Chiến Quốc Tung Hoành - Thế Cục Quỷ Cốc Tử

Chương Hồi Thứ 10

Chương Hồi Thứ 10

Lo hỷ sự, Ma Cô bôn ba
Gặp họa lớn, Tô - Trương kết nghĩa


Sau khi Tô Tần bỏ đi, không hề có tin tức gì về nhà.
Lúc đầu Tô Hổ cũng không để tâm, vì Tô Tần thường bỏ nhà ra đi, lần nào cũng đi bặt nhiều ngày, nhưng lâu nhất cũng chỉ nửa tháng là quay về. Ai dè lần này đã đi hơn hai mười ngày mà vẫn bặt vô âm tín.
Tô Hổ bắt đầu lo lắng, bảo Tô Đại đến vương thành tìm kiếm. Tô Đại đã biết rõ, nên đi một mạch thẳng đến miếu Hiên Viên phía đông thành Lạc Dương, nhưng chỉ thấy Quỷ Cốc Tử và tiểu đồng. Tô Đại lại tìm kiếm khắp thành Lạc Dương, còn bạo gan xông cả vào nhà Thái học của thiên tử, nhưng vẫn không có kết quả gì.
Tô Đại hết cách, đành quay về kể lại thực tình cho Tô Hổ nghe. Tô Hổ vò đầu bứt tai suy nghĩ nửa ngày trời, sau đó lại bảo Tô Diêu thị bắt gà vịt mang đến nhà Ma Cô, vật nài Ma Cô tìm bằng được một cô vợ cho Tô Tần.
Từ khi Ma Cô nhận lời đám này, ngày nào cũng chạy luôn chân. Chỉ cần nghe nói nhà nào có khuê nữ chưa gả chồng là tìm ngay đến gõ cửa. Chẳng bao lâu sau, đã chạy khắp lượt mười làng tám thôn quanh đó. Song đáng phiền là ở chỗ tai tiếng của Tô Tần quá lớn, bất kể nhà ai, hễ nghe Ma Cô nhắc tới hai chữ “Tô Tần”, đối phương đã lập tức vỗ mặt: “Có phải là cậu hai đeo kiếm gỗ ngược không?” Ma Cô không biết đối đáp thế nào, đành phải gật đầu nói phải. Ngay sau đó, người ta chỉ dăm câu ba lời đã từ chối thẳng thừng, thậm chí chẳng buồn rót trà mời Ma Cô.
Làm mối mà gặp phải cảnh này, cho dù là ai cũng khó tránh khỏi chán nản. Nhưng thật may, Ma Cô vốn dĩ tính khí quật cường không dễ chịu thua, càng là việc khó lại càng nhất quyết làm cho bằng được. Thấy việc của Tô Tần ngày càng bế tắc, Ma Cô không những không chùn bước, mà càng quyết tâm hơn. Nghe nói trong thôn Long Khẩu có mấy nhà vẫn còn khuê nữ chưa gả chồng, Ma Cô lại hăm hở trở lại. Sáng hôm nay, Ma Cô dậy từ rất sớm, men theo con đê ở bờ đông Y Thuỷ đi về phía nam, cứ thế đi đến hơn hai mươi dặm mới tới được thôn Long Khẩu.
Ma Cô đến thôn Long Khẩu, đi từ đầu đông đến đầu tây thôn, gặp nhà nào có con gái mới lớn, đều ghé vào thăm, hết gợi chuyện cà kê, lại nói lời ngon ngọt, bận rộn từ sáng đến tận tối mịt, vận hết tài miệng lưỡi, nhưng cuối cùng, vẫn chẳng nhà nào động lòng.
Ma Cô trên mặt đeo một nụ cười gượng gạo, bước ra khỏi cổng ngôi nhà cuối cùng, rồi mặt mũi ủ ê, bước về phía con đê Y Thuỷ phía đông thôn. Khi gần đến đê, Ma Cô nhìn thấy bên đường có một gò đất, lúc này cũng đã mệt nhoài, nên ngồi phệt luôn xuống đó, rút cây quạt nan giắt ở hông ra, quạt phành phạch mấy cái rồi than ngắn thở dài: “Chà, thế là lại một ngày công cốc!”
Lời vừa dứt, mắt bỗng vụt sáng lên. Từ trên đê có một cô gái đang tiến lại. Ma Cô chăm chú quan sát, thấy cô gái dung mạo cũng đoan trang, chỉ có điều hơi có tật, chân trái bị thọt, đi lại khập khiễng, trông hơi khó coi. Cô gái tay phải xách chiếc thùng giặt, nhắc từng bước băng qua con đê, rồi đi theo con đường nhỏ tiến lại gần.
Ma Cô nhìn cô gái không chớp mắt. Cô gái tập tễnh đi tới trước mặt bà ta, cúi đầu chào, sau đó lại chân thấp chân cao đi vào trong thôn.
Ma Cô nhìn theo một lúc mới định thần lại được, rồi vội vàng vẫy tay gọi: “Cô nương, xin dừng bước!”
Cô gái dừng lại, ngoái đầu nhìn Ma Cô mỉm cười.
Ma Cô vội chạy lại gần, mặt cười tươi rói mà hỏi: “Khuê nữ phải chăng là người ở thôn này?”
Cô gái gật đầu.
“Khuê nữ là con gái nhà ai, hình như Ma Cô chưa từng gặp mặt.”
Cô gái mỉm cười đáp: “Tôi tên Chu Tiểu Hỷ, cha tôi tên Chu Lão Hỷ. Đại nương từ đâu đến đây?”
“Úi chà, là con gái nhà Lão Hỷ ư?” Ma Cô đưa tay vỗ trán, tỏ vẻ ngạc nhiên. “Là người quen! Tiểu Hỷ, Ma Cô từ thôn Hiên Lý đến đây, đang khát khô cổ, muốn đến nhà cô nương xin ngụm nước uống, được không?”
Cô gái không biết Ma Cô là ai, thấy bà ta kêu khát nước thì mỉm cười mà nói: “Xin mời!”
Ma Cô đi theo cô gái về phía nam thôn, từ xa đã nhìn thấy một ngôi nhà trơ trọi. Ngoài sân, tùng trúc xanh mướt, trong sân sạch sẽ gọn gàng, Ma Cô vừa nhìn đã thầm vui trong dạ, vừa đi qua cánh cổng gỗ, đã miệng cười toe toét: “Lão Hỷ, có khách quý đến thăm đây!”
Một người đàn ông chừng năm chục tuổi đi ra đón, thấy Ma Cô đến thì vui mừng khôn tả: “Cha chả, là bà chị đấy ư, đúng là khách quý! Nào, Tiểu Hỷ, mau xuống bếp làm cho đại nương một bát trứng chần, tám quả nhé!”
Ma Cô vừa nghe thấy làm tám quả trứng, trong lòng mừng rơn. Ở vùng này, khi bà mối đến nhà, nếu chủ nhân bưng lên tám quả trứng chần, tức là đã đồng ý cho bà mối bàn hôn sự.
Thấy Tiểu Hỷ đã đi xuống bếp, Ma Cô cười vui vẻ mà nói: “Ông anh, lần này tôi đến cũng là muốn được ăn bát trứng chần của ông anh đấy!”
Lão Hỷ cũng cười: “Không dám giấu bà chị, lần này chị tới thôn, cặp mắt già của Lão Hỷ đây cũng trông thấy rồi, nên chẳng dám đi đâu, cứ ngồi sẵn ở nhà chờ đợi. Lão Hỷ đợi mãi mà không thấy bà chị đến, nhìn trời tối dần, vô cùng sốt ruột, nhưng không thể mặt dày mà đi mời bà chị tới được. Đang lúc sốt ruột, thì bà chị lại tìm đến.”
Ma Cô nhích lại gần thêm một chút, nói: “Ông anh, như thế gọi là việc tốt phải dày công! Khuê nữ năm nay bao lớn rồi?”
Lão Hỷ nói khẽ: “Cũng không còn nhỏ nữa!” Rồi lão khẽ thở dài. “Nhưng bà chị cũng thấy đấy, Tiểu Hỷ điểm nào cũng tốt, chỉ mỗi tội chân trái không được lành lặn, năm ngoái đã đến tuổi cập kê, nhưng chẳng có đám nào đến hỏi, làm tôi lo lắng không yên.”
“Vậy… mẹ nó đâu?”
Lão Hỷ lại thở dài: “Đã đi từ lâu rồi! Tiểu Hỷ mệnh khổ, mới sáu tuổi đầu đã không có mẹ, trong nhà cũng chẳng có anh chị em, phải sống đơn độc một mình với tôi. Không giấu gì bà chị, mặc dù Tiểu Hỷ chân thọt, nhưng nó rất tháo vát, trên dưới trong ngoài, việc to việc nhỏ, cái gì cũng giỏi giang. Tiểu Hỷ nói, nó không muốn gả cho ai, nguyện cả đời sống với Lão Hỷ này. Nhưng như vậy sao được? Nó không gả chồng, cái mặt già của Lão Hỷ này biết để vào đâu? Lại nữa, Lão Hỷ bao năm nay cũng chỉ trông mong sớm được bế cháu ngoại. Không giấu bà chị, xem ra ở quanh đây chẳng còn hy vọng gì nữa, Lão Hỷ đành phải nhờ cậy vào bà chị, chẳng câu nệ xa gần giàu nghèo, chỉ cần tìm được cho nó một chốn. Không ngờ còn chưa lên đường, bà chị đã tìm đến!”
Ma Cô đang muốn tiếp lời, Tiểu Hỷ đã bưng chiếc đĩa bước ra khỏi nhà bếp, trên đĩa đặt hai cái bát sành, mỗi bát đựng tám quả trứng chần!

Khi Ma Cô trở về đến thôn Hiên Lý, đã vào giờ Nhân định, vầng trăng lơ lửng ngọn cây. Ma Cô không quản mệt nhọc, đi thẳng đến nhà họ Tô, đứng ở ngoài cổng gọi lớn: “Anh Tô!”
Do thời tiết nóng bức nên Tô Hổ nằm ngủ luôn trên chiếc giường sơ sài trong sân, nhận ra giọng Ma Cô, liền vội vàng bật dậy mở cổng.
Ma Cô mặt mũi hớn hở, đẩy cổng bước vào, chưa đợi Tô Hổ mời, đã ngồi phịch luôn xuống bên bàn đá. Tô Diêu thị cũng bước ra, thắp đèn dầu, rồi bưng ra một bát trà giải nhiệt đặt lên bàn đá, ngồi đối diện với Ma Cô.
Ma Cô một tay bưng lấy bát trà, nhấp thử một ngụm, thấy không nóng lắm, liền uống một hơi hết nhẵn. Tay còn lại vươn ra sau lưng, rút cây quạt ra quạt lấy quạt để.
Tô Hổ ngồi xổm trên đất, hỏi dò: “Xem bà chị hớn hở thế này, việc ấy… đã thành chưa?”
Ma Cô cố tình thở hắt ra: “Chao ôi, một lời khó mà nói hết!”
“Bà chị nói mau, là thành, hay không thành?”
“Đương nhiên là thành rồi! Anh đã nghe thấy Ma Cô có vụ mai mối nào bất thành chưa?”
Tô Hổ vui mừng khôn xiết: “Chị gái tốt bụng ơi, mau nói xem, là khuê nữ nhà ai?”
“Nhà họ Chu ở Long Khẩu, một nhà nông dân.”
“Nhà họ Chu ở Long Khẩu?” Tô Hổ ngẩn người. “Long Khẩu chỉ có một nhà họ Chu, không lẽ lại là nhà Chu Lão Hỷ?”
Ma Cô cười hi hí: “Còn ai vào đây nữa? Trong nhà Chu Lão Hỷ chẳng có ai khác, chỉ có một mụn con gái, đúng là nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, một lòng một dạ muốn tìm chàng rể thông minh tài giỏi. Lần này, vừa nhắc đến thiếu gia của Tô huynh, Lão Hỷ chẳng chút ngần ngừ, lập tức đồng ý. Tôi nói chớ vội, chớ vội, trước tiên hãy sắp xếp thời gian gặp mặt, anh đoán xem Lão Hỷ nói sao nào? ‘Nói gì lạ vậy, chẳng lẽ tôi lại không tin anh Tô? Chị hãy về nói với anh Tô, nếu là nhà khác đến hỏi cưới, tôi còn phải gặp gỡ hỏi han dăm lần bảy lượt, duy chỉ có nhà anh Tô, Lão Hỷ tôi không cần nhiều lời, chỉ cần anh ấy không chê Tiểu Hỷ nhà tôi, khuê nữ sớm muộn cũng là người nhà họ Tô, bảo anh Tô chỉ cần chọn ngày đến đón’.”
Tô Hổ trong lòng cảm động, nhìn Tô Diêu thị thở dài: “Chao ơi, nói ra thực đúng là duyên phận! Chu Lão Hỷ là bạn thuở nhỏ của tôi, đã nhiều năm nay không gặp mặt, mà ông ta đã nuôi lớn được một Tiểu Hỷ!”
Tô Diêu thị không nhịn thêm được, bèn xen vào một câu: “Chị ơi, khuê nữ trông như thế nào?”
Ma Cô hớn hở đáp lời: “Chị dâu ơi, Tiểu Hỷ đúng là chẳng chê vào đâu được! Năm nay mười bảy, dung mạo đoan trang, mặt tựa hoa đào, miệng xinh chúm chím, chưa nói đã cười, em đây càng nhìn càng thấy ưng ý!”
Tô Hổ liền nói: “Này bà chị ơi, chúng ta nhà nông, sống được qua ngày mới là quan trọng!”
Ma Cô cười đáp: “Em biết ông anh muốn hỏi gì! Việc nhà, việc đồng, việc gì cũng giỏi, nuôi tằm dệt vải lại càng khéo léo. Không giấu gì ông anh, tất cả mọi việc lớn bé trong nhà Chu Lão Hỷ, cộng với năm mẫu ruộng dâu, toàn bộ đều do khuê nữ đảm đương cả đấy!” Rồi lại ghé sát vào Tô Diêu thị, làm bộ so đo mông ngực. “Nói nhỏ với chị dâu nhé, khuê nữ điểm nào cũng tuyệt, Ma Cô chỉ nhìn qua đã biết là người khéo đẻ khéo nuôi. Chị dâu, chị hãy chuẩn bị bế cháu đi!”
Tô Hổ, Tô Diêu thị đều vui cười hớn hở.
Tô Hổ chợt ngẩng đầu lên: “Suýt nữa thì quên mất. Bà chị, sinh thần bát tự(1) thế nào?”
Ma Cô bĩu môi: “Nghe anh nói kìa, Ma Cô này là ai chứ? Trong vòng mấy chục dặm quanh đây, sinh thần bát tự của tất cả các cô nương, tôi đều nằm lòng tất. Nếu bát tự không hợp, thì tôi chẳng thèm đặt chân đến cổng đâu!”
“Ừ, phải rồi!” Tô Hổ gật gù. “Theo lời bà chị nói, thì vụ xem mặt đã có thể định đoạt! Tất cả mọi chuyện thân già này đều nghe theo bà chị!”
Nghe thấy hai chữ “xem mặt”, Ma Cô liền cười cười mà nói: “Ông anh hãy nghe tôi nói này, Chu Lão Hỷ đã vui vẻ đồng ý chuyện này. Anh xem thử, hay là chuyện xem mặt…”
“Không được, không được!” Tô Hổ lắc đầu quầy quậy. “Chúng ta dù là nhà nông, nhưng lễ nghi cũng phải theo cho đầy đủ. Bà chị, chị xem như thế này có được không? Ngày giờ xem mặt và sính lễ ra sao, đều do chị quyết định, tất cả mọi việc, tôi đều nghe theo chị!”
Ma Cô khẽ đảo con ngươi, rồi cười tít mà nói: “Được, em đây sẽ làm theo lời ông anh, ngày mai sẽ đến nhà họ Chu sắp đặt chuyện xem mặt!”

Buổi trưa hôm sau Ma Cô lại đến, mặt cười rạng rỡ, nói: “Đã bàn xong với Lão Hỷ, Lão Hỷ nói rằng chuyện xem mặt, đều nghe ông anh quyết định!”
“Vậy thì… bà chị xem thử, ngày nào là ngày tốt?”
“Em đây cũng đã tính rồi, ngày mai chính là ngày tốt!”
“Ngày mai?” Tô Hổ ngẫm nghĩ chốc lát. “Được, ngày mai thì ngày mai!”
“Quyết định vậy nhé, tôi đi nói với Lão Hỷ luôn, để còn kịp chuẩn bị cơm rượu!” Vừa nói dứt câu, Ma Cô không kịp uống lấy ngụm nước, đã ngoăn ngoắt đi ra khỏi cửa.
Tô Hổ, Tô Diêu thị tiễn ra đến cổng, nhìn theo Ma Cô. Tô Diêu thị sực nhớ ra một điều, vội quay sang nói với Tô Hổ: “Ông ơi, Tần Nhi vẫn chưa về, ngày mai xem mặt thế nào đây?”
“Hừm!” Tô Hổ hừ mũi một tiếng. “Cho dù thằng ranh ấy có nhà, chưa chắc đã chịu đi. Tôi đã nghĩ rồi, ngày mai tôi đi, một là gặp Lão Hỷ hàn huyên chuyện cũ, hai là xem mặt khuê nữ. Nếu vừa ý, chúng ta sẽ sắp xếp chuyện thành thân. Còn nếu không ưng ý, chúng ta cũng dễ thoái thác cho Tần Nhi, còn có đường mà lui!”
Tô Diêu thị nghe vậy liền gật đầu.

Hôm sau, ăn cơm sáng xong, Tô Hổ liền chuẩn bị đủ bốn đồ thái lễ: gà, vịt, cá, dê, đánh xe trâu, chở theo Ma Cô tiến về phía thôn Long Khẩu, mãi đến chập tối mới vui vẻ trở về nhà.
Tô Diêu thị đã đợi sẵn ngoài cổng, sốt sắng chạy ra đón: “Có gặp được khuê nữ không?”
Tô Hổ cười hí hửng, toét miệng nói: “Nói thừa, không gặp được khuê nữ, còn gọi gì là xem mặt?”
“Trông thế nào?”
Tô Hổ đi vào trong sân, ngồi khoanh chân bên bàn đá, nói: “Ma Cô quả không nói khoác, khuê nữ đúng là điểm gì cũng tốt. Chưa nói tới những cái khác, chỉ riêng cái tính cần cù chăm chỉ, cũng khó tìm được người thứ hai. Tôi vừa đến nhà, đã thấy khuê nữ đang ngồi dệt vải bên khung cửi, cứ thế dệt không nghỉ tay cho đến tận khi tôi về. Tôi thấy thương quá, liền nói với Lão Hỷ sao không để khuê nữ nghỉ tay một lát, bà đoán xem Lão Hỷ nói thế nào? Lão Hỷ nói, từ nhỏ khuê nữ đã có bệnh này, chỉ cần ngồi xuống khung cửi, trời chưa tối thì chưa chịu nghỉ tay!”
Tô Diêu thị cũng vui mừng ra mặt: “Ông chẳng hiểu gì cả! Khuê nữ không chịu rời khung cửi, là vì không chịu gặp ông bố chồng tương lai đấy, như thế gọi là xấu hổ!”
Tô Hổ cười ha hả: “Mặc kệ con bé xấu hổ hay chịu khó, dù sao tôi cũng đã ưng mặt rồi! Cái tính này của Tiểu Hỷ rất hợp với thằng hai nhà chúng ta!”
Tô Diêu thị gật đầu nói: “Đúng thế, có khuê nữ này bên cạnh, chắc chắn tính khí kỳ quặc của Tần Nhi sẽ được chế ngự phần nào!”
“Đúng vậy! Thấy khuê nữ luôn tay dệt vải, trong lòng tôi vui không để đâu cho hết. Trước khi về, tôi đã nói với Lão Hỷ, hôn sự này coi như đã định. Lão Hỷ muốn tôi chọn ngày tốt, tôi nói sẽ trở về bàn bạc!”
Đang lúc trò chuyện, Tô Đại bộ dạng hoảng hốt chạy bổ từ ngoài vào: “Cha ơi, cha…”
Tô Hổ ngẩng nhìn: “Có chuyện gì mà hốt hoảng thế?”
Tô Đại thở hổn hển: “Anh hai… anh hai… anh ấy…”
Tô Diêu thị vội hỏi: “Đại Nhi, anh hai con làm sao?”
“Anh hai đã… đã gỡ cáo thị thiên tử!”
Tô Hổ chau mày: “Cáo thị thiên tử gì?”
“Con không biết! Nghe nói thiên tử viết bố cáo, cả ngày không có ai dám gỡ, sau đó chính là anh hai đã gỡ xuống!”
Tô Hổ sững sờ một hồi lâu mới mở miệng lắp bắp: “Vậy… anh hai con thế nào rồi?”
“Nghe nói đã bị binh lính đưa vào trong cung!”
Tô Diêu thị kinh hãi rú lên: “Trời ơi, Tần Nhi… đã bị binh lính bắt vào trong cung rồi sao?”
Tô Đại lắc đầu nói: “Con cũng không biết, chỉ nghe người khác nói lại như thế!”
Thấy Tô Diêu thị bắt đầu khóc lóc, Tô Hổ liền an ủi: “Mẹ nó ơi, chỉ là lời đồn thổi, sao có thể tin được? Thế nhưng… thằng ranh đó nếu giở thói điên khùng, chưa biết chừng lại gây ra chuyện rầy rà cũng nên!”
Tô Diêu thị khóc mà nói: “Bố nó ơi, nếu Tần Nhi có chuyện bất trắc, phải làm thế nào đây?”
Tô Hổ chau mày suy nghĩ một lát, rồi quyết đoán: “Mẹ nó ơi, chuyện này không thể kéo dài thêm dù chỉ một ngày! Tôi phải nhanh chóng đi tìm Ma Cô, gấp rút đón khuê nữ Tiểu Hỷ về để quản thúc nó!”
Tô Diêu thị không kịp nghĩ gì thêm, chỉ biết gật đầu: “Vậy hãy làm theo lời của bố nó đi!”
Tô Hổ quay lại dặn dò Tô Đại: “Đại Nhi, con mau tới vương thành, sống chết cũng phải tìm bằng được anh hai con về đây!”
Tô Đại lắc đầu nói: “Vương thành rộng như vậy, ai biết được anh hai trốn ở nơi đâu?”
Tô Hổ sầm mặt xuống: “Chẳng phải nói vừa gỡ cáo thị hay sao, còn có thể trốn ở đâu được? Gọi thêm mấy người nữa cùng đi, chia nhau ra mà tìm. Nhớ kỹ, khi gặp được nó, tuyệt đối không được hé lộ cho nó biết về chuyện thành thân, để tránh xảy ra cãi vã!”
“Vậy con phải nói thế nào?”
Tô Hổ cúi đầu suy nghĩ một lát rồi nói: “Hãy nói ta sắp chết, muốn gặp mặt nó lần cuối!”
Tô Đại sững người, nhưng thấy Tô Hổ trừng mắt nhìn mình, đành vội vã lên đường.
***
Đêm đến, trong cung Tịnh An, khung cảnh vô cùng tĩnh mịch. Nghe lời vương hậu, toàn bộ cung nữ đều đã lui ra. Vương hậu suy nghĩ chốc lát, rồi lựa chọn vài bộ quần áo, gói ghém thành một tay nải sơ sài. Cuộc sống trong núi giản dị, bà chẳng cần thiết phải mang theo gì nhiều.
Ngồi lặng một lát, vương hậu lại lấy chiếc túi gấm của Quỷ Cốc Tử ra, bắt đầu suy nghĩ. Trước mắt vương hậu từ từ hiện lên khung cảnh sơn cốc thanh tĩnh, rừng núi um tùm, suối nhỏ róc rách, chim hót ríu ran… Với vương hậu, những điều đó sao mà thân thuộc, vì vương hậu đã mơ đến không biết bao lần, đã tưởng tượng đến không biết bao lần. Chỉ cần nghe khúc Cao sơn, Lưu thuỷ, tất cả những hình ảnh này lại sống động hiện lên trước mắt. Đúng như lời Quỷ Cốc Tử tiên sinh từng nói, bà là nhân tài tu đạo trời sinh, từ khi xuống với thế gian, tất cả những điều này đã hoà tan vào trong huyết quản, sôi trào trong thâm tâm bà.
Chỉ đến tối mai thôi, bà sẽ từ biệt nơi đây để hài hoà làm một với niềm ao ước từ thuở nhỏ, với giấc mộng suốt bấy nhiêu năm. Vương hậu gắng kìm nén nỗi xúc động trong lòng, cất túi gấm đi, lại đưa mắt nhìn quanh, ngắm nghía cung thất mà mình đã sống suốt mười mấy năm nay.
Ánh mắt vương hậu bất chợt chạm phải chiếc bình ngọc đặt trên cửa sổ. Trong ánh nến, bình ngọc phát sáng lấp lánh. Vương hậu khẽ thở dài, từ từ đứng dậy, đi đến bên chiếc bình, rồi ngồi xuống đối diện với nó.
Bình ngọc đã được vương hậu ghép lại, nếu không nhìn kỹ hay chạm vào, sẽ chẳng ai biết được nó đã từng là một đống mảnh vỡ. Vương hậu nhìn chiếc bình đăm đăm, toàn thân bất động.
Nhìn mãi, nhìn mãi, trái tim vương hậu đột nhiên thắt lại, tựa như thình lình bị dùi nhọn đâm vào.
Đúng thế, đây là một đống mảnh vỡ, một đống mảnh vỡ đã được chắp ghép, không chịu nổi một cái chạm. Vương hậu đã ghép nó lại, đã bảo vệ cho nó. Thế nhưng, nếu như vương hậu ra đi, thì bệ hạ sẽ ra sao?
Bệ hạ? Trời ơi, bệ hạ!
Không, ông ấy không phải là bệ hạ, mà là người đàn ông của bà, là người đàn ông đã chung sống với bà, đã cùng bà sớm chiều gắn bó suốt mười mấy năm nay, là người đàn ông duy nhất trên đời này yêu thương bà, che chở cho bà! Một khi bà dứt áo ra đi, ông sẽ ra sao?
Để Chu Vương cùng đi? Đúng thế, Chu Vương từ lâu đã chán chường với tất cả mọi thứ, từ lâu cũng đã muốn vứt bỏ tất cả mọi thứ, nhưng ông không thể, vì trong người ông đang chảy dòng máu chính tông của vương thất Đại Chu, mười mấy đời liệt tổ liệt tông Đại Chu không cho phép ông làm như vậy, giang sơn xã tắc không cho phép ông làm như vậy, lương tâm của ông cũng không thể làm như vậy! Ông đã gả Tuyết Nhi cho Yên thất xa xôi, gả cho một lão già đáng tuổi ông nội của Tuyết Nhi, cũng chính là vì điều đó!
Nếu bà ra đi, Hiển Vương sẽ ra sao? Người Tần sẽ uy hiếp ông! Người Tần có lý do để làm như vậy, vì nếu bà bỏ đi, sẽ chứng tỏ trước đây bà giả bệnh. Người Tần sẽ không dễ dàng bỏ qua, họ sẽ làm lớn chuyện, rêu rao cho khắp thiên hạ biết, nói rằng vương hậu Đại Chu giả bệnh, thiên tử Đại Chu lừa dối thiên hạ. Nếu như vậy, cho dù bệ hạ có trăm cái miệng cũng không thể biện minh. Lại còn người Ngụy, nếu họ biết được chuyện này, điều gì sẽ xảy ra? Người trong thiên hạ sẽ nghĩ thế nào? Nếu như người Tần không chịu bỏ qua, phái người đuổi vào trong núi, vậy chẳng phải đã làm liên lụy đến tiên sinh? Liên lụy đến Vũ Nhi?
Vương hậu đang lúc suy nghĩ bộn bề, thì từ phía ngoài cung, có tiếng bước chân vọng lại. Vương hậu nghe thấy có người khấu bái, biết là Hiển Vương đến, bất giác giật thót mình, chợt nhớ tới tay nải đựng đồ, bèn vội vàng đứng dậy, vừa kịp giấu đi thì Hiển Vương đã bước vào.
Hiển Vương đến đột ngột khiến vương hậu không kịp trở tay, cộng thêm việc vội vàng cất giấu tay nải, nên thần sắc có đôi phần hoảng hốt. Tuy nhiên, lúc này Hiển Vương trong lòng đang nặng trĩu tâm sự, chẳng còn tâm trí đâu để chú ý đến, vừa bước qua cửa cung, đã đi đi lại lại trong phòng khách, sắc mặt vô cùng khó coi. Vương hậu từ từ bình tĩnh trở lại, thấy bước chân của Hiển Vương mỗi lúc một chậm dần, bèn cất giọng quan hoài mà hỏi: “Bệ hạ đang buồn bực vì chuyện gì chăng?”
“Tây Chu Công!” Hiển Vương rít qua kẽ răng ba chữ.
Không cần hỏi thêm, vương hậu đã biết người Tần lại đến, trầm tư chốc lát, bà nhẹ nhàng hỏi: “Quý thúc sao kia?”
Hiển Vương lại lửa giận bừng bừng, uất ức mà nói: “Quý thúc cái nỗi gì? Đúng là một phường hồ đồ, không biết đã trúng tà gì mà giờ một điều Tần hai điều Tần, dường như xã tắc, tông miếu Đại Chu chẳng có liên quan gì đến ông ta nữa!”
“Quý thúc đã nói gì?”
“Hừm, ông ta thì có thể nói được gì?” Hiển Vương thở dài sườn sượt. “Người Tần nói gì thì ông ta nói đấy, chỉ là một con vẹt nhại lời!”
Vương hậu lại suy tư chốc lát, rồi dịu dàng nói: “Bệ hạ, thần thiếp muốn biết, người Tần đã nói những gì?”
“Nói rằng Tần Công lại phái người tới thôi thúc hôn sự, nói rằng hai vạn bộ binh ở Nghi Dương đang trên đường tới Lạc Dương, nói rằng… nói rằng nàng không có bệnh, nói rằng nàng chỉ là giả bệnh, nói rằng…”
Hiển Vương càng nói càng giận dữ, uất ức đến nghẹn giọng không thể nói tiếp.
“Bệ hạ, họ còn nói gì nữa?” Giọng nói của vương hậu càng thêm dịu dàng.
“Nói rằng… Tần Công nghe nói ái khanh có bệnh, lại phái hai thần y đến chẩn trị!”
“Bệ hạ!” Giọng vương hậu bình thản đến vô cảm. “Thần thiếp biết rồi! Nếu họ không tin, thì cứ để họ đến chữa trị!”
“Tử đồng…” Hiển Vương trong lòng chua xót, hai đầu gối mềm nhũn, rồi quỳ sụp xuống đất.
“Bệ hạ…” Vương hậu cũng quỳ xuống, hai người cùng ôm nhau, bật khóc thảm thiết.
Hiển Vương vừa khóc vừa nói: “Tử đồng, nàng… nàng gả cho quả nhân, chưa bao giờ được sống một ngày vui vẻ, quả nhân thực sự… Tại sao Tô Tần vẫn bị nhốt vào ngục một đêm? Chẳng phải đã căn dặn phải đối xử tốt với hắn ư? Quả nhân thật là bất lực!” Hiển Vương nước mắt chan hoà.
“Bệ hạ, người… người đừng nói nữa, bệ hạ…” Vương hậu gục đầu vào lòng Hiển Vương, khóc không thành tiếng.

Buổi trưa hôm sau, Cơ Vũ đến thỉnh an Hiển Vương, lấy được tấm kim bài xá miễn từ quan nội tể rồi đi thẳng tới thiên lao. Quan tư hình hành lễ xong, kiểm tra tấm kim bài, rồi cho hai ngục tốt áp giải Tô Tần đã bị giam cầm gần một đêm ra.
Thấy Tô Tần được hai ngục tốt áp giải ra từ thiên lao, Cơ Vũ vội bước lên một bước, vòng tay vái mà nói: “Đã kinh động đến Tô Tử!”
Tô Tần dập đầu sát đất: “Tô… Tô Tần tạ… tạ ơn… cứu… cứu mạng… của… của công… công chúa!”
Cơ Vũ quay sang nói với một ngục tốt: “Đưa vị sĩ tử này ra ngoài cung!”
Ngục tốt vâng lệnh, dẫn Tô Tần ra khỏi cửa cung. Tiểu Thuận từ xa nhìn thấy Tô Tần đi ra, chẳng kịp nghĩ ngợi, lập tức co giò lao như bay về Quý Nhân Cư. Một loáng sau, gã đã chạy về đến sân nhà trọ, thấy Trương Nghi đứng không ra đứng, ngồi không ra ngồi, đang thần hồn đờ đẫn đi đi lại lại trong sân. Tiểu Thuận hổn hển muốn đứt hơi, bám vào khung cổng, vừa thở vừa nói: “Thiếu… thiếu gia, gã lắp… được thả ra rồi!”
Trương Nghi vọt liền mấy bước đã đến bên cạnh Tiểu Thuận, hỏi gấp: “Thế người đâu?”
“Tiểu nhân không… không biết!”
Trương Nghi gập ngón giữa lại cốc liền mấy cái vào trán Tiểu Thuận, vừa cốc vừa mắng: “Bảo ngươi đứng canh ở đó, ý là để ngươi đón khanh tướng đại nhân về, mà ngươi… ngươi… ngươi vội chạy về làm cái gì?”
Tiểu Thuận đưa tay ôm đầu, ra vẻ tội nghiệp, lụng bụng một câu: “Là thiếu gia dặn tiểu nhân nếu thấy gã nói lắp trở ra là lập tức về báo tin, tiểu nhân có làm gì sai?”
Trương Nghi lại cốc thêm một cái lên trán gã: “Bản thiếu gia nói ngươi sai tức là ngươi sai, còn dám nhiều lời?” Lời còn chưa dứt, người đã ra khỏi cửa. Trương Nghi xoạc chân bước vội, hấp tấp đi về phía vương cung để đón người. Đi được một quãng, quả nhiên thấy Tô Tần rũ rượi như gã say rượu, đang cúi đầu lảo đảo đi về.
Trương Nghi vội chạy tới chặn Tô Tần lại, đưa mắt nhìn khắp một lượt từ trên xuống dưới, thấy hắn không bị sứt mẻ chỗ nào, thì mừng rỡ kêu lên: “Thần kỳ, đúng là thần kỳ!”
Tô Tần chẳng hiểu chuyện gì, hai mắt mở tròn: “Thần… thần kỳ… cái… cái gì?”
Trương Nghi cười vang: “Là nói Tô huynh thần kỳ!” Rồi lùi lại một bước, vái dài mà nói. “Tô huynh ở trên, hãy nhận của Trương Nghi một lễ!”
Tô Tần không hiểu chuyện gì xảy ra, đứng như trời trồng, đến nỗi quên cả đáp lễ: “Trương… Trương Tử, lúc… lúc nãy… gọi… gọi Tô Tần… là… là gì?”
Trương Nghi đứng thẳng dậy, cười lớn: “Gọi là Tô huynh! Chỉ với hào khí ngày hôm nay của Tô huynh đây, bản thiếu gia cũng nên gọi một tiếng Tô huynh mới phải! Đi, Trương Nghi sẽ mời Tô huynh một bữa no say!”
Tô Tần thấy Trương Nghi vồ vập lại đâm ra nghi ngại, vòng tay vái dài sát đất: “Tô Tần tạ… tạ… tạ ơn… ơn Trương… Trương Tử hậu… hậu… hậu ái!”
Trương Nghi lập tức kéo Tô Tần đến quán Vạn Bang, vẫn đến căn phòng mà họ đã từng uống rượu, vẫn gọi tám món nóng tám món nguội, đến rượu vẫn là loại rượu ủ mấy chục năm. Điều khác biệt duy nhất chính là thái độ của Trương Nghi đối với Tô Tần. Trải qua một tháng ở chung, đặc biệt là qua những hành vi của Tô Tần trong mấy ngày nay, Trương Nghi thực sự đã phải nhìn Tô Tần bằng con mắt khác.
Rượu và đồ ăn đã được dọn lên, Trương Nghi rót đầy hai chén, hai tay nâng lên, cung kính đưa cho Tô Tần: “Tại hạ kính huynh một chén, tạm giúp Tô huynh giải trừ kinh sợ, mời!”
Tô Tần hai tay đỡ chén rượu, dè dặt nhìn Trương Nghi: “Tô… Tô Tần không… không dám… dám… dám nhận!”
Trương Nghi chìa tay nói: “Tô huynh bất tất phải khách khí, hãy cạn chén này rồi nói tiếp!”
Tô Tần cảm thấy Trương Nghi không phải đang đùa cợt, bèn ngửa cổ uống cạn chén rượu. Trương Nghi lại rót đầy một chén nữa, đẩy tới trước mặt Tô Tần, còn mình cũng tự rót một chén khác: “Trương Nghi đã đắc tội lớn, tự phạt một chén, coi như để chuộc lỗi với Tô huynh!” Nói đoạn, liền một hơi uống cạn, rồi lại rót đầy một chén, giọng đầy cảm khái. “Từ lúc huynh bước qua cánh cửa sơn son, trái tim này của tại hạ cũng đi theo huynh. Không giấu Tô huynh, suốt đêm qua tại hạ không chợp nổi con mắt!”
Tô Tần vái Trương Nghi một vái dài: “Tô… Tô Tần bất… bất tài, khiến… khiến Trương… Trương Tử phải… lo… lo lắng!”
Trương Nghi lại nâng chén: “Bất tài hay không tạm chưa nói đến, Tô huynh có thể rời khỏi cung mà không sơ sảy lấy một cọng tóc, đủ thấy huynh phúc lớn mệnh lớn, có thể làm nên đại sự! Nào, chén này Trương Nghi chúc Tô huynh ước nguyện chóng thành, vạn sự viên mãn!”
Tô Tần nâng chén chạm với Trương Nghi, nói: “Tô… Tô Tần cảm… cảm… cảm tạ sĩ… sĩ tử… khen… khen ngợi!”
Cả hai cùng uống cạn. Sau đó, hai người cứ chén tạc chén thù, chưa đầy một canh giờ đã uống cạn hũ rượu. Trương Nghi, Tô Tần đều đã ngà ngà say, Trương Nghi nheo nheo đôi mắt lờ đờ nhìn Tô Tần: “Không dám giấu Tô huynh, lúc đầu tại hạ quả thực… quả thực rất coi thường huynh, không ngờ Tô huynh lại là… là một nhân tài! Trương… Trương Nghi phục… phục rồi!”
Vì có hơi rượu, Tô Tần đã mất hẳn bộ dạng rụt rè thường ngày, một tay nâng chén uống cạn, một tay chỉ vào Trương Nghi: “Tô… Tô Tần mặc… mặc dù… thân phận thấp… thấp hèn, song… song dù… dù gì… cũng có… có hiểu biết. Trương… Trương Tử nói… nói ra… lời… lời này, nay lại… lại gọi… gọi tại hạ là… là… là huynh đệ, cho dù… có… có thực… thực tâm… hay không, Tô… Tô Tần cũng sẽ… sẽ… sẽ ghi nhớ… trong… trong lòng!”
Trương Nghi vội nói: “Tô huynh, tại hạ thực tâm, có thể thề cùng trời đất!” Rồi đảo mắt một vòng, vẫy tay về phía tiểu nhị, gọi. “Tiểu nhị, bày hương án, hai vị thiếu gia đây sẽ kết nghĩa kim lan!”
“Thưa vâng!”
Một loáng sau, tiểu nhị đã bày xong hương án, thắp nến sẵn sàng, lại mang ra hai bát lớn, rót đầy rượu vào trong. Trương Nghi đứng dậy, kéo Tô Tần lên, rồi nắm chặt tay hắn, đi thẳng đến trước hương án, mỗi người đều tự thắp hương, rồi cùng quỳ xuống. Dưới sự chỉ dẫn của Trương Nghi, hai người tự cắn rách ngón tay, nhỏ máu vào trong bát rượu.
Trương Nghi khấu dập liền ba cái trước hương án, nói lớn: “Trời xanh chứng giám, Trương Nghi người Ngụy và Tô Tần người Chu nay kết nghĩa kim lan, Tô Tần lớn tuổi là huynh, Trương Nghi nhỏ tuổi là đệ. Từ ngày hôm nay, Trương Nghi nguyện cùng Tô Tần có phúc cùng hưởng, có hoạ cùng chia, cùng mưu nghiệp lớn với Tô huynh! Nếu trái lời thề, trời đất không dung!”
Tô Tần cũng khấu đầu ba lần trước hương án, vất vả lắp bắp từng chữ: “Trời… trời xanh… chứng giám, Tô… Tô Tần và Trương… Trương Tử… kết nghĩa kim… kim lan, nếu… nếu ngày sau… Tô Tần… có được… được phú quý… nhất… nhất định sẽ… không… hưởng… hưởng một mình, nếu… nếu trái… lời… lời thề, trời… trời… trời đất không… không… không… không dung!”
Đã thề xong, Trương Nghi, Tô Tần cùng nâng bát rượu lên, chạm bát cùng nhau, một hơi uống cạn.
Uống xong rượu kết bái, Trương Nghi gọi tiểu nhị đến, đưa túi tiền ra nói: “Đếm… đếm xem, đã đủ tiền rượu chưa?”
Tiểu nhị vội dốc túi tiền ra, thấy có hai lượng vàng, vội nói: “Đủ rồi đủ rồi, tiểu nhân sẽ lấy tiền trả lại!”
Trương Nghi xua tay: “Thôi… khỏi cần trả lại!”
Trương Nghi kéo tay Tô Tần, hai người bá vai bá cổ, cùng lảo đảo bước xuống cầu thang, đi ra ngoài phố. Trương Nghi nhìn Tô Tần, bật cười vang: “Ha ha ha ha, hôm nay kết nghĩa kim lan với Tô huynh, Trương Nghi đời này cũng đã có được huynh trưởng, thật sảng khoái!”
Tô Tần miệng nồng hơi rượu, nói: “Tô… Tô Tần có… có thể… cùng… cùng kết… kết nghĩa kim… kim lan… với Trương Tử, giống như nằm… nằm mơ vậy!”
Trương Nghi trợn mắt nhìn Tô Tần, ra vẻ tức giận: “Không được gọi là Trương Tử nữa, phải gọi là nghĩa đệ!”
Tô Tần lắc lắc đầu: “Không… không phải… nghĩa đệ, mà là… hiền… hiền đệ!”
Trương Nghi vỗ mạnh vào lưng Tô Tần, lại cười lớn mà nói: “Được, hiền đệ thì hiền đệ!”
Lại đi thêm mấy bước, dường như Trương Nghi sực nhớ ra chuyện gì, liền đứng khựng lại, rồi cười phá lên.
Tô Tần kinh ngạc: “Hiền… hiền đệ… sao… sao lại cười?”
Trương Nghi lại tiếp tục cười thêm một hồi nữa rồi mới dừng lại, cao giọng nói lớn: “Tô huynh, huynh còn nhớ ông lão xem tướng có cặp lông mày bạc trắng không? Cái gì mà ‘xa xem tiền đồ vạn dặm, gần đoán họa phúc sớm chiều’, hôm nay coi như đã rõ, đám thuật sĩ giang hồ đúng là toàn nói láo!”
“Hiền… hiền đệ… sao… sao lại… lại… nói vậy?”
Trương Nghi hừ một tiếng trong mũi: “Ông ta nói nội trong vòng một tháng, Tô huynh sẽ gặp được chuyện đại hỷ trong đời, còn Trương Nghi lại gặp phải chuyện đại hung. Tính ra hôm nay đã vừa tròn một tháng, chuyện hỷ của Tô huynh ở đâu? Chuyện hung của Trương Nghi ở đâu?”
Tô Tần gật gù nói: “Hiền… hiền đệ… nói… nói rất đúng, nghĩ đến… tình… tình cảnh của Tô… Tô Tần, ăn… ăn no… no bụng đã… đã chẳng phải… chuyện… chuyện dễ, làm gì… có chuyện… chuyện được làm… làm tới… chức… chức… khanh…”
Chữ “tướng” còn chưa nói dứt, Tô Tần đã lảo đảo ngã gục xuống đất, mấy lần gắng gượng đứng dậy nhưng không đứng lên nổi. Trương Nghi đưa tay kéo, nhưng cũng ngã dúi dụi theo. Hai người liền nằm luôn trên phố, ngửa mặt lên trời nói chuyện, đầu đối đầu nhau, như hình chữ nhất, chắn mất quá nửa con đường.
Trương Nghi nói: “Không giấu Tô huynh, chỉ cần đợi đến ngày mai, nghĩa đệ sẽ đi tìm lão già đó đối chất, xem lão còn nói được gì? Nếu lão nói năng lọt tai, cầu xin đệ vài câu, may ra đệ chịu bỏ qua cho. Nếu lão ăn nói khó nghe, đệ sẽ xé luôn cờ phướn của lão xuống đất mà giày xéo!”
Đúng vào lúc này, trên quãng đường phía trước không xa, Tô Đại và hai người thanh niên đang đi đến.
Một người nói: “Này Tô Đại, trong thành đông đúc thế này, chúng ta đã tìm cả nửa ngày trời mà không thấy, giờ biết đi đâu tìm đây?”
Tô Đại thở dài: “Tìm không thấy cũng phải tìm!”
Một người khác nói: “Ôi trời, nếu quả đúng là tìm không thấy thì vui rồi, bên này tân nương một mình ôm giường cưới, bên kia tân lang tiêu diêu tận đẩu đâu! Không phải nói khoác, trong thôn Hiên Lý của chúng ta, đúng là lần đầu tiên có cảnh khuê nữ một mình vào động phòng thế này đấy, thực tình!”
Tô Đại liền cự nự: “Thực cái đầu ngươi! Cha đang ở nhà bày hỷ sự, mở tiệc ăn mừng, nếu chúng ta không tìm được anh hai, không biết cha sẽ phải dàn xếp ra sao đây?”
Đang lời qua tiếng lại, một người bỗng liếc thấy phía xa có hai người đang nằm dài trên đường, thì ngạc nhiên kêu lên: “Nhìn kìa, trước mặt có hai gã say rượu!”
Người kia vội vàng dụi mắt: “Tô Đại, nhìn kìa, người bên phải trông rất giống anh hai ngươi!”
Tô Đại trố mắt ra nhìn, rồi mừng rỡ kêu toáng lên: “Đúng là anh hai! Mau lên!”
Ba người vội vàng chạy lại gần. Tô Đại dựng Tô Tần dậy, vừa lay vừa gọi: “Anh hai! Anh hai! Mau tỉnh lại đi!”
Tô Tần dụi mắt hỏi: “Ai… ai gọi… gọi ta?”
“Là em đây, Tô Đại, cha bảo anh về ngay!”
“Cha… cha cái gì, ta… ta… ta không về!”
Trương Nghi nghe thấy, liền bò dậy, ngồi bệt trên đất: “Xin hỏi, nhân huynh là ai, cớ sao lại lôi kéo Tô huynh?”
Tô Đại ôm quyền nói: “Tại hạ là Tô Đại, Tô Tần là anh hai của tại hạ. Gia phụ ở nhà muốn gặp anh hai, nên mới bảo tại hạ đi tìm về!”
Tô Tần tiếp lời: “Hiền… hiền đệ, đừng… đừng để… để ý tới… tới hắn, chúng… chúng ta đi mau… mau, ta muốn… muốn học nghệ… để cùng… cùng hiền đệ… mưu… mưu tính… đại phú… đại… đại quý!”
Trương Nghi lảo đảo đứng dậy, vòng tay vái Tô Đại: “Tô huynh đệ, xin hỏi tại sao lệnh tôn lại muốn gặp Tô huynh?”
Tô Đại vòng tay đáp lễ, do dự một lát rồi đáp lời: “Gia phụ nói mình sắp qua đời, muốn được gặp mặt anh hai lần cuối!”
Trương Nghi cả kinh, vội vòng tay vái: “Chuyện đã như vậy, xin được giao lại Tô huynh cho các hạ, Trương Nghi bái biệt tại đây!”
Lúc này, Tô Tần người đã mềm nhũn, bắt đầu ngáy khò khò. Tô Đại bảo người đi cùng gọi đến một cỗ xe lừa, ba người cùng khiêng Tô Tần lên xe, chào từ biệt Trương Nghi, rồi lập tức quay về.
Thấy cỗ xe đã đi xa, Trương Nghi cũng xoay người, chân nam đá chân chiêu đi về Quý Nhân Cư. Vừa vào đến sân, hơi rượu trong người lại bốc lên, hai chân xiêu vẹo suýt nữa thì ngã quay, nên vội vàng bám vào tường mà lần đi, trong đầu vẫn nhớ chuyện ngày mai, bèn lảm nhảm một mình: “Chuyện cực hung trong đời, không gì bằng cha mất. Nếu như cha Tô huynh mất, đương nhiên là đại tang. Hôm nay vừa tròn ba mươi ngày, nếu như Tô huynh gặp đại tang, thì lời của lão già kia cũng không phải là phét lác!”
Đi thêm mấy bước, Trương Nghi bỗng khựng lại, rồi tiếp tục lầm bầm: “Coi như lời của lão già kia ứng nghiệm, nhưng cũng chỉ ứng nghiệm một nửa, hơn nữa một nửa này lại là đảo lộn tùng phèo. Chuyện Tô huynh gặp phải, đương nhiên là chuyện đại hung trong đời, chứ đâu phải đại hỷ?” Nói rồi bật cười một tràng dài, lại tựa vào tường, ngẫm ngợi một chốc, rồi lầm bầm tiếp. “Ồ, nếu nói như vậy, chính là hỷ tang đảo lộn. Nếu Tô huynh đã gặp chuyện đại hung, hẳn ta sắp gặp chuyện đại hỷ rồi! Trời đã sắp tối, chuyện đại hỷ của ta đang ở nơi đâu? Xem ra lão già mày trắng kia cũng chỉ phán bừa! Ha ha ha, lá phướn của lão chỉ ngày mai thôi sẽ bị ta giật xuống là chắc!”
Tiểu Thuận nghe thấy tiếng cười, vội vàng chạy ra, vừa thấy Trương Nghi đã gọi giật: “Thiếu gia, cuối cùng thì cậu đã về rồi!”
Trương Nghi liền quát vỗ mặt: “Tên tiểu tử nhà ngươi chết rấp ở đâu thế, mau dìu… dìu ta về!”
Tiểu Thuận chạy lại dìu Trương Nghi: “Thiếu gia, Trương bá gửi thư gấp đến, tiểu nhân đã tìm cậu khắp nơi, mà không biết cậu đi đâu mất?”
Nghe thấy nhà gửi thư gấp, Trương Nghi lập tức tỉnh rượu, nhìn trừng trừng vào Tiểu Thuận: “Thư của Trương bá? Thư… thư đâu?”
Tiểu Thuận vội vàng lôi ra một cuộn thẻ tre từ trong ống tay áo, đưa cho Trương Nghi. Trương Nghi nhận lấy, miệng lẩm bẩm: “Lẽ nào… thực sự có tin vui?”
Trương Nghi trong dạ hoài nghi, vì đã quá chén nên tay có phần lập cập, vươn ra mấy lần mà vẫn không nắm chắc được cuộn thẻ tre. Tiểu Thuận nhìn thấy sốt ruột, giật cuộn thẻ tre lại, giở ra ngay trước mắt Trương Nghi. Vừa đọc được hai câu, Trương Nghi mặt mũi thình lình biến sắc. Lại đọc thêm mấy dòng nữa, bỗng rú lên một tiếng thảm thiết “Mẹ ơi…” rồi ngã gục xuống đất, bất tỉnh nhân sự.
Tiểu Thuận giật mình kinh hãi, liếc vội qua thư, không nói thêm lời nào, cấp tập đi đóng xe ngựa, rồi đi gặp chủ nhà trọ, thanh toán tiền phòng, sau đó lại chạy lên phố mua ít lương khô, vác Trương Nghi lên xe, rồi khẩn cấp đánh xe về phía Hà Tây.
***
Trời đã quá trưa, cung chính trong tay cầm một hộp gấm, lật đật đi vào cung Tịnh An. Sau khi hành lễ xong xuôi, hai tay dâng lên hộp gấm, nói: “Nương nương, thứ mà nương nương muốn, lão nô đã tìm thấy!”
“Được!” Vương hậu vẫn nằm trên giường, khẽ vươn người dậy, đưa ngón tay chỉ vào bàn trang điểm. “Để đó!”
Cung chính đứng dậy, đi đến trước bàn trang điểm, suy nghĩ một lát, rồi kéo một ngăn kéo, đặt hộp gấm vào trong, quay sang nói với vương hậu: “Nương nương, lão nô đặt nó ở ngăn kéo bên trái!”
Vương hậu gật đầu, dặn dò đám cung nữ: “Các người lui hết ra, bản cung thấy mệt, muốn nghỉ ngơi một lát!”
Đám cung nữ lần lượt lui ra, cung chính đi sau cùng, tiện tay khép cửa lại.
Thấy toàn bộ mọi người đều đã đi hết, vương hậu mới vội vàng ngồi dậy, lấy từ trong tay áo ra chiếc túi gấm của Quỷ Cốc Tử, giở cuộn lụa ra, hai mắt nhìn chăm chăm vào từng dòng chữ viết. Một lát sau vương hậu mới đặt tấm lụa xuống, đôi mắt ướt đẫm những lệ, khiến cảnh tượng trước mắt trở nên nhoà nhạt.
Ngẩn ngơ một lát, vương hậu bèn xuống giường, bước tới trước bàn, cắn rách đầu ngón tay, nhỏ mấy giọt máu tươi vào trong nghiên, rồi chấm bút lông, lại viết thêm vài dòng chữ lên trên tấm lụa. Ngắm nghía một hồi, bèn cẩn thận gấp lại, đặt vào trong túi gấm, lấy kim khâu kín, trở lại trước giường, rồi quay ra phía ngoài gọi khẽ: “Người đâu!”
Cung chính vẫn đứng hầu ngoài cửa, nghe thấy tiếng gọi, vội vã chạy vào: “Nương nương có điều gì căn dặn?”
Vương hậu mỉm cười: “Mấy ngày nay bản cung có bệnh, cũng khiến ngươi phải vất vả nhiều!”
“Đều do lão nô không tốt, chưa hầu hạ nương nương chu đáo, khiến nương nương phải chịu nhiều mệt nhọc!”
Vương hậu chậm rãi nói: “Là do thân thể bản cung không tốt, sao có thể trách ngươi? Nhưng hiện giờ, bản cung cảm thấy khoẻ hơn nhiều, muốn ngủ một giấc dài. Ngươi hãy đứng canh trước cửa, bất kể là ai, cũng không được cho vào cung quấy rầy!”
Cung chính thấy vương hậu tâm bình khí tĩnh, khí sắc quả thực đã tốt hơn, nên cũng không nghĩ ngợi nhiều, liền gật đầu vâng lệnh: “Nương nương an tâm, lão nô sẽ đứng canh ngoài cửa, không rời nửa bước!”
Vương hậu lấy ra túi gấm dưới gối: “Đến khi trời tối, nếu bệ hạ có đến, ngươi hãy nói bản cung đang ngủ, rồi giao lại vật này cho bệ hạ, nói là bản cung gửi cho người.”
Cung chính đưa hai tay nhận lấy, hai mắt nhìn vào túi gấm, hơi lấy làm lạ: “Nương nương, vật này…”
Vương hậu lại điềm tĩnh mỉm cười: “Không có gì, là phương thuốc trị bệnh!”
Cung chính nghe nói là phương thuốc trị bệnh, lập tức yên dạ, quay người bước ra, nhẹ nhàng khép cánh cửa lại.
Lúc này, trong cung Tịnh An rộng thênh thang chỉ còn lại một mình vương hậu. Không gian yên ắng lạ thường. Bên cửa, giọt đồng hồ tí tách nghe rõ ràng từng tiếng.
Vương hậu nằm trên giường một lát, dường như sực nhớ ra chuyện gì, lại chậm rãi xuống giường, bước tới bên cửa sổ, ngắm nghía chiếc bình ngọc bị Hiển Vương đập vỡ đã được bà gắn lại.
Chiếc bình ngọc vẫn trang trọng thanh thoát như cũ, tràn trề khí phách của vương gia. Đúng thế, bà đã nhặt lại từng mảnh vỡ, với một sự khéo léo tuyệt vời, ghép lại chiếc bình gần như hoàn hảo.
Vương hậu từ từ quỳ xuống, nhìn sững vào chiếc bình, hồi lâu sau mới thở dài một tiếng, rồi khẽ thì thầm: “Bệ hạ, thần thiếp… thần thiếp chỉ có thể làm được đến vậy!”
Vương hậu lạy chiếc bình mấy lạy, sau đó từ từ đứng dậy, đi tới trước bàn, rồi ngồi xuống, bắt đầu soi gương trang điểm.
Vương hậu chải chuốt lại mái tóc dài, búi thành kiểu tóc mà Hiển Vương yêu thích nhất, sau đó tô vẽ đôi mày, se mặt. Rồi lại quay sang mở tủ quần áo, lần lượt khoác lên người những trang phục hoa lệ mà bà đã từng mặc trong ngày xuất giá. Cuối cùng, đội lên đầu chiếc mũ phượng của vương hậu.
Vương hậu điềm tĩnh, thong thả hoàn thành tuần tự từng việc, sau đó quay trở lại bên bàn trang điểm, ngồi xuống trước gương.
Trong gương phản chiếu một nhan sắc kiêu sa tuyệt thế không chút khác xưa của vương hậu Đại Chu.
Vương hậu ngắm nghía một hồi, sau đó mở ngăn kéo dưới bàn trang điểm, lấy hộp gấm ra, rồi nhấc lấy lọ sứ trong hộp, tay mở nắp bình, hai mắt nhắm nghiền, môi đào hé mở, chỉ nghe “ực” một tiếng, đã uống cạn.
Vương hậu đặt cái lọ trống rỗng trở lại trong hộp, cất hộp vào ngăn kéo, sau đó lảo đảo đi đến bên giường, từ từ nằm xuống, kéo chăn gấm lên, hai mắt khép lại.
Ngoài cửa, cung chính tuân theo chỉ ý của vương hậu, nghiêm túc đứng canh. Trong khoảng hai canh giờ, trước sau tổng cộng có ba người đến thăm, một là Cơ Vũ, hai là Tây Chu Công, ba là nội tể. Cung chính chỉ truyền lại lời của vương hậu ba lần, không một ai dám bước vào trong.
Trời đã sẩm tối, Chu Hiển Vương cảm thấy không yên tâm, liền đích thân tới thăm. Cửa cung vẫn đóng im ỉm, cung chính vẫn mẫn cán đứng canh bên ngoài. Thấy bệ hạ đích thân giá lâm, cung chính vội quỳ xuống khấu bái: “Bệ hạ, nương nương đã dặn, muốn ngủ một giấc dài, bất kể là ai cũng không được quấy rầy.”
Hiển Vương lừ mắt nhìn cung chính: “Quả nhân cũng không được ư?”
“Là nương nương đã căn dặn như vậy!” Cung chính đáp, rồi lấy từ trong ống tay áo ra chiếc túi gấm. “Nguyên lời của nương nương là, đến khi trời tối, nếu bệ hạ có đến, ngươi hãy nói bản cung đang ngủ, rồi giao lại vật này cho bệ hạ, nói rằng bản cung gửi cho người!”
Hiển Vương vô cùng kinh ngạc, nhận lấy túi gấm, thấy nơi miệng túi là những đường kim dày đặc đều đặn, biết là do vương hậu đích thân khâu, bèn vội vàng dỡ chỉ, lấy ra cuộn lụa ở bên trong. Vừa liếc mắt qua, long nhan đại biến, lập tức xô bật cung chính, đẩy tung cánh cửa, lảo đảo lao vụt đến trước giường, hét lớn: “Tử đồng…”
Cung chính, nội tể đều đứng nghệt ra, đưa mắt nhìn nhau một thoáng, rồi lập tức chạy theo vào trong, nhìn thấy vương hậu phục sức đã thay, thần thái an định nằm yên trên giường. Hiển Vương gục đầu trên cơ thể bà, gào khóc thảm thiết.
Không cần hỏi thêm, nội tể biết ngay chuyện gì đã xảy ra, lập tức quay người gọi lớn: “Mau, truyền thái y!”
Cung chính lao đi như bay, chốc lát sau đã dẫn thái y cấp tốc vào cung Tịnh An. Thái y bắt mạch tượng, kiểm tra hơi thở, rồi run rẩy bẩm báo: “Nương nương đã đi rồi!”
Nội tể kinh hoàng hỏi: “Lúc trưa nương nương vẫn còn khoẻ mạnh, tại sao đột nhiên lại như vậy?”
“Hạ quan cũng không biết! Với bệnh của nương nương, kiểu gì cũng không thể nhanh như vậy được!”
Cung chính đột nhiên sực nhớ ra một chuyện, hốt hoảng chạy tới trước bàn trang điểm, đưa tay mở ngăn kéo, lấy hộp gấm ra. Mở ra xem, thấy bên trong chi còn chiếc lọ rỗng, bèn quỳ sụp xuống đất, khóc rống lên: “Nương nương, lão nô đã hại người rồi!”
Thái y bước tới cầm lấy lọ, nhìn kỹ một chặp, đổ một giọt còn sót lại trong bình lên mặt bàn trang điểm, ghé mũi ngửi thử, rồi chết lặng tại chỗ, thấp giọng kêu lên: “Than ôi, nương nương đã uống thuỷ ngân rồi!”
Nội tể giật bắn mình: “Thuỷ ngân? Nương nương lấy đâu ra thuỷ ngân?”
Cung chính khóc mà nói: “Là lão nô mang đến! Vào giờ Ngọ, nương nương sai lão nô tìm lấy một ít thuỷ ngân, nói rằng phương thuốc trị bệnh cần dùng đến. Lão nô không biết nội tình, cứ nghĩ rằng là thang dẫn cho phương thuốc, nên đã tìm kiếm khắp nơi, khó khăn lắm mới kiếm được lọ thuỷ ngân này về cho nương nương. Ai ngờ nương nương…” Nói rồi gào khóc thảm thiết. “Nương nương, nương nương… tại sao người lại phục phương thuốc này?”
Nội tể đã hiểu ra ngọn ngành, vội vã bước tới trước mặt thái y, giật phắt lấy lọ đựng thuỷ ngân, cất luôn vào trong tay áo, rồi nghiêm giọng nói với cung chính, thái y: “Các ngươi đều thấy rõ rồi, là nương nương bệnh lâu ngày không qua khỏi, nên mới về trời, làm gì có thuỷ ngân nào!”
Cung chính, thái y lập tức hiểu ra, vội vã đáp lời: “Tiểu… tiểu nhân biết sai!”
Nội tể đi tới trước giường, từ từ đỡ Hiển Vương đang khóc ngất dậy. Cung chính tìm lấy một vuông nhiễu trắng, phủ lên trên mặt vương hậu. Nội tể quay sang, lớn giọng tuyên bố với đám cung nhân: “Nương nương bệnh nặng lâu ngày không qua khỏi, đã về trời, cả nước để tang!”
Lập tức trong cung tiếng khóc lóc dậy trời, bi thương khôn xiết. Chỉ một lát sau, từng hồi chuông tang đã vẳng khắp vương cung.

