liền mấy cái, rồi lại gục đầu vào lòng vương hậu, giọng nghẹn ngào. “Nhưng… Vũ Nhi không nỡ rời xa mẫu hậu!”
Vương hậu ôm lấy Cơ Vũ: “Con gái, mẫu hậu cũng không nỡ xa con!”
“Mẫu hậu!” Cơ Vũ bỗng ngẩng phắt lên, ánh mắt kiên định nhìn thẳng vào vương hậu. “Hay là người hãy cùng lên núi với con? Vũ Nhi thấy tiên sinh rất coi trọng mẫu hậu, lần này tiên sinh đến, chắc hẳn cũng muốn đón mẫu hậu lên núi. Nếu người cùng đi, chắc chắn tiên sinh sẽ rất vui!”
Vương hậu ngẫm nghĩ một lát, rồi gật đầu nói: “Vũ Nhi, nếu quả thực con muốn vậy, hãy mau đi chuẩn bị hành trang. Tối mai mẫu hậu và con sẽ đến miếu Hiên Viên, cùng đi theo tiên sinh!”
“Thật ư?” Cơ Vũ không dám tin vào tai mình, nhìn sững vào vương hậu.
Vương hậu lại gật đầu.
Cơ Vũ vui đến phát khóc, lại gục đầu vào trong lòng vương hậu, thì thầm: “Mẫu hậu! Mẫu hậu!”
Một lát sau, Cơ Vũ đứng bật dậy: “Mẫu hậu, Vũ Nhi lập tức quay về chuẩn bị hành trang!” Nói đoạn, lao vụt ra phía cửa cung.
“Vũ Nhi!” Vương hậu gọi khẽ.
Cơ Vũ vội dừng bước, quay đầu lại hỏi: “Mẫu hậu có điều gì căn dặn?”
“Đi đi!” Vương hậu lại xua tay. “Còn nữa, hãy đi nói với phụ vương con, rằng mẫu hậu muốn thả gã thanh niên kia ra!”
“Vũ Nhi xin vâng!”