Thị nữ của Cơ Vũ từ xa nhìn thấy nhiều người hối hả chạy về phía cung Tịnh An, lại mơ hồ nghe thấy tiếng khóc hờ thảm thiết, không biết đã xảy ra chuyện gì, liền chặn một người lại hỏi, mới biết nương nương đã qua đời.
Thị nữ kinh hãi đến bàng hoàng, đứng chết lặng một hồi lâu, sau đó mới cố ghìm nước mắt, chạy như bay về phía tẩm cung của công chúa, lao vụt vào trong sân. Thấy công chúa đang ngồi ngay ngắn bên ao sen, trước mặt là một giá đàn, trên giá là cây đàn thất huyền đầu phượng mà Cơ Tuyết đã tặng. Bên cạnh công chúa đặt một tay nải nhỏ, bên trong đựng quần áo và vài món đồ tế nhuyễn. Đợi đến khi trời tối, công chúa sẽ cùng vương hậu mãi mãi rời khỏi chốn thị phi này. Giờ đây, Cơ Vũ không có suy nghĩ gì khác, chỉ muốn đàn một khúc, cho phụ vương, cho người chị gái, và cũng cho cấm cung nhỏ bé nơi Cơ Vũ đã sống gần mười lăm năm nay.
Cơ Vũ vẫn đàn hai khúc Cao sơn và Lưu thủy. Với hai khúc nhạc này, Cơ Tuyết và Cơ Vũ lại có sở thích khác nhau, Cơ Tuyết thích Lưu thủy, còn Cơ Vũ lại thích Cao sơn. Lúc này, Cơ Vũ trông vật nhớ người, hoài niệm chị gái, tâm tư muôn mối rối bời, ngón tay lướt nhẹ, một khúc Lưu thuỷ dìu dặt vang khắp khu vườn.
Cùng với tiếng đàn, trước mắt Cơ Vũ cũng dường như thấp thoáng muôn vàn cảnh tượng: dòng nước lững lờ không chốn dừng chân, cánh hoa rơi rụng chao theo cơn gió, đường đưa dâu đến nước Yên xa xăm diệu vợi, và người chị Cơ Tuyết có lẽ không còn có ngày về.
Thị nữ không thể nghe tiếp được nữa, chạy tới quỳ đánh phịch xuống đất, khóc oà lên nức nở: “Công chúa…”
Cơ Vũ tay vẫn gảy đàn, chỉ hơi ngẩng đầu lên, nước mắt lưng tròng, ngạc nhiên nhìn thị nữ.
Thị nữ nấc nghẹn: “Công chúa, nương nương… nương nương…”
Cơ Vũ bỗng thấy lòng mình thắt lại, ngón tay run bắn, nhưng vẫn chưa rời khỏi dây đàn, vì trái tim nàng vẫn chưa rời khỏi khúc Lưu thuỷ, chỉ đưa đôi mắt ướt nhoà nhìn trân trối vào thị nữ như muốn hỏi.
Thị nữ khóc thảm thiết mà nói: “Nương nương… nương nương đã… đã băng rồi!”
Một chữ “băng” như sét đánh ngang trời, Cơ Vũ lặng người ngây dại, những ngón tay đang lướt nhẹ cũng lập tức cứng đơ trên dây đàn, hai mắt đờ đẫn nhìn sững vào thị nữ.
Thị nữ hốt hoảng hỏi: “Công chúa! Công chúa làm sao vậy?”
Cơ Vũ vẫn ngồi chết lặng tại chỗ.
Thời gian như đông cứng. Cơ Vũ một tay lơ lửng trong không, một tay buông trên phím đàn, toàn thân cứng đơ như hoá đá.
Thị nữ kinh hoàng tột độ, vội hét thật lớn: “Công chúa! Công chúa! Công chúa…”
Hồi lâu sau, Cơ Vũ mới từ từ giơ cánh tay còn lại lên, giơ cao, giơ đến lúc không thể cao hơn được nữa.
Đột ngột, cả hai tay Cơ Vũ thình lình rơi vụt xuống, đập thẳng xuống mặt đàn. Một sợi dây đàn lập tức đứt tung, ngón tay phải bị dây đàn cứa đứt, máu tươi tứa ra ròng ròng.
Thị nữ rú lên: “Công chúa…”
Cơ Vũ vẫn không đáp lời, mười đầu ngón tay hạ xuống như mưa, hai hàng nước mắt ròng ròng chảy xuống như châu lăn, chỉ một lát sau, toàn bộ cây đàn đầu phượng đã ướt đẫm máu và nước mắt của Cơ Vũ, từng giọt từng giọt như mai rụng trong mưa.
Cơ Vũ đàn xong khúc Lưu thuỷ, rồi lại ngồi đờ đẫn như khúc gỗ trước đàn suốt một canh giờ, sau đó mới chậm chạp đứng dậy, đưa tay lau giọt lệ bên khoé mắt, ôm lấy cây đàn đầu phượng, xách tay nải lên, nhích từng bước lê về phía cung Tịnh An.

Khắp vương thành đèn nến lập loè, chuông tang rền rĩ.
Dưới sự dàn xếp mẫn cán của nội tể, cung Tịnh An đã hoàn toàn thay hình đổi dạng. Linh sàng đặt ở chính giữa, vương hậu nằm im lìm trên linh sàng, cơ thể được phủ dưới một lớp nhiễu trắng.
Chu Hiển Vương mình mặc áo trắng, đứng trước linh sàng, thần tình đờ đẫn, mắt nhìn trân trân vào vương hậu.
Hai bên linh sàng, các phi tần lớn nhỏ quỳ theo thứ tự, vài vương tử và tiểu công chúa đều mặc tang phục, khấu đầu sát đất, không khí trĩu nặng đau thương.
Cơ Vũ vẫn mặc nguyên bộ trang phục giản dị, một tay ôm đàn, một tay xách tay nải, đứng thẫn thờ trước cửa. Nội tể nhìn thấy, vội vàng mang đến một bộ quần áo vải sô cho Cơ Vũ mặc vào, rồi lại phủ lên đầu nàng một dải khăn trắng, còn một dải nữa quấn ở ngang hông. Khi nội tể làm những việc này, Cơ Vũ vẫn mặt mày ngây dại, không khóc, cũng không cử động, chỉ giương hai mắt đờ đẫn nhìn vào linh sàng, chẳng khác gì pho tượng đất.
Nội tể làm xong mọi việc, Cơ Vũ lại ôm lấy cây đàn, chậm chạp đi tới trước linh sàng, đặt cây đàn xuống bên cạnh vương hậu, rồi từ từ lật tấm nhiễu trắng lên.
Vương hậu nằm đó im lìm, hai mắt nhắm nghiền, tựa như trong giấc ngủ say. Cặp mày ngài của bà vẫn nhíu lại như thường nhật.
Cơ Vũ lặng lẽ nhìn trân trân vào vương hậu. Một lát sau, nàng vươn hai tay ra, nhẹ nhàng vuốt ve hai đầu mày của vương hậu, muốn vuốt cho vầng trán bà phẳng phiu trở lại, song hai đầu mày vẫn nhíu nguyên như cũ.
Cơ Vũ nhẹ nhàng áp má vào bên má mẫu hậu, trong miệng rì rầm, không biết nói những lời gì. Lại một lúc sau, Cơ Vũ mới ngẩng đầu lên, đưa tay vuốt ve trên ấn đường vương hậu. Cuối cùng hai hàng lông mày mảnh dẻ cũng đã giãn ra, lúc này, trông vương hậu thực hiền từ và bình thản.
Sau khi vuốt phẳng phiu vầng trán cho vương hậu, Cơ Vũ lại không phủ tấm nhiễu trắng lên, tựa như vương hậu vẫn đang còn sống. Nàng mở hộp đàn ra, dựng giá đàn ngay trước linh sàng, rồi đặt cây đàn đầu phượng của Cơ Tuyết lên trên, ngồi xuống bên cạnh mẫu thân, quay mặt nhìn vào bà, tay nhẹ nhàng gảy đàn.
Mặc dù chỉ còn sáu sợi dây, nhưng trong tay Cơ Vũ, thiếu mất một dây, lại khiến âm điệu càng thêm bi thiết thảm sầu. Vẫn là một khúc Lưu thuỷ, có điều dòng nước lúc này tựa như đang nỉ non dưới lớp băng lạnh buốt, như khóc như than, song không ai thấy được.
Cơ Vũ lặng lẽ ngồi, rồi lặng lẽ đàn, đàn hết lần này đến lần khác, không có nước mắt, cũng không có tiếng khóc.
Không biết đã đàn bao lâu, cũng chẳng biết đã đàn bao nhiêu lần. Trời tối sập, đêm đã về khuya. Không biết từ bao giờ, các phi tần, tiểu công tử, tiểu công chúa quỳ bên giường vương hậu đã lặng lẽ rời đi. Chỉ còn lại cung chính, nội tể và Hiển Vương vẫn còn quỳ trước giường, nuốt nước mắt nghe Cơ Vũ thổn thức.
Cuối cùng, Chu Hiển Vương cũng đã cử động. Hiển Vương từ từ quay người, lặng lẽ nhìn con gái. Lại một hồi sau, Hiển Vương mới chật vật đứng dậy, nhích lại vài bước, rồi ngồi xuống bên cạnh Cơ Vũ, nhẹ nhàng vuốt mái tóc của nàng.
Những ngón tay của Cơ Vũ mỗi lúc một chậm dần, đôi mắt nhắm nghiền, nước mắt từ từ lăn xuống.
Đột nhiên, không thể nhẫn nhịn thêm được nữa, Cơ Vũ xoay người sang, vùi đầu vào lòng Hiển Vương, gào khóc nức nở: “Phụ vương…”
Chu Hiển Vương ôm chặt lấy Cơ Vũ, tựa như sợ hãi bị ai đó cướp mất con gái từ trong lòng mình.
Hai cha con ôm chặt lấy nhau, Cơ Vũ không bộc phát thì thôi, khi đã bộc phát thì không thể nào kìm nén. Cơ Vũ cứ vùi đầu vào lòng Hiển Vương, hết gào khóc thê thảm, lại nức nở nghẹn ngào, không biết đã khóc bao lâu mới chịu dừng lại, rồi đẩy Hiển Vương ra, quỳ sụp xuống đất, ngẩng đầu gọi: “Phụ vương!”
Hiển Vương nhìn Cơ Vũ: “Vũ Nhi, có điều gì, con cứ nói đi!”
Cơ Vũ do dự một thoáng, rồi khóc nấc mà nói: “Vũ Nhi không thể tận hiếu, Vũ Nhi không thể hầu hạ phụ vương, Vũ Nhi… Vũ Nhi cũng phải đi đây!” Nói xong, nước mắt lại tuôn trào như mưa, chậm rãi dập đầu khấu lạy. Một lạy, hai lạy, rồi ba lạy…
Song Cơ Vũ thật không ngờ rằng, dường như Hiển Vương đã sớm biết chuyện này, không hề tỏ ra ngạc nhiên, chỉ lặng lẽ nhìn đăm đăm vào Cơ Vũ.
Cơ Vũ khóc gọi: “Phụ vương…”
Hiển Vương chậm rãi hỏi: “Vũ Nhi, con đi đâu?”
“Núi Vân Mộng!”
Hiển Vương từ từ nhắm hai mắt lại. Hồi lâu, một giọng nói bỗng như bật ra từ tận sâu trong cổ họng: “Đi đi! Quỷ Cốc Tử tiên sinh đang đợi con!”
Lại thành ra Cơ Vũ giật mình sửng sốt: “Phụ vương, sao người lại biết?”
Chu Hiển Vương rút từ trong tay áo ra chiếc túi gấm mà vương hậu đã trao lại, đưa cho Cơ Vũ, chậm rãi nói: “Mẫu hậu của con nói, đây là một phương thuốc,” sau đó ngoảnh sang vương hậu, ngưng lại một lát, nước mắt tràn mi, lầm rầm trong tiếng nghẹn ngào, “là một phương thuốc bí mật!”
Hiển Vương cứ lặp đi lặp lại “là một phương thuốc bí mật”, càng nói càng đau xót, rồi gục xuống người vương hậu, bật khóc thảm thiết.
Cơ Vũ nhận ra đó chính là chiếc túi gấm mà Tô Tần đã nhờ đưa cho vương hậu, bèn vội vàng mở ra. Bên trong có một tấm lụa, trên tấm lụa là hai hàng chữ mực đen do chính tay Quỷ Cốc Tử viết: “Thiên tài tu đạo, Quỷ Cốc tái sinh. Đưa ve về rừng, hoá giải phân tranh”. Bên dưới tấm lụa là một hàng chữ nhỏ mà vương hậu đã viết bằng máu của chính mình: “Bệ hạ, muốn đi theo tiên sinh, nhưng khó dứt tình; muốn đi cùng bệ hạ, sài lang không dung, ơn vua, xã tắc, nguyện xưa, buồn nay, thần thiếp tiến thoái lưỡng nan, chỉ còn cách vĩnh biệt. Khẩn cầu bệ hạ, nghe lời thần thiếp. Tuyết Nhi phải gả đi xa, đã cam khổ mệnh. Chỉ còn Vũ Nhi, gửi gắm tiên sinh…”
Cơ Vũ ôm chặt túi gấm vào trước ngực, từ từ quỳ xuống trước thi thể vương hậu, rồi khóc lớn mà nói: “Mẫu hậu, mẫu hậu, người đã đồng ý với Vũ Nhi là sẽ đi cùng kia mà, mẫu hậu…”
Hiển Vương quay lại, nhẹ nhàng vuốt tóc Cơ Vũ: “Đi đi, con gái! Hãy nghe lời mẫu hậu, đi theo tiên sinh, đi càng xa càng tốt!”
Cơ Vũ ngước đôi mắt đầm đìa những lệ, nhìn sững vào Hiển Vương một chốc, rồi giọng đầy lo lắng: “Phụ vương, còn phía người Tần…”
Hiển Vương ngẩng mặt lên trời, than dài một tiếng, rồi chậm rãi nói: “Sinh ly tử biệt, nước mất nhà tan, quả nhân đã chẳng còn chi, họ còn làm được gì nữa?”
Nói đoạn, nâng tay áo lên lau nước mắt, lại nhìn Cơ Vũ, khẽ ngâm nga:
Lúa tẻ lên mạ,
Lúa nếp xanh rì.
Trong lòng thảng thốt,
Bước chân lầm lì.
Kẻ hiểu ta, nói ta sầu bi.
Kẻ không hiểu ta, hỏi ta tìm gì.
Cao xanh thăm thẳm,
Bởi vì ai kia?

Đây là một bài thơ trong Vương phong mà từ nhỏ Cơ Vũ đã thuộc lòng, song hàm ý sâu xa của nó, phải đến khi Hiển Vương ngâm lên trong tình cảnh này, Cơ Vũ mới thực sự thấm thía. Giọng ngâm của Hiển Vương chậm rãi mà trầm buồn, trong nỗi đau thương có pha chút tình bi tráng, Cơ Vũ nghe mà trong lòng nổi sóng, bất giác cũng ngẩng đầu, gượng nuốt lệ mà cùng ngâm. Trong linh đường chốc lát đã ngân nga tiếng ngâm bi thiết của hai cha con:
Lúa tẻ đòng trổ,
Lúa nếp xanh rì.
Trong lòng chao đảo,
Bước chân lầm lì.
Kẻ hiểu ta, nói ta sầu bi.
Kẻ không hiểu ta, hỏi ta tìm gì.
Cao xanh thăm thẳm,
Bởi vì ai kia ?
Lúa tẻ kết hạt,
Lúa nếp xanh rì.
Trong lòng nghẹn đắng,
Bước chân lầm lì.
Kẻ hiểu ta, nói ta sầu bi.
Kẻ không hiểu ta, hỏi ta tìm gì.
Cao xanh thăm thẳm,
Bởi vì ai kia.(2)


Trời đã gần sáng, đằng đông mới hửng, Cơ Vũ mặc tang phục trên người, lưng đeo cây đàn đầu phượng, vai khoác tay nải, bái biệt phụ vương, vĩnh biệt mẫu hậu, mang theo bảo kiếm, rồi mở cổng bên, đi thẳng tới miếu Hiên Viên phía đông thành.
Cơ Vũ đi ra cổng đông, hỏi thăm hai người đi đường, cuối cùng cũng tìm thấy ngôi miếu hoang.
Lúc này, trái tim Cơ Vũ hệt như một con thỏ non vừa thoát chết, vừa sợ hãi, vừa căng thẳng. Sợ hãi là vì nếu tiên sinh không ở trong miếu, Cơ Vũ sẽ ra sao? Còn căng thẳng là vì nếu tiên sinh có trong miếu, song mình đường đột mà đến, liệu tiên sinh có chịu tiếp nhận hay chăng?
Cửa miếu chỉ khép hờ. Cơ Vũ khẽ gõ nhẹ, lát sau, tiểu đồng ra mở cửa. Nhìn thấy tiểu đồng, cảm giác sợ hãi phấp phỏng của Cơ Vũ mới bớt đi vài phần. Cơ Vũ vòng tay vái, rồi hỏi tiểu đồng: “Xin hỏi tiểu đồng, Quỷ Cốc tiên sinh có ở đây chăng?”
Tiểu đồng đang quét dọn sân miếu, trong tay vẫn cầm cây chổi, thấy Cơ Vũ phục sức tuyền một màu trắng thì kinh ngạc, lại nhìn kỹ một chặp, rồi mới vòng tay vái lại, khẽ giọng hỏi: “Chị là Ngọc Thiền ư?”
Cơ Vũ thầm ngạc nhiên: “Ngọc Thiền? Ta…”
Tiểu đồng đã chắc chắn là nhận đúng người, bèn chỉ vào đại điện: “Chị Ngọc Thiền, gia sư đang đợi trong miếu!”
Cơ Vũ đi vào trong điện, đưa mắt nhìn quanh. Toàn bộ miếu điện trong ngoài đều được quét dọn tinh tươm, tất cả đồ vật đều được xếp dọn gọn gàng, bụi bặm trên tượng Hiên Viên cũng đã được lau sạch. Rõ ràng họ đang chuẩn bị rời đi. Quỷ Cốc Tử ngồi ngay ngắn trước pho tượng Hiên Viên, hai mắt khép hờ.
Cơ Vũ đặt hộp đàn xuống, quỳ trên mặt đất, phấp phỏng lên tiếng: “Tiểu nữ khấu kiến tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử vẫn nhắm hờ hai mắt, dường như không nghe thấy tiếng của Cơ Vũ, cũng không quan tâm tới sự xuất hiện của nàng.
Cơ Vũ lại khấu đầu: “Tiểu nữ khấu kiến tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử mở hé đôi mắt, khoé miệng bắt đầu cử động: “Cô nương vì đâu lại mình mặc áo tang?”
Cơ Vũ bật khóc, giọng lạc đi: “Mẫu hậu, đã… đã…”
Quỷ Cốc Tử lại trầm mặc một hồi lâu, mới thở dài một tiếng, rồi chậm rãi nói: “Mẫu hậu của cô nương cuối cùng cũng đã được giải thoát, cũng là điều đáng mừng. Cô nương đến đây, là muốn cầu việc gì?”
Cơ Vũ khóc ròng mà nói: “Quả nhiên đúng như lời tiên sinh nói, lưới đã giăng bủa, con ve ngọc đã không còn đường thoát, nguyện theo tiên sinh lánh vào rừng sâu, khẩn cầu tiên sinh thu nhận!” Nói rồi lại dập đầu xuống đất, nước mắt như mưa.
“Trong chốn núi rừng tuy tự do tự tại, song tịch mịch hoang liêu, chỉ sợ cô nương không chịu nổi!”
“Tiểu nữ sớm đã chán ghét trần thế ồn ào, không còn mong cầu gì khác, nguyện cùng tiên sinh sống trong rừng sâu đến già đến chết, chuyên tâm cầu đạo!”
Quỷ Cốc Tử trầm tư một lát, rồi gật đầu nói: “Lão hủ thấy cô nương là một thiên tài tu đạo, sẽ thu nhận cô nương. Cô nương đã tự ví mình với con ve ngọc, nên từ hôm nay, sẽ gọi cô nương là Ngọc Thiền.”
Cơ Vũ liên tiếp khấu đầu, vui buồn lẫn lộn: “Ngọc Thiền tạ ơn tiên sinh ban tên!”
***
Thôn Hiên Lý bên bờ sông Y Thuỷ, trong sân nhà họ Tô, đèn lồng giăng kín, hỷ khí tràn trề. Bên ngoài cổng, dàn hàng ba chiếc nồi gang, một nồi nấu lợn, một nồi nấu dê, còn một nồi đang luộc đầu trâu.
Cả thôn kéo nhau tới giúp, trong sân người đến kẻ đi, vô cùng náo nhiệt. Chừng giờ Thân, một chiếc xe trâu kết hoa đỏ rực rỡ thủng thẳng đi đến giữa thôn trong tiếng kèn trống phèng la tưng bừng, từ từ đến trước cổng nhà họ Tô.
Tô Lệ nhìn thấy cỗ xe hoa từ xa tiến lại, vội vã đốt một bó tre khô đã chọn lựa kỹ càng. Thoáng chốc, ngọn lửa bùng lên, các đốt tre cháy nứt đua nhau nổ đùng đoàng. Trong tiếng pháo trúc, một đoàn người khiêng theo của hồi môn đi vào trong sân nhà họ Tô, tiếng kèn trống càng thêm náo nhiệt.
Ma Cô đang tất bật trong động phòng, thấy xe hoa đã dừng lại, liền vội vàng chạy ra ngoài sân gọi lớn: “Ông anh, tân nương đến rồi, mau gọi tân lang ra đón!”
Tô Hổ sải bước vào trong gian nhà chính, thấy Tô Tần vẫn đang say khướt, nằm ngáy pho pho trên giường. Sắc mặt Tô Hổ sầm ngay lại, đùng đùng đi xuống bếp, xách lên một thùng nước lạnh, hắt thẳng vào mặt Tô Tần.
Tô Tần đang ngủ li bì, thình lình bị té nước lạnh thì rùng mình choàng tỉnh, hai mắt vừa mở ra, thấy tình thế có vẻ bất thường, vội vàng nhắm tịt mắt lại, dụi liền vài cái, rồi lại mở ra, mới chắc chắn là mình đang ở trong nhà, liền ngây người chết lặng.
Một lát sau, Tô Hổ lại chạy vào, trên tay cầm một bộ quần áo mới may, ném đánh vèo xuống giường, gằn giọng quát: “Người đã đến rồi, còn không mau thay quần áo?”
Tô Tần lại càng kinh ngạc, cứ ngỡ đang nằm mơ. Tô Hổ trừng mắt nhìn Tô Đại đang đứng bên cạnh, Tô Đại vội vàng đi tới, khoác áo tân lang lên người cho Tô Tần.
Tô Tần mặt mày ngơ ngác, quay sang hỏi Tô Đại: “Có… có chuyện… chuyện gì vậy?”
Tô Đại nói khẽ: “Anh hai! Chị dâu đã đến ngoài cổng rồi!”
Tô Tần lại càng ngớ ra không hiểu: “Chị… chị dâu? Chị dâu… nhà… nhà ai?”
Trong lúc nói qua nói lại, Tô Đại đã mặc quần áo xong xuôi cho Tô Tần, đội mũ lên đầu hắn, ngắm nghía một lát, cảm thấy đã vừa ý, lúc này mới nói rõ ràng: “Hôm nay là ngày đại hỷ của anh hai. Cha đã hỏi cưới chị dâu cho anh hai, chị dâu đang đợi anh ngoài cổng!”
Tô Tần kinh ngạc đến chết lặng, hai mắt mở trừng trừng nhìn Tô Hổ.
Tô Hổ lừ mắt nhìn lại Tô Tần: “Còn đứng ngây ra đó? Mau đi rửa mặt, rồi ra xe hoa bế tân nương vào nhà!”
Dường như Tô Tần đã hiểu ra chuyện gì, tay chỉ vào Tô Hổ, miệng lắp bắp: “Cha… cha…”
Vừa nói, vừa thẳng tay giật tung bộ trang phục tân lang trên người ra, ném toẹt xuống đất, lại tháo luôn cả mũ đai, vứt sang một bên, rồi nằm vật xuống vùi đầu ngủ.
Ngoài sân, tiếng người cười nói tưng bừng, Ma Cô cười hớn hở đứng giữa sân dóng dả thúc giục: “Ông anh ơi, tân nương đợi sốt ruột lắm rồi, mau gọi tân lang ra đây!”
Lúc này thì Tô Hổ đã cuống quýt thực sự, vội liếc mắt ra hiệu cho Tô Đại. Tô Đại lại chạy đến kéo Tô Tần dậy, song hắn vẫn nằm bẹp dí như đống bùn nhão, liền lắc đầu mà nói: “Cha ơi, xem bộ dạng này, anh hai vẫn chưa tỉnh rượu đâu!”
“Cái gì mà chưa tỉnh! Nó giả vờ đấy!”
Tân lang mãi chưa thấy ra, tiếng kèn trống phèng la bên ngoài mỗi lúc càng dồn dập, tựa như hối thúc. Người đến xem bắt đâu hò hét, tiếng huýt sáo liên tục vang lên.
Đến lúc này, Ma Cô không thể cười tiếp được nữa, lập tức nhảy choi choi chạy vào trong nhà, vừa tìm thấy Tô Hổ đã hét tướng lên: “Tân lang đâu?”
Tô Hổ chỉ tay lên giường.
Ma Cô nhìn thấy bộ dạng của Tô Tần, thì giậm chân cuống quýt: “Cái gì thế này? Tân lang say mèm thế kia, không có ai ra bế tân nương, tân nương sẽ không thể xuống xe! Tân nương không xuống xe, cũng không bái thiên địa, không vào động phòng, biết thu xếp thế nào đây?” Đang rối rít tít mù, khoé mắt chợt liếc thấy Tô Đại, hai hàng lông mày lập tức nhướng lên. “Có cách rồi!”
Tô Hổ vội hỏi: “Cách gì?”
Ma Cô đưa mắt sang Tô Đại: “Cậu ba, mau giúp một tay, mặc quần áo tân lang của anh hai cậu vào, cứ bế tân nương vào trước đã rồi tính tiếp!”
Tô Đại mặt đỏ như gấc, cuống quýt: “Cháu là em chồng, sao có thể chạm vào chị dâu được?”
Ma Cô cười rinh rích mà nói: “Cậu là em chồng, không bế được thì cõng! Chỉ cần cõng vào trong nhà, coi như đã cưới về rồi!”
Tô Đại đang định chối tiếp, thì Tô Hổ quát: “Thằng ranh này cũng muốn chống đối hử? Ma Cô bảo ngươi cõng thì ngươi cõng, nhiều lời làm gì?”
Hết cách, Tô Đại đành phải mặc quần áo tân lang vào, mắm môi mắm lợi theo Ma Cô bước ra sân. Ra đến ngoài cổng, đã thấy phù dâu đỡ tân nương đợi sẵn bên xe. Tô Đại chỉ còn cách ngửa cổ lên trời, nhắm chặt hai mắt, khom lưng cõng chị dâu lên rồi đi thẳng vào trong.
Đến lúc này, mọi người đều đã biết tân lang uống quá chén nên cũng không ai xì xầm gì. Chỉ có điều tân nương không phải được bế mà là được cõng; người cõng tân nương không phải tân lang, mà là em trai tân lang, mọi người từ trước tới nay chưa từng chứng kiến chuyện quái lạ thế này, nên tiếng cười trêu càng thêm ầm ĩ. Đến lúc này, phường đánh trống gõ chiêng, thổi sênh thổi kèn cũng đã hiểu ra, lập tức dốc hết hơi sức mà gõ thổi cật lực, đến tận khi tân nương được đưa đến cửa nhà chính mới thôi.
Tân nương đã vào trong nhà, theo tập tục của đất Chu, tiếp theo sẽ phải bái thiên, địa, tông, thân. Việc này không thể nhờ người khác làm hộ. Ma Cô nghĩ ngợi một lát, rồi ghé sát tai Tô Hổ thì thào. Tô Hổ liền gọi mấy gã thanh niên đến, dặn dò một chặp. Họ đều vui vẻ nhận lời.
Chớp mắt, đám người đã ào đến cạnh giường, xúm xít lại giữ chặt lấy Tô Tần, tay năm tay mười khoác quần áo tân lang lên người hắn, rồi lôi xềnh xệch Tô Tần ra ngoài chính đường.
Ma Cô hô lớn: “Nhất bái thiên địa!”
Phù dâu liền bước tới đỡ lấy tân nương, còn bên này cả đám người nhâu nhâu giữ cứng lấy Tô Tần, cuối cùng cũng coi như bái trời đất được ba lạy.
Ma Cô lại hô: “Nhị bái liệt tổ liệt tông!”
Tô Tần lại bị ấn xuống, bái lạy bài vị tổ tông trên hương án. Sau đó là bái cao đường, chính là phụ mẫu song thân.
Ma Cô tiếp tục cao giọng hô: “Phu thê giao bái!”
Tân nương liền xoay người sang, đối mặt với Tô Tần, cúi người vái dài một lễ. Nhưng Tô Tần gồng cứng thắt lưng, nhất định không chịu cúi, nên lại bị đám người hè nhau ấn xuống.
Thấy ván đã đóng thuyền, Ma Cô bèn nói lớn: “Tân lang, tân nương vào động phòng!”
Tô Tần vẫn đứng trơ trơ tại chỗ, sắc mặt tím bầm, hơi rượu sớm đã bị lửa giận đánh bạt.
Kèn trống, thanh la não bạt lại rộn lên inh ỏi.
Vợ Tô Lệ đang bụng chửa vượt mặt bước đến đỡ lấy tân nương, dìu vào động phòng. Đúng vào lúc này, không biết kẻ nào bỗng kêu ré lên: “Nhìn kìa, tân nương bị thọt!”
Mọi người đều kinh ngạc, đổ dồn mắt nhìn, quả nhiên thấy tân nương bước đi khập khiễng, bèn cười ồ cả lên.
Trong đám người, không biết là ai lớn tiếng châm chọc: “Ha ha, còn gì nữa, hai người họ đúng là một cặp trời sinh!”
Có người nói tiếp: “Đúng đấy! Đúng đấy! Nói lắp lấy chân thọt, đúng là một cặp trời sinh!”
Mọi người lại cười ồ lên cả lượt.
Tô Hổ hai tai nóng ran, đứng đờ ra một hồi lâu mới định thần lại được, giận dữ nhìn Ma Cô, rồi lại quay sang Tô Tần đang đứng thộn ra đó, quát lên như sấm: “Còn đứng đực ra đấy, mau vào động phòng!”
Đám thanh niên giữ chặt lấy Tô Tần đang định đẩy hắn vào động phòng, thì Tô Tần không biết lấy đâu ra sức mạnh gớm ghê, hai tay giằng mạnh một cái, vùng được ra, quay ngoắt người lại, hai mắt trợn trừng nhìn vào Tô Hổ, như muốn tóe lửa đến nơi.
Mọi người thấy vậy, ai cũng sững sờ. Tô Hổ cũng lặng người đi, nhưng rồi lập tức lấy lại tinh thần, cũng hung hãn quắc mắt nhìn trả Tô Tần, quát lớn: “Thằng ranh này, dám trợn mắt nhìn ta ư?” Lời còn chưa dứt, đã bước dấn lên, từng bước áp sát Tô Tần, muốn ép hắn vào động phòng.
Tô Tần vô thức lùi lại, nhưng ánh mắt vẫn không hề nhượng bộ. Trước đây, mặc dù Tô Tần không nghe lời, nhưng chưa bao giờ ngang ngược như lúc này, nhất là trong một sự kiện trọng đại có liên quan đến thể diện của nhà họ Tô. Nghĩ tới những việc mà Tô Tần đã gây ra gần đây, lại thêm thái độ bất chấp thể diện lúc này, Tô Hổ giận điên người, đến nỗi quên phắt luôn hôm nay là ngày đại hỷ của Tô Tần, tiện tay với lấy cây gậy chống cửa, vung lên cao.
Tô Tần không thèm né tránh. Tô Hổ giận đến hai tay run rẩy, lao vọt về phía trước, phang thẳng cánh xuống. Thấy Tô Hổ ra tay thật, anh cả Tô Lệ đứng cạnh Tô Tần vội kéo hắn sang một bên. Tô Hổ đánh hụt, cơ thể mất thăng bằng, cả người bổ nhào về phía trước, chẳng may trán đập trúng mép bàn, lập tức ngã gục xuống đất, máu tươi tuôn xối xả.
Đám người hiếu sự đứng xem thấy sắp xảy ra án mạng, chẳng ai còn dám cười cợt nữa, vội vã xúm vào cứu chữa, trong nhà bỗng chốc náo loạn.
Tô Tần cũng đứng chết trân một hồi lâu, thấy Tô Hổ đã lơ mơ tỉnh lại, mọi người cũng chẳng ai chú ý đến mình, thì chợt nảy ra một ý, lặng lẽ nhích dần ra khỏi nhà, nhân lúc hỗn loạn, lén chuồn ra ngoài.
Tô Tần chạy thẳng đến bến đò, lúc này trời đã tối mịt, không tìm được thuyền, bèn cởi luôn quần áo, nhảy ùm xuống Y Thuỷ, bơi qua sông, chạy thẳng đến Lạc Dương.
Khi Tô Tần vào được vương thành, đã đến giờ Nhân định. Tìm về ngõ Quý Nhân Cư, đến khu nhà trọ của Trương Nghi, nhưng gõ cửa hồi lâu mà chẳng có ai trả lời. Tô Tần lo lắng, gọi liên hồi “Hiền đệ! Tiểu Thuận!” Nhưng chẳng thấy động tĩnh gì.
Đến lúc này, Tô Tần mới để ý trên cánh cổng đã có thêm một ổ khoá đồng lạnh lẽo. Tô Tần hết sức băn khoăn, bèn chạy đi tìm chủ nhà trọ, lại gõ cửa một hồi. Có lẽ do trời quá nóng, chủ nhà trọ vẫn chưa ngủ say, nghe tiếng động, bèn ra mở cửa. Nhìn thấy Tô Tần, vội vòng tay hành lễ mà nói: “Là Tô sĩ tử ư? Muộn thế này rồi mà cậu còn chưa nghỉ?”
Tô Tần cũng vòng tay đáp lễ: “Xin hỏi… ông… ông chủ, Trương… Trương sĩ tử… đã… đã… đã đi đâu… đâu rồi?”
“Trương sĩ tử nhận được thư nhà, nói rằng mẫu thân bệnh tình nguy ngập, nên đã đi về ngay trong đêm!”
Tô Tần giật thót mình, thầm nghĩ trong bụng: “Xem ra, lời của vị tiên sinh kia quả thật linh nghiệm. Đại hỷ thì ta đã gặp. Mẫu thân của hiền đệ bệnh nguy, nếu theo lời tiên sinh, chỉ e rằng lành ít dữ nhiều! Không được, ta đã kết nghĩa kim lan cùng hiền đệ, mẹ của hiền đệ cũng là mẹ của ta, ta phải đi thăm mới phải!”
Nghĩ đến đây, Tô Tần liền ôm quyền hỏi: “Xin… xin hỏi, nhà… nhà của Trương… Trương sĩ… sĩ tử ở… ở đâu?”
“Nghe Tiểu Thuận nói là ở Thiếu Lương, Hà Tây, còn cụ thể ở đâu, tại hạ cũng không biết rõ!”
Trương Nghi ở Hà Tây, Tô Tần đã biết từ trước. Thấy ông chủ cũng không biết cụ thể ở đâu, bèn vái mà nói: “Đa… đa tạ!”
Chủ nhà trọ tiện miệng hỏi: “Muộn thế này rồi, Tô sĩ tử định nghỉ đêm ở đâu?”
Tô Tần lộ vẻ lúng túng: “Ờ… ờ…”
Ông chủ không nói gì, chỉ rút ra từ trong tay áo ra chiếc chìa khoá đồng, đưa cho Tô Tần mà nói: “Đây là chìa khoá mà Trương sĩ tử đã trả lại, cậu hãy tới đó ngủ tạm, đến sáng mai mang trả là được!”
Tô Tần nhận lấy chìa khoá, ôm quyền cảm tạ, rồi lại vào căn phòng chái phía tây, nằm ngủ trên chiếc giường trước đây của mình.
Sáng sớm hôm sau, Tô Tần trả chìa khoá, thấy trong túi còn mười mấy xu tiền đồng, nghĩ là của Trương Nghi cho, liền đi ra phố mua một ít lương khô và mấy đôi giày cỏ, chuẩn bị đi Hà Tây, một là thăm Trương Nghi, hai là chạy trốn thật xa khỏi thôn Hiên Lý. Ngôi nhà xưa, quả thực không thể trở về được nữa.
Tô Tần gói ghém lương khô, đang định lên đường, đột nhiên lại nhớ đến cầm sư. Dạo trước học cung đã bị giải tán, cầm sư rảnh rỗi nên đã chỉ bảo Tô Tần rất nhiều, còn đích thân dạy hắn đánh đàn. Lần này ra đi, không biết khi nào mới trở lại, cũng nên đến từ biệt mới phải. Nghĩ như vậy, Tô Tần lại dừng bước, quay người đi thẳng đến nhà Thái học.
Đang đi, chợt thấy phía trước có một cỗ xe kiệu tiến lại. Con đường khá hẹp nên Tô Tần vội vàng tránh sang một bên nhường đường. Không ngờ cỗ xe vừa đi qua, bỗng dừng khựng lại. Tô Tần đang cảm thấy quái lạ, thì trên xe có tiếng người gọi vọng xuống: “Tô sĩ tử…”
Tô Tần ngạc nhiên, vội ngoảnh lại nhìn, thì thấy người vừa gọi chính là cầm sư. Tô Tần vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, vội vàng bước lại vái một vái thật dài: “Vãn… vãn sinh Tô… Tô Tần… khấu… khấu kiến… tiên… tiên sinh!”
Cầm sư chậm rãi bước xuống xe đáp lễ, trông dáng vẻ rất đỗi bi thương: “Lão hủ xin chào sĩ tử!”
Thấy cầm sư hai mắt đỏ mọng, Tô Tần vô cùng kinh ngạc: “Xin hỏi… tiên… tiên sinh, có… có chuyện gì… mà… mà đau buồn… buồn vậy?”
Cầm sư đưa tay gạt nước mắt, lắc đầu nói: “Hiếp người quá đáng, thật là hiếp người quá đáng!”
Tô Tần vội hỏi: “Ai… ai ức hiếp… tiên… tiên sinh?”
“Không phải là ức hiếp thân già này, mà là ức hiếp Chu thiên tử!”
Tô Tần càng kinh ngạc hơn: “Ai… ai… ức hiếp… Chu… Chu thiên… thiên tử?”
“Than ôi!” Cầm sư than thở. “Lần trước Tần, Ngụy đến cầu hôn, ép Chu thiên tử phải gả Tuyết công chúa đến nước Yên xa xôi. Lần này người Tần lại đến đóng quân ở Lạc Thuỷ, tiếp tục bức bách, ép gả Vũ công chúa. Nương nương vốn mắc bệnh, không chịu đựng nổi nỗi đau lòng, đêm qua đã tạ thế rồi. Vũ công chúa không cam chịu bức bách, bỏ trốn khỏi cung, đến nay sống chết thế nào chưa rõ…”
Lời của cầm sư khiến Tô Tần nghe mà bàng hoàng kinh hãi, trợn mắt há miệng, một lúc sau mới thốt được nên lời: “Nương… nương nương… tạ thế? Vũ… Vũ công chúa… bỏ… bỏ trốn?”
Cầm sư liên tiếp lắc đầu: “Đau đớn thay! Đau đớn thay! Đường đường là Đại Chu, lại để đám man di uy hiếp bức bách, nước mất nhà tan, vợ con ly tán. Lý trời ở đâu? Lý trời ở đâu?” Nói rồi rầu rĩ nhỏ lệ, khóc không thành tiếng.
Tô Tần cuối cùng cũng đã bừng hiểu, thì ra quân Tần đóng trại ở Lạc Thuỷ là vì muốn bức hôn Vũ công chúa! Nghĩ đến Tuyết công chúa phải gả cho nước Yên xa xôi, Vũ công chúa lại chạy trốn hôn sự, xem ra trong thiên hạ này, cho dù là thiên tử công chúa cũng chẳng có được chút tự do. Lại nghĩ đến việc mình cũng phải bỏ nhà trốn hôn sự, Tô Tần đồng bệnh tương liên, bất giác cũng thấy chua xót trong lòng, nhỏ lệ khóc theo cầm sư.
Một lúc sau, Tô Tần ngẩng đầu lên hỏi: “Tiên… tiên sinh, Vũ… Vũ công chúa đi… đi rồi, người… người Tần có… chịu… chịu bỏ… bỏ qua không?”
Cầm sư đưa tay áo lau nước mắt, thở dài mà nói: “Vương thất Đại Chu, người mất thì đã mất, người đi thì đã đi, họ không chịu bỏ qua, thì cũng làm được gì nữa? Lúc nãy, lão hủ nhận được tin, đám người Tần kia đã tự nhổ trại, lặng lẽ rút về rồi!”
Tô Tần cũng thấy yên tâm phần nào, nhìn cầm sư mà nói: “Tiên… tiên sinh, còn ông… ông…”
Cầm sư nghẹn ngào nói: “Lúc nãy cung chính truyền gọi ta vào, muốn lão hủ gảy một khúc nhạc cho linh hồn nương nương được an nghỉ! Than ôi, nương nương thích nghe lão hủ gảy đàn, nên đã mời ta làm cầm sư trong cung, còn nhờ ta dạy hai công chúa học đàn. Không ngờ hôm nay gảy đàn, lại là để… vĩnh biệt!”
Tô Tần căm giận nói: “Người… người Tần… thực… thực là… đáng… đáng hận!”
Cầm sư lại đưa tay áo gạt nước mắt, lắc đầu than thở: “Than ôi, thế đạo như vậy, còn biết làm sao?” Rồi vòng tay hành lễ, nói. “Lão hủ xin cáo từ tại đây, giờ vào cung để vĩnh biệt nương nương!”
Tô Tần đáp lễ: “Tiên… tiên sinh đi… đi cẩn thận!
Cầm sư bước lên xe, đang định đi thì Tô Tần sực nhớ ra một chuyện, vội đuổi theo hỏi: “Xin… xin hỏi… tiên sinh, có biết… nhà… nhà Trương… Trương sĩ tử… ở đâu… đâu không?”
Cầm sư ngẫm nghĩ một lát: “Theo như viết trong danh sách, thì ở phía đông Thiếu Lương, Hà Tây, nơi đó gọi là Trương Ấp!”
“Đa… đa tạ… tiên… tiên sinh!”
Cầm sư vỗ trán, lại nói: “Hồ đồ, hồ đồ, đúng là già hoá hồ đồ rồi! Lúc nãy gọi sĩ tử, là vì có một chuyện quan trọng, mà suýt chút nữa quên mất!”
Nghe nói có chuyện quan trọng, Tô Tần rất ngạc nhiên, đang băn khoăn thì cầm sư lấy từ trong ngực áo ra một chiếc túi gấm, đưa cho Tô Tần: “Có người nhờ lão hủ đưa vật này cho sĩ tử!”
Tô Tần vội vàng mở túi, lấy từ bên trong ra một vuông lụa. Trên vuông lụa chỉ vỏn vẹn một bài khẩu quyết: “Muốn chữa nói lắp, ca hát ngâm vịnh. Muốn trị tận gốc, đến núi Vân Mộng”.
Tô Tần thấy là phương pháp chữa tật nói lắp thì trong lòng mừng rỡ. Bao nhiêu năm nay, khiến Tô Tần phiền não nhất cũng là điều này, đột nhiên có người nói có thể chữa trị tận gốc, há chẳng vui mừng tột độ?
Tô Tần gói túi gấm lại, vòng tay vái cầm sư, rồi hỏi: “Xin… xin hỏi… tiên… tiên sinh…, là… là ai… ai đã gửi… gửi túi… túi này?”
Cầm sư nhìn Tô Tần với ánh mắt buồn rầu, một lúc sau mới lắc đầu than thở: “Than ôi, là thời, là vận! Tô sĩ tử đã có cơ duyên này, lão hủ xin chúc mừng!”
Tô Tần rất đỗi ngạc nhiên: “Cơ… cơ duyên? Chúc… chúc… chúc mừng? Sao… sao tiên sinh lại… lại nói vậy?”
Cầm sư không trả lời, chỉ thở dài hai tiếng rồi ra roi đi mất.
Tô Tần tay cầm túi gấm, đứng trơ ra như khúc gỗ, vẻ mặt ngẩn ngơ.
***
Lại nói Tiểu Thuận đọc xong thư của Trương bá, bèn đưa Trương Nghi lên xe ngựa, đi theo đường Hào Quan, Hàm Cốc, Âm Tấn, gấp rút chạy thẳng về Thiếu Lương. Trương Nghi ngủ vùi đến tận hôm sau mới tỉnh rượu, lấy thư của Trương bá ra đọc lại một lượt, lại khóc lóc một trận, thúc giục Tiểu Thuận đi nhanh hơn nữa. Tiểu Thuận ra roi đánh ngựa, đi suốt ngày đêm, vì đường núi nơi cửa ải Hàm Cốc khó đi, trên đường lại gặp mưa lớn, sức ngựa cũng không đủ, nên phải đi suốt bảy ngày trời mới về đến nhà.
Xe ngựa dừng trước cổng nhà họ Trương. Trương Nghi vội vàng nhảy phắt xuống xe, chạy thẳng vào trong cổng.
Nhưng vừa lao đến cổng, đã bị một gã lính Tần lăm lăm thương nhọn chụp ngay lấy cổ áo, giật mạnh về phía sau. Trương Nghi không kịp đề phòng, ngã đánh huỵch xuống đất.
Trương Nghi lập tức bò dậy, lúc này mới nhìn rõ có hai tên lính Tần đứng ở hai bên cổng, bèn giận dữ mà nói: “Tại sao các ngươi lại ở đây? Tại sao không cho ta vào?”
Một tên lính trừng mắt quát: “Ta còn chưa hỏi ngươi, sao ngươi đã dám lớn tiếng? Không mở to mắt ra xem đây là nơi nào?”
Trương Nghi ngước nhìn lên, thấy tấm biển trên cổng thù lù một hàng chữ lớn: “Phủ Thôi đại phu nước Đại Tần”.
Trương Nghi nổi giận: “Quan đại phu cái gì? Đây là nhà ta!”
Hai tên lính đều ngạc nhiên, đưa mắt nhìn nhau. Rồi một tên hỏi: “Ngươi là ai?”
“Ta họ Trương tên Nghi, đến nước Chu cầu học, nhận được tin mẹ già bệnh nặng nên trở về nhà thăm!”
Tên lính đã hiểu ra, liền gật gù nói: “Ồ, hiểu rồi, hiểu rồi, thì ra ngươi chính là tên tiểu tử nhà họ Trương! Này tiểu tử, báo cho ngươi biết, hai mươi ngày trước nơi đây đã thành phủ quan đại phu, không còn là nhà của ngươi nữa!”
Trương Nghi nổi cơn thịnh nộ, lớn tiếng quát: “Các ngươi là quân cường đạo, tại sao lại cướp nhà ta?”
Tên lính nhếch mép cười nhạt: “Cướp nhà của ngươi? Ta cho ngươi biết, đất này vốn là của người Tần! Chúa công của ta đã xác thực, gia tộc ngươi vốn ở An Ấp, sáu mươi năm trước, ông nội của ngươi là Trương Viêm đã đi theo quân cường đạo Ngô Khởi chiếm đoạt Hà Tây, rồi dựng nhà ở ấp này. Xét thấy Trương Viêm chỉ là kẻ tuỳ tùng trong trướng, không có nợ máu, nên chúa công ta mới ra ơn giữ lại cái mạng sống cho già trẻ nhà ngươi. Còn về tài sản ruộng vườn, tịch biên toàn bộ. Nếu ngươi biết điều, hãy mau cút về An Ấp!”
Trương Nghi giận dữ tột độ, định lao lên lý luận tiếp, nhưng Tiểu Thuận đã vội ngăn lại, sống chết giữ chặt lấy Trương Nghi, rồi vòng tay hỏi: “Xin hỏi quân gia, lão phu nhân hiện giờ ở đâu?”
Tên lính chỉ về một căn nhà thấp lè tè, vốn là chỗ ở của gia nô, nằm ở mé trái cách đó không xa: “Các ngươi tới đó xem sao!”
Tiểu Thuận hai tay ghì chặt Trương Nghi, quay người đi về phía xe ngựa, đang định gọi ngựa, thì một tên lính Tần quát với theo: “Hai người khoan hãy đi!”
Hai người bèn dừng bước.
Tên lính đi thẳng đến, liếc nhìn cỗ xe ngựa của Tiểu Thuận: “Cỗ xe này phải chăng là của nhà các ngươi?”
Trương Nghi gân cổ nói lớn: “Đương nhiên là của nhà ta rồi!
“Đã là tài sản của nhà các ngươi, thì phải tịch thu!” Lời vừa nói dứt, gã liền gọi tên lính kia lại, không thèm nói thêm một lời, lập tức kéo dây cương ngựa, giật lấy chiếc roi trên tay Tiểu Thuận, rồi đánh luôn vào trong sân.
Tiểu Thuận cuống quýt, nhảy dựng lên định đoạt lại, thì Trương Nghi đã lạnh lùng quát lên: “Để chúng lấy đi!”
Tiểu Thuận hậm hực giậm chân bình bịch, rồi quay người cùng Trương Nghi đi về phía căn nhà nhỏ. Khi đi tới gần, đã có người nhận ra Trương Nghi, bèn ra dẫn họ đến một khu nhà đổ nát xiêu vẹo. Tiểu Thuận gõ cửa, lão quản gia vừa ra mở cửa, nhìn thấy Trương Nghi, chẳng kịp cả hành lễ, vội giục rối rít: “Thiếu gia, mau lên!”
Trương Nghi nghẹn ngào hỏi: “Trương bá, mẹ ta đâu?”
“Nhanh lên, phu nhân đang ở trong phòng, đang đợi thiếu gia!”
Trương Nghi lao thẳng vào trong sân, khóc lớn: “Mẹ ơi, Nghi Nhi về rồi đây! Mẹ…” Chỉ vài bước đã chạy vào trong nhà, một tỳ nữ vội dẫn Trương Nghi vào trong.
Đây là một khu nhà tồi tàn đến mức không thể tồi tàn hơn được nữa, còn không xứng là chỗ ở cho người hầu. Tất cả đều lợp cỏ, trên nóc nhà chính đã thủng một lỗ toang hoác, ánh nắng xuyên qua lỗ hổng, chiếu thẳng vào trong, khiến cả gian phòng sáng trưng. Trên giường đất sát tường, Trương phu nhân đang nằm trên chiếu cỏ, hơi thở chỉ còn thoi thóp.
Nghe thấy tiếng gọi của Trương Nghi, Trương phu nhân khó nhọc ngồi dậy nhờ sự nâng đỡ của tỳ nữ, cất giọng yếu ớt, run rẩy gọi: “Nghi Nhi…”
Trương Nghi gấp gáp chạy lao lại, sụp xuống trước giường, gục đầu vào lòng Trương phu nhân, khóc gọi: “Mẹ, mẹ ơi!”
Trương phu nhân gắng gượng vươn cánh tay ra, run rẩy xoa lên đầu Trương Nghi: “Nghi Nhi, con… cuối cùng con cũng đã… trở về!”
Trương Nghi khóc không thành tiếng: “Mẹ, Nghi Nhi bất hiếu, đã về chậm, mẹ ơi…”
“Nghi Nhi, mẹ không trách con, là mẹ… không cho con về!”
Trương Nghi vội vàng đứng dậy, dìu mẹ nằm xuống giường, hai tay nắm chặt đôi tay run rẩy của mẹ.
Trương phu nhân hai mắt nhìn Trương Nghi đăm đăm, một lúc lâu sau mới cất giọng yếu ớt: “Nghi Nhi, mấy hôm nay, cha con ngày nào cũng về, giục mẹ lên đường. Nhưng mẹ còn quyến luyến con nên không chịu đi, chỉ muốn… chỉ muốn nhìn thấy con lần cuối. Giờ mẹ đã gặp con, mẹ đã… mãn nguyện rồi!” Nói xong, nở một nụ cười toại nguyện.
Trương Nghi gục đầu vào lòng Trương phu nhân, nước mắt đầm đìa, liên tục gọi mẹ.
Trương phu nhân gượng vươn tay ra, chỉ xuống dưới gối. Trương Nghi vội thò tay vào, sờ thấy một bọc vải, bèn lấy mở ra, thấy bên trong có mười đĩnh vàng.
Giọng của Trương phu nhân chỉ còn thều thào: “Nghi Nhi, tất cả đều… mất hết, mẹ chỉ… giữ lại… được… một chút đó thôi. Đoạn đường sau này, con… con hãy tự mình… bước tiếp!”
Trương Nghi khóc thảm thiết: “Mẹ ơi…”
Trương phu nhân thở hắt ra mấy hơi, giọng ngắt quãng: “Nghi Nhi, tiết… kiệm, tiến…”
Từ “thủ” còn chưa kịp nói ra, Trương phu nhân đã ngoẹo đầu, tắt thở.
Trương Nghi gào lên xé họng: “Mẹ ơi!”
Ba người hầu nhất tề quỳ sụp xuống, khóc lóc ai oán: “Lão phu nhân…”
Khóc lóc một hồi lâu, Trương Nghi gượng nín, giao toàn bộ số tiền vàng Trương phu nhân để lại cho Trương bá, dặn dò ông lo chuyện hậu sự cho mẹ. Trương bá mua một cỗ quan tài gỗ tốt, may tang phục, các đồ tống táng và một tấm bia đá. Trương Nghi và đám người hầu theo đúng tập tục, canh bên linh cữu ba ngày, rồi đào huyệt mộ của tiên phụ lên, hợp táng cha mẹ cùng một chỗ.
Sau khi chôn cất mẫu thân xong xuôi, Trương Nghi và đám người hầu quỳ trước mộ, bái lạy vài lạy. Lạy xong, Trương Nghi từ từ quay sang, nói với mấy người hầu: “Trương bá, các người hãy lại đây!”
Mấy người đứng lên, cùng băn khoăn nhìn Trương Nghi.
Trương Nghi đưa mắt nhìn Trương bá: “Còn tiền không?”
Trương bá móc lấy túi tiền từ trong tay áo, đổ xuống đất đếm, còn lại ba lượng vàng và mấy chục đồng tiền bố. Trương Nghi liếc mắt nhìn qua, rồi quay sang nói với Tiểu Thuận: “Tên tiểu tử kia, trên người còn bao nhiêu tiền?”
Tiểu Thuận cũng móc túi tiền từ trong ngực áo ra, đổ xuống đất đếm, tổng cộng còn hai lượng vàng và mấy chục đồng tiền bố. Trương Nghi cũng lấy từ trong tay áo ra hai lượng vàng và mấy đồng tiền, ném cả xuống đất. Mọi người cảm thấy khó hiểu, ai nấy đều ngơ ngác nhìn Trương Nghi.
Trương Nghi từ từ quỳ xuống, nhặt lấy một đĩnh vàng trong số ba đĩnh mà Trương bá đã bỏ ra, rồi gộp tất cả số tiền còn lại vào làm một, khẽ giọng nói: “Mẹ ta bỏ cả tính mạng để giữ lại mười lượng vàng, lo tang lễ hết bảy lượng, còn lại ba lượng, tất cả đều ở đây. Ta lấy một lượng này, lúc nào nhớ đến mẹ, ta sẽ nhìn nó!” Nói đoạn, liền nhét đĩnh vàng vào trong tay áo.
Những hành động nãy giờ và lời nói không đầu không cuối của Trương Nghi khiến ba người hầu một già hai trẻ đều khó hiểu, tròn xoe mắt, ngơ ngác nhìn Trương Nghi.
Trương Nghi chỉ vào sáu đĩnh vàng và gần trăm đồng tiền bố còn lại, chậm rãi nói: “Mọi người cũng đã thấy cả rồi, trừ đi đĩnh vàng vừa nãy, tất cả tài sản của nhà họ Trương, toàn bộ đều ở đây. Trương bá, Tiểu Thuận, Tiểu Thuý, nhà họ Trương đã lụn bại, Trương Nghi bất tài, không thể nuôi sống được mọi người, xin mọi người hãy tự tìm đường sống. Ở đây có sáu lượng vàng, mỗi người hãy nhận hai lượng, lấy đó làm vốn mưu sinh. Còn lại đám tiền bố, ta tặng cho Tiểu Thuận. Thường ngày bản thiếu gia hay đánh mắng ngươi, chút tiền nhỏ nhoi này, coi như để bù đắp cho ngươi!”
Ba người hầu chưa kịp định thần, vẫn giương mắt nhìn Trương Nghi chằm chằm.
Trương Nghi thở dài một tiếng, tiếp tục nói: “Nhà họ Trương gặp nạn, mấy chục người hầu, kẻ thì bỏ đi, kẻ thì theo người Tần, chỉ còn lại ba người niệm tình không đi, ân đức này, không phải hai lượng vàng kia có thể báo đáp. Trương Nghi khẩn cầu ba vị hãy nhận của Nghi một lạy!”
Nói đoạn, quỳ sụp luôn xuống đất, chậm rãi dập đầu.
Đến lúc này, ba người mới bừng tỉnh, hiểu rõ đầu đuôi. Trương bá vội đỡ Trương Nghi đứng dậy, rồi quỳ xuống, khóc mà nói: “Thiếu gia, không được làm vậy, thiếu gia, tuyệt đối không được làm vậy!”
Tiểu Thuận, Tiểu Thuý cũng đều quỳ cả xuống. Tiểu Thuận khóc nức nở mà nói: “Thiếu gia, tiểu nhân không cha không mẹ, từ nhỏ đã đi theo thiếu gia. Không có thiếu gia, tiểu nhân… thực không biết sống ra sao, thiếu gia!”
Tỳ nữ Tiểu Thuý cũng khóc mà nói: “Thiếu gia, nô tỳ cũng không có nơi nào để đi, nô tỳ nguyện cả đời này hầu hạ thiếu gia, nguyện gấp chăn trải giường, nấu cơm giặt giũ cho thiếu gia, chỉ xin thiếu gia đừng đuổi nô tỳ đi…” Nói rồi dập đầu liên tiếp, khóc oà lên nức nở.
Trương Nghi cũng đưa tay gạt lệ, song lời nói rất mực quyết đoán: “Không cần nói nữa, trong thiên hạ làm gì có bữa tiệc nào không tàn. Nhà họ Trương đã lụn bại, Trương Nghi cũng chẳng còn cách nào khác, đành phải khẩn cầu mọi người hãy tự tìm lấy đường mưu sinh!”
Nghe vậy, Trương bá từ từ ngẩng đầu lên: “Thiếu gia, lão nô hiểu rồi, lão nô sẽ đi. Có điều số tiền này, lão nô không thể nhận. Lão nô mệnh hèn, kiểu gì cũng sống được. Thế nhưng thiếu gia không thể một ngày không có tiền!”
Tiểu Thuận, Tiểu Thuý nghe thấy Trương bá nói vậy, biết rằng không thể nài nỉ thêm, cùng khóc mà đồng thanh nói: “Thiếu gia, chúng tôi sẽ đi, chúng tôi không cần vàng!”
Trương Nghi nước mắt ròng ròng, nghẹn ngào nói: “Các người không cầm, lẽ nào vì chê ít? Nhưng bây giờ… Trương Nghi chỉ còn lại chừng đó, Trương Nghi không còn cách nào khác, đành phải quỳ xuống cầu xin mọi người vậy!” Nói đoạn, lại chuẩn bị quỳ xuống.
Trương bá vội vàng ngăn lại, đưa mắt cho Tiểu Thuý, Tiểu Thuận, rồi đưa tay cầm lấy hai đĩnh vàng trước. Hai người kia thấy vậy, đành phải nuốt nước mắt, mỗi người lấy hai đĩnh vàng, quay sang lạy Trương Nghi ba lạy, rồi lại quay sang mộ lạy bốn lạy, cùng khóc lóc mà rời đi.
Trương Nghi gọi Tiểu Thuận lại: “Tiểu Thuận, sao không cầm số tiền bố này?”
Tiểu Thuận khóc mà nói: “Thiếu gia, tiểu nhân không thể cầm được!”
“Tại sao không thể cầm?”
“Mặc dù thiếu gia nói đã đánh, mắng tiểu nhân, nhưng trong lòng thiếu gia luôn nghĩ đến tiểu nhân. Tiểu nhân…” Tiểu Thuận càng nói càng đau lòng, lại đưa tay lau nước mắt, “tiểu nhân sẵn lòng nghe thiếu gia mắng, để thiếu gia đánh, tiểu nhân…” Rồi nấc nghẹn nói không thành tiếng.
Nghe thấy Tiểu Thuận nói vậy, Trương bá, Tiểu Thuý đều quay mặt đi gạt nước mắt.
Trương Nghi cũng cảm động trong lòng, gượng nuốt nước mắt, gật đầu nói: “Đến lúc này rồi, ngươi vẫn còn nhớ đến bản thiếu gia, bản thiếu gia thật không đành lòng. Được rồi, ta sẽ nhận số tiền này, tạm coi như vay ngươi. Nếu có một ngày, bản thiếu gia có thể gây dựng lại sự nghiệp, cứ mỗi đồng tiền, sẽ trả lại cho ngươi mười lượng vàng!”
Ba người cùng từ biệt lần cuối. Trương Nghi đứng nhìn theo bóng họ xa dần, khuất sau Trương Ấp phía xa, lúc này mới quay người lại, quỳ xuống trước mộ cha mẹ.

Trương bá, Tiểu Thuận trở về căn nhà rách nát, mỗi người tìm lấy một tảng đá ngồi xuống. Một lúc sau, Tiểu Thuý đã gói ghém xong đồ đạc, xách lên tay, đi ra khỏi nhà.
Trương bá nhìn Tiểu Thuận và Tiểu Thuý, chậm rãi hỏi: “Hai người các ngươi có dự định gì chăng?”
Tiểu Thuận nhìn Tiểu Thuý, Tiểu Thuý nhìn Tiểu Thuận, hai người đều hoang mang lắc đầu. Tiểu Thuý nâng tay áo lên lau nước mắt.
Trương bá thở dài một tiếng rồi nói: “Tiểu Thuận, Tiểu Thuý, các ngươi lại đây!”
Tiểu Thuận, Tiểu Thuý bước đến, quỳ xuống trước mặt Trương bá.
Trương bá đưa hai tay ra, mỗi tay sờ vào một cái đầu: “Năm xưa, hai ngươi không cha không mẹ, bị cắm rơm lên người mang đi bán, Trương bá thấy đáng thương, nên mới lấy tiền của ông chủ mua hai ngươi về. Năm đó Tiểu Thuận bảy tuổi, Tiểu Thúy năm tuổi, Trương bá đây đã tận mắt nhìn các ngươi lớn lên từng ngày. Sự việc đã đến ngày hôm nay, Trương bá đây… than ôi, thực không biết phải nói sao! Trương bá chỉ có một câu, nếu các ngươi muốn nghe, thì ta sẽ nói!”
Hai người cùng chảy nước mắt, nhìn Trương bá, cùng gật đầu.
“Tiểu Thuý năm nay mười bảy, Tiểu Thuận cũng trạc đôi mươi, cả hai đều đã đến tuổi dựng vợ gả chồng. Trương bá nghĩ, các ngươi đều cùng mệnh khổ, lại lớn lên cùng nhau, rất thấu hiểu nhau, có thể xem là một cặp. Trương bá có ý tác hợp cho hai ngươi nên duyên trăm năm, ngày sau sẽ cùng nương tựa vào nhau mà sống. Đây là tâm tư của Trương bá, không biết hai ngươi nghĩ thế nào?”
Tiểu Thuý xấu hổ đỏ bừng mặt, đầu cúi gằm không nói được lời nào. Còn Tiểu Thuận trong lòng mừng rỡ, lập tức khấu đầu lạy Trương bá ba lạy: “Tiểu Thuận tạ ơn Trương bá đã tác thành!”
“Tiểu Thuý! Tiểu Thuận đã đồng ý, còn ngươi thì sao?”
Tiểu Thuý càng cúi đầu thấp hơn, nói lí nhí: “Thuý Nhi xin để Trương bá làm chủ!”
“Tốt, hai người đều đã đồng ý, Trương bá sẽ làm chủ hôn cho các ngươi. Nào, ngay bây giờ hãy bái thiên địa!”
Hai người nhìn nhau, rồi lại cùng quay sang nhìn Trương bá. Tiểu Thuận hỏi: “Trương bá, bái thế nào đây?”
Trương bá chỉ về bãi trống phía trước: “Đã là bái trời đất, thì hãy quỳ xuống chỗ đó, rồi nghe theo lời Trương bá!”
Hai người đứng dậy, đi ra giữa sân rồi cùng quỳ xuống.
Trương bá cao giọng hô lớn: “Nhất bái thiên địa, lần lượt theo thứ tự bắc, đông, nam, tây, mỗi hướng lạy ba lạy.”
Tiểu Thuận, Tiểu Thuý cùng lạy mỗi hướng ba lạy.
Trương bá lại hô: “Nhị bái cao đường!”
Hai chữ “cao đường” vừa thốt ra, Trương bá liền khựng ngay lại mà rơi nước mắt. Tiểu Thuận nhanh trí, liền kéo tay Tiểu Thuý, quỳ xuống trước mặt Trương bá rồi lạy liền ba lạy.
Trương bá đưa tay lau nước mắt, gật đầu nói: “Tốt lắm! Mấy lạy này của các ngươi, Trương bá sẽ nhận! Tiếp theo, phu thê giao bái!”
Tiểu Thuận, Tiểu Thuý cùng bái nhau ba lạy.
“Tốt rồi!” Trương bá nhìn hai người với ánh mắt hiền từ, mỉm cười nói. “Từ ngày hôm nay, hai ngươi đã là vợ chồng, Trương bá chúc mừng hai ngươi!”
Hai người đứng dậy, đi tới trước mặt Trương bá, nghẹn ngào nói: “Tạ ơn Trương bá đã tác thành!”
Trương bá cười phấn khởi: “Tiếp theo, các con dự định đi đâu?”
Tiểu Thuận, Tiểu Thuý đưa mắt nhìn nhau, rồi hoang mang lắc đầu.
Trương bá chậm rãi nói: “Quê Trương bá ở Khúc Ốc, Hà Đông, gọi là thôn Trương Gia, ở ngoại ô phía tây. Trong nhà còn mấy mẫu ruộng, mấy gian nhà nát. Nếu hai vợ chồng ngươi không chê, có thể đến đó an thân.” Nói đoạn, lấy ra một miếng ngọc quyết(3) từ trong ngực áo, đưa cho Tiểu Thuý. “Tiểu Thuý, Trương bá nhận con làm con gái, từ ngày hôm nay con sẽ mang họ Trương, là Trương Tiểu Thuý, còn Tiểu Thuận là con rể. Người trong tộc thấy miếng ngọc này, chắc chắn sẽ tiếp nhận hai con!”
Tiểu Thuý quỳ sụp xuống trước mặt Trương bá, khóc lớn mà gọi: “Cha ơi…”
Tiểu Thuận cũng rơm rớm nước mắt, ngẩng đầu nói: “Cha, chúng ta hãy cùng trở về! Từ hôm nay, con và Thuý Nhi sẽ phụng dưỡng cha!”
Trương bá mỉm cười: “Được rồi, các con hãy trở về trước, ta còn có chút việc riêng với nhà họ Trương, phải đi một chuyến!”
Tiểu Thuý hỏi: “Cha, cha định đi đâu?”
Trương bá ngẩng đầu nhìn trời hồi lâu, rồi chậm rãi nói: “Là một nơi rất xa, nhất thời không thể trở về ngay được. Hai con đừng băn khoăn nữa, nhân lúc trời còn chưa tối, hãy nhanh chóng lên đường!”
Hai vợ chồng gật đầu, rồi lạy Trương bá mấy lạy, tay trong tay ngậm ngùi gạt lệ, bước ra khỏi cổng.
Trương bá tiễn ra ngoài cổng, nhìn hút theo đến khi hai người chỉ còn là hai chấm đen nhỏ xíu, mới thở dài một tiếng, quay người đi vào, khép cổng gỗ lại, bước vào trong nhà. Rồi đóng chặt cửa, lấy hai đĩnh vàng từ trong ngực áo ra, tìm một mảnh vải trắng gói lại, cắn rách ngón tay lấy máu, viết lên vài chữ: “Thiếu gia bảo trọng, lão nô đi đây”. Rồi mang đặt lên mặt bàn.

Một người đàn bà trung niên dẫn đường cho Tô Tần, khó khăn lắm mới tìm được đến đây, vòng vèo tìm kiếm một hồi, rồi đi lại gần gian nhà dột nát kia. Người đàn bà chỉ vào trong nhà, nói: “Đó, người nhà Trương thiếu gia ở trong căn nhà đó!”
Tô Tần vòng tay vái dài, kéo dài giọng, ngân nga nói lớn: “Đa tạ đại tẩu!”
Người đàn bà nghe vậy, thấy vui lòng, bèn gọi vọng vào trong cổng: “Trương bá, có khách quý đến chơi!”
Không có tiếng trả lời.
Người đàn bà lại gọi: “Trương thiếu gia, có nhà không?”
Vẫn không có tiếng trả lời.
Người đàn bà nhìn Tô Tần, cười nói: “Họ không có nhà, chắc là ra mộ Trương phu nhân rồi. Cậu hãy vào trong sân ngồi đợi một lát, tôi ra ngoài mộ tìm Trương thiếu gia!”
Nói xong liền mở cổng, dẫn Tô Tần vào trong, đi thẳng vào nhà chính.
Người đàn bà vừa đẩy nhẹ, cánh cửa đã mở ra. Vừa bước qua ngưỡng cửa, chị ta bỗng rú lên khiếp đảm, mặt cắt không còn giọt máu, nhảy ra ôm chặt lấy Tô Tần: “Ôi cha mẹ ơi!”
Tô Tần vội bước lên nhìn, thì thấy một ông già cổ tròng vào sợi thừng cỏ, treo lủng lẳng trên xà nhà. Tô Tần nhảy vọt tới như một mũi tên, một tay đỡ lấy ông lão, một tay tháo vội nút thừng, hạ ông xuống dưới đất, rồi đặt tay trước mũi xem thử, thấy đã tắt thở tự bao giờ.

Trên khu mộ của nhà họ Trương, bên cạnh ngôi mộ của Trương phu nhân, lại có thêm một ngôi mộ mới đắp.
Trương Nghi, Tô Tần cùng quỳ xuống trước mộ, mỗi người lạy mấy lạy. Trương Nghi ngoảnh lại, đưa mắt nhìn Tô Tần, chậm rãi hỏi: “Tô huynh sao lại đến đây?”
Tô Tần cất giọng ngân nga kéo dài như hát: “Gia phụ bức hôn, Tô Tần không chịu, nửa đêm bỏ trốn, quay lại vương thành, đi tìm hiền đệ, lần đến nơi đây. Hiền đệ mất mẹ, gia đạo suy vi. Thật đáng buồn thay, Tô Tần cũng thấy đau lòng!”
Trương Nghi cảm thán: “Lời của ông lão mày trắng, hôm nay Trương Nghi đã phục rồi! Tô huynh, ông lão đó nói huynh sẽ làm tới chức khanh tướng, xem ra chẳng phải nói chơi!”
Tô Tần lại ngâm nga: “Lời của thầy bói chớ tin tưởng, xin hỏi hiền đệ muốn về đâu?”
Trương Nghi từ từ quay sang ngôi mộ mới đắp của mẫu thân, nghiến răng mà nói: “Mười ba năm trước người Tần xâm lược ta, tiên phụ xả thân vì nước. Nay người Tần lại đến xâm phạm, phá tan nhà ta, giết hại dân ta, cướp của nhà ta, ép chết tiên mẫu và Trương bá! Thù nước hận nhà không đội trời chung, Nghi không có mong muốn gì khác, chỉ muốn được báo thù này!”
Tô Tần ngẫm nghĩ một lát, lại chậm rãi nhấn nhá: “Thù nước hận nhà rồi phải báo, một sớm một chiều chẳng thể xong. Hiền đệ nay cung tên chẳng có, chẳng lẽ tay không bắn chim ưng?”
Trương Nghi trầm ngâm suy nghĩ, một hồi lâu sau, mới đưa mắt nhìn mông lung về phía xa xăm: “Theo ý của Tô huynh, ngu đệ phải làm thế nào?”
Tô Tần rút ra chiếc túi gấm từ trong tay áo, đưa cho Trương Nghi.
Trương Nghi mở ra, đọc: “Muốn chữa nói lắp, ca hát ngâm vịnh. Muốn trị tận gốc, đến núi Vân Mộng”. Trương Nghi suy nghĩ một lát rồi gật gù: “Ồ, thảo nào nãy giờ Tô huynh cứ mở miệng ra là hát, thì ra là được cao nhân chỉ điểm!” Lại suy nghĩ thêm một lát, rồi đưa mắt nhìn Tô Tần. “Xin hỏi Tô huynh, huynh lấy được thứ này từ đâu?”
“Vương thành tìm đệ không thấy, dọc đường gặp được cầm sư, đưa cho túi gấm một chiếc, nói rằng có người gửi cho.”
“Cầm sư? Núi Vân Mộng?” Trương Nghi lầm bầm tự nhủ, rồi đột nhiên kêu lên. “Tô huynh, quả là tạo hoá!”
Tô Tần hai mắt tròn xoe, ngơ ngác không hiểu. Trương Nghi hào hứng nói: “Đệ từng nghe cầm sư nhắc đến núi Vân Mộng, nói rằng ở trong núi có khe Quỷ Cốc, trong khe có một vị Quỷ Cốc tiên sinh, cầm nghệ xuất thần nhập hoá, cho dù Du Bá Nha tái thế, cũng chịu kém ba phần. Nói thực lòng, tài năng của cầm sư, Trương Nghi đã rất khâm phục, hôm đó đùa giỡn cầm sư, một là tuỳ hứng, hai là muốn thử bản lĩnh của ông ấy. Nhưng cầm sư khi nhắc tới Quỷ Cốc tiên sinh, lại hết lời ca ngợi, thiết nghĩ vị Quỷ Cốc Tử này chắc chắn phải là thần nhân. Có điều Quỷ Cốc tiên sinh chưa bao giờ thu nhận đệ tử, cầm sư đã mấy lần tìm đến bái kiến nhưng tiên sinh đều không đồng ý. Hôm nay Tô huynh nhận được thư này, chẳng lẽ lại là…” Nói nửa chừng, đột nhiên ngưng bặt, lại suy nghĩ một lát rồi vỗ trán một cái. “Đúng rồi, chắc chắn là như vậy!”
Tô Tần chẳng hiểu gì, chỉ ngây người giương mắt nhìn Trương Nghi.
Dường như Trương Nghi đã phát giác ra một điều hệ trọng: “Lão già xem tướng chắc chắn là Quỷ Cốc tiên sinh! Tô huynh thử nghĩ xem, nếu là thầy tướng số bình thường, làm gì có được thần công như thế? Lá thư này chắc chắn cũng do Quỷ Cốc tiên sinh gửi. Cũng có nghĩa là, Quỷ Cốc tiên sinh có ý nhận Tô huynh làm đệ tử. Nếu Tô huynh có thể làm môn đệ của tiên sinh, đương nhiên sẽ tu được bản lĩnh hơn người, chắc hẳn sẽ làm tới hàng khanh tướng!”
Tô Tần trầm ngâm suy nghĩ, cũng đã hiểu ra, bèn ngâm nga: “Chẳng trách lúc cầm sư đưa thư, thở than mấy lần rằng thời vận.”
“Vậy thì đúng rồi!” Trương Nghi càng nói càng hào hứng. “Trước đây Quỷ Cốc tiên sinh chưa từng nhận đệ tử, nhưng nay lại thu nhận, đó chính là thời. Cầm sư nhiều lần khẩn cầu nhưng Quỷ Cốc tiên sinh đều không đồng ý, Tô huynh không cầu mà Quỷ Cốc tiên sinh lại chủ động mời đến, đó chính là vận. Tô huynh có thời có vận, cầm sư không than mới lạ!” Rồi vòng tay vái Tô Tần mấy vái. “Tô huynh ở trên, Trương Nghi xin chúc mừng!”
Tô Tần suy nghĩ một lát, lại cất tiếng hát trầm bổng: “Hiền đệ không chê Tần phận hèn, cùng Tô Tần kết nghĩa kim lan. Nếu Tô Tần quả có thời vận, há lại bỏ đệ hưởng riêng mình?”
Trương Nghi nói: “Đa tạ ý tốt của Tô huynh. Nhưng… có trách là trách hôm đó có mắt mà không thấy núi Thái Sơn, đệ đã mạo muội xúc phạm đến tiên sinh. Nếu đệ lên núi, chắc chắn tiên sinh sẽ ghi hận chuyện này, mà không thu nhận.”
“Hiền đệ xin chớ nản lòng, huynh đệ cùng bái sư tôn. Nếu lỡ tiên sinh không nhận, Tô Tần cũng chẳng nhập môn.”
Trương Nghi cảm động, thở dài mà nói: “Đời người như giấc mộng, được một tri kỷ đã là quá đủ. Trương Nghi gặp được Tô huynh, coi như không sống uổng kiếp này. Tô huynh hãy đi trước một bước, Trương Nghi ở đây chịu tang tiên mẫu hết một tháng, sẽ tự tìm đến Quỷ Cốc.”
“Chúng ta đã là thủ túc, mẹ đệ cũng là mẹ ta, Tô Tần nên cùng hiền đệ, cùng chịu ba tháng tang nhà.”
Trương Nghi nắm chặt tay Tô Tần, nước mắt trào ra giàn giụa. Hai người tay nắm tay cùng quỳ trước mộ Trương phu nhân.
Bóng tịch dương đã xế về tây, nửa bầu trời đỏ ối, hắt lên hai bóng người đen thẫm phía xa xa.


Hồi Thứ 11

Phải ôn dịch, nước Vệ thêm tang thương
Gặp Cự Tử, Tôn Tân được chỉ dẫn


Có câu, hoạ vô đơn chí.
Khi Tuỳ Sào Tử và đệ tử Tống Kiển vẫn còn trong núi Vân Mộng, dự cảm của Tuỳ Sào Tử đã ứng nghiệm. Nước Vệ vừa trải qua cơn chiến hoạ kinh hoàng, thôn xóm còn chưa kịp hồi phục, thì một tai ương khủng khiếp hơn nữa đã âm thầm giáng xuống đầu họ.
Sự việc xảy ra ở thôn Thạch Niễn Tử ở ngoại ô thành Bình Dương. Nghe tên đã biết người trong thôn chuyên làm nghề đẽo cối đá. Trong thôn có hơn trăm hộ, đàn ông trong hầu hết các hộ đều là thợ đá, thành thạo nghề đẽo đá làm cối. Mỗi khi mùa màng xong xuôi, họ lại mang theo công cụ, đi khắp mọi nơi để đẽo cối đá cho người khác.
Cơn tai ương này cũng là khó tránh. Sau khi công tử Ngang thảm sát toàn thành, Bình Dương đã hoá ra một toà thành trống rỗng, tất cả những xác chết có thể tìm thấy trong thành đều được đệ tử Mặc gia tập hợp các tráng đinh xa gần mang ra ngoài đồng an táng.
Một người thợ cối trong thôn Thạch Niễn Tử trong khi chuyển xác chết, vô tình nhìn thấy trong sân một nhà phú hộ có một chiếc cối đá cổ, thấy rất thích. Lúc đó, do đang bận rộn thu dọn xác chết, nên người thợ cối không có thời gian để nhìn đến cái cối. Một tháng sau, trong lúc rảnh rỗi, người thợ cối sực nhớ tới chuyện này, nên một hôm nọ dậy từ rất sớm, cầm theo bút mực, ván gỗ, định đến phác lại cối đá và hoa văn tạc trên đó, tìm hiểu về kiểu cách đẽo cối của người xưa.
Người thợ cối vừa bước vào trong sân, đã ngửi thấy một thứ mùi rữa nát khó chịu. Hồi trước, khi đi dọn dẹp xác chết, anh ta đã quen với mùi này nên cũng không lấy làm sợ, cứ thế đi thẳng tới trước cối đá, quan sát thật kỹ càng. Sau nửa canh giờ, người thợ cối đã phác lại toàn bộ hình chạm khắc trên cối đá lên tấm gỗ mang theo. Cuối cùng, anh ta ngồi thụp xuống, muốn quan sát phần đáy cối, xem cổ nhân có chạm khắc gì ở đó hay không.
Đúng lúc đó, người thợ cối bỗng rú lên một tiếng kinh hoàng, ngã phệt mông xuống đất. Bên dưới chiếc cối đá có hai xác chết thối rữa nằm cuộn tròn, hiển nhiên là người nước Vệ chui vào trốn trong cối đá, bị quân Ngụy dùng thương đâm chết. Do quá lâu ngày, hai xác chết đã rữa nát, mùi xú uế khi nãy chính là bốc ra từ đây.
Có lẽ do kinh sợ quá độ nên người thợ đá muốn đứng dậy mà hai chân mềm nhũn, khó khăn lắm mới lết được về phía sau vài bước, rồi chuệnh choạng đứng dậy, cắm đầu cắm cổ chạy thẳng về nhà. Ngày hôm đó vẫn chưa có chuyện gì bất thường, đến sáng hôm sau, anh ta chợt thấy toàn thân lạnh toát, vội gọi vợ nấu cho bát canh gừng, uống rồi nhưng vẫn không thuyên giảm. Người vợ thấy chồng sắc mặt xanh tái, trong xanh lại có pha sắc tím bầm, mắt loé ánh xanh, cảm thấy quái lạ, nên gặng hỏi đã xảy ra chuyện gì, song anh ta chỉ lắc đầu. Có lẽ e sợ làm chị vợ kinh hãi, nên anh ta không dám hé răng về hai cái thây ma chết thối trong cối đá.
Vào đêm hôm ấy, người thợ cối chưa đợi được đến bình minh đã tắt thở. Thấy chồng đang khoẻ mạnh bỗng thình lình đột tử trong đêm, người vợ trẻ đau xót tột cùng, khóc đến chết đi sống lại. Hàng xóm và người thân của anh ta đều vô cùng bàng hoàng, thảy đều đến nhà đưa tiễn. Thấy người thợ cối toàn thân xanh tái, mọi người đều không biết anh ta mắc chứng bệnh quái lạ gì, có người nói là bị ma bắt, có người nói là bị Diêm Vương bắt, không ai nói ra được một lý do dễ nghe. Người nhà cũng cảm thấy hình thù người chết khó coi, vội vàng kiếm quần áo liệm cho anh ta. Vừa hay ông già hàng xóm có một cỗ quan tài gỗ ngô đồng làm sẵn, người nhà bèn bỏ tiền mua lại, nhanh chóng nhập quan.
Theo tập tục, sau khi dân thường chết, phải quàn trong quan tài ba ngày rồi mới được chôn. Người trong thôn cho quàn anh ta hai đêm, đến chập tối ngày thứ ba thì kèn trống nỉ non đưa anh ta đến bãi tha ma phía nam thôn chôn cất.
Trên đường đưa đám, một đoàn người dài dằng dặc mình mặc áo tang, than khóc ai oán.
Vì quan tài làm bằng gỗ ngô đồng không nặng, thợ cối trong thôn lại có sức khoẻ hơn người, nên chỉ cần bốn người khiêng. Trong số bốn người khiêng quan tài, đi phía sau là hai người hàng xóm của người chết, cũng là hai chú cháu. Khi gần đến mộ, đứa cháu nói nhỏ với người chú: “Chú sáu ơi, hôm trước khi nhập liệm, cháu nhìn thấy người trong quan tài sắc mặt xanh đen, trông mà chết khiếp!”
Người chú nghe vậy, trán vã mồ hôi, người hơi lảo đảo, phải gắng gượng để đứng vững, nhưng vẫn trợn mắt lừ đứa cháu: “Đừng nói linh tinh, cẩn thận để hắn nghe thấy về bắt mất hồn mày đấy!”
Đứa cháu làm mặt hề, đang định cười trêu người chú nhát gan, thì đột nhiên miệng há hốc, hai mắt trợn trừng nhìn vào người chú, kêu lên: “Chú sáu, mặt chú… mặt chú sao cũng tái xanh thế kia!”
Lời vừa nói dứt, người chú không thể gượng thêm được nữa, hai chân mềm nhũn, người đổ vật sang một bên. Quan tài thình lình mất một điểm tựa, văng luôn xuống đất.
Đứa cháu vội đặt đòn khiêng xuống, khóc toáng lên: “Chú ơi! Chú ơi!”
Mọi người nghe tiếng, vội vàng xúm lại.
Đứa cháu xốc người chú dậy, kéo sang vệ đường. Sắc mặt người chú mỗi lúc càng thêm xanh lét, một tay bấm chặt cổ họng, một tay chỉ vào quan tài, dốc hết sức tàn mà nói: “Là… là hắn…”
Đứa cháu như sực nhớ ra, hai mắt dại đi, rú lên thảm thiết: “Ma, có ma, ma đến bắt người!” Rồi vùng chạy đi như phát điên.
Mọi người đều khiếp đảm, đang ngơ ngác nhìn nhau, thì trong đám người mặc đồ tang, lại có một người sắc mặt xanh đen, ngã gục xuống đất. Ngoảnh lại nhìn, chính là người vợ trẻ của anh thợ cối vừa chết.
Mọi người đều chết sững tại chỗ. Có một người bỗng rú lên khiếp đảm, mọi người lúc này mới hồn vía lên mây, mạnh ai nấy chạy tản đi tứ phía.
Mấy ngày sau đó, trong thôn liên tục có người chết. Trên đường, ven ruộng, đâu đâu cũng nhìn thấy những xác chết xanh đen. Những người còn sống đều sợ hãi trốn kỹ trong nhà, không ai dám đi chôn cất người chết. Dưới một gốc cây lớn ở đầu thôn, mấy người dân bị ma bắt đang co quắp ngồi chờ chết, trong đó có một người quỳ trên đất, dường như đang cầu khẩn trời xanh.

Bệnh dịch nhanh chóng lan rộng, chỉ sau mấy ngày, đã lan tới Sở Khâu. Quan thú thừa Sở Khâu là Lật Bình nghe tin, biết là ôn thần đã đến, lập tức phái người hoả tốc báo tới phủ tướng quốc.
Hôm nay là ngày thiết triều, lão tướng quốc Tôn Cơ bị đau bụng tiêu chảy mấy ngày liền, vừa hay cáo bệnh không lên triều, ở trong phủ dưỡng bệnh. Nhận được cấp báo, Tôn Cơ vội vàng đọc qua, sắc mặt lập tức tái mét, bất chấp cơ thể đau bệnh, vội vàng hô quản gia đóng xe, đánh thẳng tới cung Vệ.
Xe kiệu dừng ngay trước cổng cung Vệ. Tôn Cơ được quản gia đỡ xuống xe, tay nâng cấp báo, chuệnh choạng bước lên bậc thềm trước đại điện. Do tâm trí hoảng loạn, cộng thêm cơ thể hư nhược, chân nhấc không kịp, nên vấp thẳng cánh vào bậc đá. Quản gia thấy vậy, vội lao lên đỡ.
Thấy tình cảnh như vậy, quản gia cũng bất chấp lễ tiết gia nhân không được thượng triều, bèn đỡ lấy Tôn Cơ, bước từng bước lên bậc thềm.
Trong chính điện, các đại thần đang dâng tấu lên Vệ Thành Công, đột nhiên thấy Tôn Cơ tới, tất cả đều ngạc nhiên. Tôn Cơ chạy lên vài bước, quỳ xuống khấu lạy, tay nâng cấp báo: “Khởi bẩm chúa thượng, Lật tướng quân ở Sở Khâu cấp báo, Bình Dương, Sở Khâu đều có ôn dịch, người mắc dịch toàn thân xanh tím, nặng thì chết ngay lập tức, nhẹ thì thoi thóp vài ngày rồi chết. Hiện số người chết đã tới hàng ngàn, bách tính khiếp sợ, lòng dân hoang mang…”
Nghe thấy hai chữ “ôn dịch”, toàn bộ các quan văn võ trong triều đều cả kinh, nhìn nhau hốt hoảng.
Nội thần vội vàng bước tới, nhận lấy cấp báo từ tay Tôn Cơ, hai tay trình lên Vệ Thành Công. Vệ Thành Công tay run run nhận lấy, đưa mắt liếc quanh một lượt, thân sắc có phần đờ dại.
Tôn Cơ hạ giọng bẩm tấu: “Chúa thượng…”
Vệ Thành Công sực tỉnh, thở dài một tiếng: “Than ôi, đúng là hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai. Hoạ binh đao vừa dứt, nay ôn dịch lại ập đến, lẽ nào là ông trời muốn diệt nước Vệ ta?” Nói đoạn, quay sang Tôn Cơ. “Lão ái khanh, có cách nào trừ ôn dịch chăng?”
Tôn Cơ lắc đầu nói: “Theo sách sử ghi chép, thời vua Vũ, nước lũ dâng cao, Ung Châu gặp ôn dịch, trải qua ba tháng, xác chết đầy đồng, người chết đến hơn mười vạn. Thời Vũ Vương phạt Trụ, đất An gặp ôn dịch, người chết nhiều không đếm xuể, quốc đô không còn quân để chống địch… Chúa thượng, dịch hoạ còn đáng sợ hơn cả binh hoạ. Binh đến còn có tướng chống đỡ, còn ôn dịch thì…”
Vệ Thành Công giọng nói run rẩy, đưa mắt nhìn khắp lượt triều thần: “Việc này… phải làm thế nào đây?”
Thái sư mắt bỗng vụt sáng, đảo con ngươi mấy vòng, bước sấn lên trước một bước: “Thần có tấu!”
Vệ Thành Công vội đưa mắt nhìn thái sư, hỏi gấp: “Nói mau, ái khanh có diệu kế gì?”
Thái sư chậm rãi nói: “Theo thần được biết, ôn dịch là hoạ thiên sát, vô phương cứu chữa!”
Vệ Thành Công sững người: “Ý ái khanh là, quả nhân đã đắc tội với trời?”
Thái sư liếc xéo Tôn Cơ, lời đầy ẩn ý: “Chúa thượng có đắc tội với trời hay không, thần không dám nói bừa. Song hiện giờ thiên hạ gặp ôn dịch lại là chuyện có thực!”
Vệ Thành Công suy nghĩ một chốc, rồi từ từ đưa mắt nhìn sang Thái miếu lệnh: “Ái khanh làm chủ việc tế lễ, hãy thay quả nhân hỏi thử, quả nhân đã làm gì khiến trời cao nổi giận, mà giáng hoạ xuống nước Vệ?”
Thái miếu lệnh bước lên một bước: “Khởi bẩm chúa thượng, xin lượng thứ vi thần to gan nói thực, lần trước sát khí bốc lên, đuôi sao chổi quét qua sao Canh, đó là trời cao cảnh báo. Vi thần đã đem lời cảnh báo của trời tấu báo trước triều đình, nhưng triều đình lại bỏ qua điềm báo của trời cao, đáng lẽ không nên đánh mà lại đánh, khiến cho Bình Dương toàn thành gặp thảm sát, Sở Khâu, Đế Khâu đều bị bao vây. Chiến sự kết thúc, triều đình lại không kịp thời tế trời cúng quỷ, hóa tán sát khí, nên mới gặp hoạ này!”
Thái miếu lệnh lời lời dõng dạc, không nói quân chủ, chỉ nói triều đình, rõ ràng là nhắm mũi giáo vào tướng quốc Tôn Cơ. Vệ Thành Công hiểu ý, ngồi lặng một hồi lâu không lên tiếng, cuối cùng thở dài sườn sượt: “Than ôi, sau khi chiến tranh kết thúc, đúng ra phải tế trời cúng quỷ, quả nhân bận quá nên quên khuấy đi mất. Ôn thần trừng phạt nước Vệ, là lỗi của quả nhân!” Dừng một lát, lại ngẩng nhìn Thái miếu lệnh. “Ái khanh hãy thay mặt quả nhân khẩn cầu trời xanh, cầu xin triệu hồi ôn thần về trời, hoá giải tai ương được chăng?”
Thái miếu lệnh đáp: “Khởi bẩm chúa thượng, vi thần không có tài này. Nhưng theo vi thần được biết, đại vu chúc có thể thân du lên trời, giao tiếp với quỷ thần, chúa thượng sao không truyền đại vu chúc?”
Vệ Thành Công hai mắt rực sáng: “Mau, cho mời đại vu chúc!” Vừa dứt lời, lại đổi ý. “Khoan! Chuẩn bị xe, quả nhân sẽ đích thân đi thỉnh cầu!”

Thái miếu nước Vệ nằm cách phía đông nam cung thành khoảng ba dặm, nhìn từ địa thế, đây là điểm cao nhất trong thành Đế Khâu. Thái miếu vô cùng cổ kính, được xây dựng từ hơn ba trăm năm về trước, là công trình đầu tiên được xây sau khi Vệ Công dời đô về đông đến Đế Khâu, xét về quy mô kiến trúc hay mức độ tráng lệ xa hoa, đều vượt xa cung thành được xây dựng sau đó. Nhưng cung thành đã mấy lần tu sửa, còn Thái miếu từ sau khi xây dựng, lại chưa được sửa sang lần nào, vì vậy từ lâu đã không thể sánh được với cung thành nữa. Cho dù là như vậy, nhưng thoạt nhìn, vẻ tôn quý, điển nhã của Thái miếu vẫn chưa hề phai nhạt.
Kể từ khi Thái miếu được xây dựng, mọi chuyện lớn nhỏ trong nước, từ bổ nhiệm miễn nhiệm quan lại đến việc dân sự bang giao, phàm gặp chuyện gì không thể giải quyết, các đời Vệ Công đều đến miếu này tìm đại vu chúc bói quẻ.
Điều này cũng khiến Thái miếu thay đổi tính chất, trên danh nghĩa là nơi thờ cúng của Vệ thất, nhưng thực chất lại là trung tâm quyền lực của nước Vệ, nơi đưa ra quyết định sau cùng đối với các quyết sách trọng đại của đất nước. Cũng chính vì vậy mà Thái miếu lệnh cai quản Thái miếu có quyền lực rất lớn trong triều. Mà theo chế độ, từ xưa đến nay, Thái miếu thuộc quyền quản lý của thái sư; người quyết định việc lựa chọn Thái miếu lệnh, đại vu chúc đương nhiên cũng là thái sư. Vì vậy, quyền lực của thái sư trong triều có thể nói là nhất ngôn cửu đỉnh, dưới một người trên vạn người, không ai không kính sợ.
Vậy mà, Vệ Thành Công kế vị chưa được bao lâu, đã trọng dụng Tôn Cơ làm tướng quốc, vai trò của Thái miếu cũng nhanh chóng giảm sút, vì mọi việc quốc gia đại sự, cho dù khó khăn đến mấy, Tôn Cơ cũng đều có cách ứng phó, và phần lớn đều giải quyết ổn thoả. Lâu dần, Vệ Thành Công gặp chuyện gì cũng tìm Tôn Cơ bàn bạc, chỉ vào dịp lễ tết cúng tế, hôn tang cưới gả, mới đến Thái miếu lễ bái. Quyền lực của Thái miếu đã sụt giảm nghiêm trọng, thái sư đương nhiên cũng không còn uy phong như trước. Lần trước quân Ngụy đánh đến, thái sư đã nhận ra tình thế, cực lực chủ hoà, không ngờ Tôn Cơ một lòng quyết chiến, khiến ông ta phải mất mặt trước bá quan văn võ toàn triều. Thái sư vốn gửi gắm hy vọng vào kết cục của cuộc chiến, không ngờ sự việc lại ngoài dự liệu, người Tần đột ngột tấn công Hà Tây, người Ngụy chủ động lui binh, Tôn Cơ liều chết ngự địch, không ngờ đã bảo vệ được xã tắc. Thái sư, Thái miếu lệnh, đại vu chúc vô cùng thất vọng, đang lúc khổ sở không tìm ra được cách hay, thì ôn thần lại hạ phàm trợ giúp!
Trong lúc Vệ Thành Công xa giá đến Thái miếu, đại vu chúc đang ngồi ngay ngắn trước điện, hai mắt nhắm hờ, giống như đã nhập định. Tiểu vu chúc vội vã chạy vào thì thầm bên tai ông ta. Đại vu chúc toàn thân giật bắn, hai mắt trợn tròn, nhãn quang sáng rực: “Ồ, ôn thần hạ xuống Bình Dương, Sở Khâu, chúa thượng đích thân đến khẩn cầu? Ý thái sư thế nào?”
“Thái sư có dặn, tướng quốc Tôn Cơ xưa nay không kính trời thờ quỷ, xúi giục chúa thượng lấy yếu chống mạnh, trời cao nổi giận, nên mới phái ôn thần hạ phàm, trừng phạt người Vệ. Thái sư lệnh cho thượng tiên làm phép tế trời, thương lượng với ôn thần, cầu ôn thần đừng xâm phạm Đế Khâu, giáng hoạ đến đô thành, còn nhờ thượng tiên truyền lại ý trời, nhân cơ hội này bắt chúa thượng phải kính trời thờ quỷ, không nghe theo lời xúi giục của Tôn Cơ nữa!”
Đại vu chúc ngẫm nghĩ một lát, thu lại ánh nhìn, hai mắt nhắm nghiền, tựa như lại đã nhập định, miệng lẩm bẩm: “Bẩm lên thái sư, nói rằng tiểu tiên trong lòng đã có chủ ý!”

Hoàng hôn hôm ấy, sau khi Vệ Thành Công đến Thái miếu được hơn hai canh giờ, mười mấy cung nhân trang phục đen tuyền, tay cầm lệnh tiễn, hối hả ra khỏi Thái miếu, đều lên ngựa khoẻ, chia đường tiến về các nẻo khác nhau trong nước. Trong đó, hai con ngựa chạy nhanh nhất lao về phía cổng tây thành Đế Khâu; một con ngựa xuất thành, phóng như bay về phía Sở Khâu; một con ngựa khác dừng lại ngoài cổng thành, người áo đen trên lưng ngựa ghìm chặt dây cương, hô lớn với viên thành môn úy(1): “Thành môn uý nghe chỉ!”
Thành môn uý lập tức khấu đầu: “Mạt tướng tiếp chỉ!”
Người áo đen nói lớn: “Bình Dương, Sở Khâu ôn dịch hoành hành. Chúa thượng có chỉ, bắt đầu từ hôm nay, mọi việc phải làm theo lời đại vu chúc!”
“Mạt tướng tuân chỉ!”
“Truyền lệnh của đại vu chúc, sau khi tiếp lệnh này, đóng chặt cổng thành, chỉ cho ra không cho vào. Ai trái lệnh, chém!”
Nói xong, người áo đen ném một lệnh tiễn xuống đất.
Thành môn uý nhặt lệnh tiễn lên, hô lớn: “Mạt tướng tuân lệnh!”
Người áo đen không nói thêm câu nào, quay ngựa phóng về phía một thành khác.
Đứng nhìn theo bóng người áo đen xa dần, thành môn uý quay sang hô lớn với quân lính: “Mau đóng cổng thành!”
Tám binh lính vụt một cái đã kéo cầu treo kêu, cổng thành lập tức đóng kín.
Người áo đen phóng ra từ cổng thành phía tây, thúc ngựa lao như tên bắn, chưa đầy ba canh giờ sau đã đến thành Sở Khâu cách đó trăm dặm, xuống ngựa trước phủ thú thừa. Mặc dù lúc này đã nửa đêm, nhưng vì chuyện ôn dịch nên trong phủ vẫn đèn thắp sáng trưng, thú thừa Lật Bình đang triệu tập các trưởng lão trong thành và thuộc hạ đến bàn bạc cách đối phó ôn dịch, nghe nói có sứ thần của chúa thượng tới, liền vội vàng ra ngoài nghênh tiếp, khấu đầu dưới đất chờ nghe tuyên chỉ.
Người áo đen đứng giữa chính đường, tuyên chiếu: “Truyền lệnh của đại vu chúc, người sống không được đi lại, người chết chôn sâu xuống đất. Phàm những nhà gặp ôn dịch, đều là do trời trừng phạt, không được cứu chữa. Niêm phong cổng cửa, đợi sau khi ôn thần trừng phạt xong sẽ thiêu cháy cả nhà, hoả tống ôn thần! Ai trái lệnh, chém!”
Lật Bình sững người, ngần ngừ một lát mới khấu đầu nói: “Mạt tướng tuân chỉ!”
Có thể do khiếp sợ ôn thần nên người áo đen vội vàng trao chiếu thư, lệnh tiễn, không quản đêm khuya đường sá xa xôi, lập tức phóng như bay trở về.
Tiễn sứ thần xong, Lật Bình ngồi một mình trong chính đường trầm ngâm suy nghĩ, rồi cho triệu các thuộc tướng đến, truyền đạt ý chỉ của chúa thượng, sắp xếp họ thực hiện mệnh lệnh của đại vu chúc.

Trời vừa tờ mờ sáng, các tướng sĩ toàn thân giáp trụ, chia thành nhiều ngả, trấn giữ tại các đoạn đường quan trọng, không cho dân chúng di chuyển. Có người sao chép chiếu thư của Vệ Thành Công và mệnh lệnh của đại vu chúc thành cáo thị, mang dán khắp nơi. Với những vùng nhiễm ôn dịch, thì phái người thông báo cho toàn thể thần dân được biết.
Chẳng mấy chốc, Bình Dương, Sở Khâu đã trở thành một vùng đất chết. Ngoài những binh sĩ thiết giáp cầm thương giương mác giữ thành, căn bản không còn nhìn thấy người sống đi lại. Dù là dân chúng hay binh sĩ, ai nấy đều như bị phủ trùm trong bóng đen chết chóc, không ai dám lớn tiếng nói năng, ngay cả tiếng khóc than cũng rất khó nghe thấy.
Một đoàn quân đông nghịt rầm rập giống như xung trận tiến về phía thôn Thạch Niễn Tử, nơi khởi phát của ôn dịch, bao vây từng nhà, bất kể người trong nhà còn sống hay đã chết, nhất loạt dùng thanh gỗ, đinh sắt phong kín cổng cửa.
Hai binh sĩ tiến vào một khu nhà, không nói một lời, lập tức lùa tất cả mọi người vào hết bên trong, đóng chặt cửa lại, rồi khoá trái từ bên ngoài, đóng đinh niêm phong kín mít. Từ trong nhà vọng ra tiếng đập cửa rầm rầm, rồi giọng một người đàn bà gào thét cầu xin: “Quan gia, cả nhà chúng tôi lớn bé đều khoẻ mạnh, không làm chuyện gì có tội với trời cao, cầu xin quan gia hãy thả chúng tôi ra, ôn thần không hề đến nhà chúng tôi, cầu xin quan gia, làm ơn thả chúng tôi ra… Ông trời ơi, ông hãy mở mắt ra đi, làm ơn cứu chúng tôi!”
Cùng với tiếng khóc lóc cầu khẩn của người phụ nữ là giọng nói non nớt của một bé trai: “Chị ơi, em khát nước!”
Sau đó là giọng một bé gái: “Em đừng khóc, chị sẽ đi lấy nước cho em!”
Người lính đang đóng đinh lên cửa nghe thấy vậy thì thương xót, ngần ngừ một chốc rồi nhìn người lính kia: “Có vẻ nhà này không có dịch, hay là hãy chừa cho họ một con đường sống?”
Người lính kia trợn mắt: “Ngươi muốn chết ư? Đóng mau lên!”
Tiếng đóng đinh lại tiếp tục vang lên chí chát.

Ở thành đô Đế Khâu, trời vừa chập tối, trên phố đã không một bóng người. Cách đó không xa, một binh sĩ trực gác vừa gõ chiêng vừa hô lớn: “Đại vu chúc có lệnh, toàn thành giới nghiêm, tất cả thần dân không được đi lại. Ai trái lệnh, chém!”
Một đội lính gác lăm lăm thương nhọn đi tuần trên phố. Một con ngựa phóng vút qua bên cạnh đám lính, rồi dừng lại trước cổng phủ tướng quốc cách đó không xa, thú uý Đế Khâu là Tôn Tân một thân giáp trụ xuống ngựa, đi thẳng vào cổng, lập tức có người hầu chạy ra dắt ngựa.
Tôn Tân đi vào đại sảnh, một người hầu gái ra đón: “Thiếu gia đã về!” Rồi lại đến giúp tháo bỏ áo giáp.
Tôn Tân đi đến bên giá treo áo, tự mình thay trang phục. Người hầu gái vừa treo áo giáp lên giá, vừa nói: “Thiếu gia, lúc nãy lão gia có dặn, thiếu gia hãy tới từ đường!”
Tôn Tân ngẩn ra một thoáng, rồi lập tức rảo bước về phía từ đường.
Từ đường của nhà họ Tôn xây bên cạnh hậu hoa viên của phủ tướng quốc, trên tường treo một dãy chân dung, bức ở chính giữa vẽ một người mình mặc áo giáp, vẻ mặt hiền từ, phía dưới là tấm bài vị viết: “Tiên tổ Tôn Vũ Tử chi linh”. Hai bên lần lượt là bài vị của liệt tổ liệt tông, bài vị của tiên phụ Tôn Tân là Tôn Thao, tiên thúc phụ là Tôn An được xếp ở ngoài cùng. Bên cạnh bài vị của Tôn An lại bày ba bài vị khác, một là vợ của Tôn An, hai bài vị còn lại là con trai con gái của họ.
Quản gia bày đồ cúng, thắp hương châm nến, rồi từ từ lui ra. Tôn Cơ tay chống gậy, chậm rãi bước tới trước bài vị của Tôn Vũ Tử, đặt gậy sang một bên rồi quỳ xuống, ngẩng đầu nhìn bức chân dung.
Tôn Cơ nhắm mắt lại, khẽ mấp máy môi, lầm rầm như tự nhủ. Ánh nến hắt lên khuôn mặt già nua, chòm râu trắng phơ phơ cũng khẽ rung động theo nhịp mấp máy.
Tôn Tân đứng ngoài cửa, im lặng nhìn ông nội.
Tôn Cơ cảm giác có người đến, chưa ngẩng đầu lên đã hỏi: “Có phải Tân Nhi không?”
Tôn Tân bước đến, quỳ xuống bên cạnh Tôn Cơ: “Thưa ông, là Tân Nhi đây!”
“Tân Nhi, lại đây, cùng ông nội cầu khấn liệt tổ liệt tông trên trời linh thiêng phù hộ cho người Vệ!”
Hai người cùng dập đầu lễ bái trước linh vị của liệt tổ liệt tông, nhắm mắt cầu khấn. Một lát sau, Tôn Tân mở mắt nhìn Tôn Cơ: “Ông nội, chúng ta không thể thoát được hoạ ôn dịch lần này ư?”
Tôn Cơ thở dài: “Có thoát được hay không, còn phải xem ý trời!”
Tôn Tân mắt rực sáng: “Ý trời? Ý ông nội là chúng ta vẫn còn cách giải cứu?”
Tôn Cơ gật đầu: “Đúng vậy! Trời không tuyệt đường người! Nghe nói cự tử Mặc gia Tuỳ Sào Tử có cách chống ôn dịch. Nếu như ông ta đến, người Vệ có lẽ sẽ được cứu!”
Tôn Tân vội nói: “Tân Nhi sẽ đi tìm Tuỳ Sào Tử, xin ông nội cho phép!”
“Ta gọi cháu đến đây cũng là có ý này. Có điều Tuỳ Sào Tử phiêu du khắp nơi, cháu biết tìm ông ta ở đâu?”
“Ông nội yên tâm, cho dù ông ấy ở chân trời góc biển, Tân Nhi cũng sẽ mời về bằng được!”
“Tân Nhi,” Tôn Cơ thở dài, “tình thế trước mắt vô cùng cấp bách, chứ không phải là chuyện chân trời góc biển. Không lâu trước đây, đã có người nhìn thấy Tuỳ Sào Tử ở Lạc Dương, cháu hãy đến Lạc Dương tìm thử xem sao. Đồng thời, hãy loan tin nước Vệ gặp ôn dịch cho thiên hạ biết, với tính cách của Tuỳ Sào Tử, nếu biết sự tình, chắc chắn ông ta sẽ tự tìm đến. Chưa biết chừng hiện giờ ông ta đang trên đường đến đây!”
Tôn Tân đứng dậy: “Ông nội bảo trọng, Tân Nhi đi đây!”
Tôn Cơ cũng đứng dậy, lưu luyến nhìn cháu: “Tân Nhi, đi đi, ta ở Sở Khâu đợi cháu!”
Tôn Tân ngạc nhiên hỏi lại: “Ông nội, ông muốn tới Sở Khâu ư?”
“Phải!” Tôn Cơ đáp. “Mấy ngày nay, cháu cũng thấy rồi đấy! Đại vu chúc chống ôn dịch kiểu này, e rằng bách tính ở vùng ôn dịch càng như lửa đổ thêm dầu. Ta đi tới đó một chuyến, tâm tư của họ cũng được an ủi phần nào!”
Tôn Tân quỳ xuống trước mặt Tôn Cơ, nói: “Ông, nhưng ông đang mắc bệnh kia mà!”
Tôn Cơ nắm tay Tôn Tân: “Đi đi, nắm xương già của ông nội vẫn còn cứng cáp lắm!”
Tôn Tân lại lạy thêm mấy lạy, khóc mà nói: “Ông nội… ông hãy bảo trọng!”
Rồi quay người lui trở ra đại sảnh, đến tàu ngựa dắt chiến mã, lập tức phóng về phía cổng tây.

Tại thôn Thạch Niễn Tử, tất cả mọi nhà đều bị binh lính niêm phong kín cổng cửa, vài ngôi nhà đã bị đốt cháy, từ xa nhìn lại, chỉ thấy khói bốc ngút trời.
Ba tên lính tay cầm đuốc, đi đến gần một khu nhà đã bị niêm phong, vừa đẩy cánh cổng ra định tiến vào, thì nghe thấy trong nhà vẳng ra tiếng khóc lóc. Một người lính ghé tai lắng nghe một lát rồi quay ra nói: “Là ông lão đang khóc, chắc bà lão vừa mới chết!”
Một người lính khác tiếp lời: “Ông lão này cũng thật quái lạ, hôm qua con trai chết nhưng chỉ nghe thấy tiếng bà lão khóc, ông ta không khóc; hôm nay bà lão chết thì lại khóc. Từ đó có thể thấy, vợ quan trọng hơn con cái!”
Người lính thứ ba cãi: “Ngươi thì hiểu cái quái gì! Chưa nghe thấy câu ‘tiếng to như sấm mà dường vô thanh’ hay sao? Người ta lúc đau đớn quá mức sẽ không thể khóc nên lời! Con trai chết không khóc, đến khi vợ chết lại khóc, chứng tỏ con cái quan trọng hơn vợ!”
Gã cầm đầu lừ mắt nhìn bọn họ: “Đây là nơi để cãi cọ ư? Trước mặt còn mười mấy nhà nữa, nếu lần chần ở lâu, cẩn thận ôn thần bắt cổ luôn các ngươi đi đấy! Đã nghe chưa, trong mấy ngày hôm nay, chỉ tính riêng đội quân trăm người của chúng ta thôi đã nghẻo mất mười mấy mạng rồi! Lẽ nào các ngươi cũng muốn…” Nói đến đây thì dừng lại, lùi ra khỏi cổng, tiến sang một nhà khác.
Hai binh lính sợ hãi không dám nói năng gì nữa, lặng lẽ bám theo người này. Ba người lại đẩy cổng tiến vào một căn nhà tiếp theo. Gã cầm đầu gọi lớn: “Này, trong nhà có ai không?”
Không có tiếng trả lời.
Gã cầm đầu lại gọi mấy tiếng nữa, nhưng vẫn không có tiếng đáp, liền quay sang nói với hai tên lính: “Nhà này không còn ai nữa, đốt đi!”
Hai tên lính không nói một lời, lập tức chạy đến đống củi giữa sân, ôm củi cỏ đến, chất tại cổng chính, cửa sổ trước sau và dưới mái hiên, rồi cầm đuốc châm lửa. Một lát sau, khói đen bốc lên ngùn ngụt, toàn bộ ngôi nhà chìm trong biển lửa.
Ở phía nam thôn, một cỗ xe ngựa từ từ leo lên dốc cao, rồi dừng lại trên đỉnh dốc. Lão quản gia ngồi trước đánh xe quay đầu lại nói: “Chúa công, đã đến thôn Thạch Niễn Tử, nghe nói ôn dịch phát tán từ đây!”
Tôn Cơ chậm chạp bước xuống xe, đứng trên đỉnh dốc, nhìn khói lửa bốc lên cuồn cuộn trong thôn, hai hàng lông mày chợt chau lại. Một lát sau, Tôn Cơ thở dài: “Than ôi! Sinh linh lầm than!”
Lão quản gia gạt nước mắt, quay sang nói với Tôn Cơ: “Chúa công, lên xe thôi, phía trước chính là Sở Khâu!”
Tôn Cơ không nói gì, chỉ sải bước tiến về phía thôn. Lão quản gia cuống quýt gọi theo: “Chúa công!”
Tôn Cơ dừng bước, ngoái lại nói: “Ngươi hãy ở đây đợi, ta vào thôn xem sao!”
Lão quản gia vội cản: “Chúa công, muốn xem thì đứng đây xem cũng được. Đợi lát nữa gặp Lật thú thừa, chúa công sẽ biết rõ sự tình!”
“Không sao, ta đi một lát sẽ về!”
Tôn Cơ nói xong liền đi thẳng xuống dốc.
Trong thôn, ba người lính lúc nãy lại đi đốt thêm hai nhà khác, rồi đi đến khu nhà hôm trước có tiếng đàn bà kêu cứu. Gã cầm đầu theo lệ mở cổng ra, đứng giữa sân gọi lớn: “Này, trong nhà có ai không?”
Không có tiếng trả lời.
Gã cầm đầu do dự một lát, rồi đi tới trước cửa, gõ liền mấy cái: “Này, trong nhà có ai không?”
Vẫn không có tiếng trả lời.
Gã cầm đầu quay trở ra sân, giục: “Đem củi vào đây!”
Hai tên lính chạy đến phòng củi, ôm rơm củi đến, nhanh chóng chất thành từng đống. Đang định châm lửa, bên trong cửa sổ bỗng có tiếng lạch cạch, rồi một bàn tay nhỏ xíu thò ra từ lỗ hổng trên cánh cửa đã được niêm phong chắc chắn.
Bàn tay nhỏ khẽ vẫy mấy cái, rồi từ bên trong vọng ra vài tiếng kêu khản đặc của bé gái: “Chú ơi… Chú ơi…”
Mấy tên lính giật bắn mình, đứng đực ra nhìn nhau.
Tiếng gọi của cô bé mỗi lúc một yếu ớt: “Nước… chú ơi, nước… nước…”
Một tên lính đưa mắt nhìn gã cầm đầu: “Có đốt không?”
Gã cầm đầu trừng mắt nhìn hắn: “Đốt đốt, đốt cái đầu ngươi, vẫn còn người sống! Mau đi thôi, ngày mai quay lại!”
Đám lính quay người, đang định rời đi thì nhìn thấy Tôn Cơ đứng ngay giữa cổng, cả ba cùng khựng lại. Tôn Cơ nhìn cánh tay đang chới với tuyệt vọng, không kịp trách móc bọn lính, mà vội vàng bước tới trước cửa, lấy túi nước của mình đưa cho cô bé.
Nhưng do lỗ hổng trên cánh cửa quá nhỏ, cửa lại bị đóng quá chặt, nên không thể kéo túi nước vào trong. Tôn Cơ liền ráng sức bẻ gãy một thanh gỗ niêm phong, làm bật ra một lỗ hổng lớn.
Cô bé đôi tay run rẩy cầm lấy túi nước, mở ra, uống một ngụm nhỏ, sau đó cất giọng khản đặc mà nói: “Đa tạ ông!”
“Cháu gái!” Tôn Cơ chảy nước mắt mà hỏi. “Chỉ còn một mình cháu sống ư?”
Cô bé nghẹn ngào, nói không thành tiếng: “Còn có mẹ và em trai cháu nữa. Ông ơi, làm ơn hãy cứu chúng cháu, làm ơn cứu mẹ, cứu em cháu! Đã mấy ngày nay chúng cháu không có gì ăn, nước uống cũng hết rồi…”
Tôn Cơ giọng run rẩy: “Cháu gái, ta sẽ cứu các người ra khỏi đây!”
Sau đó quay người quát mấy tên lính: “Cô bé này không có bệnh tật gì, tại sao lại nhốt họ lại?”
Ba tên lính đưa mắt nhìn nhau, rồi gã cầm đầu bước lên trước một bước, hai mắt trợn trừng nhìn Tôn Cơ: “Ta còn chưa hỏi ông, ông lại quát mắng gì thế? Nói cho ông biết, đại vu chúc có lệnh, ai dám tự ý gỡ niêm phong, nhất loạt xử trảm! Niệm tình ông tuổi tác đã cao, lại xuất phát từ lòng tốt, nên quân gia tạm thời không tính toán với ông, cũng sẽ không truy hỏi ông là ai, từ đâu đến. Lão tiên sinh, xin đừng nhiều chuyện, hãy mau đi đi!”
Tôn Cơ không những không đi, ngược lại còn chỉ tay lên tấm gỗ niêm phong trên cửa: “Gỡ mau!”
Gã cầm đầu khựng lại, quan sát Tôn Cơ từ đầu tới chân, hai mắt gườm gườm: “Cái ông già kỳ quặc này, quân gia có ý tha cho ông một con đường sống, ông lại không chịu đi! Như thế gọi là gì? Gọi là không biết điều! Các anh em, bắt lão già này nhốt vào phòng củi!”
Hai tên lính lập tức tiến lên, mỗi tên một bên chụp lấy Tôn Cơ, đang định bắt lại, chợt ngoài cổng có tiếng xe ngựa lộc cộc, quản gia vội vã chạy vào, quát lớn: “Dừng tay!”
Ba tên lính ngạc nhiên nhìn nhau, chưa kịp lên tiếng thì quản gia lại quát: “Còn không buông tướng quốc đại nhân ra?”
Ba tên lính nghe tiếng, giật mình chết lặng.
Một tên lính lắp bắp hỏi: “Tướng quốc đại nhân? Tướng quốc đại nhân nào?”
Quản gia quát: “Còn tướng quốc đại nhân nào? Đây chính là Tôn tướng quốc, lũ các ngươi mù hết rồi ư?”
Danh tiếng của Tôn Cơ không ai không biết, ba tên lính vừa nghe thấy tên Tôn tướng quốc thì hết cả hồn vía, vội vàng quỳ sụp xuống, dập đầu lia lịa. Tên lính cầm đầu lắp bắp không thành tiếng: “Tiểu… tiểu nhân mạo… mạo phạm tướng quốc đại nhân, xin tướng quốc đại nhân trị tội!”
Tôn Cơ khẽ thở dài, chỉ tay về phía cửa rồi nói: “Gỡ niêm phong xuống!”
Ba tên lính vội vàng đứng dậy, loáng cái đã gỡ sạch đinh gỗ niêm phong. Tôn Cơ vội vã đi vào trong nhà, bế đứa trẻ đói khát nằm lả trên giường ra. Ba tên lính thấy tướng quốc không sợ chết, đâu dám nói thêm lời nào, bèn theo nhau chạy vào, hai người khiêng một người đàn bà trung niên, người còn lại bế đứa bé gái, cùng chuyển họ ra sân.
Tôn Cơ gọi lão quản gia: “Mau, đem lương khô lại đây!”
Lão quản gia vội chạy trở lại xe, lấy xuống mấy miếng lương khô. Tôn Cơ đưa một miếng vào miệng nhai nát, sau đó mớm cho thằng bé. Mấy tên lính nhìn thấy vậy, vội đi tìm một cái bát lớn, lấy nước ngâm lương khô vào trong bát, rồi bón cho người đàn bà.
Cô bé vẫn tỉnh táo, quỳ ở bên cạnh Tôn Cơ, vừa uống nước, vừa cắn từng miếng lớn lương khô, đôi mắt to tròn nhìn Tôn Cơ không chớp.
Tôn Cơ nhìn cô bé: “Cháu gái, cháu tên gì?”
“Cháu tên là Hoa!”
“Cha cháu đâu?”
“Cha đi làm cối đá cho người ta, trong nhà chỉ còn mấy mẹ con. Nghe nói có ôn dịch, mẹ không cho chúng cháu ra ngoài, còn dùng lửa sấy nhà. Ba mẹ con chúng cháu đang sống khoẻ mạnh, tự dưng có mấy vị quân gia kéo đến, nhốt luôn chúng cháu lại, còn đóng đinh bên ngoài. Cả nhà cháu không có cơm ăn, không có nước uống, mẹ và em trai đói khát quá nên đã lả đi. Ông ơi, nếu không có ông, thì chúng cháu đã bị thiêu sống trong nhà mất rồi!”
Tôn Cơ đưa tay xoa đầu cô bé: “Cháu gái, đừng khóc, đừng khóc, có ông ở đây, sẽ không sao hết!” Rồi quay sang hỏi tên lính cầm đầu. “Còn có bao nhiêu nhà bị niêm phong?”
“Bẩm tướng quốc đại nhân, đại vu chúc nói, thôn này phạm tội lớn, nên mới bị ôn thần trừng phạt, tất cả mọi nhà đều bị niêm phong!”
“Hoang đường!” Tôn Cơ nổi giận. “Các ngươi mau đi kiểm tra khắp lượt, thả hết những người còn sống ra, lấy nước và thức ăn cho họ!”
Gã cầm đầu do dự: “Việc này…”
“Còn chần chừ gì nữa?” Lão quản gia quát. “Tướng quốc đại nhân bảo ngươi đi thả người, còn không mau đi!”
“Tiểu nhân tuân lệnh!”
Tên cầm đầu vừa dứt lời, cả ba liền vội vàng chạy đi.

Trong thành Đế Khâu, Tôn Cơ vừa rời đi, lập tức có người đến báo cho Thái miếu lệnh. Thái miếu lệnh vội vã đến phủ thái sư, bẩm báo lại chuyện hai ông cháu Tôn Cơ, Tôn Tân lần lượt xuất thành.
Thái sư chau màu ngẫm nghĩ một lát, rồi chậm rãi nói: “Theo tính khí của Tôn Cơ, lúc này xuất thành, chắc chắn sẽ đến vùng ôn dịch!”
“Đến vùng ôn dịch, chẳng phải tự tìm cái chết hay sao?”
Thái sư đưa tay vuốt râu: “Như vậy cũng tốt! Nếu ông ta chết thực, cũng bớt đi một mối lo! Mấy ngày hôm nay có thấy đại vu chúc không?”
“Hạ quan vừa đến chỗ thượng tiên về.”
“Ông ta có nói khi nào có thể tiễn ôn thần hay không?”
“Bẩm thái sư, thượng tiên đã lên đến thiên cung, yết kiến thiên đế. Thiên đế nói, người Vệ phải chịu trăm ngày ôn dịch, đợi ôn thần trừng phạt đủ rồi, sẽ tự quay về trời!”
“Một trăm ngày?” Thái sư sợ hãi. “Trừng phạt lâu như vậy, sẽ phải chết thêm bao nhiêu người đây? Hơn nữa, lỡ chúa thượng mất kiên nhẫn, sự việc há chẳng tồi tệ hơn ư?”
Thái miếu lệnh suy nghĩ một lát, rồi nói nhỏ: “Bẩm thái sư, thượng tiên nói, một khi ôn thần đã trừng phạt, chưa đủ trăm ngày sẽ không chịu thôi. Còn về việc sẽ chết bao nhiêu người, thượng tiên cũng đã nói, chỉ cần khoá chặt các con đường, không cho mọi người đi lại, như vậy cũng giống như xích chặt hai chân của ôn thần, nhốt ngài ở hai thành Bình Dương và Sở Khâu, như vậy sẽ không xảy ra đại loạn. Hơn nữa, Tôn Cơ xúi giục chúa thượng không thờ thần cúng quỷ, mấy kẻ đó chết cũng là đáng!”
Thái sư cúi đầu trầm ngâm hồi lâu rồi gật gù nói: “Đã là như vậy, hãy làm theo lời ông ta!” Rồi chau mày nói. “Nhắc đến Tôn Cơ, ta chợt nhớ ra một chuyện, hai ông cháu họ đã xuất thành, tại sao lại không đi cùng một đường?”
“Điều này… hạ quan cũng không rõ!”
“Phái người theo dõi! Lần này cơ hội hiếm có, tuyệt đối không được để hai ông cháu họ làm hỏng đại sự!”
“Hạ quan đã hiểu!”
Sau khi Thái miếu lệnh cáo từ, thái sư ngồi ngẫm nghĩ một lát, sau đó sai đánh xe ngựa, đi thẳng vào cung khấu kiến Thành Công. Nghe báo thái sư cầu kiến, Vệ Thành Công khác hẳn mọi ngày, không những ra tận cửa cung đón, mà còn dắt tay vào trong, miễn quỳ lạy, còn cho ông ta ngồi xuống trước.
Thái sư được sủng ái quá đâm ra lo sợ: “Chúa thượng trịnh trọng đến vậy, thần đệ thật không dám nhận!”
“Lần này ái khanh đến, chắc chắn có chuyện muốn nói với quả nhân!”
“Thưa phải!” Thái sư vòng tay nói. “Khởi bẩm chúa thượng, vừa nãy thần đệ được tin, hôm qua tướng quốc đã xuất thành!”
“Xuất thành?” Vệ Thành Công mặt biến sắc. “Tại sao lại xuất thành vào lúc này?”
“Nghe nói là đi Sở Khâu, Bình Dương thăm ôn thần!”
Vệ Thành Công giật bắn mình, đứng bật ngay dậy, quay sang nói với nội thần: “Đúng là lão già hồ đồ, mau, đuổi theo gọi về, nói quả nhân có việc gấp cần bàn!”
Nội thần đang định quay đi, thái sư liền xua tay ngăn cản, rồi quay sang nói với Vệ Thành Công: “Khởi bẩm chúa thượng, lão thần được biết tướng quốc xuất thành, nên đã phái người đi tìm!”
“Vậy thì tốt!” Vệ Thành Công thở phào nhẹ nhõm. “Có tin gì của tướng quốc, lập tức báo với quả nhân!”
“Lão thần tuân chỉ!”

Tiểu vu chúc dẫn mấy thầy cúng đi đến phủ thú thừa của thành Sở Khâu, tra hỏi một hồi, thấy mệnh lệnh của đại vu chúc được thực hiện nghiêm chỉnh nên rất hài lòng, khen ngợi vài câu, liền chuyển sang chuyện chính: “Lật tướng quân, nghe nói Tôn tướng quốc đã đến Sở Khâu, tại sao không thấy đâu?”
Lật Bình ngạc nhiên hỏi: “Ồ, tướng quốc đại nhân đã đến đây ư? Lật Bình chưa từng gặp mặt!”
Tiểu vu chúc kinh ngạc: “Vậy… Tôn Tân đâu?”
“Cũng chưa gặp!”
Tiểu vu chúc nhìn Lật Bình chằm chằm, biết ông ta không nói dối, thì băn khoăn lẩm bẩm: “Thật kỳ lạ. Hai ông cháu họ xuất thành, giờ chưa đến đây, vậy thì đi đâu?”
Lật Bình trầm ngâm một thoáng: “Xin hỏi thượng tiên, ông dám khẳng định tướng quốc đại nhân và Tôn tướng quân đến thành Sở Khâu?”
Tiểu vu chúc hỏi vặn lại: “Không đến đây thì họ xuất thành làm gì?”
Nghĩ cũng đúng, nước gặp đại nạn, người trong triều thực lòng quan tâm tới nỗi khổ của bách tính, cũng chỉ có tướng quốc. Lật Bình liền lớn giọng gọi: “Người đâu!”
Một tham tướng vội vàng chạy vào.
“Tìm kiếm tất cả các thôn xóm xung quanh, xem có thấy tướng quốc đại nhân và Tôn tướng quân không!”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Tham tướng vội dẫn người đi các thôn kiểm tra, quả nhiên gặp Tôn Cơ đang ở trong thôn Thạch Niễn Tử. Những người còn sống sót đã được Tôn Cơ ra lệnh thả ra sân, quân lính theo lời Tôn Cơ, đang mang nước và thức ăn cho họ.
Tham tướng vô cùng kinh sợ, không kịp cả lạy chào, vội vàng đánh ngựa phi về thành Sở Khâu, bẩm báo lại toàn bộ tình hình.
Lật Bình, tiểu vu chúc nghe tin tướng quốc đã tháo niêm phong, liền vội vàng đến thôn Thạch Niễn Tử, được biết Tôn Cơ đang cứu dân trong sân một nhà, liền lật đật tìm đến. Tôn Cơ thấy Lật Bình, đang định đứng dậy đón thì đột nhiên hoa mắt chóng mặt, lảo đảo suýt chút nữa ngã lăn xuống đất.
Lật Bình thấy vậy, vội chạy lại đỡ Tôn Cơ: “Tướng quốc đại nhân, tướng quốc đại nhân, có sao không?”
Tôn Cơ trên trán lấm tấm mồ hôi, được Lật Bình dìu đến ngồi tựa vào một gốc cây: “Nước!”
Một người vội mang túi nước đến. Tôn Cơ uống liền mấy hớp, thở hổn hển mấy hơi rồi cười nói với Lật Bình: “Thân già này mấy ngày trước bị tiêu chảy, mới thành ra yếu ớt thế này!”
Lật Bình quỳ xuống đất khấu đầu nói: “Tướng quốc đại nhân đến Sở Khâu, mạt tướng vừa nãy mới hay tin, đã tiếp đón chậm trễ!”
Tôn Cơ chỉ vào những người dân trong sân: “Trong số những người dân này, có người bị bệnh, nhưng cũng có người còn khoẻ mạnh. Hành sự không phân biệt trắng đen, nhất loạt niêm phong, sao có thể như thế được?”
Lật Bình liếc nhìn tiểu vu chúc: “Bẩm tướng quốc đại nhân, mạt tướng cũng là bất đắc dĩ, phụng mệnh hành sự mà thôi!”
Tiểu vu chúc thấy Tôn Cơ liếc mắt nhìn mình, biết không còn chỗ trốn tránh, nên đành phải bước lên, vòng tay nói: “Tiểu tiên khấu kiến tướng quốc đại nhân!” Sau đó chỉ tay vào những người dân và những thanh niêm phong bị tháo ra, nói. “Tướng quốc đại nhân tự ý tháo dỡ niêm phong, phóng thích tội dân, là làm trái lệnh quân chủ! Tiểu tiên khuyên tướng quốc đại nhân, tuyệt đối không nên hành động tuỳ tiện, làm hại thanh danh một đời của đại nhân!”
Tôn Cơ đâu thèm đếm xỉa đến hắn, lại thở dốc mấy cái rồi trầm giọng nói: “Đều là bách tính, tội dân ở đâu ra? Ngươi hãy quay về báo với đại vu chúc, bảo ông ta bẩm với thái sư, truyền lại lời bản tướng, trị ôn dịch kiểu này, không những không đuổi được ôn thần, cho dù có đuổi được, cũng làm hại đến dân lành. Trong thiên hạ, quý nhất chính là tính mạng, nếu chỉ vì ích kỷ cá nhân mà coi thường nhân mạng, thực chẳng phải hành động của người có trí!”
Tôn Cơ nghĩa chính lời nghiêm, tiểu vu chúc cứng họng, há miệng mà không thốt được một lời phản bác, mặt đỏ đến tía tận tai: “Tướng quốc đại nhân, ông… ông hãy đợi đấy, tiểu tiên sẽ trở về bẩm báo với thượng tiên!”
Tiểu vu chúc quay phắt người, đi ra khỏi cổng, nhảy lên ngựa rồi lao thẳng về phía thành Đế Khâu.
Lật Bình nhìn Tôn Cơ đang thở hổn hển, lo lắng hỏi: “Tướng quốc đại nhân, sức khoẻ là quan trọng, hay là hãy đến phủ mạt tướng nghỉ ngơi một đêm?”
Tôn Cơ xua tay nói: “Các ngươi đi đi, lão hủ chỉ muốn ở lại trong thôn để trò chuyện cùng bách tính!”
Lật Bình vội nói: “Việc này… làm sao có thể?”
Tôn Cơ suy nghĩ một lát, rồi chậm rãi nói: “Lật tướng quân, bản tướng hỏi ngươi, rốt cuộc đã có bao nhiêu người nhiễm dịch?”
Lật Bình trả lời: “Từ Bình Dương đến Sở Khâu, ôn thần hoành hành trong vòng trăm dặm. Theo mạt tướng được biết, tính đến nay đã có tám thôn bị niêm phong toàn bộ giống như thôn Thạch Niễn Tử, tổng cộng một nghìn hai trăm hộ, ngoài ra còn hơn ba trăm hộ lẻ tẻ khác bị niêm phong. Người dân nghe nói, trong nhà có người mắc dịch sẽ phải niêm phong cổng cửa, nên nhà có người bệnh cũng không dám báo, nhà có người chết cũng chỉ âm thầm chôn cất, đến khóc cũng không dám. Vì vậy, hiện giờ rốt cuộc có bao nhiêu người nhiễm dịch, số người chết là bao nhiêu, quả thực mạt tướng cũng không được rõ!”
Tôn Cơ chau tít đôi mày, hồi lâu sau mới thở dài sườn sượt: “Thiên hoạ nghiêm trọng, nhưng nhân hoạ còn đáng sợ hơn thiên hoạ! Lần trước người Ngụy thảm sát toàn thành, bách tính Bình Dương đã chẳng còn lại bao nhiêu, lại thêm lần này, Sở Khâu cũng sắp trở thành thành trống. Trăm dặm nhân đinh hưng vượng, dân cư trù phú, đã sắp thành chốn không người!”
Lật Bình cũng buồn bã nói: “Nhưng… ý chỉ của chúa thượng như vậy, biết làm sao được?”
Tôn Cơ lại thở dài: “Than ôi, chúa thượng sợ hãi ôn dịch mà thành ra hồ đồ mất rồi! Không có bách tính, thì còn đâu quốc gia? Không có quốc gia, thì lấy đâu xã tắc? Lật tướng quân…”
“Có mạt tướng!”
“Quốc gia đại loạn, mới biết trung thần! Hiện giờ chúa thượng hồ đồ, gian thần ngang ngược, tướng quân là quan phụ mẫu ở đất này, tuyệt đối không được rối loạn tinh thần!”
Lật Bình khấu đầu, khóc mà nói: “Mạt tướng biết tội! Thế nhưng… phải chống ôn dịch ra sao, quả thực mạt tướng không biết. Nếu tướng quốc đại nhân có cách, mạt tướng nguyện làm theo!”
“Nghe nói Mặc gia có cách hay chống ôn dịch, nếu như cự tử Mặc gia đến đây, chắc chắn có thể chống được dịch này! Ta đã phái Tôn Tân đi tìm. Tướng quân cũng hãy phái người thăm dò khắp nơi, đợi tin Tôn Tân! Nếu họ tìm đến, trước tiên hãy dẫn họ đến thôn này! Đánh giặc phải bắt tướng giặc, chữa bệnh phải chữa tận gốc. Ôn dịch xuất phát từ đây, thì phải bắt đầu chữa từ đây!”
Lật Bình nói lớn: “Mạt tướng tuân lệnh!”

Tiểu vu chúc phi ngựa một mạch về thành Đế Khâu, bẩm báo lại toàn bộ chuyện xảy ra ở thôn Thạch Niễn Tử, cuối cùng nói thêm một câu: “Tôn Cơ còn dặn tiểu nhân chuyển lời cho thái sư!”
Thái sư vội hỏi: “Ồ, ông ta nói gì?”
“Tôn Cơ nói, trị ôn dịch kiểu này, không những không đuổi được ôn thần, cho dù có đuổi được, cũng làm hại đến dân lành. Trong thiên hạ, quý nhất vẫn là tính mạng, nếu chỉ vì ích kỷ cá nhân mà coi thường nhân mạng, thực chẳng phải hành động của người có trí!”
Thái sư nghe vậy, yên lặng hồi lâu không lên tiếng.
Thái miếu lệnh vội nói xen vào: “Tôn Cơ là chó cùng rứt giậu, đại nhân chớ nghe lời xằng bậy của lão!”
Thái sư thở dài: “Ngươi thì hiểu cái gì? Tôn Cơ nói những lời này, quả thực là người thấu suốt. Ông ta chỉ có một điều không thấu suốt, đó chính là, người không vì mình, trời tru đất diệt. Tôn Cơ bận rộn tối ngày, tuy không vì lợi, nhưng lại vì danh. Vì danh cũng vậy, vì lợi cũng vậy, chẳng phải đều là vì mình hay sao?”
“Thái sư nói chí phải!” Thái miếu lệnh phụ hoạ. “Lần trước người Ngụy đến đánh ta, họ Tôn đã anh dũng chiến đấu, danh tiếng lẫy lừng thiên hạ, không ngờ lại là làm hại người Vệ, thành Bình Dương máu chảy thành sông, toàn thành bị thảm sát!”
Thái sư thở dài, quay sang hỏi tiểu vu chúc: “Lão tướng quốc có khoẻ không?”
Tiểu vu chúc vội bước lên, nói nhỏ vài câu, cuối cùng nói thêm: “Nếu không phải Lật tướng quân kịp thời đến đỡ, ông ta đã ngã lăn xuống đất rồi!”
Lão thái sư nhướng mày, quay sang đại vu chúc: “Xin hỏi thượng tiên, xem triệu chứng này, phải chăng lão tướng quốc đã khiến ôn thần nổi giận?”
Đại vu chúc quay sang hỏi tiểu vu chúc: “Phải chăng trên trán lão tướng quốc đổ mồ hôi?”
Tiểu vu chúc đáp: “Đúng thế!”
“Tướng quốc thở hổn hển?”
“Vâng!”
“Tướng quốc sắc mặt xanh xao, toàn thân run rẩy?”
“Đúng vậy!”
Đại vu chúc quay sang nói với thái sư: “Bẩm thái sư, Tôn tướng quốc tự tiện dỡ niêm phong, thả tội dân, đã đắc tội với ôn thần. Nhìn vào triệu chứng này, có lẽ là ôn thần đang trừng phạt ông ta!”
Thái sư trầm tư một lát, rồi căn dặn đại vu chúc: “Lão tướng quốc là viên ngọc quý của nước Vệ, không thể mất đi, làm phiền thượng tiên đi bẩm với ôn thần, xin ôn thần lưu tình, tha cho lão tướng quốc. Ta sẽ đi bẩm với chúa thượng!”
“Thái sư yên tâm, tiểu tiên sẽ đi cầu ôn thần!”
Thái sư dặn quản gia chuẩn bị xe ngựa vào cung. Thành Công vừa thấy ông ta đến, vội hỏi: “Đã có tin gì của Tôn ái khanh hay chưa?”
Thái sư rặn ra mấy giọt nước mắt, nói: “Bẩm chúa thượng, thần đệ đến cũng chính vì chuyện này!”
Thành Công thấy vậy, tim nảy lên một cái: “Ái khanh nói mau, Tôn ái khanh sao rồi?”
Thái sư thở dài: “Tôn tướng quốc thương dân như con, nhưng đã dối trên lừa dưới, không coi lệnh vua ra gì, đã cùng gia nhân đến thôn Thạch Niễn Tử, bắt quân lính tháo dỡ niêm phong, thả tội dân của ôn thần ra. Việc này quả nhiên đã làm ôn thần nổi giận, ôn thần…” Rồi nói không nên lời, hai hàng nước mắt chảy xuống dầm dề.
Vệ Thành Công sững sờ, một hồi lâu sau mới nói: “Lão ái khanh muốn nói, Tôn ái khanh… đã mắc ôn dịch rồi ư?”
Thái sự rầu rĩ gật đầu.
Vệ Thành Công ngồi phịch xuống đất, lặng đi một hồi, mới quay sang nói với thái sư: “Lão ái khanh, có… có cách cứu không?”
“Thần đệ nhận được tin báo, đã lập tức đến gặp đại vu chúc, bảo ông ta lên trời khẩn cầu ôn thần, may ra có thể cứu được!”
Vệ Thành Công vội nói: “Mau, mau mời đại vu chúc!”
Một lát sau, đại vu chúc đã nhập cung khấu bái: “Tiểu tiên khấu kiến chúa thượng!”
“Thượng tiên miễn lễ!”
Đại vu chúc tạ ơn, đứng dậy rồi ngồi vào chỗ.
Vệ Thành Công vòng tay nói: “Tôn tướng quốc thương dân như con, đã vô tình đắc tội với ôn thần, nên bị ôn thần trừng phạt. Lúc nãy nghe thái sư nói, thượng tiên đã đi thỉnh cầu ôn thần, quả nhân muốn biết chỉ ý của ôn thần ra sao?”
“Khởi bẩm chúa thượng, lúc nãy tiểu tiên đã lên thiên cung, khấu kiến ôn thần. Ôn thần nói, tướng quốc đại nhân làm trái lệnh quân chủ, tự tiện đi vào vùng ôn thần cai quản, phóng thích tội dân, tức đã phạm vào tội chết!”
Vệ Thành Công kinh sợ: “Bên cạnh quả nhân không thể không có Tôn ái khanh! Thượng tiên hãy lên trời cầu xin ôn thần, bằng bất cứ giá nào cũng phải tha cho Tôn ái khanh!”
“Khởi bẩm chúa thượng, lúc nãy tiểu tiên cũng thỉnh cầu như vậy. Tiểu tiên đã nói hết nước hết cái, cuối cùng ôn thần cũng khai ân, nói là chỉ có duy nhất một cách, may ra có thể cứu được tướng quốc đại nhân!”
“Là cách gì, thượng tiên mau nói!”
“Ôn thần nói, chúa thượng phải trả lại tội dân của ôn thần lại cho ôn thần, xử tội nghiêm minh những tên lính đã tháo dỡ niêm phong, làm trái quân lệnh, để cảnh cáo mọi người!”
“Được, quả nhân chấp thuận!”
“Ôn thần còn nói, tướng quốc đại nhân đã lấy mất của ôn thần một bé trai và một bé gái, cần phải hiến tế trở lại!”
Vệ Thành Công ngẫm nghĩ một lát, rồi phẩy tay nói: “Được, được, tất cả đều làm theo lời ôn thần! Quả nhân phiền thượng tiên đi một chuyến, nhanh chóng hiến tế, mau cứu Tôn ái khanh khỏi tay ôn thần!”
Đại vu chúc vòng tay nói: “Tiểu tiên tuân lệnh!”

Đại vu chúc phụng mệnh Vệ Công, dẫn theo tiểu vu chúc và hơn mười vu nữ, cùng với nội thần, Thái miếu lệnh, khua chiêng gõ trống, đốt lửa hun khói, đi thẳng về phía Sở Khâu. Nội thần tuyên chiếu thư của vua, Lật Bình tiếp chỉ, dẫn theo quân lính đến thôn Thạch Niễn Tử.
Tôn Cơ đã quá thất tuần, vốn dĩ tuổi cao sức yếu, từ khi chống Ngụy đến nay, chưa được nghỉ ngơi ngày nào, mấy hôm trước còn bị tiêu chảy kéo dài, nay lại đi đến vùng ôn dịch, nhiễm phải ác khí khiến khí huyết tổn thương, lúc này đã không thể chịu đựng thêm được nữa, ngã xuống bất tỉnh nhân sự. Quản gia vội đỡ ông lên xe ngựa, đi lên đỉnh dốc cao ở phía nam thôn để tránh xa ác khí trong thôn.
Khi đám đại vu chúc đến nơi, Tôn Cơ đã chìm vào hôn mê, sắc mặt xanh xao nhợt nhạt.
Đại vu chúc vừa đến, lập tức lệnh cho binh lính lùa tất cả dân chúng vào lại trong nhà, niêm phong như cũ, rồi phái người gom thật nhiều củi khô, chất thành một đống lớn trên bãi đất trống trước thôn, lập đàn cúng tế trước đống củi, mang chị em A Hoa đi tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo trắng, trói chặt tay chân, đặt trên đỉnh đống củi. Hai đứa trẻ toàn thân run rẩy, khóc thất thanh.
Ba tên lính đã giúp Tôn Cơ thả người cũng bị trói lại, bắt quỳ phía trước đống củi. Phía sau họ là một hàng vu nữ, phía sau đám vu nữ là tiểu vu chúc, phía sau tiểu vu chúc là đại vu chúc, phía sau đại vu chúc không xa là Lật Bình, nội thần và hơn trăm binh lính. Phía sau nữa là đỉnh dốc cao, cỗ xe của Tôn Cơ đang dừng trên đỉnh dốc.
Một lát sau, nhạc tế vang lên, đám vu nữ tay cầm đuốc, chân giậm nhịp, vừa hát vừa nhảy múa, chuẩn bị hiến tế ôn thần. Lật Bình đứng ngồi không yên, dường như đang sốt ruột chờ đợi gì đó.
Trên quãng đường lớn cách đó không xa, một quân uý và Tôn Tân đang cưỡi ngựa phi nhanh đến, theo sát phía sau là hơn mười người áo nâu, lưng đeo sọt, trong đó có Tuỳ Sào Tử, Cáo Tử, Tống Kiển.
Quân uý chỉ tay về thôn xóm không xa phía trước, nói với Tôn Tân: “Tôn tướng quân, phía trước chính là thôn Thạch Niễn Tử, nghe nói ôn dịch bắt đầu phát tác từ đó. Tướng quốc đại nhân nói, sẽ ở trong thôn đợi tướng quân!”
Tôn Tân sốt sắng muốn gặp Tôn Cơ, liền quay sang nói với Tuỳ Sào Tử: “Tuỳ Sào Tử tiền bối, vãn bối xin đi trước!”
Tuỳ Sào Tử gật đầu, Tôn Tân dặn dò quân uý mấy câu, rồi thúc ngựa lao như vây về phía thôn Thạch Niễn Tử.
Ở đầu thôn, tiếng trống mỗi lúc một vang rền, đám vu nữ càng múa càng hăng.
Tôn Cơ nằm trong xe, sắc mặt xanh tím, hôn mê bất tỉnh. Quản gia đứng canh bên cạnh, đưa ánh mắt lo lắng nhìn về đàn tế phía dưới chân dốc, dường như đang hy vọng sau khi đại vu chúc cúng tế xong, tướng quốc đại nhân có thể tỉnh lại.
Một hồi trống gấp rút vọng lại, đầu Tôn Cơ khẽ nhúc nhích, ánh mắt hơi hé mở. Quản gia thấy vậy, vội vàng cúi xuống, mừng rỡ reo lên: “Chúa công, chúa công, người đã tỉnh rồi!”
Tôn Cơ cất giọng yếu ớt, ngắt quãng mà hỏi: “Tiếng… tiếng trống… ở đâu?”
“Bẩm chúa công, chúa thượng vì muốn cứu chúa công, nên đã hạ chỉ cho đại vu chúc cúng tế ôn thần. Hiện giờ đang thực hiện nghi lễ hiến tế!”
Tôn Cơ hỏi gấp gáp: “Hiến… tế? Hiến tế… thứ gì?”
Quản gia do dự một lát, rồi lắp bắp: “Là… là hai chị em A Hoa!”
“Hoang đường!” Tôn Cơ gắng gượng nhổm người dậy, quản gia vội vàng đỡ lấy ông. Tôn Cơ chỉ tay về phía đàn tế. “Mau, dìu ta… đến đó!”
Quản gia khóc mà nói: “Chúa công, chúa công đang thế này, tuyệt đối không được cử động!”
“Mau… mau bảo họ thả… hai chị em… ra…” Lời còn chưa nói dứt, Tôn Cơ đã ngoẹo đầu sang một bên, tắt thở.
Quản gia khóc lớn: “Chúa công… chúa công…”
Phía trước đàn tế, tiếng nhạc tế thình lình im bặt, đám vu nữ tay cầm đuốc, dàn hàng phía trước đống củi.
Tiếng nhạc vừa dừng, tiếng kêu khóc của quản gia đột nhiên vọng lại rõ mồn một. Mọi người giật mình cả kinh, cùng ngoảnh lại nhìn. Lật Bình vội chạy đến trước xe, hỏi lớn: “Lão tướng quốc sao rồi?”
Lão quản gia khóc lóc: “Chúa công quy… quy tiên rồi!”
Lật Bình mắt trợn trừng, dường như không dám tin: “Làm sao… làm sao có thể như vậy được?”
Quản gia nói trong nước mắt: “Chúa công trước lúc lâm chung có trăng trối, muốn huỷ bỏ hiến tế, thả hai đứa trẻ ra!”
Lật Bình vội vàng quay lại, bước nhanh tới trước mặt đại vu chúc, đau đớn lên tiếng: “Tướng quốc đại nhân đã quy tiên rồi!”
Đại vu chúc nhắm nghiền hai mắt, đầu lắc lư tít mù, ngửa mặt lên trời lảm nhảm một tràng, không biết đang rì rầm những gì.
Lật Bình cao giọng nói lớn: “Tướng quốc trăng trối, huỷ bỏ hiến tế, thả hai đứa trẻ ra!”
Đại vu chúc dường như vẫn không nghe thấy, miệng vẫn lảm nhảm liên hồi, một lát sau, đột nhiên hú lên một tiếng, bắt đầu nhảy múa điên loạn giống như ma quỷ nhập hồn, vừa nhảy vừa nói: “Ta là ôn thần trên trời hạ phàm, các ngươi còn không mau quỳ xuống?”
Tiểu vu chúc và đám vu nữ vừa nghe thấy vậy, vội vàng quỳ cả xuống. Nội thần và đám binh lính nhất thời sững lại, sau đó lần lượt quỳ xuống. Lật Bình do dự một lát, rồi cũng quỳ theo.
Đại vu chúc vừa nhảy múa điên cuồng, vừa nói lớn: “Các ngươi nghe đây, tội nhân Tôn Cơ nhiều lần miệt thị bản thần, vi phạm lệnh cấm, bản thần mới phải bắt ông ta về hỏi tội. Từ ngày hôm nay, bất kể là ai to gan mạo phạm bản thần, làm trái lệnh cấm, ta sẽ khiến nước Vệ nghìn dặm gà chó không yên! Ha ha ha ha…”
Trong tiếng cười rú điên cuồng, đại vu chúc xoay tít một vòng, rồi ngã gục xuống đất. Tiểu vu chúc vội vàng đứng dậy, chạy đến đỡ đại vu chúc. Đại vu chúc lờ đờ tỉnh lại, đưa ánh mắt ngạc nhiên nhìn mọi người: “Tại sao các ngươi lại quỳ ở đây?”
Tiểu vu chúc bèn đáp: “Bẩm thượng tiên, lúc nãy ôn thần hạ phàm, chúng tôi quỳ xuống lễ bái!”
“Ồ!” Đại vu chúc mặt đầy kinh sợ. “Ôn thần hạ phàm ư? Ôn thần đã nói gì?”
Một vu nữ đáp: “Ôn thần nói đã bắt tướng quốc đại nhân về hỏi tội. Ôn thần còn nói, từ nay về sau ai dám làm trái lệnh cấm, sẽ khiến nước Vệ nghìn dặm gà chó không yên, xương trắng đầy đồng!”
Đại vu chúc giả bộ hoảng sợ: “Mau, mau tế ôn thần!”
Đám vu nữ đồng thanh vâng dạ, sau đó cầm đuốc ném rào rào vào đống củi, ngọn lửa lập tức bùng lên, cộng thêm có gió đông nam, nên lửa nhanh chóng bốc lên dữ dội. Hai đứa trẻ khóc thét, gào lên lạc giọng kêu cứu. Đám binh lính đều không nỡ nhìn, vội quay mặt đi hướng khác.
Đúng vào lúc đó, một con ngựa lao vụt đến như tên bay. Con ngựa hí lên một tiếng rền rĩ, phóng vút qua trước đống lửa. Vào lúc ngựa băng qua đống lửa, một thân người bỗng vọt lên không hệt như tia chớp, hạ xuống trên đỉnh đống củi cao hơn trượng. Mọi người còn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, thì người này đã mỗi tay xách lấy một đứa trẻ, tung mình nhảy xuống đất nhẹ nhàng như chiếc lá rụng.
Sự việc xảy ra quá ư đột ngột và chóng vánh, chớp mắt đã kết thúc, tựa như có thần linh trợ giúp. Mọi người đều kinh ngạc đến ngây người, trợn mắt há miệng, không ai nói được lời nào.
Đại vu chúc kinh hãi nhìn người mới đến, chính là Tôn Tân: “Tôn tướng quân?”
Tôn Tân không đếm xỉa đến lão ta, nhẹ nhàng đặt hai đứa trẻ đã chết ngất vì sợ hãi và sặc khói xuống đất, vừa dập những ngọn lửa bén trên quần áo chúng, vừa quát đám lính đứng đó không xa: “Mau mang nước lại đây!”
Đám lính cùng đưa mắt nhìn Lật Bình. Lật Bình trợn mắt quát: “Còn đứng đấy? Mau lấy nước!”
Một tên lính hấp tấp mang thùng nước đến, Tôn Tân vẩy nước lên mặt hai đứa trẻ. Hai đứa bị nước lạnh táp vào mặt, lập tức tỉnh dậy. A Hoa đưa mắt nhìn quanh, không dám tin mình vẫn còn sống, hai chị em lại khóc toáng lên.
Đại vu chúc dường như cũng đã kịp định thần, hắng giọng liền mấy tiếng, mắt loé ra những tia lạnh lẽo, bước lên trước một bước, sầm mặt quát ré lên: “Tôn Tân to gan, bản tiên phụng chỉ ý của chúa thượng, kính trời thờ quỷ, cúng tế ôn thần, cứu giúp người Vệ. Ngươi dám phá hoại lễ tế, nghịch thiên phạm thượng, tội không thể tha! Người đâu, bắt lấy tội nhân Tôn Tân!”
Đám binh lính không ai phản ứng.
Đại vu chúc lại quát: “Còn không mau bắt lấy tội nhân Tôn Tân?”
Đám binh lính nhất loạt đưa mắt nhìn Lật Bình. Đại vu chúc cũng quay đầu lại, mắt nhìn chòng chọc vào Lật Bình, gằn giọng nói: “Lật tướng quân, ông muốn kháng chỉ ư?”
Lật Bình quay sang nhìn nội thần, nội thần khẽ thở dài, rồi gật đầu. Lật Bình không còn cách nào khác, đành từ từ nhắm mắt lại, lệnh cho binh lính: “Bắt lấy Tôn Tân!”
Mấy tên lính bước lên, bắt lấy Tôn Tân và hai chị em A Hoa. A Hoa sợ hãi bám chặt lấy cổ Tôn Tân, còn đứa em trai thì khóc thét lên.
Đại vu chúc hừ mũi một tiếng, quát lớn: “Mau đem ba tội nhân này, cộng với ba tên lính, ném vào đống lửa, hiến tế ôn thần!”
Nghe thấy ngay cả Tôn Tân cũng bị ném vào biển lửa, đám lính kinh hãi nhìn nhau, rồi lại ngoảnh nhìn Lật Bình.
Lật Bình từ từ quỳ xuống trước mặt đại vu chúc: “Mạt tướng khẩn cầu thượng tiên đại từ đại bi, tha cho Tôn tướng quân một lần!”
Đại vu chúc thở dài một tiếng, buông giọng chậm rãi: “Lật tướng quân, không phải tiểu tiên không khoan dung, mà là do Tôn Tân tự chuốc lấy tội! Tướng quân cũng đã thấy rồi, Tôn Tân thân là thú uý Đế Khâu, nhưng lại làm trái ý chỉ của chúa thượng, không đếm xỉa tới hàng vạn sinh linh nước Vệ, ngang nhiên mạo phạm ôn thần, tội không thể tha! Lật tướng quân, lời của ôn thần, hẳn ông cũng đã nghe thấy, lẽ nào ông thực sự muốn nước Vệ xác chất đầy đồng ư?”
Lật Bình từ từ ngẩng đầu lên, nhìn nội thần cầu cứu. Song nội thần không nhìn ông ta, mà quay đầu sang hướng khác. Lật Bình bước tới trước mặt Tôn Tân, nhìn thẳng vào Tôn Tân. Tôn Tân thần thái điềm tĩnh, khẽ đưa mắt cho Lật Bình, ra hiệu hãy tìm cách kéo dài thời gian. Lật Bình vừa nhìn đã hiểu, cố ý chậm chạp bước từng bước về phía đại vu chúc, từ từ quỳ xuống, tiếp tục cầu xin: “Lật Bình và cha của Tôn Tân là Tôn Thao tướng quân có nghĩa kết bái, Tôn Thao tướng quân tử nạn vì nước, cả dòng họ Tôn nay chỉ còn lại một mình Tôn tướng quân. Nay Tôn Tân tội đã không thể dung tha, Lật Bình không dám cầu xin gì khác, chỉ muốn được dùng chén rượu nhạt đưa tiễn Tôn tướng quân, khẩn cầu thượng tiên ân chuẩn!”
Các tướng sĩ đều là thuộc hạ của Lật Bình, nên thấy Lật Bình nói đến nước này, đại vu chúc cũng không dám tuyệt tình từ chối, liếc mắt nhìn đống lửa đang bốc cháy rừng rực, nghĩ rằng Tôn Tân cũng chẳng còn đường thoát, liền gật đầu nói: “Được! Lật tướng quân đã khẩn cầu như vậy, bản tiên sẽ dành cho một khắc!”
Lật Bình đa tạ, rồi quay sang lệnh cho quân lính: “Mau, mang rượu đến đây!”
Một tên quân uý dẫn theo hai tên lính chạy vụt đi, một lát sau, quả nhiên đã khiêng theo một hũ rượu cấp tập chạy về. Lật Bình rót đầy hai bát, một bát đưa cho Tôn Tân, một bát dành cho mình, nâng lên nói: “Tôn tướng quân, tại hạ xin đưa tiễn tướng quân!”
Nói xong, liền một hơi uống cạn.
Tôn Tân đưa mắt nhìn về một phía, xa xa đã thấy đám Tuỳ Sào Tử đang lao như bay đến gần, thì thở phào một tiếng, một hơi uống cạn bát rượu, phong thái vô cùng hào sảng, rồi đập bát xuống đất vỡ tan tành.
Đại vu chúc bèn cao giọng hô lớn: “Đã đến giờ, mau ném tội nhân vào lửa, hiến tế ôn thần!”
Tướng sĩ lại nhìn Lật Bình.
Lật Bình bình tĩnh phát lệnh: “Làm theo lời thượng tiên, ném tội nhân vào lửa, hiến tế ôn thần!”
Lập tức có mười mấy binh lính bước ra, tiến lại gần Tôn Tân và ba tên lính bị trói, hai người xô đẩy Tôn Tân, hai người xách chị em A Hoa lên, mấy người còn lại lôi kéo ba tên lính, từng bước tiến về phía biển lửa.
Đống củi đã bén cháy toàn bộ, lửa mượn thế gió, đang lúc hung hãn cực độ, đứng từ xa đã thấy từng đợt sóng lửa hừng hực táp lại bỏng rát. Đám lính đã áp sát đống lửa, vừa nhấc Tôn Tân và mấy người kia lên, bỗng một giọng nói tràn đầy nội lực từ xa vọng đến: “Khoan đã!”
Đám lính vốn dĩ không hề muốn làm công việc thất đức hại người này, nên vừa nghe thấy tiếng gọi, lập tức dừng tay. Trong nháy mắt, Tùy Sào Tử mình mặc áo nâu, râu tóc bạc trắng đã phi thân lao tới, lập tức cướp lấy hai chị em A Hoa trong tay hai tên lính vẫn đứng ngây như phỗng. Bốn tên lính đang giữ Tôn Tân thấy vậy cũng tự bỏ tay ra, dạt sang hai bên.
Mọi người chưa kịp định thần, thì một đoàn gồm mười mấy người trang phục một màu nâu sồng đã lao tới như cơn lốc, đứng lại ngay ngắn bên cạnh Tuỳ Sào Tử, vừa hay mặt đối mặt với đám vu nữ trang phục trắng toát.
Hai đứa trẻ lại vừa thoát chết trong gang tấc, khiếp đảm cùng cực, ôm chặt lấy cổ Tuỳ Sào Tử.
Đại vu chúc kinh sợ lùi lại phía sau một bước: “Ông… ông là ai?”
Tuỳ Sào Tử trầm giọng đáp: “Tuỳ Sào Tử!”
Đại vu chúc đã kịp trấn tĩnh: “Ông chính là cự tử Mặc gia nức tiếng thiên hạ?”
Tuỳ Sào Tử giao hai chị em A Hoa cho Cáo Tử và Tống Kiển đứng bên cạnh, mắt nhìn thẳng vào đại vu chúc: “Chính là lão hủ!”
Đại vu chúc đảo mắt một cái, rồi vái dài một lễ: “Tiểu vu bái kiến cự tử. Tiểu vu phụng ý chỉ của Vệ Công, tiến hành hiến tế ôn thần tại đây, để cứu người nước Vệ, mong cự tử tác thành!”
Tuỳ Sào Tử đáp lễ: “Tuỳ Sào Tử đã thấy cả rồi. Tuỳ Sào Tử xin đại vu chúc hãy quay về bẩm lại với Vệ Công, nói rằng Tuỳ Sào Tử có giao tình sâu sắc với ôn thần, từ lâu đã là bạn tốt, về việc cúng tế, Tuỳ Sào Tử tình nguyện đảm đương!”
“Việc này…” Đại vu chúc chần chừ một lát, rồi đưa mắt nhìn nội thần.
Lần trước người Ngụy xâm phạm biên cương, chưa nói đến chuyện Mặc gia trợ giúp giữ thành, chỉ riêng việc tổ chức người Vệ chôn cất người chết, cứu giúp người bị thương, cũng đã có ơn lớn với nước Vệ, nội thần đương nhiên hiểu rõ sự tình. Lúc này nhìn thấy họ, nội thần biết rõ họ vì chuyện ôn thần mà đến, nên không giấu được vẻ vui mừng, liên tiếp gật đầu đồng ý. Đại vu chúc thấy Lật Bình và đám binh lính ai nấy đều mặt mày hớn hở, nội thần cũng không đứng về phía mình, nên đành nói: “Cự tử đã nói như vậy, tiểu vu sẽ về bẩm lại với chúa thượng!”
Đại vu chúc quay người lại, nói với tiểu vu chúc và đám vu nữ: “Đi thôi!”
Tuỳ Sào Tử vòng tay nói: “Tuỳ Sào Tử xin tiễn đại vu chúc!”
Thấy đại vu chúc đã đi xa, Lật Bình vội vòng tay hành lễ với Tuỳ Sào Tử: “Vãn bối Lật Bình bái kiến cự tử!”
Tuỳ Sào Tử đáp lễ: “Tuỳ Sào Tử chào Lật tướng quân!”
“Xin hỏi cự tử, phải cúng tế ôn thần thế nào?”
“Tướng quân hãy mau làm hai việc. Một là tìm đá vôi, lưu huỳnh, cỏ ngải, càng nhiêu càng tốt. Hai là tập hợp dân chúng trong vùng ôn dịch lại, người nhiễm dịch tập trung một chỗ, người chưa lây nhiễm tập trung một chỗ!”
“Mạt tướng tuân lệnh!”
Tôn Tân vừa nãy nghe thấy Lật Bình nói “cả dòng họ Tôn nay chỉ còn một mình Tôn tướng quân” trong lòng đã sinh nghi, lúc này vội hỏi: “Lật tướng quân, ông nội ta đâu?”
Lật Bình chậm chạp quay người, chỉ tay về phía cỗ xe trên đỉnh dốc, bỏ mũ trụ xuống, nước mắt ròng ròng.
Tôn Tân hiểu ra mọi chuyện, lập tức chạy lao về phía cỗ xe, khóc lớn: “Ông ơi… ông!”

Dưới sự sắp xếp của Tuỳ Sào Tử và đệ tử Mặc gia, quân dân ở vùng bệnh dịch đồng lòng hợp sức chống lại ôn thần. Tất cả các thôn, khói bốc nghi ngút, khắp vùng nhiễm dịch nồng mùi lưu huỳnh, cỏ ngải. Binh sĩ và những người dân chưa nhiễm ôn dịch chia nhau đi rải bột đá vôi khắp nơi, ngoài đường, trong sân, sau nhà, vườn ruộng, chỗ nào cũng trắng xoá, giống như trời vừa đổ tuyết.
Đầu thôn Thạch Niễn Tử, trên khoảng đất trống mà hôm trước đại vu chúc lập đàn cúng tế ôn thần, lúc này bắc hai chiếc nồi cỡ lớn, trong hai nồi đều nấu đầy thảo dược, một nồi dành cho người nhiễm dịch uống, một nồi dành cho người bình thường. Các đệ tử Mặc gia múc thuốc chia cho mọi người, binh lính, dân chúng xếp thành hai hàng dài, đợi đến lượt mình lấy thuốc. Tuỳ Sào Tử, Cáo Tử, Tống Kiển và mấy đệ tử áo nâu am hiểu y thuật, tay cầm kim bạc, nhanh nhẹn trích máu hoặc châm cứu cho những người bệnh nặng.
Chưa đến mười ngày, dịch bệnh đã được khống chế, người mắc bệnh giảm rõ rệt, ngoài những người thể chất quá hư nhược không đủ sức cầm cự, phần lớn người bệnh đều được cứu sống. Vệ Thành Công nhận được tin báo, vui mừng khôn xiết, phái nội thần mở ngân khố chuyển ba trăm lượng vàng cùng một lượng lớn lương thực, vải vóc ban tặng. Tuỳ Sào Tử nhờ Lật Bình mang toàn bộ số tiền của đó giúp đỡ những người bị nạn.
Tôn Tân làm theo lời lão quản gia, mai táng Tôn Cơ trên đỉnh dốc phía nam thôn Thạch Niễn Tử. Vào xế chiều ngày thứ mười, Tôn Tân mang theo rất nhiều đồ cúng, bày trước mộ Tôn Cơ.
Tôn Tân quỳ xuống, lạy liền mấy lạy, nghẹn ngào nhìn tấm bia đá, nói: “Ông nội, Tân Nhi đến báo cho ông một tin vui, ôn thần đã đi rồi, ôn thần đã bị tiền bối Tuỳ Sào Tử đuổi đi rồi! Ông nội… ông đã có thể yên nghỉ!” Nói đoạn, lại lạy thêm vài lạy.
Tuỳ Sào Tử chậm rãi bước lại gần, đứng sau lưng Tôn Tân, nhìn vào bia mộ của Tôn Cơ, khẽ thở dài: “Than ôi, nếu lão hủ đến sớm hơn nửa ngày, đã có thể cứu được Tôn tướng quốc!”
“Xin tiền bối đừng tự trách mình, ông nội nếu biết đã cứu được nhiều người như vậy, hẳn sẽ rất vui mừng!”
Tuỳ Sào Tử nhìn tấm bia mộ hồi lâu, lại thở dài sườn sượt: “Chỉ e ông nội của tướng quân chưa chắc đã thấy vui!”
Tôn Tân ngoái nhìn Tuỳ Sào Tử: “Xin hỏi tiền bối, ôn dịch đã hết, tại sao ông nội lại không vui?”
“Ôn dịch tuy đã rút đi, nhưng mầm bệnh vẫn còn đó, lão tướng quốc sao có thể vui nổi?”
“Mầm bệnh?” Tôn Tân ngẩn người, nhìn thẳng vào Tuỳ Sào Tử mà hỏi. “Ôn dịch vẫn còn mầm bệnh ư?”
Tuỳ Sào Tử ngẩng đầu, ánh mắt dõi về phía xa xăm: “Đúng thế, có quả tất có nhân, vạn vật đều có căn nguyên!”
Tôn Tân trầm tư một chốc, rồi ngẩng đầu lên hỏi: “Xin hỏi tiền bối, mầm bệnh nằm ở đâu?”
“Chiến loạn!”
“Vậy, mầm mống của chiến loạn nằm ở đâu?”
“Lợi hại!”
“Mầm mống của lợi hại?”
“Tư dục!”
Tôn Tân lại trầm ngâm suy nghĩ, một lúc sau, dường như đã ngộ ra điều gì, liền ngẩng đầu nói: “Ý tiền bối muốn nói, nếu muốn trừ tận gốc ôn dịch, cần phải trừ bỏ chiến tranh; muốn trừ bỏ chiến tranh, cần phải loại trừ lợi hại; muốn loại trừ lợi hại, phải tiêu trừ tư dục?”
Tuỳ Sào Tử gật đầu.
Tôn Tân lại suy nghĩ một lát, rồi hỏi tiếp: “Xin hỏi tiền bối, làm thế nào mới có thể tiêu trừ tư dục?”
“Thiên hạ kiêm ái!”
“Vậy… phải làm thế nào mới khiến thiên hạ kiêm ái?”
Tuỳ Sào Tử thu ánh mắt lại, chậm rãi xoay người sang, nhìn thẳng vào Tôn Tân, một hồi lâu, mới than rằng: “Điều mà tướng quân hỏi, cũng chính là điều Tuỳ Sào Tử cả đời tìm kiếm!”
Tôn Tân quay đầu lại, đưa mắt nhìn đăm đăm vào tấm bia trên mộ ông nội.

Ngày hôm sau, trong sân nhà A Hoa, Tuỳ Sào Tử ngồi trên ghế đẩu, cậu em trai của A Hoa ngồi trên gối Tuỳ Sào Tử, mở đôi mắt tròn xoe nhìn ông chăm chú.
A Hoa bưng một bát nước đặt lên bàn đá bên cạnh: “Ông ơi, mời ông uống nước.”
Tuỳ Sào Tử mỉm cười, bưng bát nước lên, uống một ngụm, rồi cúi đầu nhìn cậu bé, hỏi: “Ồ, lúc nãy ta kể đến đâu rồi nhỉ?”
Cậu bé vội nói: “Ông vừa kể đến đoạn con sói xám muốn ăn thịt chú dê con, dê con co cẳng chạy, nhưng lại bị sói xám chặn đường. Sói xám há miệng định cắn vào cổ dê con, bỗng nhiên phía trước có một con nhím bò đến…”
Tuỳ Sào Tử mỉm cười, gật gù: “Đúng rồi, ta đang kể đến đoạn đó!” Rồi lại uống thêm một ngụm nước, đang định kể tiếp, bỗng ngoài cổng có tiếng bước chân vọng lại. Cáo Tử, Tống Kiển, Tôn Tân ba người cùng đi đến, song lạ là ở chỗ Tôn Tân khoác theo tay nải trên vai.
Cáo Tử bước lên trước một bước, vòng tay vái mà nói: “Khởi bẩm cự tử, Tôn tướng quân có việc đến tìm.”
Tuỳ Sào Tử đưa mắt nhìn Tôn Tân.
Tôn Tân đặt tay nải xuống, đi đến trước mặt Tuỳ Sào Tử, quỳ xuống khấu đầu sát đất: “Cự tử ở trên, xin hãy nhận của Tôn Tân một lạy!”
“Cớ sao Tôn tướng quân phải hành đại lễ nhường vậy?”
“Khởi bẩm cự tử, vãn bối quyết chí theo hầu cự tử, cầu học đạo kiêm ái, mong cự tử thu nhận!”
Tuỳ Sào Tử mỉm cười: “Nước Vệ là nơi giàu có trong thiên hạ, hiện tướng quân đã làm tới chức thú uý thành Đế Khâu, tiền đồ rộng mở, tại sao lại muốn vứt bỏ vinh hoa phú quý, theo lão già vô dụng này phiêu bạt khắp đông tây?”
Tôn Tân lại khấu lạy: “Vãn bối ngu muội, chỉ thấy khổ nạn trong thiên hạ, mà không hề nhìn thấy tiền đồ phú quý. Cự tử một lòng vì khổ nạn của thiên hạ, vãn bối vô cùng kính phục, thành tâm muốn được cùng bôn tẩu suốt quãng đời còn lại!”
Tuỳ Sào Tử khẽ gật đầu: “Tướng quân có thể thấy được khổ nạn của thiên hạ, đủ thấy tướng quân có lòng từ bi. Có điều khổ nạn của thiên hạ, chỉ dựa vào lòng từ bi sẽ không thể loại trừ, đây cũng chính là lý do khiến đệ tử Mặc gia mỗi người đều có sở trường, tinh thông trăm nghề. Xin hỏi Tôn tướng quân có sở trường gì?”
Tôn Tân ngẩn người, sắc mặt bỗng đỏ bừng: “Vãn bối tư chất ngu muội, không có sở trường gì cả!”
“Vậy, có sở thích gì?”
Tôn Tân ngẫm nghĩ một lát, rồi ngẩng đầu nói: “Vãn bối từ nhỏ đã luyện cung kiếm đao thương, đam mê binh pháp chiến trận, thời thiếu niên cũng đã từng có hoài bão, muốn cả đời chuyên tâm rèn tập binh pháp.”
Tuỳ Sào Tử thuận miệng hỏi: “Binh pháp chỉ dùng trong chiến tranh, chiến tranh là cội nguồn của khổ nạn, không phải là đạo kiêm ái. Tướng quân đã có ý tìm đạo kiêm ái, nhưng trong lòng lại không dứt bỏ được thuật dụng binh, điều này chẳng phải là tự mâu thuẫn ư?”
“Vãn bối học tập binh pháp, tuyệt đối không phải để gây chiến, mà để ngừng chiến!”
“Ồ!” Tuỳ Sào Tử trong lòng chấn động. “Đây gọi là lấy chiến ngừng chiến, lấy độc trị độc, đó chính là cái đạo của võ học! Vậy tướng quân hãy nói xem, tướng quân sẽ làm cách nào để lấy chiến ngừng chiến?”
Tôn Tân suy nghĩ một lát rồi đáp: “Hổ báo dù hung dữ, nhưng không thể bắt được nhím. Rào giậu chuồng dê nếu kín kẽ, lang sói sẽ không có cơ hội tấn công!”
“Ồ!” Tuỳ Sào Tử lại gật đầu, cất lời khen ngợi. “Đây gọi là không đánh mà người chịu khuất, Tôn tướng quân không hổ danh là hậu duệ của Tôn Vũ Tử.” Rồi chợt đổi giọng. “Đáng tiếc lão hủ không giỏi binh thuật, không thể thu nhận tướng quân làm đệ tử.”
Tôn Tân lại khấu đầu, khẩn cầu: “Cự tử…”
Cáo Tử cũng quỳ xuống: “Cự tử, xin cự tử hãy thu nhận Tôn tướng quân. Đệ tử nguyện dạy Tôn tướng quân thuật phòng thủ. Với tài trí của Tôn tướng quân, tương lai chắc chắn sẽ vượt qua đệ tử.”
Tuỳ Sào Tử khẽ thở dài, đưa mắt nhìn Cáo Tử: “Cáo Tử, giỏi thuật phòng thủ có thể giúp một thành thoát khỏi tai hoạ nhất thời, đó vốn chỉ là thuật bất đắc dĩ, há có thể là cái đạo vĩnh cửu?” Trầm ngâm một lát, rồi quay sang nói với Tôn Tân. “Tôn tướng quân, ta thấy tướng quân dòng dõi chính nghĩa, có lòng từ bi, có tâm tế thế, nên giới thiệu cho tướng quân đến một nơi. Theo căn khí của tướng quân, hoặc giả có thể tu học thành tựu.”
Tôn Tân bái lạy: “Tôn Tân nguyện nghe cự tử chỉ bảo.”
“Tướng quân hãy đến khe Quỷ Cốc trong núi Vân Mộng, bái Quỷ Cốc tiên sinh làm thầy. Quỷ Cốc tiên sinh là người đắc đạo, học vấn trong thiên hạ không gì không biết. Tướng quân nếu có thể cầu tiên sinh làm thầy, chắc chắn có thể thành tựu nghiệp lớn.”
“Vãn bối đa tạ cự tử chỉ bảo!”
Tôn Tân bái biệt Tuỳ Sào Tử, lại đến phần mộ Tôn Cơ từ biệt ông nội, đang định lên đường thì thấy Tuỳ Sào Tử dẫn theo Cáo Tử, Tống Kiển đến đưa tiễn.
Mấy người cùng đi một đoạn đường, rồi Tôn Tân quay người, vòng tay vái sâu một lễ: “Tiền bối hãy dừng bước, vãn bối xin từ biệt tại đây!”
“Tôn tướng quân, Tuỳ Sào Tử còn có một câu muốn dặn dò!”
“Xin tiền bối chỉ bảo!”
Tuỳ Sào Tử chậm rãi lấy ra một túi gấm từ trong tay áo: “Sau khi vào Quỷ Cốc, nếu gặp phải chuyện không như ý, tướng quân hãy mở túi gấm này ra!”
Tôn Tân đưa hai tay nhận lấy túi gấm, cất vào tay áo, rồi quỳ xuống khấu lạy: “Vãn bối đa tạ cự tử!”
Tuỳ Sào Tử mỉm cười nói: “Tôn tướng quân, tướng quân có thể đi rồi!”
Tôn Tân lạy xong, đứng lên, lại quay sang vòng tay từ biệt Cáo Tử, Tống Kiển, sau đó quay người cất bước lên đường. Ba người Tuỳ Sào Tử đứng trên đỉnh dốc, nhìn theo bóng Tôn Tân xa dần, đến khi chỉ còn là một chấm đen nhỏ xíu.
Tống Kiển băn khoăn hỏi: “Tiên sinh đã quyến luyến Tôn Tân đến vậy, tại sao không thu nhận làm đệ tử, mà lại tiến cử tới Quỷ Cốc?”
Tuỳ Sào Tử khẽ thở dài: “Không phải ta không muốn thu nhận Tôn Tân. Quả thực Tôn Tân bản tính thuần hậu, rất có huệ căn, là nhân tài tu đạo trời sinh, ta không phải người thích hợp để làm thầy!”
Tống Kiển đột nhiên tỉnh ngộ: “Đệ tử hiểu rồi!”
Tuỳ Sào Tử quay sang hỏi: “Ồ, con hiểu chuyện gì?”
“Quỷ Cốc tiên sinh không xem trọng khổ nạn trong thiên hạ, song lại xem trọng nhân tài tu đạo. Nếu như nhìn thấy đạo khí nhường này, Quỷ Cốc tiên sinh ắt sẽ vui mừng thu nhận. Nếu Tôn Tân được Quỷ Cốc tiên sinh chỉ dạy, sẽ trở thành nhân tài trong thiên hạ. Dựa theo tính cách của Tôn Tân, nếu như thành tựu, chắc chắn sẽ có lợi cho thiên hạ!”
Tuỳ Sào Tử đưa mắt nhìn Tống Kiển, không nói lời nào, chỉ thở dài một tiếng rồi quay người bước đi.
***
Núi Vân Mộng nằm ở đất Triều Ca, nơi tiếp giáp giữa ba nước Ngụy, Triệu, Vệ, phía tây liền với núi Vương Ốc, phía bắc giáp với núi Đại Hình. Nơi đây núi cao rừng thẳm, dân cư vốn dĩ thưa thớt. Từ sau khi nhà Ân Thương diệt vong, nơi đây hầu như không một bóng người, vì vậy ba nước Ngụy, Triệu, Vệ không nước nào đặt quan xếp sứ ở đây, khiến vùng núi Vân Mộng trở thành vùng đất hoang sơ không người ở.
Tôn Tân từ biệt Tuỳ Sào Tử, đi qua địa giới Bình Dương rồi tiến thẳng về phía tây, chưa đến hai ngày đã đến được cửa Túc Tư ở cổ trấn Hà Khẩu. Từ nơi đây đi đò qua Hà Thuỷ, chính là địa giới Triều Ca. Chỉ cần vượt qua sông Kỳ Thuỷ, sẽ đến núi Vân Mộng.
Núi Vân Mộng đã ở ngay trước mắt, vì vậy Tôn Tân không vội vã, mà nhẩn nha dạo bước trên những con phố cổ xưa ở cửa Túc Tư.
Nghe nói ba trăm năm trước, vào thời Chu Định Vương, nước Hà Thuỷ dâng lụt, đã vỡ bờ tại đây, sau đó bắt đầu đổi dòng, chảy qua cửa Bạch Mã đến Đốn Khâu, sau đó chảy về phía bắc, hợp dòng với sông Chương Thuỷ, đến Chương Vũ rồi đổ ra biển.
Cửa Túc Tư là cửa sông lớn nhất của sông Hà Thuỷ trong vòng một trăm dặm quanh đây, cũng là bến đò trọng yếu nối liền giữa ba nước Ngụy, Triệu, Vệ, khách buôn lên bắc xuống nam qua lại như mắc cửi, vào thời cực thịnh, có khoảng hơn một vạn người sinh sống tại đây, chỉ riêng tiền thuế quan đã là một khoản thu lớn. Nơi này vốn thuộc nước Vệ, vì bị hai nước Ngụy, Triệu chèn ép, nên người Vệ đã vứt bỏ từ hơn trăm năm trước. Sau khi người Vệ rời đi, nơi đây nhanh chóng trở thành vùng đất tranh giành giữa Triệu và Ngụy. Thời Ngụy Vũ Hầu, Triệu, Ngụy liên tiếp ba lần xung đột tại đây, tử thương tới hơn vạn người. Mãi đến khi tướng Ngụy là Ngô Khởi xuất binh, cửa Túc Tư mới trở thành vùng đất của người Ngụy.
Cửa Túc Tư cứ vào ngày năm hàng tháng lại họp chợ, một tháng ba lần, mười lăm là phiên chợ lớn, mồng năm và hai lăm là phiên chợ nhỏ. Hiện giờ đã quá hè, chính là lúc nông nhàn, hôm nay lại đúng ngày mười lăm, nên người dân trong vòng trăm dặm vuông đều đến đây họp chợ. Trên phố người đi kẻ lại tấp nập, tiếng người ồn ào, tiếng rao bán mặc cả không ngớt bên tai.
Đây là lần đầu tiên Tôn Tân đến đây, lập tức bị hấp dẫn bởi sự náo nhiệt của vùng cổ trấn, hai mắt mở to, nhìn ngắm những sạp hàng, nhà cửa, quán xá ở hai bên phố với vẻ hiếu kỳ.
Trên một đài cao, có ba gã trai tráng đang ngồi chơi nhàn, ánh mắt không ngừng sục sạo trong dòng người đông đúc. Trong đó, một kẻ đã để mắt tới Tôn Tân, mình mặc trang phục nước Vệ, mặt mũi có vẻ ngơ ngác, bèn vội hích hai đồng bọn, dẩu mỏ về phía Tôn Tân. Hai gã này hiểu ý, chỉ gật đầu rồi lập tức lỉnh xuống, lẫn vào đám đông.
Đoạn đường phía trước còn đông đúc hơn nữa. Hai gã trai chen đến trước mặt Tôn Tân, một trái một phải, kẹp Tôn Tân vào giữa, kẻ kéo người đẩy, kẻ chèn người ép. Tôn Tân cũng không để ý, hai mắt vẫn mải mê nhìn ngược nhìn xuôi. Gã phát hiện ra Tôn Tân đầu tiên bám sát ngay sau lưng chàng, một tay nhanh như chớp thò vào trong tay nải, mò được một túi vải nặng trịch. Gã lui lại mấy bước, rồi huýt sáo thật vang. Hai gã kia biết đồng bọn đã thành công, lập tức tản đi.
Tôn Tân vẫn không hay biết chuyện gì đã xảy ra. Đến khi đi qua quãng phố đông, Tôn Tân mới thở phào một tiếng, ngước mắt nhìn lên, thấy bến đò đã ở ngay trước mặt. Tôn Tân tinh thần phấn chấn, rảo bước đi nhanh về phía bến đò. Đến nơi, hỏi ra mới biết con đò mới vừa đi khỏi, phải đợi nửa canh giờ nữa mới có chuyến tiếp theo.
Tôn Tân đứng bên bờ sông, mắt nhìn đăm đăm vào dòng nước Hà Thuỷ, một lát sau, lại quay trở về phố đông. Thấy bên đường có một quán ăn, Tôn Tân cũng đã cảm thấy đói bụng, nên đi vào trong quán, tìm một bàn gần cửa sổ, ngồi xuống, gọi hai đĩa đồ nhắm, một đĩa thịt bò và một vò rượu, vừa ăn uống vừa ngắm cảnh tấp nập trên phố.
Tôn Tân vừa ngồi xuống chưa được một khắc, từ ngoài cửa lại đi vào một người thanh niên đầu sùm sụp nón lá, ngoái đầu liếc ra bên ngoài một cái rồi mới bước vào trong quán, ngồi xuống bàn phía trước mặt Tôn Tân, kéo vành nón sụp xuống thêm chút nữa, gần như che khuất cả đôi mắt, lúc này mới gọi tiểu nhị: “Tiểu nhị, cho hai cân thịt bò, hai đĩa thức ăn và một vò rượu lâu năm.”
Tiểu nhị đáp “có ngay”, rồi lập tức đi chuẩn bị rượu thịt. Do đã quá trưa, không phải giờ ăn cơm, nên trong quán chẳng còn ai khác. Người này liếc mắt nhìn Tôn Tân, vừa hay bắt gặp ánh mắt Tôn Tân nhìn sang. Tôn Tân mỉm cười, gật đầu. Người này không phản ứng gì, chỉ quay mặt đi, mắt nhìn chăm chăm ra ngoài cửa sổ.
Một lát sau, tiểu nhị cũng mang rượu thịt lên cho người đó. Sau khi bày xong đồ ăn, tiểu nhị quay người đi, vô tình va phải nón lá, khiến chiếc nón rơi luôn xuống đất. Tiểu nhị vội vã nhặt lên, khom người xin lỗi: “Xin lỗi khách quan!” Người này lừ mắt nhìn tiểu nhị, nhưng không nói gì, chỉ đội lại nón lên đầu, cứ như vẫn đang ngồi dưới nắng. Tiểu nhị lấy làm lạ, nhưng cũng không nói gì, quay người đi luôn.
Người này, chính là Bàng Quyên.
Bàng Quyên chạy khỏi An Ấp, đến đất Hàn trốn tránh một thời gian. Nhân lúc Hà Tây đại chiến, người Ngụy không còn rảnh rang để tâm đến chuyện khác, nên đã thay tên đổi họ, âm thầm đến Đại Lương tìm kiếm thúc phụ Bàng Thanh. Bàng Quyên dựa theo những điều cha từng kể khi còn sống, tìm kiếm nhiều ngày ở Đại Lương, song mọi người đều nói không biết người này. Bàng Quyên đang lúc sốt ruột lo lắng, thì gặp được một ông già biết rõ sự tình, nói rằng Bàng Thanh mười mấy năm về trước đã dắt díu cả nhà bỏ đi, nghe nói là chuyển về cửa Túc Tư. Bàng Quyên hay tin mừng rỡ, lập tức rời khỏi Đại Lương, nhanh chóng tìm đến cửa Túc Tư, song đã tìm kiếm tất cả mọi quán xá, mà không thấy có một ai mang họ Bàng. Bàng Quyên trong lòng rầu rĩ, vắt óc suy nghĩ mà không biết phải đi về đâu. Nhìn thấy bến đò, Bàng Quyên bỗng nảy ra một ý, muốn vượt qua Hà Thuỷ, đi đến nước Triệu, tạm thời ẩn náu tại đó, tìm kiếm cơ hội phục thù. Nhưng khi đến nơi, cũng giống như Tôn Tân, đò vừa đi mất. Và tương tự, cũng quay trở lại, cũng nhìn thấy quán ăn, liền vào gọi rượu thịt, vừa ăn vừa đợi đò.
Thấy rượu thịt đã dọn lên, Bàng Quyên nâng vò rượu, rót đầy một bát, cầm đũa gắp một miếng thịt bò cho vào miệng, rồi bưng bát rượu lên uống một hơi cạn sạch.
Tôn Tân, Bàng Quyên đều tự nhiên ăn uống, không ai trò chuyện với ai. Một lát sau, Tôn Tân đã ăn no, bèn gọi tiểu nhị: “Tiểu nhị, tính tiền!”
Tiểu nhị hô “đến ngay”, sau đó cầm ra một thẻ tre, đưa tới trước mặt Tôn Tân, tươi cười mà nói: “Mời khách quan xem, đây là thức ăn đã gọi, tổng cộng năm đồng tiền bố!”
Tôn Tân chẳng buồn nhìn, chỉ nói “Được!”, sau đó với lấy tay nải, thò tay vào tìm. Sờ lần một lúc, Tôn Tân bỗng giật nảy mình, vội đặt cả tay nải lên mặt bàn, dỡ tung ra tìm kiếm. Bên trong, ngoài mấy bộ quần áo thay đổi, không còn lấy một đồng xu.
Tôn Tân kinh hãi, lại vội vã sờ lần khắp người và trong tay áo, nhưng vẫn không tìm được đồng nào. Tôn Tân sững sờ, ngồi ngây tại chỗ, vò đầu bứt tóc, dường như đang cố nhớ xem đã xảy ra chuyện gì.
Nụ cười trên khuôn mặt tiểu nhị từ từ biến mất, thấy Tôn Tân không có tiền trả, liền chõ miệng về phía quầy gọi lớn: “Ông chủ, mau đến đây!”
Chủ quán cảm thấy có chuyện bất thường, lập tức hằm hằm bước tới. Tiểu nhị chỉ tay vào Tôn Tân, nói: “Ông chủ, người này hình như định ăn quỵt!”
Ông chủ vung tay tát tiểu nhị một cú thẳng cánh: “Ngu xuẩn, đúng là mắt chó không biết nhìn người. Vị tráng sĩ này mà giống kẻ ăn quỵt ư? Nhìn người ta áo mũ lịch sự nhường kia, chẳng nhẽ không trả nổi tiền cơm?”
Tôn Tân sắc mặt càng thêm bối rối: “Tại hạ… tại hạ vốn dĩ có mang theo tiền, sáng nay rõ ràng vẫn còn hai mươi lượng vàng trong túi…”
Ông chủ lừ mắt lườm tiểu nhị: “Đã nghe thấy chưa? Trong túi sáng nay có những hai mươi lượng vàng! Tên ngu xuẩn kia, ngươi đã bao giờ nhìn thấy hai mươi lượng vàng chưa?” Nói xong quay sang nhìn Tôn Tân, giọng đầy nhạo báng. “Ha ha ha, này khách quan, có muốn nói khoác thì cũng phải nói cho lớn một chút chứ, hai mươi lượng vàng thì ít quá, chí ít cũng phải là năm mươi lượng!”
Tôn Tân càng nghe càng luống cuống chân tay: “Tại hạ… tại hạ… quả thực…”
Ông chủ càng miệng lưỡi chua ngoa, lắc lư người mà nói: “Nhìn bộ dạng lịch sự nho nhã thế kia, dù tại hạ là người lịch duyệt già đời, mà suýt chút nữa cũng bị qua mắt! Được rồi, khách quan không có tiền cũng không sao! Tiểu nhị, khách quan nợ tổng cộng bao nhiêu tiền?”
“Tổng cộng là năm đồng tiền bố!”
“Năm đồng bố?” Ông chủ khẽ đảo con ngươi. “Khách quan, thế này nhé, chúng ta trao đổi, một đồng bố là một cái dập đầu, ngươi chỉ cần dập đầu trước ta năm cái, coi như không ai nợ ai!”
Ông chủ nói xong, tiện tay kéo một chiếc ghế lại, phất áo ngồi luôn xuống đó, như chuẩn bị nhận lễ.
Tôn Tân chưa bao giờ phải chịu nỗi ô nhục nhường này, mặt đỏ như gấc, đưa tay chỉ mặt ông chủ: “Ông… ông… chỉ có năm đồng bố thôi, tại sao lại ức hiếp người ta đến thế?”
Ông chủ cười ha hả: “Ha ha ha, chỉ có năm đồng bố? Ta ức hiếp người? Ta mở quán ăn, ngươi đến ăn quỵt, lại còn nói ta ức hiếp người? Ta nói cho ngươi biết, ông ngươi ngày ngày mở hàng làm ăn ở đây, người đến kẻ đi đều là khách qua đường, có hạng người nào chưa từng gặp. Dập đầu đi, dập một cái gọi một tiếng ông nội, rồi đợi ông đây đáp lời, mới được dập tiếp. Nếu không, có dập đầu cũng không được tính!”
Tôn Tân chỉ vào tay nải trên bàn, nói: “Tay nải này, cộng với số quần áo bên trong, tạm đổi lấy năm đồng bố, thế nào?”
Chủ quán liếc nhìn tay nải mở toang đặt trên bàn, lại người nhạt: “Ngươi coi ta là quân nhặt rác ư!”
Tôn Tân sốt ruột tháo luôn thanh kiếm đeo ngang hông ra, đặt lên bàn, lạnh lùng nói: “Thanh kiếm này chí ít cũng đáng giá mười lượng vàng, tạm đổi lấy năm đồng bố, thế nào?”
Chủ quán càng lên mặt làm già, lắc lư cái đầu mà nói: “Ông đây làm ăn buôn bán, cần kiếm làm gì?”
Tôn Tân giận dữ: “Vậy ông cần gì?”
Ông chủ lại lắc lư thân người, nhếch mép cười: “Ta à? Không giấu gì ngươi, cả đời ta phục vụ người khác, cả đời gọi người khác bằng ông, nay chẳng cần gì cả, chỉ muốn nghe thử được gọi một tiếng ông nghe nó ra sao! Đừng nói là cái tay nải kia, đừng nói là thanh kiếm gỉ của ngươi, cho dù ngươi có lột toàn bộ đồ trên người xuống, ông đây cũng chẳng thèm! Đối với phường ăn không uống quỵt như ngươi, ông đây chỉ có một cách: hoặc là trả năm đồng bố, hoặc là dập đầu năm cái, ngươi chọn đi!”
Tôn Tân đứng lặng người, mặt lúc đỏ lúc tái, đang khi luống cuống không biết phải làm gì, bỗng một đĩnh vàng sáng loá bay vèo tới, rơi đánh “cạch” lên mặt bàn của Tôn Tân, không chệch một ly. Thỏi vàng nảy lên, lăn xuống nền nhà, lại nảy lộp cộp mấy cái nữa mới chịu nằm yên.
Chủ quán giật mình kinh ngạc, quay đầu lại nhìn, lập tức chạm phải ánh mắt sắc lạnh của Bàng Quyên. Bàng Quyên gằn giọng nói: “Ông chủ, xem đĩnh vàng này có đáng giá năm đồng bố hay không?”
Chủ quán biết gặp phải người rắn mặt, vội vã đáp liền: “Đủ! Đủ! Đủ!”
“Nếu như đủ, tạm đổi lấy năm đồng bố, trả tiền cơm cho vị tráng sĩ đây!”
Chủ quán vốn trong lòng khiếp nhược, giờ lại gặp phải kẻ đáng gờm, đành phải cố rặn ra bộ mặt tươi cười, đon đả: “Cha chả, ông lớn đây quả thực là người hào hiệp!” Rồi quay sang đanh giọng quát tiểu nhị. “Còn không mau nhặt lấy năm đồng bố ông lớn kia trả giúp!”
Tiểu nhị cúi người định nhặt, nhưng Bàng Quyên lập tức đưa tay chặn lại, từ từ đứng dậy, đi đến trước đĩnh vàng, kéo sụp nón xuống: “Này ông chủ, đây là năm đồng bố lớn, tiểu nhị thân phận thấp hèn, làm sao nhặt nổi?”
Chủ quán thấy Bàng Quyên mặt mày dữ tợn, thì liên tục khom lưng mà nói: “Ông lớn nói đúng, để tại hạ nhặt! Để tại hạ nhặt!”
Chủ quán cúi xuống nhặt, song ngón tay vừa chạm vào đĩnh vàng, đã bị Bàng Quyên đưa chân giẫm chặt. Bàng Quyên hừ mũi một tiếng, cười nhạt mà nói: “Này ông chủ, những kẻ điêu ngoa quá quắt, tại hạ đã gặp không ít, nhưng đểu giả đến mức như ngươi, thực là lần đầu tiên nhìn thấy! Chỉ vì vỏn vẹn năm đồng bố mà ngươi tìm đủ cách lăng nhục tráng sĩ đây. Giờ nhìn thấy vàng, lẽ nào ngươi nghĩ cứ nhặt lấy là xong chuyện?”
Lời vừa nói dứt, Bàng Quyên ngấm ngầm vận lực xuống chân, giậm mạnh xuống. Chủ quán đau đến nghiến răng trèo trẹo, nhưng không dám kêu, chỉ ngửa mặt lên gượng cười nịnh nọt mà nói: “Ông lớn nói phải lắm, tại hạ sẽ hành lễ tạ lỗi với tráng sĩ đây!”
Bàng Quyên nới lỏng bàn chân, chủ quán lập tức rút ngón tay ra, đưa lên miệng thổi phù phù mấy cái, rồi vội vã đi đến trước mặt Tôn Tân, đang định khom lưng hành lễ, lại nghe thấy giọng nói lạnh lùng của Bàng Quyên: “Tạ lỗi mà như thế ư?”
Chủ quán hoang mang hỏi: “Ông lớn ơi, ông… ông muốn tại hạ phải tạ lỗi thế nào?”
“Chẳng phải ngươi chỉ chăm chăm nghĩ đến năm cái dập đầu ư? Vậy thì hãy dập đầu năm cái luôn đi! Theo như cách mà ngươi nói lúc nãy, dập đầu trước vị tráng sĩ này một cái, thì gọi một tiếng ông nội. Nếu như ông lớn kia không tính toán với ngươi, dập đầu xong năm cái, chuyện hôm nay coi như xong!”
Chủ quán đứng ngây ra tại chỗ, đang cuống quýt nghĩ cách ứng phó, thì Bàng Quyên đã vung nắm đấm nện đánh rầm xuống mặt bàn: “Chẳng phải lúc nãy ngươi vừa nói cả đời phải gọi người khác là ông ư? Giờ gọi thêm vài tiếng cũng không chịu ư?”
Chủ quán giật bắn mình, lắp bắp: “Tôi dập đầu! Tôi dập!”
Chủ quán đi tới trước mặt Tôn Tân, đang định quỳ xuống thì Tôn Tân đã đưa tay ngăn lại: “Ông chủ, hãy nhớ phải làm người cho hậu đạo, năm cái dập đầu, ta không cần đâu!”
Chủ quán còn chưa kịp lên tiếng, Bàng Quyên đã nói: “Tráng sĩ xin hãy cứ ngồi xuống! Hôm nay, năm cái dập đầu, hắn muốn dập cũng phải dập, không muốn dập cũng phải dập!” Rồi quay sang chủ quán. “Đã nghe thấy chưa? Ngươi làm nhục tráng sĩ đây đến mức ấy, mà tráng sĩ lại lấy đức báo oán, nói tốt cho ngươi! Nể mặt tráng sĩ đây, ta sẽ giảm cho ngươi còn bốn cái dập đầu!”
Chủ quán run bắn, vội quỳ xuống khấu đầu: “Tráng sĩ, lúc nãy tiểu nhân có mắt như mù, đã đắc tội với tráng sĩ, xin được hành lễ tạ lỗi!” Song không đợi Tôn Tân lên tiếng, đã đứng ngay dậy, phủi bụi trên đầu gối, rồi mặt mũi sa sầm đi về phía quầy.
Tiểu nhị bám theo sau, vừa đi được mấy bước thì chủ quán đã ngoảnh lại quát lớn: “Mày chạy rối đi đâu thế? Còn không nhặt năm đồng bố lên?”
Tiểu nhị khựng lại, vội quay người nhặt lấy đĩnh vàng, khép nép đi về phía quầy.
Đúng lúc này, đầu bếp từ trong sau nhà đi ra: “Ông chủ, hết muối rồi!”
Chủ quán một tay giật lấy đĩnh vàng tiểu nhị vừa đưa, một tay lần lấy hai xu tiền đồng từ trong tay áo, ném cho tiểu nhị: “Đi mua muối!”
Tiểu nhị “dạ” một tiếng, cun cút chạy đi. Thấy tiểu nhị đã ra khỏi cửa, Bàng Quyên mới quay sang mỉm cười với Tôn Tân: “Nhân huynh, có thể đi rồi!”
Nói xong liền quay trở lại bàn mình, tiếp tục bưng bát rượu lên uống.
Tôn Tân đứng dậy, vòng tay vái Bàng Quyên một vái dài: “Ân công ở trên, xin nhận của Tôn Tân nước Vệ một lễ!”
Bàng Quyên vội đứng dậy, vái đáp lễ: “Chỉ là chút tiền mọn, Tôn huynh bất tất phải gọi là ân công.”
Tôn Tân lại vái mà nói: “Một chút tiền nhỏ, đáng giá trăm vàng. Nghĩa cử của ân huynh, Tôn Tân mãi mãi không quên! Xin hỏi tôn tính đại danh của ân huynh?”
Bàng Quyên suy nghĩ một thoáng rồi đáp: “Tại hạ họ Long tên Thuỷ, là người Đại Lương!” Rồi cười hào sảng. “Tôn huynh chớ mở miệng là gọi ân huynh, lời này nghe thật đáng thẹn!”
Tôn Tân cũng cười: “Vậy thì… tại hạ sẽ gọi là Long huynh. Chuyện ngày hôm nay, nếu không có Long huynh giúp đỡ, quả thực tại hạ chẳng biết phải làm sao!”
Bàng Quyên lại cười lớn: “Tôn huynh, từ nay về sau đừng nhắc đến chuyện này nữa! Nếu như Tôn huynh chưa vội đi, chúng ta hãy cùng uống một bát rượu, được chăng?” Bàng Quyên nhường Tôn Tân ngồi xuống trước, rồi đi sang bàn Tôn Tân để lấy bát đũa, mang trở về bàn, rót đầy một bát đưa cho Tôn Tân, tiện tay rót luôn vào bát của mình, nâng bát lên nói: “Tôn huynh, mời!”
Tôn Tân cũng nâng bát lên: “Đa tạ Long huynh!”
Hai người cùng vui vẻ uống rượu.

Tiểu nhị đi đến hàng muối, mua một túi muối nhỏ rồi vội vàng quay về quán. Đến bên cây cầu gỗ nhỏ, thấy có một đám đông đang xúm xít đọc tờ cáo thị dán trên tường, tiểu nhi hiếm khi được ra ngoài, lại thấy còn sớm, trong quán cũng không đông khách, nên len vào đám đông xem thử. Tiểu nhị đọc liền mấy tờ, rặt là phường giết người cướp của, không có gì đặc biệt. Đang định bỏ đi, tiểu nhị bỗng liếc thấy phía trên hình như còn có một bức vẽ. Lòng hiếu kỳ nổi lên, tiểu nhị liền tiến lại gần xem cho kỹ, vừa nhìn đã giật nảy mình, vì người trong bức vẽ giống hệt người đội nón trong quán. Vội nhờ người đọc giúp mấy dòng chữ phía dưới, biết được người này tên gọi Bàng Quyên, là khâm phạm bỏ trốn đã giết liền mấy mạng, nếu ai báo tin sẽ được trọng thưởng năm lượng vàng.
Tiểu nhị tim đập thình thịch, nhớ lại vẻ hung hãn của Bàng Quyên khi nãy, thì đoán chắc chắn là người này. Tiểu nhị định chạy đi báo quan lĩnh thưởng, nhưng lại sợ không may nhìn nhầm, không những không nhận được tiền thưởng, không chừng còn mất mạng như chơi. Băn khoăn một lát, tiểu nhị quyết định quay về nói lại với chủ quán, xem ông ta xử trí thế nào.
Tiểu nhị hấp tấp chạy về, đưa muối cho chủ quán, rồi ghé tai thì thầm một hồi. Chủ quán liếc nhìn Bàng Quyên, Tôn Tân, thấy hai người vẫn đang uống rượu, nên để tiểu nhị trông quán, còn mình đích thân chạy đến đầu cầu đọc cáo thị, chắc chắn mười mươi người kia đích thị là Bàng Quyên. Nghĩ lại nỗi ô nhục khi nãy, chủ quán nhếch mép cười nhạt, rồi chạy thẳng tới quan phủ.
Chưa đầy một khắc, chủ quán đã cùng hai mươi mấy tên lính rầm rập chạy về, dẫn đầu là một tên quân uý. Chủ quán vừa chạy vừa chỉ đường.
Khi bọn họ đến nơi, Bàng Quyên, Tôn Tân đã uống hết sạch vò rượu lâu năm. Tôn Tân vừa cười nói với Bàng Quyên, vừa gói ghém lại tay nải đã mở tung ra khi nãy.
Chủ quán đứng chặn trước cửa, tay chỉ vào Bàng Quyên, nói lớn: “Quan gia hãy xem, chính là tên đội nón kia!”
Quân uý mở bức chân dung cầm trong tay ra xem, rồi lại ngẩng nhìn Bàng Quyên, song chỉ thấy nón lá sùm sụp, không nhìn rõ mặt, bèn quát lớn: “Tên kia, bỏ nón xuống!”
Bàng Quyên lạnh lùng liếc xéo quân uý, rồi quay đầu sang tiếp tục nhìn Tôn Tân đang gói ghém hành lý. Quân uý chưa từng gặp người nào ngang ngược như vậy, lại quát lớn: “Các anh em, bắt lấy hắn!”
Bàng Quyên đặt tay lên chuôi kiếm, ánh mắt đầy vẻ khinh thường. Đám lính thấy trong tay đối phương có kiếm, lập tức rút vũ khí lăm lăm, nhưng chẳng ai dám xông lên.
Tôn Tân giật nảy mình, nhìn Bàng Quyên hỏi: “Long huynh… chuyện gì thế?”
Đám lính từ từ bao vây lại gần.
Bàng Quyên cười nhạt, rồi nhanh như chớp rút thanh bảo kiếm ra khỏi vỏ, vòng tay về phía Tôn Tân: “Tôn huynh, mau đi trước, chuyện này không liên quan đến huynh!”
Tôn Tân không nói một lời, lập tức rút kiếm: “Long huynh có chuyện, Tôn Tân há có thể ngồi nhìn? Đi, chúng ta cùng xông ra!”
Bàng Quyên vung bảo kiếm, hét lớn một tiếng, xông thẳng ra cửa chính. Đám lính vốn một phường giá áo túi cơm, hống hách đã quen, nay gặp Bàng Quyên khí thế hùng hổ, giọng quát như sấm, nên chẳng kẻ nào dám tiếp chiêu, vội vàng lùi liền mấy bước. Chủ quán sợ hãi, đang định bỏ chạy, thì Bàng Quyên đã vọt lên nhanh như ánh chớp, chụp được hắn ngay tại cửa chính, tiện tay đưa một kiếm cứa ngang yết hầu. Đám lính thấy Bàng Quyên giết người ngay giữa phố, ai nấy thất kinh, vội dạt cả ra.
Tôn Tân cũng vung kiếm xông ra, hai người vai kề vai lao ra ngoài phố, rồi lưng dựa lưng, đâm chém vùn vụt. Đám lính vốn dĩ đã không phải là đối thủ của hai người, lại do không chuẩn bị trước, chẳng ai mang theo cung tên, nên chẳng tên nào dám xông lại gần, chỉ dám bao vây hai người từ phía xa. Chưa đến một khắc, trong đám đã có vài kẻ ngã gục dưới kiếm của Bàng Quyên. Tôn Tân múa kiếm tít mù, chém gãy liền mấy mũi thương. Những kẻ mất thương sợ đến tái mét mặt mày, vội lùi cả lại.
Bàng Quyên thấy có khoảng trống, liền hô lớn, hai người bèn nhất tề xông lên, mở ra một con đường máu, chạy ngoặt vào một ngõ nhỏ. Đám lính không dám lại gần, nhưng cũng không dám không đuổi theo, vừa đuổi vừa hò hét ầm ĩ, song vẫn giữ một khoảng cách khá xa. Chạy được một đoạn, hai người cùng tung người nhảy vọt lên tường, phóng lên mái nhà. Khi đám lính hè nhau đuổi tới nơi, đã không thấy bóng dáng họ đâu nữa.
Đã xảy ra chuyện ầm ĩ, hai người không dám trở lại bến đò, chỉ có thể chạy theo đường mòn, bỏ trốn vào một cánh rừng. Đi một mạch hơn hai mươi dặm, hai người mới dừng bước nghỉ chân, ngồi tựa vào gốc cây thở phì phò.
Thở một lúc, Bàng Quyên đưa mắt nhìn Tôn Tân, vòng tay cất giọng cảm phục: “Thường có câu, chân nhân không lộ tướng. Tại hạ vốn cứ nghĩ Tôn huynh là kẻ sĩ nho nhã, không ngờ lại mang công phu tuyệt diệu trong mình!”
Tôn Tân cũng vòng tay đáp lễ: “Long huynh quá khen. Nói thực, võ công của Long huynh còn vượt xa Tân, Tân thực lòng thán phục!”
“Hay lắm!” Bàng Quyên cười lớn. “Không nói chuyện này nữa. Hôm nay thật thú vị. Đầu tiên là tại hạ giúp Tôn huynh hả giận, sau đó Tôn huynh lại giúp tại hạ giải vây, coi như chúng ta có duyên gặp mặt, không ai nợ ai!”
“Long huynh nói sai rồi!” Tôn Tân lắc đầu nói. “Không có Tôn Tân, với võ công của Long huynh, việc thoát thân cũng dễ như trở bàn tay. Còn nếu không có Long huynh, cho dù Tôn Tân có ba đầu sáu tay, cũng khó thoát khỏi cảnh trớ trêu, ơn năm đồng bố, Tôn Tân suốt đời không dám quên, sao có thể nói không ai nợ ai được?”
Bàng Quyên ngẩn người, thở dài một tiếng rồi gật đầu: “Người thuần hậu trong thiên hạ, không ai hơn được Tôn huynh!” Nói đoạn, lấy ra một đĩnh vàng, đưa cho Tôn Tân. “Tôn huynh hãy cầm lấy, tại hạ xin cáo từ!”
Tôn Tân sững lại, rồi vội đẩy trả vàng cho Bàng Quyên: “Long huynh, việc này sao có thể được?”
Bàng Quyên đẩy lại, bật cười mà nói: “Sao lại không được? Tiền nong chẳng qua cũng chỉ như bãi phân chó, song ở bên ngoài, không có bãi phân chó này thì không được! Tại hạ chỉ muốn nhắc nhở Tôn huynh một câu, sau này phải cẩn thận một chút, dù sao thiên hạ ngày nay, người tốt thì ít mà kẻ xấu lại nhiều!”
Tôn Tân chưa bao giờ gặp người nào hào hiệp đến vậy, tay nhận lấy vàng, trong lòng cảm động: “Long huynh…”
Bàng Quyên lại cười sảng khoái: “Nhìn kìa, đại trượng phu hành sự, sao cứ như đàn bà thế? Hãy hào sảng lên nào, hai chúng ta tụ tán có duyên, giờ xin từ biệt!” Nói đoạn, liền vòng tay cáo từ.
Tôn Tân xúc động, cũng vòng tay hỏi: “Dám hỏi Long huynh, định đi về đâu?”
Bàng Quyên ngần ngừ: “Việc này… Tôn huynh còn có chuyện gì chăng?”
“Tại hạ không hề có ý gì khác, chỉ là tại hạ cảm thấy, Long huynh dường như còn có điều gì phiền muộn?”
Bàng Quyên trầm ngâm chốc lát, rồi gật đầu nói: “Tôn huynh nếu đã nhận ra, tại hạ cũng không giấu nữa. Thực ra, tại hạ không phải họ Long, cũng không phải người Đại Lương. Tại hạ họ Bàng tên Quyên, nhà ở An Ấp, gần đây đã kết oan gia với gian tặc Trần Chẩn!”
“Gian tặc Trần Chẩn?” Tôn Tân kinh ngạc. “Người mà Bàng huynh vừa nhắc đến, phải chăng là thượng đại phu nước Ngụy Trần Chẩn?”
“Chính là tên gian tặc đó!” Bàng Quyên nghiến răng kèn kẹt. “Gian tặc này nham hiểm độc ác, ghen ghét hiền tài, hãm hại trung lương, khiến Đại Ngụy ta phải chịu mối nhục Hà Tây, hắn chính là đại gian thần của nước Ngụy. Đây là việc nước, tạm chưa nói tới. Mấy tháng trước, tên cẩu tặc này đã cấu kết với Công Tôn Ưởng nước Tần, ra sức xúi bẩy chúa thượng xưng vương. Nghe nói gia phụ từng là thợ may của Chu thất, biết may vương phục, tên cẩu tặc này đã phái người tìm đến nhà tại hạ. Gia phụ lấy lý do không hợp với vương chế, kiên quyết không nghe. Tên cẩu tặc này thẹn quá hoá giận, đã bắt nhốt gia phụ, ép gia phụ may vương phục. Tại hạ đi cứu gia phụ, hắn lại ngầm mai phục, hãm hại tại hạ. May mà có người bạn La Văn xả thân cứu giúp, tại hạ mới thoát được kiếp nạn! Tên cẩu tặc này vẫn chưa chịu buông tha, lại vu cho tại hạ tội giết người, lệnh cho quan phủ truy nã khắp nơi, quyết trừ cho được hậu hoạn!”
“Nghe Bàng huynh kể, Trần Chẩn quả thực đáng hận! Dám hỏi Bàng huynh, bước tiếp theo định làm gì?”
Bàng Quyên thở dài: “Tại hạ vốn định từ đây qua sông sang nước Triệu, không ngờ gặp phải chuyện này. Lúc nãy tại hạ đã nghĩ kỹ, cứ lẩn trốn mãi cũng chẳng phải cách hay! Hơn nữa, gia phụ vẫn nằm trong tay gian tặc, sống chết chưa biết ra sao. Vì nước vì nhà, vì trung vì hiếu, tại hạ phải quay lại An Ấp! Không trừ gian tặc, nước Ngụy sẽ nguy. Lần này tại hạ trở về, nhất định phải trừ khử cẩu tặc Trần Chẩn!”
Tôn Tân gật đầu nói: “Trừ khử gian tặc là chuyện nhỏ, cứu lệnh tôn đại nhân mới là cấp bách. Bàng huynh nếu không chê, Tân nguyện cùng trở về, giúp huynh một tay!”
Bàng Quyên nắm chặt hai tay Tôn Tân: “Tôn huynh…”


Hồi Thứ 12

Quyết phục thù, Trần Chẩn mưu vét tiền của
Phá gian kế, Bàng Quyên mưu giúp Bạch thiếu gia


Hà Tây thất thế, Ngụy Huệ Vương chốc lát mất trắng bảy trăm dặm đất và hơn tám vạn võ binh, tinh thần lập tức suy sụp, không còn giữ được chế độ hai ngày một tiểu triều, mười ngày một đại triều như trước, mà liền một mạch mười mấy ngày không lên triều. Tất cả mọi việc lớn bé trong triều đều đẩy cho viên đại thần được Huệ Vương tin tưởng, chính là đại tư đồ Chu Uy.
Tuy nhiên, sau nửa tháng cuốn cờ im trống, Ngụy Huệ Vương lại đột ngột lên triều, liên tiếp xuống mấy đạo chiếu thư, một là tước bỏ tước thượng khanh và đại tông bá của Trần Chẩn, giáng xuống làm thượng đại phu; hai là tước bỏ chức thượng tướng quân của công tử Ngang, thu hồi binh phù, nhưng vì có công tập kích quân Tần, tiêu diệt hàng vạn quân địch, nên tấn phong làm An Quốc Quân, thực ấp năm nghìn hộ; ba là phong cho thú thừa Âm Tấn là Trương Mãnh làm thủ tướng Tây Hà, thay Long Giả đảm đương việc phòng ngự người Tần ở Hà Thuỷ, ải Hàm Cốc, Âm Tấn…; bốn là bãi bỏ chức phó tướng của Long Giả, đồng ý cho giải giáp về quê làm ruộng. Còn về người lập mưu trong vụ tập kích quân Tần là Công Tôn Diễn thì không hề nhắc tới.
Một loạt quyết định của Ngụy Huệ Vương khiến toàn bộ triều đình ngỡ ngàng, cũng khiến Trần Chẩn một phen hú vía. Mặc dù nói chức thượng đại phu kém tướng quốc một bậc, nhưng với tình hình hiện nay, việc giữ được chức vị này cũng chẳng phải chuyện dễ dàng, Trần Chẩn cũng không phải là người không hiểu lẽ tiến thoái.
Đã vắt kiệt toàn bộ tâm lực, đi qua một quãng đường vòng lớn, đến cuối cùng mới phát hiện chẳng qua là đang xoay tròn tại chỗ, từ điểm xuất phát lại quay trở về xuất phát điểm, Trần Chẩn suy nghĩ khổ sở, quyết chí làm lại từ đầu. Suy đi tính lại, Trần Chẩn quyết định trước tiên phải dốc toàn lực vào lầu Nguyên Hanh. Thời thế loạn lạc, Trần Chẩn vốn dạn dày thế đạo hiểu rõ sức mạnh của đồng tiền. Lầu Nguyên Hanh là nguồn tiền bất tận của Trần Chẩn, chỉ cần có tiền, mọi việc tiếp theo cũng sẽ trở nên dễ dàng. Ngôi tướng quốc còn một ngày bỏ trống, Trần Chẩn vẫn còn một ngày hy vọng.
Với Trần Chẩn, đời này kiếp này, mặc dù không mơ tưởng được làm quân chủ, nhưng chức tướng quốc hoàn toàn không phải nằm mơ, mà vẫn có khả năng với tới.
Sau khi bãi triều, Trần Chẩn lập tức trở về phủ thay quần áo, sau đó cùng với Thích Quang đi theo con đường bí mật trong hậu hoa viên, vòng vèo một hồi thì tới lầu Nguyên Hanh, tiến thẳng vào mật thất.
Có người đã đợi sẵn ở đó, thấy hai người đến, lập tức mang trà lại.
Thích Quang dặn dò: “Truyền ông chủ Lâm, bảo mang toàn bộ sổ sách tháng này, lập tức đến đây!”
Một lát sau, ông chủ Lâm đã vội vã lên lầu, bái kiến Trần Chẩn, hai tay trình lên một xấp sổ sách dày cộp. Trần Chẩn ngồi trước án, nhấp một ngụm trà, rồi đưa tay cầm lấy, xem kỹ từng hàng. Thích Quang nghiêm chỉnh đứng hầu bên cạnh, ông chủ Lâm quỳ mọp dưới đất, dập đầu chổng mông, đến thở cũng không dám thở mạnh.
Trần Chẩn lật giở soàn soạt, xem kỹ từ đầu đến cuối, rồi ném đánh roạt cuốn sổ xuống bàn, ngẩng phắt đầu lừ mắt nhìn Thích Quang: “Tất cả chỗ này đều là sổ ghi chi tiết, tại sao không có con số tổng?”
Thích Quang cầm cuốn sổ lên, tiện tay ném cho ông chủ Lâm, nghiêm giọng trách mắng: “Còn không mau cho chúa công con số tổng cộng?”
Ông chủ Lâm run rẩy lí nhí: “Hồi bẩm chúa công, ngày mai mới tròn tháng, nên tiểu nhân chưa kịp tính toán.”
Thích Quang liếc thấy bên cạnh vừa hay có một bàn tính, liền bước tới cầm lấy, đưa cho ông chủ Lâm: “Hãy tính ngay tại đây, chân tay nhanh nhẹn lên, đừng để chúa công phải đợi lâu!”
Ông chủ Lâm vội lật cuốn sổ từ đầu đến cuối, bàn tay múa lách cách trên bàn tính một thôi một hồi, rồi dập đầu nói: “Khởi bẩm chúa công, trừ đi các khoản phải chi trả, tháng này kiếm được tổng cộng ba trăm năm mươi bảy lượng vàng.”
Trần Chẩn ngẩng đầu lên, hít vào một hơi thật sâu, rồi từ từ thở ra. Thích Quang phẩy tay về phía ông chủ Lâm, ông ta biết ý liền đứng dậy, từ từ lui ra.
Trần Chẩn bưng chén trà lên, nhấp một ngụm nhỏ, rồi quay sang nói với Thích Quang: “Bạch gia còn có thứ gì đáng giá?”
Thích Quang nói nhỏ: “Bẩm chúa công, phủ chính, hoa viên và mười mấy dãy nhà đều đã bán sạch, bây giờ chỉ còn lại một khu nhà nhỏ, nằm ở phía ngoài đại viện của Bạch gia, là nơi quản gia giữ lại để dưỡng lão, hiện giờ hai vợ chồng cũng đã chuyển tới đó, ba người chen chúc một chỗ, cũng khá là ấm cúng. Nghe nói cô ả kia đang vác bụng bầu, xem ra cũng thật đáng thương!”
“Ừm!” Trần Chẩn lại nhấp một ngụm trà. “Khu nhà đó đáng giá bao nhiêu?”
“Chí ít cũng phải ba trăm lượng vàng!”
“Ồ?” Trần Chẩn suy nghĩ một lát. “Nếu đáng giá như vậy, thì bảo hắn gán luôn đi!”
“Tiểu nhân tuân lệnh!”
“Lấy ra một trăm lượng vàng từ lợi nhuận tháng này!”
Thích Quang vâng một tiếng, sau đó lập tức chạy đi, một khắc sau đã khiêng một chiếc rương quay lại.
“Chuẩn bị xe!”
Chủ tớ hai người đi thẳng tới phủ An Quốc Quân. Nghe báo Trần Chẩn đến, An Quốc Quân công tử Ngang đích thân ra đón, dắt tay Trần Chẩn, chậm rãi đi vào hậu đường. Vừa vào phòng khách, Trần Chẩn liền khom gối định lạy, công tử Ngang vội vàng đỡ dậy, hoảng hốt nói:
“Thượng khanh đại giá đến phủ của bản công tử, tuyệt đối không được hành đại lễ như vậy!”
Trần Chẩn cười gượng: “Thượng khanh gì nữa? Hạ quan là kẻ thổi sáo rơi xuống đáy giếng, kêu đến đâu rơi xuống đến đấy!”
Công tử Ngang thở dài: “Tất cả đều tại bản công tử nhất thời hồ đồ, đã trúng gian kế của Công Tôn Ưởng. Nếu không phải thượng khanh cơ trí, cải tử hoàn sinh, thì không biết giờ này hồn phách của bản công tử đang trôi dạt về đâu!”
Nghe công tử Ngang nói vậy, Trần Chẩn cũng cảm thấy được an ủi phần nào, nhưng ngoài miệng vẫn nói: “Là công tử có phúc tinh chiếu rọi, hạ quan làm gì có công lao? Công tử thuận lợi thăng tiến, giờ đã là quân hầu, mong hãy đoái thương tới hạ quan!”
Công tử Ngang cũng bật ra một tiếng cười nhạt: “Quân hầu cái gì? Không có hổ phù, hiện giờ bản công tử chỉ còn là một cái cọc trơ trụi. Phủ vẫn là phủ cũ, người vẫn là người cũ, chẳng qua chỉ là thay đổi cái biển hiệu trên cửa mà thôi!”
Trần Chẩn than thở: “Công tử xin đừng nói vậy! Người ta sống ở đời, chẳng qua cũng chỉ vì cái biển hiệu đó! Công tử trước đây muốn gì được nấy, có thiếu chỉ là thiếu cái biển hiệu này. Nay biển hiệu đã có rồi, có thể nói công tử đã tâm thành ý toại, chứ đâu như hạ quan, có muốn gì cũng chẳng được nữa rồi!”
Công tử Ngang biết Trần Chẩn muốn nói gì, lập tức hứa hẹn: “Thượng khanh yên tâm, chỉ cần bản công tử còn một hơi thở, ngôi vị tướng quốc sẽ là của thượng khanh! Nếu có ai không phục, dám đến tranh giành, bản công tử sẽ khiến kẻ đó hối hận không kịp!”
Trần Chẩn đứng dậy định bái lạy, công tử Ngang lại ngăn lại. Trần Chẩn bèn vỗ tay, Thích Quang đang đứng nói chuyện với quản gia của công tử Ngang ở phía ngoài nghe thấy, vội vàng bê chiếc rương vào, đặt xuống giữa phòng, hành lễ xong rồi từ từ lui ra.
Công tử Ngang liếc nhìn chiếc rương: “Thượng khanh, thế này là ý gì?”
“Công tử còn nhớ lầu Nguyên Hanh chăng? Công tử có chút tiền vốn ở trong đó, đây chính là phần chia cho công tử!”
“Tiền vốn của bản công tử?” Công tử Ngang ngẩn người, vò đầu day trán một hồi, nhưng vẫn không nhớ ra.
Trần Chẩn mỉm cười: “Là hạ quan trả thay, đương nhiên công tử không nhớ!”
Công tử Ngang hiểu ra ẩn ý của Trần Chẩn, trong lòng cảm động: “Thượng khanh… phải chăng thấy bản công tử không còn quân bổng, chi tiêu bức bách, nên mới nghĩ ra cách này để tiếp tế chút đỉnh?”
“Công tử chớ nên nói vậy!” Trần Chẩn chỉ vào chiếc rương. “Chút tiền mọn này, còn phải mong công tử không chê mà nhận cho mới phải!”
Công tử Ngang mở rương ra, giật bắn mình mà thốt lên: “Ồ, sao nhiều vậy?”
Trần Chẩn cười nói: “Nhờ phúc của công tử, lầu Nguyên Hanh làm ăn cũng hơi khấm khá.”
Công tử Ngang thực lòng khen ngợi: “Thượng khanh không những giỏi trị quốc, mà xem ra còn rất thạo làm ăn!”
“Cũng không dám giấu tướng quân,” Trần Chẩn khẽ thở dài, rồi nói rõ thực tình, “quá nửa số tiền kiếm được đều là của nhà họ Bạch. Lão Bạch Khuê cả đời cần kiệm, nhưng cậu con trai bảo bối của lão lại rất giỏi tiêu hoang, nghe nói tất cả nhà cửa vườn tược đều đã bán sạch!”
“Nói như vậy, thì vốn liếng nhà họ Bạch đã cạn rồi ư?”
“Nghe nói còn một khu nhà nhỏ, hạ quan cũng đã xử lý xong.”
Công tử Ngang mỉm cười: “Thượng khanh làm như vậy, thật cạn tàu ráo máng quá!”
“Công tử quá lời!” Trần Chẩn mỉm cười nham hiểm. “Cha nợ thì con phải trả, đây chính là thiên kinh địa nghĩa!”
“Ha ha ha ha!” Công tử Ngang cười lớn. “Hay cho câu cha nợ thì con trả, thượng khanh nói rất chí lý.”
Hai người cùng cười vang. Rồi công tử Ngang ngừng cười, gập ngón tay lại, gõ nhẹ lên bàn mấy cái: “Thượng khanh đã nghĩ đến bản công tử, bản công tử cũng không thể nhận không lấy không. Nghe nói có một phạm nhân tên gọi Bàng Quyên, có chút dây dưa với thượng khanh, có chuyện này chăng?”
Trần Chẩn cũng thôi cười, gật đầu nói: “Đúng thế, công tử có biết người này?”
“Buổi trưa hôm qua, thú thừa quận Toan Tảo đến phủ trò chuyện, nhân tiện có nói mấy hôm trước có một kẻ đánh lại quan binh, đả thương không ít người ở cửa Túc Tư. Bản công tử bèn hỏi hắn là ai mà ngang ngược làm vậy, ông ta nói đó là tội phạm bỏ trốn, tên gọi Bàng Quyên. Nghe thấy cái tên này, bản công tử bỗng sực nhớ ra, người này vốn là do thượng khanh báo quan, lần này phải bắt bằng được hắn về quy án!”
Trần Chẩn vòng tay nói: “Tạ ơn công tử quan tâm.”

Lần trước do công việc bề bộn, Trần Chẩn suýt nữa quên bẵng mất chuyện Bàng Quyên. Nghe công tử Ngang nhắc đến, Trần Chẩn bỗng thấy chột dạ, nhanh chóng cáo từ ra về, trên đường kể lại sự tình cho Thích Quang nghe.
Trở về đến phủ, Thích Quang vội phái người đi gọi Đinh Tam. Sau khi La Văn chết, Thích Quang đã giao lại chức hộ viện cho Đinh Tam. Đinh Tam vốn là một tên vô lại, thường ngày chỉ biết dẫn theo một đám lâu la đi khắp các phố sinh sự, không có nghề ngỗng gì, bữa đói bữa no chưa nói, mà đến đâu cũng bị người ta coi thường. Từ khi được nhận chức hộ viện, Đinh Tam khác nào diều quạ hoá đại bàng, vô cùng hãnh diện, bèn chọn lấy mười mấy kẻ giỏi đấm đá trong đám thủ hạ làm gia đinh, túc trực canh chừng phủ Trần Chẩn suốt ngày đêm.
Nghe báo Thích gia cho gọi, Đinh Tam ba chân bốn cẳng chạy tới, quỳ xuống bái lạy: “Tiểu nhân Đinh Tam khấu kiến Thích gia!”
“Đứng dậy đi, ngồi xuống đó!”
Đinh Tam lại lạy: “Tạ ơn Thích gia!”
Đinh Tam đứng dậy, nhưng không dám ngồi, mà đứng lom khom một bên.
Thích Quang liếc nhìn gã, chậm rãi nói: “Bàng Quyên đã lộ diện rồi!”
Nghe thấy hai chữ Bàng Quyên, Đinh Tam hai mắt sáng rực: “Thích gia, hắn đang ở đâu?”
“Mấy ngày trước thấy xuất hiện ở cửa Túc Tư.”
“Cửa Túc Tư?” Đinh Tam ngỡ ngàng. “Thảo nào gần đây bặt vô âm tín, thì ra hắn đã bỏ trốn đến tận đó! Thích gia, tiểu nhân sẽ đi bắt hắn về! Lần trước để hắn chạy thoát, tiểu nhân ôm một bụng hậm hực, lần này nhất định phải bắt bằng được hắn cho hả nỗi giận này!”
Thích Quang lừ mắt nhìn gã: “Với bản lĩnh của ngươi, chưa biết ai bắt ai!”
Đinh Tam cúi gằm mặt, không dám lên tiếng.
“Lần trước bảo ngươi trông chừng Bàng sư phụ, ông ta thế nào rồi?”
“Đang bị nhốt trong ngục, vẫn sống tốt, có điều…” Thích Quang đưa mắt nhìn chòng chọc vào Đinh Tam. Đinh Tam bèn vỗ vỗ vào đầu nói tiếp: “Nhưng cái này hình như không còn minh mẫn nữa!”
“Ồ?” Thích Quang thoáng suy nghĩ, rồi gật gù. “Như vậy cũng tốt, tránh để ông ta cả ngày nghĩ ngợi linh tinh, gây thêm phiền phức. Ông ta đã đến phủ được một thời gian, theo lý cũng nên cho ông ta về thăm nhà!”
Đinh Tam ngạc nhiên: “Ồ…”
“Đưa ông ta về!” Giọng Thích Quang đầy ẩn ý. “Con trai ông ta vẫn sống sờ sờ ra đó, tại sao lại bắt chúng ta phải dưỡng lão đưa tang cho được?”
Đinh Tam đảo mắt láo liên một hồi, rồi vỗ đầu kêu lên: “Tiểu nhân hiểu rồi. Ý Thích gia là…”
“Hiểu rồi thì tốt,” Thích Quang lập tức ngắt lời. “Đi đi, theo dõi cho sát sao vào, lần này nếu lại làm hỏng việc, chúa công trách tội, Thích gia sẽ không bao biện nổi cho các ngươi nữa đâu!”
“Thích gia yên tâm, chỉ cần tên tiểu tử đó lộ diện, tiểu nhân nhất định sẽ bắt trói hắn giải về!”
***
Bàng Quyên bất ngờ có thêm một trợ thủ là Tôn Tân, rất đỗi vui mừng. Hai người men theo bờ Hà Thuỷ đi suốt đêm, mấy hôm sau đã tới nước Hàn.
Vào ranh giới nước Hàn, hai người lại càng bạo gan hơn, cứ đi theo ven bờ Hà Thuỷ mấy ngày thì đến Lạc Dương. Hai người tìm nhà trọ rồi ở lại vương thành, Bàng Quyên đếm thấy chỉ còn hơn mười lượng vàng, liền lấy ra mười lượng đưa cho Tôn Tân: “Tôn huynh, huynh hãy đi mua một cỗ xe ngựa, tiền không còn bao nhiêu, mua xe cũ cũng được, chỉ cần trông tàm tạm là ổn.”
Tôn Tân đi ra chợ, vừa hay gặp người rao bán xe ngựa. Tôn Tân xem qua cỗ xe, thấy là xe mới, ngựa cũng là ngựa tốt, liền đến hỏi. Người bán ra giá mười ba lượng vàng. Tôn Tân bản tính thật thà, không biết mặc cả, thấy tiền không đủ bèn quay người bỏ đi. Người bán thấy Tôn Tân thực ý muốn mua, liền gọi với theo: “Quan khách định trả bao nhiêu?”
Tôn Tân vòng tay vái, rồi thực tình đáp: “Tại hạ chỉ có mười lượng!”
Người bán nhìn kỹ Tôn Tân, rồi thở dài mà nói: “Thấy cậu là người thật thà, ta lại đang cần tiền gấp, mười lượng thì mười lượng!”
Tôn Tân bỏ mười lượng vàng ra, nhận lấy xe ngựa, phấn khởi đánh về quán trọ, dừng xe trước sân, rồi vội vàng chạy lên phòng trọ.
Tôn Tân gõ cửa. Có người đi ra, nhưng không phải Bàng Quyên, mà là một người đàn ông râu ria xồm xoàm, lối ăn bận giống hệt thương nhân nước Vệ. Tôn Tân kinh ngạc, bèn vòng tay hỏi: “Nhân huynh, tại hạ vào nhầm phòng, thực xin lỗi!”
Người này phá lên cười rồi nói: “Nhân huynh không vào nhầm phòng đâu!”
Tôn Tân ngẩn ra, định thần nhìn kỹ, thì ra chính là Bàng Quyên đã cải trang. Tôn Tân cười nói: “Không nhìn kỹ, quả thực không thể nhận ra!”
“Tôn huynh nhìn lại xem, cải trang thế này đã giống thương nhân nước Vệ chưa?”
“Thương nhân nước Vệ?”
“Đúng thế!” Bàng Quyên lại cười lớn mà nói. “Thương nhân nước Vệ đi khắp thiên hạ, đâu chỉ có một mình ta? Tôn huynh, bắt đầu từ bây giờ, tại hạ vẫn họ Long, gọi là Long gia!”
Tôn Tân lúc này mới bừng hiểu, lại vòng tay vái mà nói: “Tại hạ xin chào Long gia!”
Bàng Quyên đưa cho Tôn Tân một bộ quần áo: “Long gia là thương nhân giàu có, không thể không có người hầu đi theo, tại hạ đành phải làm khó Tôn huynh vậy. Trang phục tại hạ đã chuẩn bị xong, Tôn huynh hãy thử xem có vừa không!”
Tôn Tân mặc bộ đồ người hầu vào, đi đến trước gương ngắm nghía, rồi đứng thẳng người, vòng tay mà nói: “Tiểu nhân bái kiến thiếu gia!”
Bàng Quyên cười lớn mà nói: “Này Tôn huynh, có vẻ như Tôn huynh chưa làm người hầu bao giờ đúng không? Phải như thế này…” Nói đoạn mô phỏng bộ dạng của người hầu gặp chủ, khom lưng mà bẩm. “Thiếu gia gọi tiểu nhân có gì căn dặn?”
Tôn Tân học theo bộ dạng của Bàng Quyên: “Thiếu gia gọi tiểu nhân có gì căn dặn?”
Bàng Quyên ngẩng cao đầu, kéo dài giọng kẻ cả: “Xe ngựa đã chuẩn bị xong chưa?”
Tôn Tân lớn giọng trả lời: “Hồi bẩm thiếu gia, đã chuẩn bị xong!”
“Bản thiếu gia muốn đi An Ấp một chuyến, lập tức khởi hành!”
Tôn Tân cũng bắt chước đúng kiểu, tiến lên đỡ lấy Bàng Quyên: “Thiếu gia, mời!”
Tôn Tân đánh xe đi thẳng về phía Mạnh Tân, vượt qua Hà Thuỷ, chưa đầy một ngày đã tới An Ấp nước Ngụy.
Theo chỉ dẫn của Bàng Quyên, Tôn Tân đi vào thành từ cổng nam, đánh xe thẳng tới phố Tây Nhai. Khi sắp đến hiệu may họ Bàng, Bàng Quyên nói khẽ: “Tôn huynh, cửa hiệu phía trước chính là hàn xá của tại hạ, huynh hãy đi chậm một chút, nhưng chớ dừng lại!”
Tôn Tân cho xe ngựa đi chậm lại, từ từ băng qua trước cửa hiệu. Bàng Quyên nhìn qua rèm cửa xe, thấy cánh cửa mở rộng, lại nhìn khắp xung quanh một lượt, thấy không có điều gì khác thường mới thở phào nhẹ nhõm.
Xe ngựa đi qua cửa hiệu nhà họ Bàng, một lát sau thì đến một ngã tư, Tôn Tân hỏi nhỏ: “Long gia, phía trước là ngã tư, nên đi đường nào?”
“Rẽ bên phải, đi thêm ba trăm bước sẽ đến quán trọ Thiên Thuận, ta nghỉ lại đó!”
Tôn Tân dạ một tiếng, rồi ra roi, xe ngựa lập tức rẽ sang phố Bắc Nhai, rồi dừng trước quán trọ Thiên Thuận. Hai tên hầu nghe thấy có tiếng xe ngựa, vội vàng chạy ra, một tên đỡ Bàng Quyên xuống, xách hành lý, còn một tên nhận dây cương và roi ngựa từ tay Tôn Tân, đánh xe về sân sau. Tiểu nhị xum xoe chạy ra cúi người nghênh đón.
Bàng Quyên hỏi: “Ông chủ của ngươi đâu?”
“Đã đến lầu Nguyên Hanh rồi. Khách quan muốn ở trọ ư?”
“Điên à, không ở trọ thì đến đây làm gì? Ta muốn một căn phòng yên tĩnh, căn phòng ở góc tây bắc sân sau ấy!”
Tiểu nhị cười hì hì: “Ồ, quan gia thông thuộc tệ quán như vậy, xin hỏi phải chăng quan gia đã từng ở đây?”
Bàng Quyên cũng cười đáp: “Đương nhiên là đã từng ở. Ba năm trước, bản thiếu gia đã đến đây, và ở trong chính căn phòng đó!”
“Khách quen, hay quá!” Tiểu nhị lấy sổ sách ra, đưa bút mực cho Bàng Quyên. “Mời khách quan ghi danh, đặt một ít tiền cọc!”
Bàng Quyên nhận lấy bút, viết vào sổ hai chữ “Long mỗ”, rồi móc từ trong tay áo ra hai lượng vàng: “Từng này đủ chưa?”
Tiểu nhị cười toe toét: “Đủ rồi, đủ rồi! Long thiếu gia, xin mời!”
Tiểu nhị xách theo hành lý, đi trước dẫn đường. Tôn Tân, Bàng Quyên đi theo sau, đến căn phòng ở góc tây bắc của khu sau. Tiểu nhị mở cửa, người hầu đi theo mang hành lý xếp vào trong phòng.
Bàng Quyên lấy từ trong tay áo ra một xu tiền đồng, đưa cho tiểu nhị: “Thưởng cho ngươi!”
Tiểu nhị nhận tiền, cười mà nói: “Tạ ơn Long gia! Long gia nếu cần đến tiểu nhân, xin cứ sai bảo!”
Bàng Quyên tiện miệng nói: “Bản thiếu gia có một chuyện nhỏ làm phiền tiểu nhị. Lần này bản thiếu gia lên đường, đi hơi gấp gáp, quần áo không chuẩn bị đủ, muốn may thêm vài bộ, tiểu nhị có biết xung quanh đây sư phụ nào tay nghề giỏi nhất?”
Tiểu nhị thở dài: “Ồ, nếu như năm ngoái Long gia đến đây, tiểu nhân có thể giới thiệu cho Long gia một vị sư phụ, có điều hiện giờ…”
Bàng Quyên làm ra vẻ ngạc nhiên, hỏi: “Ồ, hiện giờ thì sao?”
Tiểu nhị buồn bã nói: “Không giấu gì Long gia, vị sư phụ đó họ Bàng, là người tốt, nhưng không biết tại sao mà giờ đây nhà tan cửa nát. Tiểu nhân nghe nói, hiện giờ Bàng sư phụ đã thành phế nhân, e rằng không thể may vá được nữa!”
“Phế nhân?” Bàng Quyên kinh ngạc hỏi. “Tại sao vị sư phụ này lại trở thành phế nhân?”
Tiểu nhị lại thở dài, hạ thấp giọng nói: “Chuyện này tiểu nhân cũng chỉ nghe nói, chưa được chứng thực, Long gia có nghe cũng biết vậy thôi nhé! Nghe người ta nói, Bàng sư phụ có tài may vá tuyệt đỉnh, nhưng mấy tháng trước lại đột nhiên mất tích. Con trai của ông ta đã đi tìm kiếm khắp nơi mà không tìm thấy, sau đó anh con trai chẳng hiểu sao lại trở thành tội phạm giết người, bị truy nã gắt gao. Hiệu may họ Bàng đóng cửa mấy tháng trời, nhưng mấy hôm trước lại đột nhiên mở cửa, nghe nói là Bàng sư phụ đã trở về. Có người gặp ông ấy, nói rằng người không ra người, ma chẳng ra ma, cứ như người chết rồi!”
Bàng Quyên sắc mặt trắng bệch, ngồi ngây ra một lát mới cố rặn ra được một nụ cười, nói: “Nói vậy là bản thiếu gia không thể may thêm quần áo được rồi. Tiểu nhị, ngươi hãy dọn chút đồ ăn lên đây, bản thiếu gia đói rồi!”
Tiểu nhị đáp “có ngay”, rồi lanh lẹ bước đi.
Thấy tiểu nhị đã đi xa, Bàng Quyên đóng sầm cửa lại, rồi dựa người vào cánh cửa, mắt nhắm nghiền, hai hàng lệ ròng ròng chảy xuống.
Tôn Tân cũng thương cảm, bước đến an ủi: “Bàng huynh, lời tiểu nhị chưa chắc đã đúng. Lệnh tôn có lẽ…”
Bàng Quyên đưa tay áo lau nước mắt, nghẹn ngào nói: “Tôn huynh không cần nói nữa! Gia phụ rơi vào tay gian tặc, còn sống được đến hôm nay đã là may mắn lắm rồi!”
Tôn Tân ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Bàng huynh, huynh thấy thế này có được không? Đợi lát nữa, tại hạ sẽ đích thân đến thăm dò để xác minh sự thật. Nếu lệnh tôn quả đúng như lời tiểu nhị, chúng ta sẽ lập tức cứu lệnh tôn thoát khỏi nơi này, tìm lương y cứu chữa!”
Bàng Quyên gật đầu nói: “Vậy hãy làm theo lời Tôn huynh! Tôn huynh nhất định phải cẩn thận! Chúng đang giam giữ gia phụ, hôm nay lại đột ngột thả ra, chắc chắn có điều gian trá!”
“Bàng huynh yên tâm!”
Hai người đang trò chuyện thì tiểu nhị quay lại, gõ cửa gọi: “Cơm rượu đã chuẩn bị xong xuôi, mời hai vị khách quan đi dùng bữa!”
Hai người đưa mắt nhìn nhau, rồi theo tiểu nhị đến phòng ăn, quả nhiên thấy trên bàn đã bày mấy món nóng, mấy món nguội và một vò rượu. Bàng Quyên bảo Tôn Tân ngồi xuống, rót đầy chén rượu, cùng uống với Tôn Tân. Rồi đưa đũa gắp một miếng thức ăn đưa lên miệng, vừa nhai đã nhổ ngay ra, sau đó nếm thử tất cả các món ăn trên bàn, sắc mặt sầm xuống, quát lớn: “Tiểu nhị!”
Tiểu nhị vẻ như đã biết mình sai, hớt hải chạy lại gần, khom lưng thật thấp: “Long gia…”
“Các ngươi nấu nướng kiểu quái gì thế?”
“Long thiếu gia bớt giận. Món ăn của quán chúng tôi vốn dĩ rất ngon…”
Bàng Quyên cầm đũa gõ xuống bàn: “Bản thiếu gia cũng thấy quán các ngươi có rượu ngon thức ăn ngon nên mới đến trọ, ai ngờ mới mấy ngày không đến mà mùi vị đã thậm tệ đến thế này, món thì quá mặn, món thì quá nhạt, không thể nào nuốt nổi!”
Tiểu nhị nhăn nhó thở dài, nở một nụ cười biết lỗi mà nói: “Than ôi, không giấu gì thiếu gia, vốn dĩ quán chúng tôi nấu nướng rất khá, chỉ vì tháng trước mới thay chủ quán nên tất cả đều đã thay đổi. Ông chủ mới không biết kinh doanh, từ sáng đến tối chỉ ham đánh bạc, chưa đầy một tháng, mấy đầu bếp cũ đều bỏ đi hết. Tiểu nhân bất đắc dĩ mới phải tìm đại một người thay tạm. Bọn họ mới đến còn bỡ ngỡ, nên đồ ăn làm chưa được ngon miệng, mong Long thiếu gia bỏ quá cho!”
Bàng Quyên như đã hiểu ra: “Chẳng trách nơi này vắng tanh vắng ngắt, té ra là đã thay chủ quán! Tiểu nhị, bản thiếu gia hỏi ngươi, ông chủ mới là ai?”
“Ngô thiếu gia!”
“Ngô thiếu gia nào?”
“Chính là nhị thiếu gia của tư nông đại nhân. Ông chủ cũ đến lầu Nguyên Hanh đánh bạc, thua nhẵn cả tiền, cả quán trọ này cũng phải mang cầm cố nốt!”
Bàng Quyên ngạc nhiên: “Vậy ông chủ cũ giờ ở đâu?”
Tiểu nhị lắc đầu, lại thở dài: “Than ôi, có quỷ mới biết đã đi đâu. Từ sau hôm đó, ông chủ chưa thấy quay về!”
Bàng Quyên cố tình hỏi: “Lầu Nguyên Hanh là chỗ thế nào, tại sao bản thiếu gia chưa từng nghe tới?”
Tiểu nhị bước đến, ghé sát tai Bàng Quyên nói nhỏ: “Long thiếu gia có điều chưa biết, lầu Nguyên Hanh mới được khánh thành cách đây mấy tháng, quy mô bài trí bên trong, đúng là số một trong liệt quốc, không phải người giàu có sang trọng, đừng mong bước chân vào! Tiểu nhân nghe nói, trong đó có một con ma hút tiền, đừng nói đến ba lượng dăm đĩnh, cho dù có mười lượng trăm lượng, hễ đi qua cửa, cũng biến mất tăm mất dạng!”
Bàng Quyên cười nói: “Hừ, ngươi doạ ta đấy ư? Bản thiếu gia mới chỉ nghe thấy trong thiên hạ có ma hút máu, chưa từng nghe nói có ma hút tiền!”
“Có ma hút tiền thật đấy! Ông chủ cũ chưa bao giờ đánh bạc, nhưng một hôm đi ngang qua trước cửa lầu Nguyên Hanh, bỗng nhiên hai mắt đờ dại, rồi cứ thế chạy thẳng vào trong. Tiểu nhân tận mắt nhìn thấy ông chủ đi vào, cố kéo lại mà kéo kiểu gì cũng không được. Nhìn vào con mắt, thấy đỏ ngầu như máu, chỉ có người gặp phải ma quỷ mới như vậy!”
Bàng Quyên gật gù: “Nếu nói như vậy, con ma trong lầu Nguyên Hanh đúng là hại người không biết ghê tay!”
Giọng tiểu nhị dường như chỉ còn thì thào trong cổ họng: “Long thiếu gia nói đúng lắm. Trong những người đến đó, so với một số người khác, ông chủ cũ của chúng tôi vẫn chưa phải là thê thảm nhất!”
“Ồ, ngươi nói xem, ai mới là thê thảm nhất?”
“Có biết thiếu gia nhà họ Bạch không? Khắp thành này đều nói, Bạch thiếu gia đã bị con ma hút tiền trong lầu mê hoặc, hầu như ngày nào cũng vác theo một túi tiền lớn đến lầu Nguyên Hanh. Chưa đầy mấy tháng, ngân khố trong phủ Bạch tướng quốc đã bị hắn ta khoắng sạch, hiện giờ ngay cả nhà cửa ruộng vườn của Bạch gia cũng đã bán sạch trơn!”
Bàng Quyên giật mình, đưa mắt nhìn Tôn Tân: “Nói như vậy, Bạch thiếu gia đúng là đã bị ma quỷ mê hoặc mất rồi! Tiểu nhị, những món này của ngươi ta nuốt không nổi, mang đổ hết đi, cứ tính tiền, như bình thường là được!”
Tiểu nhị vâng dạ, rồi tay chân thoăn thoắt thu dọn bát đĩa. Thấy tiểu nhị đã đi, Bàng Quyên nói nhỏ với Tôn Tân: “Tôn huynh, huynh hãy mau lên phố Tây Nhai, tại hạ sẽ ở đây đợi!”
Tôn Tân đồng ý, lập tức rảo bước ra ngoài.
Trên phố không thấy có người đi lại. Tôn Tân giờ đã cải trang thành người hầu ung dung đi trên đường, chẳng mấy chốc đã đến phố Tây Nhai, theo lời dặn của Bàng Quyên, trước tiên đến ngồi một lát tại quán bán giá đỗ bên cạnh hiệu may họ Bàng, lân la hỏi giá mua, ngó nghiêng từng vại giá đỗ trong nhà, sau đó mới kiếm cớ ra khỏi quán, đến trước hiệu may họ Bàng.
Cánh cửa khép hờ, Tôn Tân gõ cửa hai cái, gọi lớn: “Có ai không?”
Không có tiếng trả lời.
Tôn Tân lại gõ cửa, nhưng vẫn không thấy ai đáp, bèn đẩy mạnh cánh cửa, rồi đi thẳng vào trong. Trong cửa hiệu lạnh lẽo hoang tàn, bẩn thỉu bừa bộn. Do đã mấy tháng không có người ở, lại là mùa hè, nên trong nhà sặc mùi ẩm mốc, góc tường, xà nhà giăng kín mạng nhện.
Ngồi bên bàn cắt may ở bên trái cửa hiệu là Bàng Hành tuổi đã ngoài năm chục, đầu tóc rối bù, ánh mắt đờ đẫn, bên cạnh đặt một cây kéo cắt vải, phía trước là một đống vải nát vụn.
Tôn Tân đi lại gần, rồi dừng bước trước mặt ông ta, mắt nhìn chăm chú. Bàng Hành nhìn mà như không thấy, đầu cũng chẳng buồn ngẩng lên, dường như Tôn Tân không hề tồn tại. Song hai bàn tay của ông ta không nghỉ lấy một chốc, lúc thì cầm kéo cắt vải, lúc lại xâu kim kéo chỉ, khâu ráp từng mảnh vải vừa bị cắt vụn.
Tôn Tân khẽ gọi: “Bàng sư phụ!”
Bàng Hành dường như vẫn không nghe thấy, cứ liên tay hết cắt lại may, trong miệng còn lẩm bẩm câu gì. Một lát sau, cuối cùng Tôn Tân cũng nghe ra, ông ta chỉ lặp đi lặp lại một cái tên: “Quyên Nhi…”
Tôn Tân trong lòng chua xót, đứng thêm một lúc nữa, rồi quay người rảo bước đi.
Đúng vào lúc Tôn Tân bước ra khỏi cửa hiệu may họ Bàng, đi theo con phố phía bắc, thì trong một tiệm tạp hoá đối diện với hiệu may, Đinh Tam và hai người khác đang nhìn Tôn Tân không rời mắt.
Thấy Tôn Tân đã đi xa, Đinh Tam bèn căn dặn: “Các ngươi ở đây canh chừng, ta đi một lát sẽ về.”
Đinh Tam lách người ra khỏi cửa tiệm, lẳng lặng bám theo Tôn Tân từ đằng xa. Gã bám theo từ phố Tây Nhai đến phố Bắc Nhai, thấy Tôn Tân đi vào quán trọ Thiên Thuận, do dự một lát rồi cũng theo vào. Đi vào qua cổng, thì không thấy Tôn Tân đâu nữa.
Tiểu nhị vội chạy ra đón tiếp, thấy là Đinh Tam thì giật nảy mình: “Đinh gia?”
Đinh Tam đứng ngoài cổng, vẫy tay gọi: “Ngươi ra đây một lát!”
Tiểu nhị vội vàng đi theo Đinh Tam. Đến một chỗ khuất nẻo, Đinh Tam mới hỏi: “Người vừa đi vào lúc nãy là ai?”
“Bẩm Đinh gia, đó là người hầu của một vị khách quan.”
“Khách quan? Khách quan gì? Từ đâu đến?”
“Bẩm Đinh gia, là người nước Vệ, mới đến từ hôm qua, gọi là Long gia, nói rằng mấy năm trước từng đến trọ tại quán này, là khách quen của tệ quán.”
Nghe thấy hai chữ khách quen, Đinh Tam mới thở phào nhẹ nhõm: “Người đó hình dáng thế nào?”
Tiểu nhị ngẫm nghĩ một lát rồi miêu tả: “Dáng người cao to vạm vỡ, phải rồi, còn râu ria xồm xoàm khắp mặt.”
“Râu ria?” Đinh Tam nhăn mặt lẩm bẩm. “Quái lạ thật, nếu không phải hắn, thì đến hiệu may họ Bàng làm gì?”
Nghe thấy mấy chữ “hiệu may họ Bàng”, tiểu nhị chợt hiểu ra, vội giải thích: “Bẩm Đinh gia, Long gia từng hỏi tiểu nhân, nói là lên đường gấp gáp nên không mang đủ quần áo, muốn may thêm mấy bộ tại đây, bảo tiểu nhân giới thiệu cho một hiệu may tốt. Cũng tại tiểu nhân lắm mồm, nên đã nhắc tới Bàng sư phụ ở phố Tây Nhai. Có lẽ Long gia thấy tò mò, nên đã phái người hầu đến xem thế nào.”
“Được rồi!” Đinh Tam lại làm mặt tươi cười. “Chuyện này đến đây là xong, cấm ngươi bép xép.”
“Đinh gia yên tâm, tiểu nhân biết mình phải làm thế nào!”
“Còn nữa, giúp ta để mắt đến kẻ đó. Nếu có điều gì khác thường, biết phải đi đâu tìm ta rồi chứ?”
“Tiểu nhân biết!”
Sau khi Đinh Tam đi rồi, tiểu nhị quay về quán trọ, nghĩ ngợi một hồi, rồi nhẹ nhàng đi đến căn phòng ở góc tây bắc, đứng sát cánh cửa, ghé tai nghe ngóng. Cánh cửa bỗng thình lình bật mở, tiểu nhị không kịp đề phòng, ngã cắm cổ về phía trước, lao thẳng vào người Bàng Quyên. Bàng Quyên trụ vững thân người, tiện tay xô mạnh một cái, tiểu nhị liền ngã bổ ngửa xuống đất.
Bàng Quyên lạnh lùng đưa mắt nhìn tiểu nhị: “Tiểu nhị, ngươi lén lút thậm thụt ở đây làm gì?”
Tiểu nhị đuối lý, đờ miệng cứng họng không nói được gì.
Bàng Quyên mắt lộ hung quang, quát lên như sấm: “Ngươi còn không chịu nói?”
Tiểu nhị lắp bắp: “Long… Long gia, tiểu… tiểu nhân… không… không dám giấu…”
“Vậy thì nói đi!”
“Là… là Đinh gia, lúc nãy Đinh gia có đến, gọi tiểu nhân ra hỏi dò về Long gia, còn dặn tiểu nhân theo dõi Long gia. Tiểu nhân nhất thời… hiếu kỳ, nên… nên định đến xem thử.”
Bàng Quyên chau tít đôi mày: “Đinh gia? Đinh gia nào?”
“Chính là Đinh Tam, hộ viện trong phủ thượng đại phu.”
Bàng Quyên hai mắt toé hàn quang: “Tiểu nhị, ngươi đã nói với hắn những gì?”
Tiểu nhị vội nói: “Bẩm… bẩm Long gia, tiểu nhân không nói gì cả, chỉ nói thiếu gia là khách quen. Đinh gia lại hỏi hình dáng của thiếu gia, tiểu nhân nói, thiếu gia có nhiều râu. Đinh gia nghe thấy vậy thì lẩm bẩm ‘Không phải hắn thì đến hiệu may họ Bàng làm gì?’ Tiểu nhân nhất thời lắm mồm, nên đã kể lại chuyện thiếu gia muốn tìm Bàng sư phụ may quần áo. Đinh gia nghe thấy vậy liền gật đầu nói, chuyện này đến đây là xong, cấm bép xép, còn dặn tiểu nhân để mắt đến Long gia.”
Bàng Quyên suy nghĩ một thoáng, rồi thở phào, bật cười mà nói: “Cái gì mà Đinh gia với búa gia, bản thiếu gia chẳng hề quen biết kẻ này! Nếu hắn lại đến, ngươi bảo hắn hãy dè chừng đấy. Nếu còn tiếp tục đến quấy rầy, làm bản thiếu gia tức giận, mặc kệ hắn là cái gì gia cũng sẽ biết tay ta!”
Tiểu nhị gật đầu lia lịa, vâng dạ luôn miệng. Bàng Quyên lại lấy từ trong tay áo ra một xu tiền đồng: “Coi như ngươi biết điều, thưởng cho ngươi!”
Tiểu nhị tạ ơn một thôi một hồi rồi mới nhận, lúc chuẩn bị đi còn nói: “Long gia yên tâm, nếu Đinh Tam lại đến, cho dù hắn có nói gì, tiểu nhân sẽ bẩm lại toàn bộ với Long gia!”
“Đi đi, bản thiếu gia còn bận chút việc!”
Tiểu nhị vòng tay vái lạy, lùi lại mấy bước rồi mới vội vàng chạy đi. Thấy tiểu nhị đã đi xa, Bàng Quyên mới đóng cửa lại, đi vào trong phòng. Tôn Tân lập cập một lúc mới hạ giọng than thở: “Than ôi, tại hạ đã hết sức cẩn thận, không ngờ vẫn bị hắn bám theo. Nếu không phải Bàng huynh thận trọng, e rằng đã làm hỏng việc lớn!”
“Tôn huynh, đừng nói chuyện này nữa, đã gặp gia phụ hay chưa?”
Tôn Tân gật đầu.
Bàng Quyên vội hỏi: “Gia phụ… thế nào rồi?”
“Lệnh đường chẳng nhớ gì nữa, tại hạ gọi nhưng ông cứ như không nghe thấy, chỉ ngồi đờ đẫn, liên tục cắt vụn vải ra rồi lại may vào, miệng không ngừng lẩm bẩm gọi ‘Quyên Nhi’…”
Bàng Quyên hai tay bưng mặt, bật khóc. Thấy Bàng Quyên khóc, Tôn Tân cũng ứa nước mắt theo. Hai người ngồi rầu rĩ một hồi, Tôn Tân ngẩng lên khuyên nhủ:
“Bàng huynh, nhìn lệnh tôn, thấy thân thể không có vấn đề gì, là bệnh ở trong tâm. Tại hạ nghĩ, nếu như gặp được Bàng huynh, bệnh của lệnh tôn chắc chắn sẽ có biến chuyển!”
Bàng Quyên vẫn nghẹn ngào: “Nếu quả như vậy, thực là phúc lớn!”
“Bàng huynh, chuyện này không nên kéo dài, chúng ta phải nghĩ cách nhanh chóng cứu lệnh tôn!”
Bàng Quyên trầm tư một lát, rồi ngẩng đầu nói: “Nghe Tôn huynh nói vậy, tại hạ cũng thấy an tâm hơn nhiều! Huynh hãy đi chuẩn bị xe, tại hạ sẽ đến Bạch phủ một chuyến!”
Tôn Tân kinh ngạc: “Bạch phủ?”
“Đúng, tại hạ muốn gặp tên phá gia chi tử đó!”
“Bàng huynh định cứu hắn?”
“Không phải cứu hắn, mà là siết chặt cần cổ gian tặc. Đối với tên gian tặc kia, tại hạ chẳng qua chỉ là một con tép nhỏ, Bạch thiếu gia mới là con cá lớn. Lần này tại hạ tới đó, là muốn xương của con cá lớn này mắc trong cổ họng của tên gian tặc, khiến hắn hóc mà chết!”

Bạch phủ nằm ở phía đông nam cung thành, rộng gần trăm mẫu. Trong thành An Ấp, ngoài cung thành của Ngụy Huệ Vương, thì đây chính là phủ đệ rộng lớn nhất. Phủ này đã được ba đời nhà họ Bạch mua dần từng chút một.
Tuy nhiên, tất cả số tài sản này sau khi được trao vào tay Bạch Hổ, chỉ vỏn vẹn mấy tháng, hắn đã bán sạch toàn bộ mười mấy khu trạch viện, mấy trăm căn nhà, cùng hoa viên trị giá hàng trăm lượng vàng, tất cả những đồ vật giá trị, ngọc ngà châu báu trong nhà cũng đều nhanh chóng đội nón ra đi, được bao nhiêu ném hết vào lầu Nguyên Hanh.
Hiện giờ, chỉ còn sót lại một khu nhà nhỏ duy nhất, nó không nằm trong Bạch phủ, vì đây là khu đất Bạch Khuê tặng lại cho lão quản gia dưỡng lão. Tận mắt thấy Bạch Hổ phá bại toàn bộ gia sản khổng lồ, lão quản gia lòng đau như cắt, đã ra sức khuyên can thiếu gia đừng đến lầu Nguyên Hanh nữa, nhưng không thể ngăn được. Hiện giờ Bạch Hổ đến tấc đất cắm dùi cũng không còn, người hầu kẻ hạ trong nhà đều đã bỏ đi hết, lão quản gia đành phải đưa hai vợ chồng về khu nhà nhỏ của mình.
Buổi trưa hôm nay, Bạch Hổ lục lọi tung toé khắp nhà, nhưng chỉ tìm được mấy xu tiền lẻ. Bạch Hổ ném đám tiền đồng loảng xoảng xuống đất, lớn giọng quát: “Quản gia!”
Lão quản gia vội vàng bước vào, run giọng mà hỏi: “Thiếu gia, có gì sai bảo?”
Bạch Hổ thở phì phò mà hỏi: “Vàng đâu hết rồi?”
“Thiếu gia đã thua hết rồi còn đâu?”
“Chẳng phải bảo ông bán nhà ư?”
“Nhà, vườn đều đã bán cả rồi!”
Bạch Hổ sững người, dường như không tin nổi vào tai: “Cái gì, từng ấy đất đai nhà cửa, đã bán hết rồi ư?”
Lão quản gia thở dài sườn sượt, chỉ cúi đầu không nói. Bạch Hổ chỉ tay vào khu nhà: “Vậy… còn căn nhà này?”
Lão quản gia thấy hắn nhắc đến khu nhà, không tiện nói gì thêm, chỉ khuyên: “Thiếu gia, xin nghe lão nô nói một câu, hãy dừng lại đi, đừng đánh bạc nữa!”
“Không đánh bạc?” Bạch Hổ hai mắt trợn trừng. “Đại trượng phu sống ở trên đời, không đánh bạc thì còn gì thú vị? Ta hỏi ông, khu nhà này có phải của nhà họ Bạch hay không?”
Lão quản gia đành phải gật đầu.
Bạch Hổ thấy vậy, liền nói: “Đã là của nhà họ Bạch, vậy ông hãy đi ngay, mang khế ước đi cầm cố cho ta, lấy ít vàng về đây. Nói cho ông biết, hôm nay thiếu gia nhất định sẽ thắng!”
Lão quản gia chảy nước mắt mà nói: “Thiếu gia, nếu thua nốt khu nhà này, thì ngay cả mảnh đất cắm dùi cũng chẳng còn nữa. Cái khác không nói, hiện giờ thiếu phu nhân đang thế này, tuyệt đối không thể lang thang đầu đường xó chợ!”
Nghe thấy ba chữ “thiếu phu nhân”, Bạch Hổ mắt bỗng vụt sáng, liền sải chân bước vào trong phòng. Khởi Y bụng chửa vượt mặt nãy giờ đã nghe được câu chuyện giữa hai người, thấy Bạch Hổ đi vào, liền quỳ xuống khóc mà nói: “Phu quân, thiếp cầu xin phu quân tỉnh ngộ, đừng đánh bạc nữa!”
Bạch Hổ chẳng ngó ngàng gì đến, vòng qua Khởi Y, đi thẳng tới trước bàn trang điểm, lôi tất cả các ngăn kéo ra, cuối cùng cũng lục được một hộp gấm, mở ra thì thấy bên trong toàn là đồ trang sức vàng ngọc. Bạch Hổ biết đây là những món Bạch Khuê đích thân tặng cho Khởi Y khi xuất giá vào năm ngoái, cũng là những món hồi môn cuối cùng mà nàng còn giữ được.
Bạch Hổ bỏ luôn chiếc hộp vào một vuông nhiễu, cẩn thận gói lại, vừa gói vừa nói: “Phu nhân, sáng sớm hôm nay, vào lúc canh năm, ta mơ thấy cá chép vượt long môn, là điềm báo tốt lành, chắc chắn sẽ thắng!”
Khởi Y vẫn quỳ dưới đất, hai hàng lệ lặng lẽ chảy dài: “Phu quân…”
Bạch Hổ chau mày, đưa tay đỡ Khởi Y dậy, rồi dìu đến bên giường: “Phu nhân, chẳng qua là ta mang chút đồ này gửi ở hiệu cầm đồ, sau khi thắng được tiền sẽ chuộc về, không thiếu của phu nhân một thứ, phu nhân cứ yên tâm ngồi nhà chờ ta!”
Khởi Y khẽ lắc đầu, nước mắt lã chã như mưa, nấc nghẹn: “Thiếp… thiếp không nói tới những vật này!”
Bạch Hổ ngạc nhiên hỏi: “Không phải vật này? Vậy nàng muốn nói gì?”
Khởi Y đặt hai bàn tay lên cái bụng lùm lùm, nhìn Bạch Hổ với ánh mắt ai oán: “Chuyện khác không nói làm gì, phu quân cũng phải nghĩ cho con chứ!”
Nhìn thấy cái bụng của Khởi Y, Bạch Hổ từ từ cúi gục đầu xuống. Một lát sau, Bạch Hổ quỳ xuống trước Khởi Y, áp mặt vào bụng nàng, đôi môi khẽ mấp mấy.
Khởi Y khóc mà nói: “Nghe bà mụ nói, chỉ còn hai tháng nữa, Tiểu Bạch Khởi sẽ chào đời!”
Đột nhiên, Bạch Hổ hai mắt loé sáng, nhấc mặt khỏi bụng Khởi Y, đứng bật dậy, đi đến bên bàn, cầm lấy hộp trang sức, rồi quả quyết nói: “Phu nhân, chỉ đánh lần cuối cùng này thôi, chắc chắn ta sẽ thắng!” Nói đoạn, hiên ngang sải bước ra khỏi cửa tựa như chinh nhân lên đường, nhanh chóng mất hút.
Khởi Y ngồi bên mép giường, chết lặng một hồi, sau đó đứng dậy, bước ra khỏi phòng, nhìn lão quản gia với ánh mắt tuyệt vọng.
Lão quản gia dập đầu dưới đất, khóc mà nói: “Thiếu phu nhân…”
Khởi Y lau nước mắt nói: “Mau… mau đi mời Công Tôn Diễn!”
Lão quản gia chợt bừng tỉnh, không kịp nói gì, vội đứng dậy rảo bước ra khỏi cửa.

Trong nhà của Công Tôn Diễn, Chu Uy, Công Tôn Diễn đang ngồi đối diện qua một chiếc bàn. Trên bàn không có thức ăn, trong tay Công Tôn Diễn cầm một bầu rượu, hai má đỏ bầm, rõ ràng đã uống không ít.
Chu Uy ngồi bần thần, hai mắt nhìn thẳng vào Công Tôn Diễn, thấy ông ta lúc lúc lại đưa bầu rượu lên miệng uống một hơi, rổi bỏ xuống.
Công Tôn Diễn nuốt ngụm rượu xuống cổ, thở dài: “Cuối cùng tại hạ cũng đã hiểu, tại sao năm xưa Công Tôn Ưởng lại rời khỏi An Ấp, bỏ sang nước Tần!”
Chu Uy khuyên nhủ: “Công Tôn huynh, chúng ta đều là người nước Ngụy, phải đời đời báo ơn nước Ngụy, tuyệt đối không được nghĩ như vậy!”
Công Tôn Diễn không nói gì, lại ngửa cổ uống một hớp.
Chu Uy không nhịn thêm được nữa, đứng phắt dậy giật lấy bầu rượu, ném thẳng xuống đất: “Công Tôn huynh, đừng uống nữa!”
Công Tôn Diễn cười nhạt: “Đời đời báo ơn nước Ngụy là chuyện nhà họ Chu của huynh, không phải chuyện của Công Tôn Diễn!”
Chu Uy sững người: “Công Tôn huynh…”
Công Tôn Diễn cũng thấy mình đã quá lời, liền cười gượng: “Huynh hãy mở to mắt ra mà nhìn Đại Ngụy, bây giờ ra nông nỗi này, thật nhục nhã thay! Tư đồ đại nhân, huynh thử nói xem, không để tại hạ uống rượu, vậy để tại hạ làm gì đây? Toàn quân thất bại, Long tướng quân liều chết bảo toàn tính mạng cho hàng vạn quân Ngụy, nhưng lại vu là sợ địch không dám đánh. Sợ địch không đánh là tội chém đầu, nhưng lại chỉ bãi chức cho về quê! Công Tôn Diễn ta ngàn dặm bôn ba, nhưng cuối cùng công lao lại rơi vào tay công tử Ngang! Cửa ải Thiếu Lương, Lâm Tấn quan trọng như vậy, công tử Ngang lại không chiến mà bỏ! Tư đồ đại nhân, huynh nói xem, giang sơn mấy trăm dặm Hà Tây đã thấm đẫm máu của hơn tám vạn binh lính, vậy mà vẫn không khiến hôn quân tỉnh ngộ!”
Chu Uy nhất thời không nói được gì, trầm tư một hồi lâu, mới thốt được một câu: “Không có hôn quân, sao có trung thần? Hiện giờ thứ mà nước Ngụy đang cần, chính là một trung thần như Công Tôn huynh đây!”
“Than ôi, nếu như hôn quân biết suy nghĩ, thì Công Tôn Diễn còn phải ngồi ở đây uống rượu buồn ư?”
Chu Uy thở dài, chậm rãi nói: “Công Tôn huynh nói đúng! Nhưng xin Công Tôn huynh hãy nghe tại hạ nói một câu, bệ hạ có thể nhất thời mông muội, nhưng không thể cứ mông muội mãi. Bệ hạ có thể nhất thời hồ đồ, nhưng không thể cứ hồ đồ mãi. Tại hạ tin chắc, sớm muộn bệ hạ cũng sẽ hiểu ra!”
Công Tôn Diễn hừ mũi một tiếng: “Tư đồ đại nhân, huynh không phải biện giải thay cho hôn quân nữa! Chuyện ở Hà Tây, thực ra bệ hạ đã hiểu rõ như lòng bàn tay, sao có thể nói là chưa hiểu?”
Chu Uy ngẩn người: “Lời này là có ý gì?”
“Quan sát trận chiến ở Hà Tây, từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc, kỳ thực là bại trong tay chúa thượng. Trần Chẩn, công tử Ngang chẳng qua chỉ giúp sức chút đỉnh mà thôi. Huynh muốn chúa thượng hiểu rõ, như vậy khác nào khiến chúa thượng phải tự nhận sai? Huynh nói xem, chúa thượng có phải người như vậy chăng?”
Chu Uy gật đầu thừa nhận, nhưng lại biện bạch: “Mặc dù Công Tôn huynh nói đúng, nhưng cũng phải nghĩ lại. Bạch tướng quốc qua đời đã lâu, Trần Chẩn trong mơ cũng ước ao ngôi vị tướng quốc, nhưng còn bệ hạ, không những vẫn bỏ trống ngôi tướng quốc, mà còn trách tội Trần Chẩn tiến cử người không đắc lực mà giáng chức từ thượng khanh xuống thượng đại phu. Chỉ với việc này thôi, cũng đủ thấy bệ hạ chưa hẳn đã hoàn toàn hồ đồ. Ngôi vị tướng quốc, Công Tôn huynh vẫn còn cơ hội. Suy cho cùng Đại Ngụy là của bệ hạ, mà bệ hạ cũng là một quân chủ bình thường. Còn về tình hình trước mắt, bệ hạ chẳng qua cũng chỉ là lo giữ thể diện, tìm chỗ xuống thang, tin chắc rằng sẽ biết trọng dụng Công Tôn huynh. Thường có câu, người câu giỏi biết thời cơ giật câu, người bơi giỏi biết thuận theo dòng nước. Hiện giờ thời cơ chưa đến, Công Tôn huynh là người sáng suốt, tuyệt đối không được nóng vội!”
Lời Chu Uy nghe cũng có lý, Công Tôn Diễn cũng thấy xuôi xuôi, trầm ngâm suy nghĩ. Đúng lúc đó có tiếng bước chân từ ngoài cửa vọng lại, là lão quản gia đang vội vã đi tới, vừa đi vừa gọi: “Công Tôn Diễn! Công Tôn Diễn!”
Công Tôn Diễn vội đứng dậy, đi ra đón, tay dìu lão quản gia, dắt lão ngồi xuống ghế, ôn tồn hỏi: “Có chuyện gì mà khiến lão quản gia hốt hoảng đến vậy?”
Lão quản gia thấy Chu Uy cũng có mặt, song chẳng kịp hành lễ đã vội vàng nói ngay: “Thật may Chu đại nhân cũng có ở đây, hãy mau mau nghĩ cách giúp tôi với! Lúc nãy thiếu gia vừa lục lấy đồ trang sức của thiếu phu nhân, lại đến lầu Nguyên Hanh rồi!”
Công Tôn Diễn, Chu Uy đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng quay sang nhìn lão quản gia. Lão quản gia vội nói tiếp: “Thiếu phu nhân đã khóc cạn nước mắt, dặn lão nô đến tìm hai vị đại nhân, cầu xin hai vị hãy đến đó khuyên nhủ giúp!”.
Chu Uy đang định đứng lên, thì Công Tôn Diễn ngăn lại, chậm rãi bước tới trước mặt Chu Uy, nhặt bầu rượu từ dưới đất lên, rồi đưa lên dốc thẳng vào miệng, song rượu đã hết sạch. Công Tôn Diễn khẽ thở dài, đưa bầu rượu rỗng nhằm thẳng vào miệng, hít hà liền mấy hơi một cách khoa trương, rồi nói với lão quản gia: “Lão quản gia, ông hãy quay về bẩm với thiếu phu nhân, nói Công Tôn Diễn và Chu tư đồ đang bận bàn chính sự!”
Lão quản gia kinh ngạc: “Công Tôn Diễn…”
Công Tôn Diễn lại nâng bầu rượu rỗng lên, cố tình mút chùn chụt mấy tiếng, rồi thẳng tay ném vụt ra xa, dang hai tay ra, than thở: “Này, quản gia đại nhân, từ đầu đến cuối ông đều thấy cả rồi đấy! Trong lòng thiếu gia, ngoài cờ bạc thì đâu còn thứ gì khác nữa? Để tang cho lão tướng quốc còn chưa đủ một tuần thất, hắn đã lao vào sới bạc. Tư đồ đại nhân sắp xếp cho hắn vào nhà ngục làm việc, cũng chỉ làm được chưa đầy nửa canh giờ. Quản gia đại nhân, những điều có thể làm, tại hạ đều đã làm cả. Những điều có thể khuyên, tại hạ cũng đã khuyên hết. Còn nữa, quản gia đại nhân, ông cũng biết đấy, tại hạ gia cảnh nghèo túng, không có dư tiền để cho hắn đi đánh bạc!”
Lão quản gia giận sôi máu, chỉ tay vào Công Tôn Diễn, khắp người run bần bật: “Ngươi…” Rồi lại quay sang nhìn Chu Uy, thấy ông ta mặt mũi lạnh tanh, thì càng giận dữ, vung tay đẩy chiếc bàn đổ chỏng chơ, đùng đùng đứng dậy đi thẳng ra khỏi cửa.
Thấy lão quản gia tức giận bỏ đi, Chu Uy cảm thấy khó xử, bèn quay sang nhìn Công Tôn Diễn. Công Tôn Diễn chậm rãi bước ra, nhặt lấy bầu rượu trống rỗng từ dưới đất lên, sau đó đi vào trong buồng, bê cả hũ rượu ra, đặt bầu lên bàn, cắm phễu vào miệng, loáng cái bầu đã đầy tràn.
Công Tôn Diễn thủng thẳng làm xong từng đấy việc, liền nút miệng bầu lại, mang hũ rượu cất vào trong, sau đó trở ra, cầm bầu rượu đưa cho Chu Uy, bật cười mấy tiếng.
Chu Uy nghệt ra nhìn, chẳng hiểu gì cả: “Công Tôn huynh, tại sao lại cười?”
“Tại hạ đột nhiên ngộ ra một đạo lý! Quân chủ của chúng ta giống hệt như Bạch thiếu gia, không thua sạch vốn liếng, không đi đến sơn cùng thuỷ tận, thì vẫn chưa chịu tỉnh ngộ! Ha ha ha, nào, chúc mừng vì đã ngộ ra đạo lý này, huynh cũng uống đi!”
Chu Uy đưa tay gạt bầu rượu sang một bên, giọng nóng nảy: “Công Tôn huynh, vạn nhất Bạch thiếu gia có sơ sảy gì, chúng ta làm sao ăn nói với lão tướng quốc đây?”
“Nếu huynh không uống, tại hạ sẽ không khách khí nữa!” Lời vừa dứt, Công Tôn Diễn đã đưa bầu rượu lên đến miệng, lại uống ực một hơi.
Chu Uy đưa tay giằng lấy bầu rượu, lớn tiếng trách móc: “Công Tôn huynh, lúc Bạch tướng quốc lâm chung đã phó thác thiếu gia lại cho huynh đó!”
“Bạch tướng quốc còn giao lại bảy trăm dặm Hà Tây cho Long tướng quân, kết quả thế nào?”
Chu Uy sững sờ, nhất thời không biết nói gì: “Huynh…”
Công Tôn Diễn giằng lại bầu rượu trong tay Chu Uy, nhấp một ngụm nhỏ rồi chậm rãi nói: “Xem ra, tư đồ đại nhân không muốn nhìn thấy Bạch công tử đi đến bước đường cùng?”
Chu Uy không nói gì, chỉ thở dài sườn sượt.
“Tư đồ đại nhân, đừng than thở nữa! Nếu đại nhân thực sự muốn cứu hắn, thì tại hạ có một chủ ý!”
Chu Uy vội giục: “Chủ ý gì, mau nói!”
Công Tôn Diễn lại nhấp một hớp rượu: “Đại nhân về nhà mang trăm lượng vàng đến đây, đợi tại hạ uống rượu đủ rồi, ta sẽ đến lầu Nguyên Hanh đón hắn trở về là được!”
Chu Uy nghe thấy vậy thì bực bội: “Công Tôn huynh, bây giờ là lúc nào rồi mà còn tâm trạng nói đùa?”
Công Tôn Diễn mỉm cười: “Tại hạ mặc dù người say, nhưng tâm không say, nhưng phải xem Chu huynh có đành lòng bỏ ra trăm lượng vàng quèn không đã.”
Chu Uy kêu lên: “Cái gì mà trăm lượng vàng quèn? Toàn bộ gia sản trong nhà tại hạ cộng lại cũng chưa nổi trăm lượng vàng…”
Công Tôn Diễn mỉm cười: “Thế nào? Tại hạ biết chắc huynh không nỡ bỏ ra, thế mà đòi cứu Bạch thiếu gia cái gì, tất cả chỉ là giả tạo!”
Chu Uy bị khích bác liền nổi giận: “Ai bảo không nỡ bỏ ra? Nếu có thể cứu được Bạch thiếu gia, đừng nói là trăm lượng, cho dù…” Nói đến đây thì dừng lại, giận dữ quắc mắt nhìn Công Tôn Diễn.
“Tốt! Tốt! Tốt!” Công Tôn Diễn gật đầu lia lịa. “Tư đồ đại nhân đã chịu bỏ tiền, thì xin hãy mau về nhà lấy vàng đi, tại hạ sẽ đợi ở đây!”
Chu Uy nhìn chằm chằm vào Công Tôn Diễn một hồi, thấy bộ dạng không giống như đang nói lời say, liền nghi ngờ hỏi: “Khắp thành đều nói lầu Nguyên Hanh có ma, tất cả những ai đến đó đánh bạc đều không thể thắng. Hơn nữa, Công Tôn huynh lại chưa bao giờ đánh bạc, làm thế nào để cứu Bạch thiếu gia đây?”
Công Tôn Diễn cười vang mà nói: “Mặc dù tại hạ không biết đánh bạc, nhưng biết bắt ma. Nếu trong lầu không còn ma quỷ, thì lo gì không cứu được Bạch thiếu gia?”
“Huynh…” Chu Uy càng nghi hoặc, “huynh biết bắt ma?”
“Đi về lấy vàng đi! Nếu không yên tâm, thì mời đại nhân đi cùng tại hạ một chuyến!”
Chu Uy chần chừ một lát, sau đó quả quyết: “Được, cứ như vậy đi!”

Bàng Quyên đã định sẵn chủ ý, bảo Tôn Tân đánh xe ngựa chạy vòng qua cung thành, đi đến toà trạch viện của nhà họ Bạch. Đến ngoài cổng chính, thấy cổng đã được khoá chặt, ngoài cổng lạnh lẽo vắng tanh, không một bóng người. Tôn Tân chặn một người đi đường lại hỏi thăm, mới biết Bạch thiếu gia đã bán toàn bộ toà trạch viện, chuyển đến sống tại một căn nhà nhỏ gần đó.
Tôn Tân đánh xe đi theo hướng người này chỉ. Đi được một đoạn, quả nhiên thấy một dãy nhà san sát, thoạt nhìn chẳng thấy nhà nào có vẻ giàu sang.
Bàng Quyên chỉ tay vào dãy nhà: “Chắc chắn là chỗ này, song không biết là nhà nào?”
Tôn Tân ghìm ngựa kéo, đang định dừng lại để hỏi thăm, bỗng nhìn thấy có một người đang đi ra từ con ngõ phía trước, bước chân lảo đảo, chân nam đá chân chiêu, bộ dạng giống như say rượu.
Người này chính là lão quản gia, vừa mới trở về từ nhà Công Tôn Diễn. Đi đến gần nhà, lão quản gia dừng bước, đứng tựa vào bức tường đá cạnh cổng, thở hổn hển một hồi, sau đó quay người định mở cổng, song lại dừng lại, rồi từ từ ngồi sụp xuống trước bậc thềm ngoài cổng, đờ đẫn như người ngây.
Tôn Tân cảm thấy quái lạ, lại thấy xung quanh không một bóng người, nên dừng xe lại cách chỗ lão quản gia chừng mười mấy bước, rồi chậm rãi đi đến trước mặt ông, vòng tay hỏi: “Xin hỏi lão trượng, ở đây đâu là nhà họ Bạch?”
Lão quản gia ngẩng phắt đầu lên, nhìn Tôn Tân từ đầu đến chân dò xét, rồi hỏi: “Cậu tìm thiếu gia có việc gì?” Tôn Tân quay người chỉ lên xe: “Thiếu gia nhà tôi là bằng hữu của Bạch thiếu gia, đã lâu không gặp mặt, nghe nói Bạch thiếu gia sống ở đây nên đã đến thăm!”
Nghe thấy hai chữ “bằng hữu”, lão quản gia khẽ lắc đầu: “Đi đi, đi nói với thiếu gia của ngươi, thiếu gia không còn bằng hữu nữa! Bạch gia cũng không còn bằng hữu nữa!”
“Ông biết Bạch thiếu gia ư?”
Nước mắt lão quản gia từ từ lăn xuống gò má: “Thiếu gia lớn lên trong tay ta, ngươi nói có quen biết hay không?”
“Vậy… Bạch thiếu gia… có trong phủ không?”
Nghe thấy chữ “phủ”, lão quản gia càng đau đớn trong lòng: “Các người đi đi, nếu muốn tìm thiếu gia để đánh bạc, thì hãy đến lầu Nguyên Hanh mà tìm. Giờ này chắc chắn thiếu gia đang ở đó!” Nói xong, liền quay sang đẩy cổng, lách người đi vào, sau đó sập cổng đánh “rầm” một tiếng.
Tôn Tân khựng lại một thoáng, sau đó ngập ngừng quay lại, nói với Bàng Quyên: “Đây chính là nhà của Bạch thiếu gia. Hiện giờ Bạch thiếu gia không có trong phủ, nghe nói là đã đến lầu Nguyên Hanh!”
Bàng Quyên suy nghĩ một lát rồi nói: “Tới lầu Nguyên Hanh!”

Trong lầu Nguyên Hanh, ông chủ Lâm vội vã leo lên lầu hai, vén tấm rèm hạt bột lên, bước nhanh vào mật thất, quỳ xuống trước mặt Thích Quang: “Tiểu nhân khấu kiến Thích gia!”
Thích Quang đưa mắt quét qua người ông ta: “Nghe nói tên tiểu tử họ Bạch đã đến rồi?”
“Bẩm Thích gia, đang đợi ở phòng khách!”
“Nói như vậy, hắn đã bán nốt khu nhà kia?”
Ông chủ Lâm lắc đầu.
Thích Quang thoáng ngạc nhiên: “Chẳng phải hắn đã hết sạch tiền hay sao?”
“Tiểu nhân làm theo lời Thích gia, đã phái người theo dõi tên tiểu tử đó, thấy hắn mang hộp trang sức đi vào hiệu cầm đồ. Tiểu nhân cho người vào hỏi ông chủ, ông ta nói Bạch công tử mang toàn bộ nữ trang của phu nhân đi cầm cố, tổng cộng được ba mươi mốt lượng vàng!”
Thích Quang cười nhạt: “Tên này cũng thật đểu cáng!”
“Thích gia nói rất đúng!” Ông chủ Lâm đứng dậy, lùi lại mấy bước, hậm hực mà nói. “Đồ trang sức của Bạch phu nhân, bất kỳ món nào cũng đáng giá ít nhất chín mười lượng vàng, tiểu nhân đã cho người đi hỏi, cả hộp trang sức đó phải đáng giá cả trăm lượng vàng. Tay chủ hiệu cũng giỏi thật, chỉ ba mươi lượng đã xử lý êm xuôi. Đã xong chuyện rồi thì thôi, lại lòi thêm ra một lượng nữa, cứ như là…” Thấy Thích Quang quay mặt đi, liền vội vàng câm bặt, khom lưng đứng tránh sang một bên.
Thích Quang thấy ông ta không lải nhải nữa, mới quay mặt lại, gật đầu nói: “Ừ, tên tiểu tử này khá lắm, đúng là con bạc khát nước! Bắt đầu được chưa?”
Lầu Nguyên Hanh không giới hạn số lượng canh bạc nhỏ, nhưng đánh bạc lớn thì một ngày chỉ đánh một canh, định vào giờ Thân. Câu hỏi này của Thích Quang rõ ràng là chỉ canh bạc lớn vào giờ Thân.
“Bẩm Thích gia, đã đến giờ Thân. Bạch thiếu gia kia rất tự tin lần này sẽ thắng!”
“Ừ! Đi nói với tên tiểu tử đó, rằng hôm nay Thích gia có nhã hứng, sẽ đánh với hắn!”
Ông chủ Lâm giật nảy mình: “Thích gia… ông… ông muốn đích thân ra tay?”
Thích Quang gật đầu: “Đây là màn kịch chính, bỏ qua há chẳng đáng tiếc lắm ru?”
“Phải! Phải! Phải!” Ông chủ Lâm vội vã rặn ra một nụ cười nịnh nọt. “Thích gia đích thân ra tay, như vậy cũng mát mặt cho tên tiểu tử này lắm lắm!”
“Ha ha ha!” Thích Quang cũng cười vài tiếng. “Như thế này đi, ngươi hãy mời đến một số khách xem, để không khí thêm phần náo nhiệt!”
“Điều này thì chắc chắn rồi, Thích gia ra tay, kiểu gì cũng không thể tẻ nhạt được!”
Thích Quang trừng mắt nhìn ông ta: “Cái gì mà Thích gia ra tay, cái gì mà tẻ nhạt không tẻ nhạt? Hôm nay là canh bạc cuối cùng của tên tiểu tử đó, bất luận thế nào, chúng ta cũng phải khiến hắn thua cho đẹp đẽ phong quang!”
Ông chủ Lâm khom lưng nói: “Thích gia nói chí phải, tiểu nhân sẽ lập tức đi sắp xếp!”
Một lát sau, lầu Nguyên Hanh bỗng chốc trở nên ồn ã, tiếng chiêng tiếng trống choang choảng, pháo nổ tưng bừng. Hai hán tử một kẻ khua chiêng, một kẻ gõ trống, chốc chốc lại hô hào inh ỏi: “Các lão gia thiếu gia, đã đến giờ Thân, canh bạc muộn của lầu Nguyên Hanh sắp bắt đầu! Người có tiền thì vào phát tài, người không có tiền thì vào xem góp vui! Các vị lão gia thiếu gia, canh bạc muộn của lầu Nguyên Hanh sắp bắt đầu!”
Người qua kẻ lại, có người dừng chân đứng xem, cũng có người bịt tai vội vàng bỏ chạy. Chưa tới nửa canh giờ, lầu Nguyên Hanh đã huyên náo tiếng người. Hai mươi mấy cây cọc buộc ngựa ở hai bên cổng chính đã buộc kín dây cương. Trong bãi xe đã đỗ hai dãy xe dài dằng dặc, nhìn lướt qua, chí ít cũng đến mười mấy cỗ. Những người ăn bận sang trọng túm năm tụm bảy, cười nói rộn ràng bước vào trong lầu.
Tôn Tân dừng xe bên đường, Bàng Quyên nói nhỏ: “Tôn huynh, huynh đứng đợi ở đây, không được tháo ngựa, tại hạ vào trong xem sao.”
Tôn Tân cảm thấy lo lắng: “Bàng huynh, như vậy không ổn, chẳng may xảy ra chuyện bất trắc thì sao?”
“Tôn huynh đứng đợi ở ngoài, cũng là để đề phòng chuyện bất trắc!”
Tôn Tân nghe nói có lý, liền gật đầu đồng ý.
Bàng Quyên bước xuống xe, đang định tiến vào cổng chính thì Công Tôn Diễn khắp người nồng nặc mùi rượu cũng từ phía đối diện đi đến, trông xa chẳng khác gì một kẻ du đãng bất cần đời. Công Tôn Diễn chân bước lảo đảo, trong tay vẫn cầm bầu rượu, cứ đi mấy bước lại không quên tợp một ngụm. Phía sau ông ta không xa, Chu Uy ăn bận kiểu sĩ tử, giả làm khách đến xem đánh bạc, trên vai vắt một mảnh khăn vuông, tay xách một chiếc rương đen đúa xấu xí, lững thững đi đến.
Người canh cửa bước lên một bước, đưa tay ngăn Công Tôn Diễn lại: “Đi mau đi mau, lại là một tên sâu rượu, mau biến đi!”
Công Tôn Diễn ợ ra hơi rượu nồng nặc, trợn trừng mắt nhìn tên canh cửa, chỉ tay vào hai gã khua chiêng gõ trống bên ngoài: “Nghe hắn nói gì không? Người có tiền thì vào phát tài, người không có tiền vào xem góp vui! Tại hạ là vào xem góp vui, sao lại không cho?”
Một tên canh cửa khác chau mày nói: “Thôi thôi, lúc nãy ông chủ có dặn hôm nay cần náo nhiệt, cứ cho hắn vào!”
“Lâu nay ngày nào hắn cũng đến xem, mà chưa thấy đánh một xu nào bao giờ, việc này tạm chưa tính đến, nhưng nếu lại cho hắn vào, sẽ khiến cả lầu nồng nặc mùi rượu mất! Hôm qua ta đã thấy ông chủ lườm nguýt hắn rồi!”
“Trông bộ dạng của hắn thế kia, thì lấy cái quái gì mà đánh bạc?”
Tên canh cửa vừa chặn đường hừ mũi một tiếng: “Nhà chúng ta mở lầu chơi bạc chứ không phải lầu diễn kịch, cho tên kiết xác này vào làm gì?” Rồi quay sang gườm gườm nhìn Công Tôn Diễn. “Ông chủ Lâm đã nói, bắt đầu từ hôm nay, không cho phép ngươi vào trong nữa!”
Chu Uy đang định bước lại thì Bàng Quyên đã đi tới nơi, chỉ vào Công Tôn Diễn mà nói: “Vị nhân huynh này là do tại hạ mời đến. Thế nào, có cho vào không?”
Tên canh cửa đưa mắt nhìn Bàng Quyên dò xét: “Quan gia là…”
“Tại hạ đến từ nước Vệ, cứ gọi tại hạ là Long gia!”
Tên này vội vòng tay cung kính: “Long gia, mời!” Nhưng Bàng Quyên lại đưa tay mời Công Tôn Diễn: “Nhân huynh, mời!”
Công Tôn Diễn mỉm cười với Bàng Quyên, rồi lại nâng bầu tợp rượu, chẳng thèm nhìn đến bọn canh cửa, nghênh ngang bước vào trong. Bàng Quyên theo sau, rồi đi thẳng lên cầu thang, cùng cả đám người nối đuôi nhau tiến lên căn phòng đánh bạc xa hoa trên lầu hai. Nhìn thấy bàn đánh bạc đã từng bị mình hất đổ, Bàng Quyên nhếch mép cười nhạt. Có lẽ do có Tôn Tân đứng đợi bên ngoài, có lẽ do mấy tháng vừa qua đã từng trải đủ vị phong sương, cảm giác của Bàng Quyên đã khác hẳn so với lần đầu tiên đặt chân đến nơi đây.
Xung quanh bàn đánh bạc, người vây kín mít, ít nhất cũng phải đến năm sáu chục, phần lớn là những kẻ có máu mặt trong thành An Ấp, còn đông đảo hơn cả số triều thần trong buổi đại triều của Ngụy Huệ Vương. Một tiếng chiêng vang rền, mỹ nữ nhà cái Tiểu Đào Hồng dẫn theo Thích Quang, Bạch Hổ, Ngô thiếu gia và Lương thiếu gia nhập sòng, chia ra bốn phía ngồi xuống. Bạch Hổ vẫn ngồi ở chiếu chủ, Tiểu Đào Hồng đứng bên cạnh hắn.
Không cần đến xèng đặt cược. Ông chủ Lâm vỗ tay, lập tức có mấy người tiến vào, mỗi người khệ nệ khiêng theo một chiếc rương, lần lượt đi tới trước mặt Thích Quang, Lương thiếu gia, Ngô thiếu gia, rồi mở rương, lấy vàng nén bên trong ra chất thành từng đống, mỗi đống một trăm đĩnh. Ba trăm đĩnh được xếp thành ba đống, ánh vàng sáng rực loá mắt.
Nhìn thấy vàng, đám đông bắt đầu xuýt xoa ầm ĩ. Chu Uy, Công Tôn Diễn tìm được một vị trí khá thuận lợi, Bàng Quyên vì không quen biết ai nên cũng đứng cạnh hai người họ, mắt nhìn chằm chằm vào sòng bạc.
Đột nhiên, nhìn thấy quản gia của Trần Chẩn là Thích Quang cũng có mặt, Chu Uy cảm thấy quái lạ, liền đưa mắt cho Công Tôn Diễn, Công Tôn Diễn ra hiệu không được lên tiếng, cứ tiếp tục quan sát.
Vì không có đầy tớ nên Bạch Hổ không có ai xếp vàng giúp. Thấy trước mặt ba người kia đã xếp xong ba đống vàng ngất ngưởng, tay cầm túi tiền của Bạch Hổ hơi run rẩy. So với mấy tháng trước, khí thế của Bạch Hổ đã hoàn toàn biến mất. Thấy mọi người đều đang đưa mắt nhìn mình, Bạch Hổ bèn nghiến chặt hai hàm răng, đập túi tiền đánh chát xuống sòng, mở túi lấy ba mươi mốt đĩnh vàng, lần lượt xếp từng đĩnh một lên sòng.
Ngô thiếu gia cười hềnh hệch mà nói: “Bạch công tử, hôm nay làm sao thế? Đống vàng thì bé, tay thì run rẩy. Nếu không đánh nổi…”
Bạch Hổ lừ mắt, quát: “Ai run tay? Bắt đầu đi!”
Ông chủ Lâm gõ chiêng đồng đánh “xoảng”, sau đó lớn tiếng tuyên bố: “Canh bạc giờ Thân của lầu Nguyên Hanh bắt đầu, người chơi vòng đầu là Bạch thiếu gia, Thích lão gia, Lương thiếu gia và Ngô thiếu gia! Bốn vị, xin mời chọn cách chơi!”
Tiểu Đào Hồng lập tức mang ra hai loại, xúc xắc và thẻ tre, cùng đặt lên bàn.
Lương thiếu gia liếc mắt nhìn Bạch Hổ: “Bạch thiếu gia, theo quy tắc cũ, do thiếu gia lựa chọn!”
Bạch Hổ do dự một lát: “Xúc xắc!”
Ngô thiếu gia cười khoái trá: “Hay lắm, Bạch thiếu gia ngã xuống ở đâu thì phải đứng lên từ đó! Bạch thiếu gia, hôm nay canh đầu đặt bao nhiêu vàng đây?”
Bạch Hổ không nói lời nào, đưa tay rút lấy một đĩnh vàng từ trong đống vàng trước mặt, đẩy lên phía trước.
Ngô thiếu gia phá lên cười sằng sặc: “Tại hạ thật chẳng dám nghĩ Bạch thiếu gia cũng có lúc phải đánh một lượng! Được thôi, một lượng thì một lượng, đằng nào thì hôm nay cũng chẳng có việc gì quan trọng, coi như hầu Bạch thiếu gia chơi vui vậy!” Nói đoạn, cũng lấy ra một lượng đẩy lên trước mặt, mắt nhìn Bạch Hổ: “Bạch thiếu gia, cậu là nhà cái, đặt tài hay xỉu?”
Bạch Hổ thoáng chần chừ: “Xỉu!”
Thích Quang đẩy ra một lượng: “Theo xỉu!”
Ngô thiếu gia nói lớn: “Tại hạ đặt tài!”
Lương thiếu gia tiếp lời: “Theo tài!”
Tiểu Đào Hồng bắt đầu lắc xúc xắc, sau đó mở ra, là xỉu! Mọi người cùng ồ cả lên, Tiểu Đào Hồng chuyển một lượng vàng trước mặt Ngô thiếu gia và Lương thiếu gia sang cho Bạch Hổ và Thích Quang.
Bạch Hổ mừng ra mặt, đẩy hai lượng lên trước: “Đặt hai lượng!”
Bạch Hổ tiếp tục đặt xỉu, Thích Quang đặt tài, hai người còn lại một theo xỉu, một theo tài. Tiểu Đào Hồng lại lắc xúc xắc, khi mở ra vẫn là xỉu. Bạch Hổ sung sướng đến nhảy cẫng lên, đặt ba lượng thắng được và rút thêm một lượng vốn ra, tổng cộng là bốn lượng. Bạch Hổ lại thắng, đặt tiếp tám lượng; lại thắng, đặt tiếp mười sáu lượng.
Công Tôn Diễn khẽ đẩy Chu Uy, hỏi nhỏ: “Đã nhìn thấy ma chưa?”
Chu Uy gật đầu. “Nó ở đâu?”
“Trong đặt cược! Trong số ba người họ, luôn có một người đặt cùng cửa với Bạch thiếu gia, hai người còn lại thì đặt cửa ngược lại. Nếu như ba người cấu kết với nhau, Bạch thiếu gia sẽ mãi mãi là người thua cuộc, trừ khi lần nào cậu ta cũng đặt đúng cửa!”
Bàng Quyên trong lòng chấn động, lập tức nhắm mắt lại, dỏng tai lắng nghe.
Công Tôn Diễn thì thầm rất khẽ: “Đó không phải là ma! Có nhìn thấy con xúc xắc kia không? Ma nằm trong con xúc xắc đó! Cho dù có lắc kiểu gì, nhưng quan trọng nhất vẫn là cú lắc cuối cùng. Đẩy lên trên là tài, hướng xuống dưới là xỉu; sang trái là tài, sang phải là xỉu; về phía trước là tài, về phía sau là xỉu!
Bàng Quyên nghe thấy tất cả, hai mắt lập tức mở choàng, nhìn chằm chằm vào động tác của Tiểu Đào Hồng.

Trong khu nhà nhỏ của họ Bạch, Khởi Y nghe thấy tiếng gõ cửa, cho rằng Công Tôn Diễn đến, liền vội vàng ra mở, không ngờ chỉ thấy một mình lão quản gia.
Lão quản gia đưa tay áo lau nước mắt, quỳ luôn xuống sân, nước mắt nước mũi đầm đìa: “Thiếu phu nhân…”
Không cần phải hỏi thêm, nước mắt của Khởi Y cũng ròng ròng chảy xuống như hạt châu rơi, khe khẽ sụt sùi: “Tôi biết rồi, chẳng còn ai… muốn giúp phu quân nữa!”
Lão quản gia bật khóc thất thanh: “Thiếu phu nhân… là lão nô bất tài…”
Khởi Y khóc một lúc, rồi đột nhiên đứng phắt dậy, đưa tay áo quệt nước mắt, sau đó đi thẳng ra ngoài cổng.
Lão quản gia giật mình, vội vàng chạy theo sau: “Thiếu phu nhân! Thiếu phu nhân!”
Khởi Y vác theo bụng bầu vượt mặt, chệnh choạng lao đi trên phố. Lão quản gia bám sát theo sau, giọng lạc đi: “Thiếu phu nhân, hãy đi chậm lại, thiếu phu nhân không thể đi nhanh… Thiếu phu nhân!”
Hai người cứ lật đật mà đi, không biết đã đi được bao lâu, cuối cùng đã nhìn thấy cửa lầu Nguyên Hanh. Lão quản gia vừa thở hổn hển, vừa chỉ vào cửa mà nói: “Thiếu… thiếu phu nhân, chính… chính là nơi này!”
Khởi Y bước chậm lại, từng bước từng bước tiến tới trước cửa căn lầu xa hoa tráng lệ, tựa người vào một cây cọc buộc ngựa, hai tay ôm bụng, đứng thở một hồi, rồi ngước lên nhìn, ba chữ “Lầu Nguyên Hanh” đập thẳng vào trước mắt. Ánh mắt ai oán của Khởi Y dường như muốn xuyên thấu cái tấm biển đã đoạt mất hồn phách phu quân nàng.
Hai người đứng nhìn một lúc, lão quản gia liền dìu Khởi Y đi vào cửa, nhưng lập tức bị người canh cửa chặn lại.
Tên canh cửa nhìn Khởi Y sừng sộ: “Nhà chị là ai?”
Khởi Y mắt hạnh trợn trừng: “Tránh ra, để ta vào!”
Tên canh cửa cũng trừng mắt nhìn lại: “Ái chà chà, đã đến đây mà còn dám ra vẻ? Ta cho nhà chị biết, đàn bà không được vào trong lầu này!”
Khởi Y tức giận, đang định xông bừa vào thì lão quản gia ngăn lại, vòng tay nói: “Đây là phu nhân của Bạch thiếu gia, hãy cho phu nhân vào!”
Nghe nói là phu nhân của Bạch thiếu gia, hai người sững lại một lát, rồi đưa mắt nhìn nhau. Một lát sau, một người đáp lễ mà hỏi: “Ông là lão quản gia?”
Lão quản gia gật đầu.
Người đó nói nhỏ: “Ông chủ Lâm có một quy tắc, đó là không cho đàn bà con gái bên ngoài vào! Huống hồ giờ Bạch phu nhân còn…” đưa tay chỉ vào bụng Khởi Y, “như vậy sẽ mất đi tài khí, ông chủ kiêng!”
Khởi Y vốn đang tức giận, trong lòng lại sốt ruột, nghe nói mình làm mất tài khí, lại càng giận dữ, liền bất chấp sống chết lao bừa vào trong. Vì là đàn bà, lại đang bụng mang dạ chửa, hai tên canh cửa tuy cuống quýt nhưng chỉ biết trợn trừng mắt lên mà không dám cản, vội chạy sát theo sau, giậm chân bình bịch mà kêu lên: “Bạch phu nhân, không được vào, không được vào!”
Thấy Khởi Y sắp xông lên lầu đến nơi, hai tên canh cửa sợ hãi, liền lao lên chặn trước mặt, giang hai tay ra ngăn lại, không cho Khởi Y tiến tiếp.
Đã có người báo lên trên lầu, ông chủ Lâm vội vàng đi xuống, nhìn thấy là Bạch phu nhân, đôi mày khẽ nhướng lên, rồi nhếch mép cười nhạt với hai tên canh cửa: “Bạch phu nhân không giống với đám đàn bà bình thường, cho phu nhân vào!”
Hai tên canh cửa ngẩn người ngạc nhiên, rồi vội nhường đường. Lão quản gia đỡ lấy Khởi Y, từ từ bước lên trên lầu.
Trong phòng đánh bạc, Bạch Hổ lại đặt cược toàn bộ ba mươi hai lượng vàng đã thắng được. Tiểu Đào Hồng mở xúc xắc, rồi trong tiếng ồ lên xuýt xoa của đám đông, nhanh tay vơ lấy tất cả số tiền mà Bạch Hổ thắng được nãy giờ.
Bạch Hổ trong lòng cay cú, bèn nghiến chặt răng, đẩy toàn bộ ba mươi lượng còn lại lên phía trước: “Đặt tài!”
Mỹ nữ tiếp tục lắc xúc xắc. Mở ra, là xỉu.
Bạch Hổ sắc mặt tái mét, cả người rơi đánh phịch xuống ghế.
Ngô thiếu gia cười hềnh hệch mà nói: “Bạch thiếu gia, cậu còn muốn đặt nữa không?”
Bạch Hổ mặt đỏ phừng phừng, ngồi lặng đi một hồi, rồi quát lớn: “Đặt!”
“Đặt bao nhiêu?”
“Ta còn một khu nhà, đáng giá bao nhiêu?”
Ngô thiếu gia quay sang nhìn Lương thiếu gia: “Khu nhà của Bạch thiếu gia đáng giá mấy lượng?”
Lương thiếu gia hừ mũi một tiếng: “Khu nhà rách nát bé tí tẹo đó, có cho không ta cũng chẳng thèm lấy!”
Ngô thiếu gia giả bộ suy nghĩ: “Nể mặt Bạch công tử, tại hạ nguyện bỏ ra năm lượng!”
Bạch Hổ tức giận: “Năm lượng cái gì? Ít nhất cũng phải hai mươi lượng!”
“Được rồi được rồi!” Ngô thiếu gia vội cười trừ. “Bạch thiếu gia đã lên tiếng, một chữ đáng một lượng vàng. Lúc nãy Bạch thiếu gia nói cả thảy mười một chữ, tại hạ sẽ bỏ thêm mười một lượng, tổng cộng là mười sáu lượng! Nếu đòi thêm một lượng, tại hạ sẽ không cần nữa!”
Bạch Hổ lặng người ngẫm nghĩ một hồi, rồi nghiến răng rít lên: “Mười sáu lượng thì mười sáu lượng!”
Ngô thiếu gia đẩy mười sáu lượng vàng từ trong đống vàng phía trước mặt mình ra, đặt ở trước mặt Bạch Hổ, Bạch Hổ lại đặt cược toàn bộ vào ván tiếp theo. Tiểu Đào Hồng lại lắc, lại mở, rồi lại lẹ làng gạt toàn bộ số vàng của Bạch Hổ sang phía người khác.
Lần này Bạch Hổ đã hoàn toàn vô vọng, rũ rượi ngồi bệt xuống đất.
Đúng vào lúc này, Khởi Y được lão quản gia dìu đỡ, chậm chạp bước vào trong phòng. Thấy bộ dạng thảm hại của Bạch Hổ, Khởi Y đã hiểu tất cả. Song Khởi Y không những không tỏ ra đau xót, mà còn thở phào một hơi dài. Trước ánh mắt hiếu kỳ của đám đông, Khởi Y chậm rãi bước lại, kéo Bạch Hổ đang ngồi rũ rượi dưới đất đứng lên, dịu dàng hỏi: “Phu quân… chúng ta về nhà được chưa?”
Bạch Hổ nhìn nàng, tuyệt vọng nói: “Nhà? Nhà gì? Hết rồi, hết rồi! Tất cả đều đã hết rồi!”
Khởi Y bèn an ủi: “Phu quân, phu quân chưa hết! Phu quân vẫn còn có thiếp, vẫn còn có Tiểu Bạch Khởi… Đi thôi! Chúng ta hãy đi khỏi đây, chỉ cần rời khỏi đây, tất cả rồi sẽ có!”
Bạch Hổ đầu cúi gằm, được một lát, lại ngẩng phắt lên, mặt mũi tím bầm, lảm nhảm một mình: “Không, ta muốn đánh, ta muốn đánh!” Rồi đột nhiên hai mắt long sòng sọc, quát lớn một tiếng. “Ta còn muốn đánh!”
Thích Quang ngồi đó nãy giờ chưa lên tiếng, bỗng ngửa mặt lên trời cười một tràng dài: “Ha ha… Bạch thiếu gia đúng là nam tử hán! Được, thiếu gia đã muốn đánh, vậy ta hỏi cậu, bây giờ đặt cái gì?”
Ngô thiếu gia đưa mắt liếc nhìn Khởi Y, mặt cười nhăn nhở mà cợt nhả: “Bạch thiếu gia, thiếu gia chẳng phải vẫn còn phu nhân hay sao? Hay là đặt luôn đi, thế nào?”
“Đúng đấy!” Lương thiếu gia hào hứng hẳn lên, nham hiểm tiếp lời. “Tiểu nương tử không những là mỹ nữ tuyệt sắc, trong bụng còn có sẵn hàng, ai mua được, hẳn sẽ tiết kiệm được không ít công sức!”
Ngô thiếu gia, Lương thiếu gia liếc mắt nhìn nhau, rồi cùng phô ra điệu cười dâm đãng. Nghe thấy những lời lẽ này, tất cả những người đứng xem thảy đều cảm thấy bất nhẫn, không một ai hò reo cổ vũ.
Khởi Y tức uất, mặt cắt không còn giọt máu, thân người lảo đảo, phải dựa vào Bạch Hổ mới đứng vững.
Bạch Hổ đỡ lấy Khởi Y, bàn tay siết chặt kêu lên răng rắc, hai mắt đỏ ngầu nhìn thẳng vào Ngô thiếu gia và Lương thiếu gia, dường như muốn ăn tươi nuốt sống bọn họ. Hai kẻ này lập tức mặt cười tắt ngấm. Ngô Thiếu gia sợ hãi lắp bắp: “Bạch… Bạch thiếu gia, cậu định làm gì?”
Đôi mắt đỏ ngầu của Bạch Hổ rời khỏi hắn, chuyển sang nhìn Khởi Y đang đỡ trong tay, sau đó lại chuyển sang ba đống vàng trước mặt ba kẻ kia, rồi lại nhìn ba con bạc.
Ánh mắt của Bạch Hổ không ngừng chuyển động giữa ba thứ trên, mỗi lúc một nhanh, hơi thở cũng mỗi lúc càng thêm hổn hển.
Khởi Y dường như đã linh cảm được điều chẳng lành, sợ hãi nhìn vào Bạch Hổ, giọng run rẩy: “Phu quân…”
Bạch Hổ vụt một cái đứng phắt ngay dậy, kéo Khởi Y, phăm phăm đẩy tới trước sòng, gầm lên thật lớn: “Đặt thì đặt!”
Đám đông bỗng chốc ồn ào, mỗi người một câu, có người còn huýt sáo ầm ĩ. Ngô thiếu gia và Lương thiếu gia lại đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng thở phào, vẻ sợ hãi trên khuôn mặt nhanh chóng biến thành một cơn hưng phấn quái đản.
Ông chủ Lâm thấy có vẻ lớn chuyện, liền đưa mắt nhìn Thích Quang. Thích Quang không nói gì, chỉ khẽ gật đầu. Ông chủ Lâm hiểu ý, bèn gõ một tiếng chiêng, cất giọng sang sảng: “Bạch thiếu gia đặt cược phu nhân, đấu giá tại chỗ, giá khởi điểm là một lượng vàng, ai muốn mua xin hãy giơ tay!”
Ngô thiếu gia là người đầu tiên giơ tay: “Mười lượng!”
Lương thiếu gia cũng không chịu kém, lập tức giơ tay hô: “Hai mươi lượng!”
Ngô thiếu gia lại giơ tay: “Bốn mươi lượng!”
Thích Quang đặng hắng một tiếng, rồi từ từ giơ tay lên: “Đây là mua một tặng một, tại hạ nguyện bỏ ra trăm lượng!”
“Ông trời ơi…” Khởi Y rú lên một tiếng thảm thiết, hai mắt tối sầm, ngã xuống ngất lịm.
Lão quản gia vội vàng chạy tới, nước mắt giàn giụa gào lên: “Thiếu phu nhân… Bạch tướng gia ơi, Bạch tướng gia, người hãy mở to mắt ra mà xem, ông trời ơi!” Rồi quay phắt người lại, đưa ánh mắt căm phẫn nhìn thẳng vào ba con bạc, quát lớn. “Các ngươi… lũ súc sinh các ngươi…” Lời vừa dứt, thình lình xông tới, lao thẳng về phía Ngô thiếu gia.
Nói thì chậm, động tác thì nhanh, Bàng Quyên thấy vậy, lập tức lao vọt lên như tên bắn, đưa tay ôm lấy lão quản gia, rồi đẩy vào trong đám đông.
Đám đông một phen hỗn loạn. Trong đám người đã có tiếng chửi bới xôn xao, có người nhổ nước bọt về phía Bạch Hổ.
Mãi đến lúc này, Bạch Hổ mới như người tỉnh mộng, quỳ sụp xuống đất, ôm lấy Khởi Y đã bất tỉnh nhân sự, khóc nức nở: “Khởi Y! Khởi Y, Khởi Y… Phu nhân…”
Chuyện đã đến lúc liên quan đến mạng người, nhưng ông chủ Lâm vẫn như không thấy, lại hắng giọng hô lớn: “Các vị hãy yên lặng, yên lặng, có người đã trả một trăm lượng, còn ai trả cao hơn không? Không có? Tốt, một trăm lượng lần một! Một trăm lượng lần hai! Một trăm lượng lần ba…”
Ông chủ Lâm đang định gõ chiêng, thì từ trong đám đông, đột nhiên phát ra một giọng nói lạnh lẽo: “Ba trăm lượng!”
Mọi người nghe mà thất kinh, thảy đều nhìn về phía phát ra giọng nói. Đó chính là Bàng Quyên, người vừa lao ra đỡ lão quản gia.
Xung quanh bỗng lặng phắc như tờ. Bạch Hổ kinh ngạc, ngước mắt lên nhìn.
Thích Quang cũng giật mình kinh dị, đưa mắt nhìn chằm chằm vào Bàng Quyên một hồi, khẽ gật đầu mà nói: “Hay lắm, đã có người ra mặt rồi. Được, được lắm! Ba trăm lượng của ngươi đâu?”
Bàng Quyên đi đến trước sòng bạc, chỉ tay vào ba đống vàng: “Chẳng phải đang xếp ở đây ư?”
Mọi người càng kinh ngạc hơn nữa.
Lương thiếu gia, Ngô thiếu gia nổi cơn tam bành: “Từ đâu mọc ra tên tiểu tử chết tiệt này, muốn chết hả?”
Bàng Quyên bật cười một tràng.
Thích Quang trầm ngâm chốc lát, rồi cất giọng lạnh lùng hỏi: “Xin hỏi tráng sĩ phải xưng hô thế nào?”
“Tại hạ họ Long, cứ gọi tại hạ là Long gia!”
Thích Quang liếc mắt sang ông chủ Lâm, thấy ông ta khẽ lắc đầu, liền ôm quyền hỏi: “Tại hạ xin hỏi, Long gia là người ở đâu, làm nghề gì?”
Bàng Quyên cũng đáp lễ mà nói: “Tại hạ là người nước Vệ, còn về việc làm ăn gì, có cần thiết phải nói tại sòng bạc chăng?”
Thích Quang hơi khựng lại, rồi bật cười ha hả: “Nước Vệ giàu có lẫy lừng thiên hạ, Long gia chắc hẳn cũng là tay chơi máu mặt. Nói đi, Long gia muốn chơi thế nào?”
“Lúc nãy chơi thế nào, thì giờ chơi như thế!”
Sau một hồi đắn đo, Thích Quang bèn gật đầu nói: “Được, Long gia đã sẵn lòng nể mặt, thì tại hạ xin được bồi tiếp. Long gia, mang tiền vốn ra đây!”
Bàng Quyên thong thả lấy từ trong túi ra đúng ba lượng vàng, rồi xếp lên sòng thành hình chữ “phẩm”.
Mọi người lại một phen kinh ngạc.
Thích Quang sắc mặt sầm hẳn xuống: “Long gia định đùa giỡn với bọn ta chăng?”
Bàng Quyên thần thái điềm tĩnh, chỉ mỉm cười, khẽ lắc đầu.
Thích Quang giận dữ quát lên: “Nếu không phải, thì mau xuất tiền vốn ra đi!”
Bàng Quyên chỉ tay lên bàn: “Đây chẳng phải ư?”
Thích Quang giận nổ đom đóm mắt: “Ngươi…”
Bàng Quyên cười nhạt: “Thế nào, ba lượng không phải vàng ư? Lúc nãy Bạch thiếu gia còn đặt một lượng kia mà!”
Thích Quang đột nhiên phá lên cười như phát cuồng, dứt tràng cười mới nói: “Được lắm, Long gia, nếu cậu đã không có thành ý, tại hạ bất tất phải bồi tiếp!” Nói đoạn, chậm rãi đứng dậy, vòng tay về phía ông chủ Lâm. “Ông chủ Lâm, tại hạ xin đi trước!”
Ngô công tử, Lương công tử cũng đứng dậy, đang định bỏ đi, thì trong đám đông đột nhiên lại vọng lên tiếng của Công Tôn Diễn: “Thích lão gia, cần bao nhiêu vàng thì ông mới chịu đánh?”
Thích Quang quét mắt qua Công Tôn Diễn, chẳng thèm nghĩ ngợi, chỉ giơ một ngón tay lên: “Không được ít hơn số này!”
Công Tôn Diễn với tay nhấc lấy cái rương đen xỉn trong tay Chu Uy, đưa cho Bàng Quyên: “Long gia, vàng đây!” Bàng Quyên sững lại một chốc, rồi mở rương ra, quả nhiên thấy bên trong xếp một trăm lượng, liền cảm kích gật đầu với Công Tôn Diễn, rồi chất vàng lên sòng, quay sang nói với Thích Quang: “Thích lão gia, ngồi xuống đi!”
Thích Quang suy nghĩ một thoáng, cuối cùng cũng chịu ngồi xuống. Ông chủ Lâm liếc nhìn ông ta, thấy ông ta gật đầu, lại tiếp tục gõ chiêng đánh “xoảng”: “Bắt đầu!”
Bàng Quyên xua tay: “Khoan!”
Mọi người khựng lại.
Bàng Quyên nhìn ông chủ Lâm: “Ông chủ, tại hạ nghe nói xúc xắc ở lầu Nguyên Hanh này có ma, chuyện này có thật chăng?”
Ông chủ Lâm trán toát mồ hôi lạnh, vội nói: “Long gia, là ai nói vậy?”
Nghe Bàng Quyên hỏi, Công Tôn Diễn cũng sững người, liếc mắt nhìn Chu Uy, song thấy ông ta chỉ dán mắt vào đống vàng trước mặt Bàng Quyên.
Bàng Quyên cười khoái trá: “Có ma hay không, cần phải kiểm tra mới biết được. Ông chủ, ông nói có đúng không?”
Ông chủ Lâm lại liếc nhìn Thích Quang, Thích Quang bèn gật đầu. Ông chủ Lâm đích thân cầm lấy hộp xúc xắc trong tay Tiểu Đào Hồng, đẩy tới trước mặt Bàng Quyên. Bàng Quyên cầm con xúc xắc ra, ngắm nghía một hồi, song không thể tìm ra điểm nào đáng nghi, liền lắc đầu mà nói: “Chà, xem ra người đời chỉ toàn đồn bậy, xúc xắc vẫn là xúc xắc, làm gì có ma?”
Nghe thấy vậy, ông chủ Lâm biết đối phương không phải người trong nghề, liền thở phào một hơi, cười nói: “Đúng thế đúng thế, chúng tôi làm ăn đàng hoàng, làm gì có ma quỷ ở đây?”
Công Tôn Diễn cũng thở phào một tiếng, liếc sang Chu Uy khẽ gật gù. Nhưng dường như Chu Uy không nhìn thấy, chỉ nhắm mắt lầm rầm cầu khấn: “Tiểu tử, ngươi nhất định phải cố gắng, đây là toàn bộ gia sản nhà ta đấy!”
Công Tôn Diễn nhìn thấy mà nực cười, liền đưa cùi chỏ huých khẽ Chu Uy, nói nhỏ: “Đừng khấn nữa! Nếu còn khấn nữa thì tên tiểu tử kia thua là chắc!”
Chu Uy cũng định thần lại, đang định lên tiếng thì Bàng Quyên đã nói lớn: “Nếu như xúc xắc đã không có ma, tại hạ sẵn sàng đánh!” Rồi quay sang nhìn Tiểu Đào Hồng. “Này mỹ nhân, cô là nhà cái ư?”
Tiểu Đào Hồng cười chúm chím, thỏ thẻ nói: “Long gia, cái gì mà nhà cái với không phải nhà cái, thiếu gia cứ gọi Tiểu Đào Hồng là được rồi. Thiếu gia có gì dặn dò, xin cứ nói!”
Bàng Quyên cũng nhìn cô ả cười cười: “Theo quy tắc ở đây, ai là người lắc xúc xắc?”
“Ai ngồi vị trí nhà cái thì người đó lắc!”
“Đã là nhà cái lắc, vậy tại sao lúc nãy cô lại lắc?”
Tiểu Đào Hồng sững lại một thoáng, rồi biện bạch: “Lúc nãy là Bạch thiếu gia làm nhà cái. Bạch thiếu gia e rằng vận khí của mình không tốt, nên bảo thiếp làm thay!”
“Ồ, thì ra là vậy!” Bàng Quyên lại cười, gật gù rồi nói. “Xin được hỏi nhà cái, là đặt trước lắc sau, hay lắc trước đặt sau?”
“Do nhà cái tự quyết định!”
Bàng Quyên lại gật đầu, quay sang nhìn ba người Thích Quang: “Ba vị bằng hữu, ai muốn ngồi nhà cái?”
Ba người liếc mắt nhìn nhau, vẫn chưa kịp phản ứng thì Bàng Quyên đã cười vang: “Ba vị đã không muốn ngồi nhà cái, vậy hãy để tại hạ ngồi!”
Bàng Quyên vơ lấy xúc xắc, quay sang nói với Tiểu Đào Hồng: “Này mỹ nhân, bản thiếu gia vận khí trước nay cực tốt, không cần làm phiền đến nàng nữa!” Nói đoạn, liền lắc xúc xắc mấy cái, quay sang nói với ba đối thủ.
“Nhà cái ta vẫn theo quy tắc ban nãy, đặt cược trước rồi mới lắc sau, tại hạ đặt một trăm linh ba lượng vàng, các vị ai theo?”
Bàng Quyên nói xong, liền đẩy tất cả số vàng trước mặt lên phía trước. Lương thiếu gia, Ngô thiếu gia cùng đưa mắt nhìn Thích Quang. Đám đông đứng xem cũng đổ dồn ánh mắt vào Thích Quang. Thích Quang liếc mắt một vòng, thấy mọi người đều đang nhìn mình chằm chằm, biết là không thể thoái thác, bèn nghiến răng đẩy ra một trăm linh ba lượng: “Tại hạ theo!”
Lương thiếu gia, Ngô thiếu gia lần lượt mỗi người đẩy ra một trăm linh ba lượng: “Theo! Theo!”
Bàng Quyên mỉm cười: “Được! Ba vị đã nể mặt như vậy, tại hạ xin đa tạ! Xin hỏi các vị, đặt cửa tài, hay cửa xỉu?”
Lương thiếu gia, Ngô thiếu gia lại liếc mắt nhìn Thích Quang. Thấy xúc xắc đã trong tay Bàng Quyên, Thích Quang cũng không thể quyết đoán được nữa, trán vã mồ hôi lạnh.
Bàng Quyên giọng trầm nặng, tiếp tục gặng hỏi: “Đặt cửa tài, hay xỉu?”
Thích Quang nghiến răng kèn kẹt, nói lớn: “Tài! À không, xỉu!”
Lương thiếu gia vội vàng nói theo: “Phải phải phải, đặt xỉu! Ta cũng đặt xỉu!”
Ngô thiếu gia do dự một lát: “Ta đặt tài… Phải, đặt tài!”
Bàng Quyên liếc nhìn Ngô thiếu gia, cười nhạt mà nói: “Ngô thiếu gia, cậu phải nghĩ cho kỹ, nếu tại hạ cũng đặt xỉu, thiếu gia sẽ phải một đền ba đấy!”
Ngô thiếu gia khựng lại một thoáng, rồi vội vàng đổi ý: “Ta… ta đặt xỉu!”
Bàng Quyên cười ha hả: “Tốt, mọi người đã đều đặt xỉu, vậy tại hạ sẽ đặt cửa tài!”
Nói đoạn, liền lắc hộp xúc xắc, cứ lắc trái lắc phải, lắc trên lắc dưới rối rít một thôi một hồi, khiến cho người xem hoa hết mắt mũi, đến động tác cuối cùng thì khẽ đẩy lên trên, rồi đặt xuống bàn.
Bàng Quyên mở hộp xúc xắc trong ánh mắt kinh ngạc của mọi người.
Quả nhiên là tài, đám đông lập tức hoan hô ầm ĩ!
Chưa đợi ông chủ Lâm lên tiếng, Bàng Quyên đã tự đưa tay vơ hết ba đống vàng về phía mình, lần lượt xếp lại từng đĩnh, rồi đưa ánh mắt lạnh lùng quét qua ba con bạc đang ngồi chết lặng, sau đó đẩy toàn bộ số vàng về phía trước: “Ba vị, tại hạ đặt bốn trăm mười hai lượng, ai theo?”
Tất cả những người có mặt đều chấn động trước khí thế áp đảo của Bàng Quyên, cả căn phòng bỗng lặng phắc như tờ. Ngô thiếu gia, Lương thiếu gia mắt lộ hung quang, không hẹn mà gặp cùng nhìn sang Thích Quang.
Thích Quang đang lúc khó xử, bỗng có một người vội vã đi tới bên cạnh, ghé sát tai ông ta thì thầm gì đó. Thích Quang đột nhiên thần thái căng thẳng, từ từ đứng dậy, cố rặn ra một nụ cười, hơi vòng tay về phía Bàng Quyên mà nói: “Long gia bản lĩnh hơn người, tài năng xuất chúng, tại hạ bái phục, xin chịu thua! Tại hạ có chút việc xin được đi trước, hôm khác sẽ tiếp tục thỉnh giáo Long gia!”
Bàng Quyên cũng vòng tay cười nhạt: “Lúc nào Thích gia có hứng, bản thiếu gia nhất định sẽ kính cẩn bồi tiếp.”
Thích Quang không trả lời, lập tức quay ngoắt người đi theo kẻ kia. Ngô thiếu gia, Lương thiếu gia ngẩn ra một lát, rồi cũng len lét bỏ đi trong tiếng cười rộ chê bai của đám đông. Ông chủ Lâm, Tiểu Đào Hồng hấp tấp vơ lấy số vàng lẻ còn sót lại của ba người, cũng nối gót rời khỏi sòng bạc.
Bàng Quyên đếm lấy một trăm lượng vàng từ trong đống vàng trước mặt, bỏ lại vào rương, hai tay dâng cho Công Tôn Diễn: “Đây là trăm lượng của nhân huynh, tại hạ trả đủ số, xin nhân huynh đếm lại!”
Công Tôn Diễn khen ngợi: “Thực không ngờ, Long gia hành sự chín chắn kín kẽ, kỹ xảo tuyệt diệu!”
Bàng Quyên vái dài một lễ: “Nếu không có nhân huynh chỉ điểm, cho dù tại hạ có kỹ xảo, cũng chẳng có cơ sử dụng!”
Hai người đều ngầm hiểu trong lòng, không ai nói ra bí mật trong con xúc xắc, những người xung quanh cũng không hiểu họ đang nói gì. Từ khi lầu Nguyên Hanh mở cửa đến nay, đây là lần thắng cược lớn nhất của người chơi, Bàng Quyên cũng là người đầu tiên trong chớp mắt đã thắng được ba trăm lượng vàng, và số tiền thắng được đều là tiền của các con bạc nức tiếng!
Trả cho Công Tôn Diễn trăm lượng xong, Bàng Quyên quay sang lấy lại ba lượng của mình, còn lại ba trăm linh chín lượng, đưa tất cho Bạch Hổ: “Bạch thiếu gia, đây là vàng của nhà cậu, hãy nhận về đi!”
Bạch Hổ như không nghe thấy gì, cứ như kẻ ngây dại ôm chặt lấy thê tử đang chết ngất, miệng lảm nhảm liên hồi: “Phu nhân, phu nhân…”
Khởi Y từ từ hồi tỉnh, mở mắt ra, thấy người bên cạnh vẫn là Bạch Hổ, thì nước mắt giàn giụa, lắp bắp cầu xin: “Phu quân, chúng ta… không đánh nữa, hãy về nhà đi!”
Bạch Hổ khóc mà nói: “Phu nhân, không đánh nữa, không đánh nữa, Bạch Hổ không bao giờ đánh nữa!”
Trên khuôn mặt Khởi Y thoáng hiện nét cười.
Bàng Quyên lại chỉ tay vào số vàng trên bàn, nói: “Bạch thiếu gia, hãy mang theo ba trăm linh chín lượng vàng của cậu quay về nhà đi!”
Bạch Hổ bàng hoàng nhìn Bàng Quyên, rồi gạt toàn bộ số vàng đi: “Ta không cần vàng, ta không cần vàng! Ta cần phu nhân, ta chỉ cần phu nhân…”
Thấy Bạch Hổ vẻ như đã tỉnh ngộ, Bàng Quyên bèn gật đầu, cao giọng nói lớn: “Bạch thiếu gia đã có lòng như vậy, tại hạ cảm thấy rất yên tâm! Mau cầm lấy vàng rồi trở về nhà, chúng vốn dĩ thuộc về cậu, còn phu nhân đây đương nhiên cũng là của cậu.”
Trên đời làm gì có chuyện tốt đẹp đến thế? Bạch Hổ nhất thời chết sững, không dám tin những điều Bàng Quyên vừa nói là sự thật.
Thấy Bạch Hổ vẫn đứng như trời trồng, Bàng Quyên tiến lại gần, vỗ vào vai Bạch Hổ, nửa như quở trách, nửa như nhắc nhở: “Bạch thiếu gia, trong sòng bạc không có quân tử! Đại trượng phu đứng trong trời đất, có bao nhiêu việc lớn phải làm, sao có thể cả đời đắm chìm trong cờ bạc, để cho người ta khinh bỉ?”
Bạch Hổ ngẩng đầu nhìn Chu Uy, Công Tôn Diễn và lão quản gia, thấy họ đều đang nhìn mình chằm chằm, không ai tỏ vẻ kinh ngạc, lúc này mới tin vào sự thực trước mắt, như choàng tỉnh khỏi cơn mê, liền buông thê tử ra, dập đầu sát đất: “Lời của ân công như sấm động bên tai. Ơn tái sinh của ân công, Bạch Hổ muốn chết cũng không đủ báo đáp. Ân công, xin nhận của Bạch Hổ một lạy!”
Bàng Quyên chưa kịp cản thì Bạch Hổ đã lạy liền ba lạy. Rồi Bạch Hổ đứng vụt dậy, rút bảo kiếm ra, đặt ngón áp út lên sòng bạc, “phập” một tiếng chém đứt lìa ngón tay mà thề: “Ân công ở trên, trời xanh ở trên, đời này Bạch Hổ nếu còn đánh bạc dù chỉ một cắc, sẽ như ngón tay này!”
Đám đông cùng ồ lên khen ngợi.
Mãi đến lúc này Khởi Y mới hiểu ra mọi chuyện, liền dập đầu phủ phục xuống đất, khóc mà nói: “Ân công ở trên, xin nhận của thiếp một lạy!”
***
Trời đã gần tối, mật thất trên lầu vẫn chưa thắp đèn, tối đen như mực, hầu như không nhìn thấy thứ gì. Thích Quang vội vã đi vào, thấy Trần Chẩn đang ngồi trong đó, liền quỳ sụp xuống, trán đập cồm cộp xuống sàn, nước mắt nước mũi ròng ròng mà gọi: “Chúa công…”
Trần Chẩn thở dài: “Chuyện này không thể trách được ngươi, đứng dậy đi!”
Thích Quang càng phủ phục sát đất: “Chúa công…”
“Có biết thua ở chỗ nào không?”
“Tiểu nhân… tiểu nhân không biết!”
“Phía sau Long gia có cao nhân chỉ điểm!”
Thích Quang giật mình, hỏi: “Ai?”
Trần Chẩn gằn mạnh từng chữ: “Công Tôn Diễn!”
“Công Tôn Diễn? Hắn là ai?”
“Chính là cái kẻ tay cầm bầu rượu, trông giống hệt gã ăn mày. Ta đã điều tra, mấy ngày nay hôm nào hắn cũng đến xem đánh bạc, dựa vào trí tuệ của hắn, chút mánh khoé vặt vãnh của các ngươi đã bị hắn phát hiện từ lâu!”
Thích Quang lắp bắp: “Chẳng trách…” Rồi câm bặt.
“Không chỉ có hắn, mà cả Chu tư đồ cũng đến!”
Thích Quang trợn trừng hai mắt.
Trần Chẩn lại thở dài sườn sượt: “Nếu họ điều tra được chân tướng của lầu này, thực là phiền phức lớn!”
Thích Quang nghe mà toàn thân toát mồ hôi lạnh, nói không thành tiếng: “Chúa… chúa công, phải… phải làm thế nào đây?”
Trần Chẩn lắc đầu: “Còn có thể làm thế nào? Ngươi cũng biết, việc dàn xếp hậu quả là rất đỗi khó khăn!”
Thích Quang dập đầu lia lịa: “Đều tại tiểu nhân bất tài, đã mang lại phiền phức cho chúa công!”
“Bây giờ vẫn chưa phải lúc nói những điều này. Long gia kia không thể coi thường. Ngươi hãy mau chóng điều tra, nhất định phải truy ra chân tướng của hắn!”
“Tiểu nhân sẽ đi ngay!”
Thích Quang lui ra khỏi mật thất, rồi trở về phủ, lập tức gọi Đinh Tam đến căn dặn: “Ngươi mau đi điều tra về một gã họ Long. Người này đến từ nước Vệ, trông bộ dạng giống thương nhân.”
Nghe thấy ba chữ “người họ Long”, Đinh Tam hai mắt vụt sáng, ngẩng lên hỏi: “Có phải kẻ này râu ria rậm rạp?”
Thích Quang kinh ngạc: “Tại sao ngươi biết?”
“Buổi sáng có người đến hiệu may họ Bàng, tiểu nhân bám theo người đó đến phố Bắc Nhai, thấy hắn đi vào quán trọ Thiên Thuận. Tiểu nhân hỏi tiểu nhị, biết được đó là tên hầu của một người tên gọi Long gia. Tiểu nhân vốn cho rằng Long gia là Bàng Quyên, nên đã hỏi tiểu nhị, tiểu nhị lại nói hắn ta mặt mũi đầy râu ria. Tiểu nhân biết mặt Bàng Quyên, biết hắn không có râu, nhất thời do dự nên chưa điều tra tiếp, không ngờ lại chính là hắn!”
Thích Quang cười nhạt: “Nếu là hắn thì tốt!”
Đinh Tam nói lớn: “Thích gia, tiểu nhân sẽ lập tức dẫn người tới quán trọ Thiên Thuận bắt hắn!”
Thích Quang suy nghĩ một lát, rồi ghé sát tai thì thầm một chặp với Đinh Tam, Đinh Tam gật đầu lia lịa, vội vã chạy đi.

Lần đầu ra tay đã đắc thủ, Bàng Quyên không khỏi đắc ý. Sau khi cùng đám đông ra khỏi lầu Nguyên Hanh, Bàng Quyên bèn vòng tay cáo biệt Chu Uy, Công Tôn Diễn và vợ chồng Bạch Hổ, sau đó lên xe ngựa, cùng Tôn Tân trở về quán trọ Thiên Thuận.
Trở về quán trọ, Bàng Quyên gọi tiểu nhị đến hỏi, tất cả đều bình thường, Đinh Tam không đến thêm lần nào nữa. Bàng Quyên lại bảo Tôn Tân cải trang đến phố Tây Nhai thăm dò, cũng không phát hiện điều gì bất thường. Bàng Quyên, Tôn Tân cùng bàn bạc, quyết định nửa đêm sẽ quay lại hiệu may họ Bàng, cứu Bàng Hành ra.
Vào khoảng canh ba, trên phố không một bóng người. Tôn Tân, Bàng Quyên thay đồ đi đêm, âm thầm đến phố Tây Nhai, nhìn quanh không thấy một ai, bèn lặng lẽ mở cửa, lẻn vào bên trong.
Sau khi vào cửa, Bàng Quyên vẫn không yên tâm, liền đứng nép sang một bên, quan sát động tĩnh trên phố, lại áp tai nghe ngóng hồi lâu, chắc chắn bên ngoài không có ai, mới thở phào một tiếng, đi vào sân trong.
Vì là nhà mình nên Bàng Quyên rất thông thuộc, bước đi rất nhanh. Tôn Tân tay lăm lăm bảo kiếm theo sát phía sau. Đến cửa phòng Bàng Hành, Bàng Quyên đi chậm lại, khẽ gọi: “Cha ơi! Cha!”
Trong phòng không có tiếng đáp.
Hai người biết Bàng Hành đã trở thành người ngây dại nên cũng không mấy để tâm. Bàng Quyên đi thẳng tới trước cửa, nhẹ nhàng đẩy cánh cửa phòng.
Trong phòng tối đen như mực.
Bàng Quyên quay sang nói khẽ với Tôn Tân: “Tôn huynh, có lẽ cha đã ngủ say rồi. Huynh mau thắp lửa lên, ta sẽ cõng cha ra!”
Tôn Tân lấy mồi lửa trong tay áo ra, thổi lên thắp sáng một que đóm.
Ánh sáng vừa bùng lên, hai người đã thất kinh: giữa phòng, Bàng Hành bị nhét giẻ vào miệng, đang bị hai hán tử cao lớn giữ chặt hai tay. Đinh Tam đứng phía sau, đặt thanh kiếm đồng sáng loáng lên cổ Bàng Hành.
Đinh Tam bật cười ha hả: “Bàng thiếu gia, Đinh mỗ đợi ngươi ở đây đã lâu rồi! Bay đâu, mau đốt đuốc lên!”
Mấy cây đuốc lập tức bùng cháy, căn phòng lập tức sáng trưng như ban ngày.
Bàng Quyên từ từ rút thanh bảo kiếm đeo ngang hông khỏi bao, ánh mắt sắc như ánh chớp chiếu thẳng vào Đinh Tam. Đinh Tam rút nùi vải trong miệng Bàng Hành ra, Bàng Hành mặt đỏ tía, ho sặc sụa mấy cái rồi thở hổn hển.
Bàng Quyên trong lòng đau xót, gọi: “Cha ơi…”
Đinh Tam cười gằn: “Bàng thiếu gia, tại hạ chỉ cần mạnh tay một chút, thì cha của người sẽ… Ha ha ha…”
Bàng Quyên phẫn uất: “Ngươi là giống súc sinh, mau thả cha ta ra, nếu không, ta sẽ vằm xác ngươi thành trăm mảnh!”
“Được thôi, ngươi có giỏi thì đến vằm xác ta đi!”
Bàng Quyên vung kiếm định lao lên, thì Tôn Tân vội kéo áo Bàng Quyên lại: “Bàng huynh!”
Đinh Tam nói tiếp: “Bàng thiếu gia, ta biết ngươi là con có hiếu, để con có hiếu nhìn cha chết trong tay mình, hẳn sẽ thú vị lắm, ngươi thấy có phải không?” Nói đoạn, khẽ giật thanh kiếm trên cổ Bàng Hành một cái, khiến ông ta sợ hãi nín thở, mặt đỏ phừng phừng.
Bàng Quyên vội quát: “Họ Đinh kia, ngươi muốn gì?”
“Không muốn gì cả, chỉ muốn ngươi buông thứ trên tay xuống!”
Bàng Quyên giận dữ: “Ngươi đừng có mơ!”
Đinh Tam cười nhạt: “Không cần nhiều lời, ta đếm từ một đến ba, bây giờ bắt đầu, một!”
Tay của Bàng Quyên bắt đầu run rẩy.
Đinh Tam tiếp tục dài giọng: “Hai…”
Tay Bàng Quyên càng run mạnh hơn.
Đinh Tam đang định đếm đến ba, Tôn Tân đã lên tiếng: “Được, muốn chúng ta bỏ kiếm xuống cũng được, nhưng ngươi nhất định phải thả Bàng sư phụ ra!”
“Bàng thiếu gia!” Đinh Tam nói tiếp. “Có nghe thấy bạn ngươi nói gì không? Chúng ta lấy một đổi một, chỉ cần ngươi chịu buông kiếm, đồng ý giơ tay chịu trói, ta sẽ lập tức thả Bàng sư phụ, quyết không nuốt lời!”
Tôn Tân quay sang nói với Bàng Quyên: “Bàng huynh, cứu lệnh tôn là quan trọng!”
Nói đoạn, quẳng luôn thanh kiếm xuống đất.
Bàng Quyên chần chừ một lát, rồi cũng từ từ đặt thanh bảo kiếm xuống.
Đinh Tam quát lớn: “Đưa hai tay về phía sau!”
Hai người cùng đưa tay về phía sau.
“Trói lại!”
Từ ngoài cửa lập tức có mấy kẻ xông vào, trói nghiến hai người lại.
“Ha ha ha…” Đinh Tam cười sằng sặc. “Bàng thiếu gia quả là người con có hiếu. Được, Đinh Tam đã nói, quyết sẽ không nuốt lời, cha của ngươi đây, hãy mau nhận lấy!” Nói đoạn, thuận tay giật mạnh, chỉ nghe “rẹt” một tiếng sắc lạnh, Bàng Hành không kịp kêu lấy một tiếng, họng đã đứt lìa.
Đinh Tam giơ tay đẩy mạnh, cơ thể Bàng Hành lao thẳng về phía Bàng Quyên. Bàng Quyên đang đứng chết trân, không kịp đề phòng, nên ngã dúi xuống đất.
Bàng Quyên nộ hoả ngất trời, loạng choạng bật dậy, gào lên đến lạc giọng: “Súc sinh!” Rồi nhảy vọt lên định lao tới, nhưng đã bị kẻ đứng sau giữ lại.
Đinh Tam cười nhạt: “Ngươi mắng ta là đồ súc sinh? Mắng hay lắm! Họ Bàng kia, nói cho ngươi biết, Đinh Tam ta đúng là súc sinh đấy! Bay đâu, đưa đi!”


Hồi Thứ 13

Trúng mưu kế, huynh đệ nhập lao
Thoát hiểm nạn, Bàng - Tôn lên núi


Bắt được hai người Bàng Quyên, Tôn Tân, Đinh Tam hỉ hả lắm, bèn trở về phủ Trần Chẩn, bẩm báo lại toàn bộ sự việc cho Thích Quang. Thích Quang mừng rỡ, ngay trong đêm đó lập tức dẫn Đinh Tam tới gặp Trần Chẩn.
Trần Chẩn đang ngủ say, nghe thấy tiếng gõ cửa, hỏi ra là Thích Quang đến, biết có chuyện lớn, vội vã mặc áo rồi đi ra phòng khách.
Thích Quang dập đầu sát đất, hồ hởi nói: “Chúa công, tiểu nhân đã điều tra rõ, cái tên Long gia kia đích xác là Bàng Quyên, con trai của thợ may Bàng. Vừa rồi tiểu nhân đã bắt được hắn về quy án, đợi chúa công xử lý!”
“Bàng Quyên?” Trần Chẩn ngẫm nghĩ một lát, rồi gật gù. “Đáng lẽ phải nhận ra hắn từ đầu mới phải! Chẳng phải phía dưới chữ Bàng chính là chữ Long hay sao? Dẫn hắn lên đây!”
Thích Quang vỗ tay, Đinh Tam đang đứng đợi ở ngoài sân, lập tức áp giải Bàng Quyên, Tôn Tân lên.
Trần Chẩn liếc nhìn Thích Quang, hỏi: “Kẻ nào là Bàng Quyên?”
Thích Quang chưa kịp trả lời, Bàng Quyên đã chửi: “Trần Chẩn, ngươi là tên tiểu nhân đê tiện, là gian tặc nước Ngụy, Bàng Quyên hận không thể nhai nuốt thịt ngươi, lột sống da ngươi!”
Trấn Chẩn gườm gườm nhìn Bàng Quyên, thủng thẳng: “Tát!”
Thích Quang đi tới, tát cho Bàng Quyên mấy cái, khiến răng bên hàm trái của Bàng Quyên gãy mất một chiếc, miệng ứa máu tươi, bộ râu giả gắn trên cằm cũng văng xuống đất. Bàng Quyên nghiến răng kèn kẹt, hai mắt trợn trừng, rồi nhổ một miệng máu và răng gãy vào giữa mặt Thích Quang.
Thích Quang thẹn quá hoá giận, đưa tay áo lên chùi mặt rồi định tát tiếp, song Trần Chẩn lại gật gù tán thưởng: “Thằng ranh này khá đấy, ra dáng lắm!”
Bàng Quyên lại chửi một câu “gian tặc”, Trần Chẩn chau mày, liếc sang Đinh Tam: “Bịt miệng!”
Đinh Tam lập tức xé một miếng vải trên áo Bàng Quyên, nhét luôn vào miệng hắn, rồi cúi xuống nhặt bộ râu giả lên, tiến đến trước mặt Trần Chẩn, quỳ xuống đất, nửa như bẩm báo, nửa như kể công: “Chúa công nhìn xem, chính là bộ râu này hôm qua đã che mắt tiểu nhân! Nếu không phải vậy…” Chợt thấy ánh mắt Trần Chẩn từ từ chuyển sang Tôn Tân, thì câm bặt không dám nói nữa.
Trái ngược hẳn với vẻ giận dữ hung hãn của Bàng Quyên, Tôn Tân chỉ đứng yên tại chỗ, không sợ hãi, không tức giận, cũng không hề có vẻ lo lắng bất an, vẫn điềm nhiên như không.
Trần Chẩn quan sát Tôn Tân một lượt, rồi chậm rãi nói: “Nhìn khí độ của ngươi, chắc chắn chẳng phải hạng tầm thường. Ngươi là ai?”
Tôn Tân đáp: “Tôn Tân người nước Vệ xin chào thượng đại phu!”
“Tôn Tân?” Trần Chẩn giật mình. “Phải chăng là Tôn tướng quân trấn thủ thành Đế Khâu?”
“Chính tại hạ!”
Đừng nói là Trần Chẩn, ngay cả Bàng Quyên cũng cả kinh, đưa ánh mắt kinh ngạc nhìn sững vào Tôn Tân.
Trần Chẩn nhìn chăm chú một hồi nữa rồi gật gù nói: “Tại hạ đã nghe đại danh của Tôn tướng quân từ lâu. Khi bệ hạ phạt Vệ, tổ phụ Tôn Cơ của tướng quân tới nước Tề cầu cứu viện, phụ thân Tôn Thao, thúc phụ Tôn An của tướng quân đã liều chết bảo vệ Bình Dương, Tôn tướng quân cũng kiên quyết tử thủ thành Đế Khâu. Bốn ông cháu cha con họ Tôn nhà tướng quân đã khiến thượng tướng quân khổ sở không ít.” Rồi quay sang Thích Quang. “Mau cởi trói cho Tôn tướng quân!”
Lời vừa dứt, Tôn Tân liền lui lại mấy bước, chậm rãi nói: “Tại hạ đa tạ thượng đại phu khoan dung, có điều…”
“Ồ?”
“Tại hạ và Bàng thiếu gia tình như huynh đệ, không dám một mình hưởng tự do. Nếu thượng đại phu thương tình tại hạ, thì hãy thả cả Bàng thiếu gia ra!”
“Ồ!” Trần Chẩn liên tiếp gật gù, lại khen. “Tôn tướng quân thật là người nghĩa khí, không hổ danh là hậu duệ của Tôn Vũ Tử! Có điều Tôn tướng quân như viên ngọc bỏ vào chỗ tối, giao du với hạng cặn bã này, còn cam chịu làm người hầu của hắn, quả thực không sáng suốt!” Lại quay sang Đinh Tam. “Dẫn họ đi, phải canh chừng thật kỹ!”
Đinh Tam vâng lệnh, rồi dẫn hai người đi.
Thích Quang bước lại gần, khẽ hỏi: “Chúa công, phải xử lý thế nào?”
“Ngươi nói xem, nên xử lý thế nào?”
“Theo ý tiểu nhân, không làm thì thôi, đã làm thì phải…” Thích Quang đưa bàn tay cứa ngang cổ.
Trần Chẩn thở dài: “Ngươi thì chỉ biết đến giết người! Sự việc này đã liên quan tới Tôn tướng quân nước Vệ, tốt nhất là đưa lên quan phủ! Hơn nữa, Bàng Quyên đã giết chết ngư dân và tiều phu mà bệ hạ triệu kiến, phạm phải tội lớn, lần trước ở cửa Túc Tư lại sát hại mấy tên lính, tội càng thêm nặng, khó thoát án tử. Đối với kẻ đã chết chắc, sao ta phải tự mình ra tay? Còn về Tôn tướng quân, lần trước đã khiến thượng tướng quân nếm nhiều khốn khổ, tốt nhất nên mời thượng tướng quân xử lý.”
“Tiểu nhân tuân lệnh!”

Buổi trưa hôm sau, Bạch Hổ xách theo một bọc vải, mặt mũi hớn hở từ ngoài phố trở về, vừa vào trong sân đã cất tiếng gọi oang oang: “Phu nhân, phu nhân!”
Khởi Y vội vã từ trong nhà đi ra: “Phu quân, chàng về đấy ư?”
Bạch Hổ tươi cười giơ cái bọc lên cao: “Phu nhân, nàng xem, đây là thứ gì?”
Khởi Y nhận lấy, mở ra xem, thì ra chính là hộp nữ trang của mình, trong lòng cảm động, liền hỏi: “Phu quân, chàng chuộc nó về thật ư?”
“Đúng thế! Chủ tiệm ban đầu nhất quyết không chịu, sau đó ta doạ sẽ kiện hắn lên quan, hắn mới thấy sợ.”
Khởi Y bước tới, kéo lấy cánh tay Bạch Hổ, nhìn vào ngón áp út bị chính tay Bạch Hổ chặt đứt giờ đang băng bó kín mít, xót xa hỏi Bạch Hổ: “Còn đau không?”
Bạch Hổ gật đầu.
“Phu quân, chàng thật sắt đá!”
Bạch Hổ bật cười: “Không sắt đá, e rằng không thể cai được!”
Khởi Y đưa hộp nữ trang cho lão quản gia, rồi bước lại, ngả đầu vào lòng Bạch Hổ, đưa tay xoa bụng, nghẹn ngào nói: “Phu quân, Tiểu Bạch Khởi nghe thấy cũng rất vui mừng, cứ đạp loạn lên trong bụng thiếp!”
Nghe thấy những lời này, Bạch Hổ bỗng trào nước mắt. Bạch Hổ đỡ lấy Khởi Y, dìu vào trong nhà ngồi xuống. Lão quản gia ôm hộp nữ trang đi vào phòng trong, đặt lại vào ngăn bàn của Khởi Y như cũ.
Thấy lão quản gia đã đi vào phòng, Bạch Hổ ngẫm nghĩ một lát rồi căn dặn: “Lão quản gia, hãy lấy mười bảy lượng vàng đến Ngô phủ trả cho Ngô thiếu gia, nói rằng bản thiếu gia không bán nhà nữa. Hôm qua vay hắn mười sáu lượng, hôm nay trả thừa một lượng coi như tiền lãi!” Ngưng một lát, rồi giọng gằn xuống. “Lão hãy bảo hắn rằng, bản thiếu gia mong hắn biết điều mà nhận lấy vàng!”
Thấy Bạch Hổ như thể trở thành một người khác hẳn, lão quản gia cũng mừng ra mặt, vui vẻ vâng lời, rồi đi vào trong phòng Khởi Y, mở rương lấy ra mười bảy lượng vàng, nhanh nhẹn đi ra khỏi cửa.
Bạch Hổ thay đổi trang phục, đeo kiếm lên người, quay sang nói với Khởi Y: “Phu nhân, nàng hãy ở nhà nghỉ ngơi, ta đi ra ngoài có chút việc!”
“Việc?” Khởi Y ngạc nhiên. “Phu quân định đi đâu?”
Bạch Hổ cười: “Phu nhân yên tâm, không phải tới lầu Nguyên Hanh đâu!”
Bạch Hổ từ biệt Khởi Y, rảo bước ra khỏi cổng, đi một mạch thẳng tới hình ngục, đưa thẻ bài cầu kiến quan tư hình. Một lát sau, một tên cai ngục đi ra, dẫn Bạch Hổ vào cửa lớn của hình ngục, từ xa đã nhìn thấy quan tư hình đứng đón sẵn ngoài cửa.
Bạch Hổ khom lưng, vái dài một lễ: “Bạch Hổ xin chào tư hình đại nhân!”
Tư hình đáp lễ: “Tại hạ xin chào Bạch thiếu gia! Bạch thiếu gia, mời!”
Hai người dắt tay nhau đi vào trong phủ, chia ngôi chủ khách ngồi xuống. Tư hình nhìn Bạch Hổ một lát, rồi cười vui vẻ: “Bạch thiếu gia tới thăm bản phủ, không biết có chuyện gì quan trọng?”
Bạch Hổ hơi ngượng nghịu, bèn vòng tay nói: “Tư hình đại nhân… lần này tại hạ đến, là muốn xem bộ trang phục ngục tốt của tại hạ có còn không?”
Tư hình bật cười: “Bạch thiếu gia, không dám giấu thiếu gia, lần trước thiếu gia đã ném bộ trang phục đó xuống đất rồi một đi không trở lại, tại hạ nghĩ thiếu gia không muốn mặc nên đã cho người khác rồi!”
Bạch Hổ mặt đầy thất vọng, nhất thời ngẩn ra.
“Vậy hôm nay Bạch thiếu gia đến đây, phải chăng là muốn mặc?”
Bạch Hổ mặt đỏ bừng, than thở: “Đại nhân có điều chưa biết, chuyện ngày hôm qua tựa như giấc mơ, hôm nay tỉnh mộng, tại hạ muốn được làm lại từ đầu, muốn làm ngục tốt dưới trướng đại nhân, không ngờ…” Nói đoạn, cười gượng gạo, khẽ lắc đầu.
“Ồ?” Tư hình đại nhân kinh ngạc, rồi gật gù nói. “Nếu là vậy, tại hạ có thể giúp được!” Nói đoạn đứng lên, đi lấy một bộ y phục, đưa cho Bạch Hổ. “Bạch thiếu gia, thiếu gia hãy thử bộ này xem sao!”
Bạch Hổ nhận lấy bộ y phục, vừa nhìn đã ngỡ ngàng: “Tư hình đại nhân, đây đâu phải trang phục ngục tốt?”
Tư hình lại cười: “Mặc kệ là trang phục gì, thiếu gia cứ mặc thử xem có vừa không?”
Bạch Hổ nhìn kỹ bộ y phục, thấy may bằng lụa, càng thấy hoài nghi, liền đưa mắt nhìn tư hình, thấy ông ta không có ý giễu cợt, nên cũng lần lượt mặc từng chiếc lên người. Tư hình bước lại gần, giúp chỉnh trang y phục, thắt đai lưng cho Bạch Hổ, sau đó lùi lại vài bước, ngắm nghía một lát, gật đầu hài lòng rồi gọi vọng ra phía cửa: “Người đâu!”
Hai tên lính đứng hầu ngoài cửa vội chạy vào.
Tư hình chỉ vào Bạch Hổ: “Vị này là quản ngục đại nhân mới, bắt đầu từ hôm nay sẽ cai quản toàn bộ nhà lao trong ngục, các ngươi phải phục dịch cho chu đáo!”
Trong ngục, chức quản ngục chỉ thấp hơn tư hình, trong triều cũng là tước hạ đại phu, cao hơn rất nhiều so với ngục tốt. Bạch Hổ bất ngờ, cứ đứng sững như trời trồng tại chỗ. Hai tên ngục tốt bèn quỳ xuống bái lạy: “Hạ quan khấu kiến quản ngục đại nhân!”
Bạch Hổ không trả lời, quay sang tư hình: “Tư hình đại nhân, thế này là…”
“Bạch thiếu gia, là tư đồ đại nhân đã căn dặn, tại hạ chẳng qua chỉ là vâng lệnh mà thôi!”
“Chu đại nhân?” Bạch Hổ lại giật mình.
“Đúng thế!” Tư hình lại cười. “Sáng sớm hôm nay, tư đồ đại nhân mang đến một bộ y phục, dặn tại hạ rằng lát nữa Bạch thiếu gia sẽ đến, nếu như thiếu gia vẫn muốn mặc bộ đồ ngục tốt, thì hãy để thiếu gia thử bộ này. Nếu mặc vừa, sẽ tặng lại cho thiếu gia! Bạch thiếu gia, thiếu gia nhìn xem, bộ y phục này không rộng không chật, thật vừa vặn!”
Bạch Hổ dường như vẫn chưa thể định thần. Tư hình bèn quay sang nói với hai tên ngục tốt đang quỳ dưới đất: “Còn quỳ ở đó? Mau đứng lên dẫn quản ngục đại nhân đi kiểm tra các nhà lao!”
Hai tên ngục tốt vội đứng dậy, vòng tay vái Bạch Hổ: “Quản ngục đại nhân, mời!”
Nằm ở phía trong cùng của hình ngục là nhà lao nhốt tử tù, mặt trước nhà lao là các song gỗ lớn bằng miệng bát, cửa cũng làm bằng song gỗ, phía ngoài khoá bằng ổ khoá lớn. Cứ đi mươi bước lại có một điểm canh, bốn tên ngục tốt chia làm hai ca, luân phiên canh gác ngày đêm. Khi đi tuần, ngục tốt nhìn qua song gỗ có thể biết được động tĩnh của tù nhân bên trong.

Ở trong gian ngục sâu nhất, Bàng Quyên, Tôn Tân đều bị xiềng chân, đang ngồi dựa vào tường.
Tôn Tân nhắm mắt ngồi xếp bằng, như đang dưỡng thần. Bàng Quyên hai mắt mở trừng trừng, nhìn sững vào cỗ xiềng đang khoá dưới chân. Xiềng rất nặng, là loại xiềng bằng đồng cỡ lớn dùng cho tử tù, nhìn bề ngoài, chắc hẳn đã được sử dụng khá lâu năm rồi.
Bàng Quyên nhìn một hồi lâu, không buồn ngẩng đâu lên, gọi: “Tôn huynh!”
Tôn Tân từ từ mở mắt, nhìn Bàng Quyên.
Bàng Quyên chỉ vào cái xiềng: “Có biết bao nhiêu người đã phải đeo cái xiềng này không?”
Tôn Tân lắc đầu.
“Trên xiềng có khắc dòng chữ ‘đúc năm Trùng Nhĩ(1) thứ mười’, đến nay chí ít cũng đã ba trăm năm. Đây là xiềng dành cho tử tù, tất cả những người mang nó đều chỉ sống được dài thì một năm, ngắn thì vài ngày. Tính bình quân, cứ cho là một năm hai người, dễ phải có đến sáu trăm người đã phải mang theo nó lên đoạn đầu đài!”
Đã đến nước này rồi mà Bàng Quyên vẫn còn tâm trạng ngồi tính toán không đâu. Tôn Tân quay đi, tiếp tục nhắm mắt dưỡng thần.
Bàng Quyên thở dài: “Tôn huynh, huynh thử nói xem, người ta sống ở trên đời, nếu như thế này, tức giống như tình cảnh hiện giờ của chúng ta, bị nhốt trong ngục, lại bị người ta khoá bằng thứ hình cụ này, sống ngày nào biết ngày đấy, chờ đợi đến ngày chém cổ, thì mẹ kiếp, chẳng phải vô nghĩa lắm ư?”
Tôn Tân như không nghe thấy, vẫn nhắm mắt ngồi im.
Bàng Quyên giận dữ: “Tối qua đúng là ma xui quỷ khiến, lại đi tin cái giống chó má kia! Nếu có kiếm trong tay, thì mấy tên vô lại đó, mẹ cha nó…” Rồi vung quyền đấm mạnh xuống đất.
Nói qua nói lại, thì ra là vì chuyện này. Tôn Tân khẽ thở dài, rồi chậm rãi nói: “Than ôi, chuyện này tất cả là lỗi của tại hạ. Bàng huynh muốn trách thì hãy trách tại hạ!”
Bàng Quyên ngẩng đầu nhìn Tôn Tân, thấy Tôn Tân vẫn điềm tĩnh như không, thì trong lòng khác nào mặt ao cuộn sóng. Tôn Tân thân phận tôn quý, là hậu duệ nhà tướng quân, lại là thú uý thành Đế Khâu, thống lĩnh hàng vạn binh lính, hôm nay bỗng dưng phải theo Bàng Quyên sa chân vào tình cảnh trớ trêu này, bị người ta nhốt vào nhà lao tử tù, ngẫm lại, chẳng phải càng đáng tiếc hay sao? Người ta vì mình mới thành ra như vậy, mà không mở miệng oán trách nửa lời, vậy mà bản thân mình lại luôn miệng than vãn, thực không biết xấu hổ!
Nghĩ đến đây, Bàng Quyên thấy mặt nóng bừng, liền đứng phắt dậy, từ từ quỳ xuống trước mặt Tôn Tân. Nghe thấy tiếng xích leng keng, Tôn Tân bèn ngẩng lên nhìn, thấy Bàng Quyên đã quỳ trước mặt, thì hốt hoảng kêu lên: “Bàng huynh, huynh làm gì thế?”
“Tôn huynh ở trên, xin nhận của Bàng Quyên một lạy!” Bàng Quyên nói rồi dập đầu luôn xuống đất.
Tôn Tân cũng vội chuyển từ ngồi sang quỳ, đỡ Bàng Quyên dậy, trách móc: “Bàng huynh, tại sao huynh lại làm như vậy?”
Bàng Quyên thở dài, nước mắt ứa ra: “Bàng Quyên thân hèn phận bạc, chết cũng không có gì đáng tiếc, nay lại làm liên luỵ đến Tôn huynh, tại hạ quả thực áy náy với lương tâm!”
“Bàng huynh nói sai rồi!” Tôn Tân nói. “Người ta sống ở trên đời, sống cũng vậy, chết cũng vậy, tất cả cũng chỉ vì một chữ duyên! Tôn Tân có duyên kết bạn với Bàng huynh, lại có duyên cùng đương đầu tử nạn, há chẳng phải chuyện đáng mừng trong đời người, sao có thể nói là liên luỵ?”
Bàng Quyên càng thêm cảm kích: “Tôn huynh trọng nghĩa, hôm nay Bàng Quyên mới hiểu. Bàng Quyên gia thế thấp hèn, là người cuồng ngạo, nếu như Tôn huynh không chê, Quyên nguyện cùng Tôn huynh kết nghĩa huynh đệ ngay trong tử lao này. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta tình như thủ túc, có phúc cùng hưởng có nạn cùng chia, sống chết có nhau!”
Tôn Tân nói: “Tại hạ được kết nghĩa kim lan cùng Bàng huynh, có thể cùng chung sống chết, đã mãn nguyện lắm rồi!”
Bàng Quyên nhìn quanh, cười gượng mà nói: “Tôn huynh, đáng tiếc ở đây không có hương nến, cũng chẳng có rượu, chúng ta chỉ có thể giản tiện mà thôi!”
“Kết nghĩa cốt ở tâm, không phải ở vật. Chúng ta có trời đất, thần linh chứng giám, cần gì đến hương nến, rượu thịt?”
“Lời này của Tôn huynh, Bàng Quyên nghe thật sảng khoái! Nào, chúng ta cùng lạy trời đất kết bái!”
Hai người bèn đứng dậy, đứng đối diện nhau, cùng vái đối phương một lễ, rồi từ từ quỳ xuống.
Đúng vào lúc này, hai tên ngục tốt dẫn Bạch Hổ đi tuần tới nơi. Bạch Hổ chỉ tay vào dãy nhà lao hỏi: “Đây là…”
Ngục tốt liền đáp: “Hồi bẩm quản ngục đại nhân, đây là dãy nhà lao dành cho tử tù!”
Bạch Hổ gật đầu nói: “Đi, xem thế nào!”
Ba người cùng lại gần, lần lượt quan sát từng gian nhà lao. Đi được mấy bước, từ xa bỗng nhìn thấy Bàng Quyên và Tôn Tân đang quỳ lạy lẫn nhau, Bạch Hổ rất đỗi ngạc nhiên, liền hỏi nhỏ: “Tại sao hai người họ lại quay mặt vào nhau mà quỳ thế kia?”
Hai tên ngục tốt cũng đã nhìn thấy, nhưng đều lắc đầu không hiểu.
Bạch Hổ hiếu kỳ: “Đi, tới đó xem sao!”
Ba người đi thẳng tới gian nhà lao cuối cùng, từ cách đó mấy gian đã nghe thấy tiếng Bàng Quyên đang thề với trời: “Trời đất chứng giám, Bàng Quyên và Tôn Tân cùng kết nghĩa kim lan trong chốn lao tù. Bàng Quyên nhỏ tuổi làm đệ, Tôn Tân lớn tuổi làm huynh. Nếu trời cao có mắt, hai huynh đệ chúng tôi có ngày sống sót, Bàng Quyên thề sẽ cùng Tôn huynh vào sinh ra tử, phú quý cùng hưởng. Nếu trái lời thề, nghìn tên xuyên tim!”
Bàng Quyên thề xong, Tôn Tân cũng thề: “Trời đất chứng giám, Tôn Tân người nước Vệ nguyện kết nghĩa huynh đệ sinh tử cùng Bàng Quyên, có phúc cùng hưởng có hoạ cùng chia. Nếu trái lời thề, bị sét đánh chết!”
Thề xong, hai người cùng lạy trời, đất và tứ phương mỗi phía ba lạy, rồi lại quay sang lạy nhau, xong xuôi mới đứng dậy. Nghe thấy tiếng người, hai người cùng quay lại. Bàng Quyên ngẩng đầu, nhìn thấy Bạch thiếu gia đứng ngoài song cửa, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, quả thực không thể tin nổi vào mắt mình, đưa tay dụi liền mấy cái, rồi nhìn Bạch Hổ chằm chằm không chớp mắt.
Có lẽ do trên mặt Bàng Quyên không còn râu ria, có lẽ do Bạch Hổ tuyệt đối không ngờ được Long gia lại ở trong này, nên vẫn chưa nhận ra người trước mặt. Bạch Hổ đứng một lát, rồi quay người định đi, Bàng Quyên vội gọi với theo: “Bạch thiếu gia!”
Nghe thấy tù nhân gọi đúng tên mình, Bạch Hổ kinh ngạc, quay người lại nhìn kỹ Bàng Quyên, ngờ vực hỏi: “Ngươi quen bản phủ ư?”
Bàng Quyên không biết là Bạch Hổ cố tình không nhận người quen, hay là đã quên mất chuyện ngày hôm qua thật, vì vậy không nói thêm lời nào nữa, chỉ nhìn sững vào Bạch Hổ. Bạch Hổ lại ngẫm nghĩ một chốc, nhưng vẫn không nhớ ra, bèn hỏi: “Ngươi là ai?”
Nghe vậy, Bàng Quyên lập tức sầm mặt xuống, cười nhạt: “Bạch thiếu gia đã không quen biết tại hạ, thì việc này cũng chẳng liên quan gì đến thiếu gia!”
Bạch Hổ càng nghe càng không hiểu, bèn ngoái nhìn hai tên ngục tốt, chỉ tay vào Bàng Quyên hỏi: “Kẻ này là ai?”
Một tên ngục tốt đáp: “Bẩm đại nhân, hai người họ được thượng đại phu đưa đến hồi sáng nay, nói là hung phạm bỏ trốn bắt về quy án, người bên trái tên Bàng Quyên, người bên phải tên Tôn Tân, là đồng mưu của Bàng Quyên! Thượng đại phu đặc biệt căn dặn, chúng là khâm phạm triều đình, phạm tội không thể dung thứ, chỉ chờ tư đồ đại nhân bẩm báo với bệ hạ là đem xử chém!”
Bạch Hổ chỉ tay vào Bàng Quyên: “Ngươi nói người này tên gọi Bàng Quyên?”
“Thưa phải!”
“Thượng đại phu nói người này mắc tội gì?”
“Bẩm đại nhân, tiểu nhân đã tra qua bản án, biết được kẻ này vô cùng ngang ngược!”
“Ồ, ngang ngược thế nào?”
“Hắn vốn là người ở phố Tây Nhai tại An Ấp, cha tên Bàng Hành, từng là thợ may của Chu thất. Bốn tháng trước, người này đã đột nhập vào phủ thượng đại phu, bị ngư dân và tiều phu biết được, nhưng vì tham tiền bạc, nên đã giết chết hai người này, cướp mất ba mươi lượng vàng mà bệ hạ ban thưởng. Hắn định ôm vàng bỏ trốn, nhưng lại bị hộ viện La Văn phát hiện, bèn nổi tính hung hãn, giết La Văn để diệt khẩu. Sau đó bỏ trốn đến cửa Túc Tư, lại sát hại một số quan quân ở đó, tiếp tục bỏ trốn. Quan quân lùng sục khắp nơi, không ngờ hắn lại trở về An Ấp, đột nhập vào trong phủ thượng đại phu, định tiếp tục giở thói côn đồ, may nhờ gia đinh đề phòng, giăng bẫy bắt được!”
Bàng Quyên nghe thấy vậy, chỉ cười nhạt một tiếng, cũng không giải thích, chỉ nhìn chằm chằm vào Bạch Hổ, lại hỏi: “Bạch thiếu gia thực sự không nhớ tại hạ ư?”
Bàng Quyên càng nói, Bạch Hổ càng cảm thấy người này quen quen, suy nghĩ một lát rồi đột nhiên vỗ đầu: “Ồ, ta nhớ ra rồi, có phải mấy tháng trước ngươi đã từng đến lầu Nguyên Hanh, còn hất đổ cả sòng bạc ở đó?”
Bàng Quyên gật đầu: “Xem ra, trí nhớ của Bạch thiếu gia vẫn còn rất tốt. Bạch thiếu gia thử nghĩ lại xem, trong lầu Nguyên Hanh, còn một người tên Long gia, Bạch thiếu gia có nhớ không?”
Nghe thấy hai chữ “Long gia”, Bạch Hổ giật nảy mình, nhìn kỹ Bàng Quyên, lúc này mới nhận ra, kêu lên thất thanh: “Ân…”
Chữ “công” còn chưa kịp thốt ra, Bạch Hổ đã kịp thời sực tỉnh, vội im bặt, sau đó gật đầu với Bàng Quyên, đặng hắng một tiếng, nói lớn: “Cái gì mà Long gia với Phụng gia, ta không quen biết, chắc ngươi nhận nhầm người rồi!” Sau đó quay sang nói với ngục tốt. “Kẻ này ngang ngược hung hãn, các ngươi phải canh chừng cho cẩn thận. Nếu để hắn trốn thoát, sẽ không gánh nổi tội đâu!”
Bạch Hổ cố tình chậm rãi nhấn mạnh hai chữ “trốn thoát”, có ý ngầm nói với Bàng Quyên, sớm muộn gì mình cũng đến ứng cứu. Bàng Quyên là người cơ trí, nên trong lòng đã hiểu, bèn nói: “Bạch thiếu gia đã không nhớ tại hạ, có lẽ Bàng Quyên nhận lầm người thật rồi. Bàng Quyên nhờ Bạch thiếu gia chuyển lời với gian tặc Trần Chẩn, cho dù ta có phải tới âm tào địa phủ, cũng phải kéo hắn theo!” Thấy ba người Bạch Hổ đã đi xa, Bàng Quyên không nhịn thêm được nữa, ngửa mặt lên trời cười một tràng dài.

Phủ quản ngục kề sát phủ tư hình. Bạch Hổ và hai tên ngục tốt trở về phủ, bảo hai người gọi tất cả thuộc hạ đến, lần lượt gặp mặt từng người, sau đó dặn dò mấy điều, phân công mỗi người một việc. Mọi người thảy đều dạ ran vâng lệnh. Bạch Hổ xua họ đi làm việc, rồi quay sang nói với hai tên ngục tốt: “Các người chú ý canh chừng, ta có chút việc, cần đến phủ tư đồ đại nhân một chuyến!”
Nghe là đến gặp tư đồ đại nhân, ngục tốt vội nói: “Xin đại nhân chờ cho một chút, tiểu nhân sẽ chuẩn bị xe cho đại nhân!”
Bạch Hổ kinh ngạc: “Chuẩn bị xe? Xe gì?”
“Bẩm, là xe ngựa của đại nhân!”
Lát sau, một hán tử trung niên trong trang phục ngục tốt đánh xe đến, dừng lại trước cổng. Ngục tốt chỉ tay vào người đánh xe nói: “Đại nhân, đây chính là người đánh xe của đại nhân. Lúc nào đại nhân muốn ra ngoài, cứ sai bảo người này!”
Bạch Hổ chưa kịp lên tiếng, người đánh xe đã mang ra một chiếc ghế thấp, đặt ở trước xe, khom lưng nói: “Quản ngục đại nhân, mời!”
Bạch Hổ bước lên ghế, rồi nhảy lên xe: “Đến phủ tư đồ!”
Xe ngựa của Bạch Hổ tới trước phủ tư đồ, từ xa đã nhìn thấy Trần Chẩn từ trong phủ đi ra, cáo biệt Chu Uy rồi lên xe rời đi. Chu Uy đang định trở vào phủ, nhìn thấy Bạch Hổ đến thì lập tức dừng bước, đứng lại chờ.
Bạch Hổ dừng xe từ xa, nhảy xuống đất, rồi vội chạy đến dập đầu trước Chu Uy: “Hạ quan Bạch Hổ khấu kiến tư đồ đại nhân!”
Chu Uy cười đáp: “Quản ngục đại nhân, mời đứng dậy!” Vừa nói, vừa đi đến bên Bạch Hổ, đưa tay đỡ hắn lên, rồi ngắm nghía một lượt từ trên xuống dưới: “Mặc bộ trang phục này, trông thật giống quan đại phu!”
Bạch Hổ chẳng còn tâm trạng nào nữa, lập tức đi vào chuyện chính: “Tư đồ đại nhân, lần này hạ quan đến là có chuyện muốn thương lượng!”
“Đây không phải nơi nói chuyện, mời vào trong phủ!”
Hai người đi vào trong phủ, Bạch Hổ lại quỳ xuống đất, không nói gì cả, chỉ khóc.
Chu Uy sững người, vội đỡ Bạch Hổ đứng dậy: “Quản ngục đại nhân, thế này là thế nào?”
Bạch Hổ khóc mà nói: “Tư đồ đại nhân, còn nhớ sự việc ngày hôm qua không?”
“Nhớ chứ, nhớ chứ!” Chu Uy bật cười. “Không những nhớ, mà chuyện đó lúc nào cũng như hiển hiện trước mắt! Bạch Hổ, lần này cậu có thể làm lại cuộc đời, ta, Công Tôn Diễn, còn có lão quản gia, Khởi Y đều rất vui mừng, dự định chờ thêm mấy ngày nữa, đợi chiếu thư bổ nhiệm của bệ hạ ban xuống, mọi người sẽ cùng đến trước mộ Bạch tướng quốc, bẩm báo lại chuyện này cho người biết!”
Bạch Hổ vội nói: “Điều hạ quan muốn nói, không phải chuyện này!”
Chu Uy kinh ngạc: “Vậy cậu muốn nói gì?”
“Đại nhân còn nhớ Long gia chăng?”
“Đương nhiên là nhớ! Người đó là một nhân tài, Công Tôn Diễn khen ngợi hắn hết lời, trên đường trở về, cứ liên miệng nói với ta về người này. Ta dự định lúc nào có thời gian sẽ tới thăm, tiến cử hắn vào triều làm việc. À, tiện đây xin hỏi một câu, cậu có biết hiện Long gia đang ở đâu không?”
Bạch Hổ gật đầu: “Nếu tư đồ đại nhân muốn gặp Long gia, có thể đến nhà ngục của hạ quan!”
“Nhà ngục?” Chu Uy kinh ngạc. “Tại sao Long gia lại ở đó?”
“Long gia là tên giả, người này tên thật là Bàng Quyên, chính là khâm phạm mà triều đình truy lùng suốt mấy tháng nay!”
Chu Uy thất kinh, một lúc sau mới định thần lại được: “Chuyện này là thế nào?”
Bạch Hổ thuật lại cho Chu Uy nghe lời nói của hai tên cai ngục. Chu Uy thở dài: “Ta biết người này, là hắn bị bức ép. Mấy tháng trước, Công Tôn Ưởng, Trần Chẩn và công tử Ngang kết bè kết đảng, xúi bẩy chúa thượng xưng vương, trong triều chỉ có Bạch tướng quốc và ta phản đối. Trần Chẩn nghe nói cha của Bàng Quyên có tài may vương phục nên đã bắt ông ta về phủ. Thợ may Bàng không chịu nghe lời, Trần Chẩn bèn tìm cách cưỡng ép, Bàng gia mới ra nông nỗi như bây giờ. Trần Chẩn vốn cho rằng việc làm của hắn quỷ thần không biết, nhưng làm sao có thể qua mắt được ta?”
Bạch Hổ vội nói: “Nhà họ Bàng đã bị oan ức, tại sao chúng ta không thả Bàng Quyên ra?”
Chu Uy lắc đầu: “Chuyện đâu có đơn giản như vậy? Bàng Quyên giết người, đã kết thành án, hình ngục đã điều tra, nhân chứng vật chứng đầy đủ. Mà chuyện Bàng Hành bị ép may vương phục, do Bàng Hành, La Văn đều đã chết, không có cách nào để đối chứng, chỉ dựa vào lời nói của một mình Bàng Quyên, căn bản không thể thoát tội! Hơn nữa, chuyện này đã định thành án, muốn lật lại, khó đấy!”
“Chu đại nhân… vậy phải làm thế nào?”
Chu Uy có vẻ sực nhớ ra điều gì, bèn ngẩng đầu lên hỏi: “Lúc nãy cậu nói, người đồng mưu của Bàng Quyên là Tôn Tân người nước Vệ?”
Bạch Hổ gật đầu: “Là hắn tự nói ra. Hạ quan có nghe hắn thề rằng, ‘Tôn Tân người nước Vệ nguyện kết nghĩa huynh đệ sinh tử cùng Bàng Quyên, có phúc cùng hưởng có hoạ cùng chia’.”
Chu Uy trầm ngâm suy nghĩ, rồi lẩm bẩm: “Chắc không phải là Tôn Tân thú uý thành Đế Khâu đấy chứ? Nếu đúng là người đó, thì thật xui xẻo!”
Bạch Hổ không hiểu: “Tại sao lại xui xẻo?”
“Tôn Tân chính là hậu duệ của danh tướng Tôn Vũ Tử thời Xuân Thu, ông nội của người này là Tôn Cơ, tướng quốc nước Vệ, ta đã từng gặp mặt, rất khâm phục tài đức của ông ấy, đúng là trung dũng gồm đủ, thấu hiểu lòng dân, có thể sánh ngang với Bạch tướng quốc. Trong hơn mười năm Tôn Cơ ở Vệ, nước Vệ đã thay da đổi thịt. Nếu không phải bệ hạ hưng binh chinh phạt, nước Vệ vẫn sẽ là vùng đất yên bình. Cha của Tôn Tân là Tôn Thao, thú thừa thành Bình Dương. Thúc phụ Tôn An là thú uý thành Bình Dương. Khi thượng tướng quân phạt Vệ đã thảm sát toàn thành, hai người đó đều xả thân vì nước, bảo toàn danh tiết cho gia tộc họ Tôn. Nghe nói trước đây không lâu, Bình Dương xuất hiện ôn dịch, Tôn tướng quốc đã đích thân tới thăm dân chúng mắc dịch, rồi cũng bị nhiễm dịch mà quy tiên. Như vậy, hiện nay toàn bộ nhà họ Tôn chỉ còn lại một mình Tôn Tân. Nếu quả đúng là người này, thượng tướng quân vốn tính thù dai, chắc chắn sẽ không chịu buông tha. Bệ hạ vì đại bại ở Hà Tây, hẳn cũng sẽ trút giận lên người này!”
“Tư đồ đại nhân, nói như vậy, về công về tư, về tình về nghĩa, chúng ta đều nên cứu họ mới phải!”
“Đây là vụ án trọng đại, làm sao có thể cứu được? Hơn nữa, Trần Chẩn cũng chẳng phải kẻ dễ ứng phó. Lúc nãy hắn đến đây, cũng chính là vì vụ án này, nói rằng bệ hạ rất chú ý, muốn ta xử lý công tâm. Đó là hắn đưa bệ hạ ra để ép ta, ta dám chắc lúc này hắn đang ở bên bệ hạ rồi. Hiện giờ, hai người họ đều bị hàm oan, nhưng e rằng khó thoát tội chết.”
Bạch Hổ hoang mang, vội quỳ xuống cầu xin: “Tư đồ đại nhân…”
Chu Uy suy nghĩ một lát, rồi ngẩng lên nói: “Cậu thấy thế này có được không? Hãy thử đem chuyện này bàn với Công Tôn Diễn xem sao, hắn là người mưu trí, không chừng sẽ có cách cứu được họ.”
Bạch Hổ nghe thấy vậy, chẳng kịp cáo từ, lập tức lao ra ngoài cổng, vội vã lên xe: “Mau, đến nhà Công Tôn Diễn!”
Bạch Hổ đến gặp Công Tôn Diễn, kể lại toàn bộ sự việc. Công Tôn Diễn suy nghĩ một lát rồi bật cười: “Chu tư đồ đã đồng ý thả họ ra rồi, cậu còn đến đây tìm ta làm gì?”
Bạch Hổ không hiểu: “Ông ta đồng ý lúc nào?”
Công Tôn Diễn lại cười lớn: “Xem kìa, đầu óc của cậu thật chẳng linh hoạt chút nào! Thử nghĩ xem, cậu là quản ngục đại nhân, hiện giờ phạm nhân nằm trong tay cậu, tư đồ nói ông ta không biết, rõ ràng là muốn cậu thả người!”
“Nhưng… hình ngục canh giữ nghiêm ngặt, tại hạ làm sao có thể thả đây?”
Công Tôn Diễn lại suy nghĩ một lát, rồi cười nói: “Nếu nói như vậy, tại hạ có một cách, thiếu gia hãy thử xem sao!”

Ngày thứ ba sau khi Bạch Hổ khoác lên mình trang phục quản ngục, chiếu thư bổ nhiệm của Ngụy Huệ Vương đã được ban tới. Chu Uy tuyên đọc chiếu thư xong, Bạch Hổ rất đỗi vui mừng, vòng tay vái quan tư hình: “Hạ quan chịu ơn của đại nhân, chẳng chút công lao mà lại có được chức vị này, trong lòng vô cùng áy náy, muốn bày một bàn rượu nhạt, ngõ hầu tỏ lòng cảm tạ!”
Tư hình vội nói: “Bạch thiếu gia không nói, tại hạ cũng đang nghĩ đến chuyện này. Trong hình ngục, kẻ đến người đi là chuyện bình thường, quan lại thăng chức điều động, đều cần tổ chức tiệc mừng. Thiếu gia lãng tử quay đầu, lại được chúa thượng cất nhắc, tiệc mừng càng phải tổ chức cho long trọng mới được. Xin hãy để tại hạ chủ trương, đưa tất cả quan lại trong hình ngục đến lầu Nguyên Hanh uống chén rượu, ý thiếu gia thế nào?”
“Hạ quan đa tạ ân điển của đại nhân! Nhưng hạ quan mới chân ướt chân ráo tới, không thể hậu bên này bạc bên kia, vì vậy muốn mời tất cả quan viên trong hình ngục, đặc biệt là thuộc hạ của hạ quan, cho đến cả ngục tốt, đều uống một chén rượu mừng. Nhưng hình ngục là nơi hệ trọng, cần phải có người canh giữ ngày đêm, thật khó xử!”
Tư hình ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Việc này thì dễ thôi! Tại hạ sẽ ra mặt, cho mang rượu thịt tới tận nơi, mọi người sẽ ăn mừng luôn tại hình ngục, như vậy chúc mừng và canh giữ vẹn cả đôi đường, thiếu gia thấy sao?”
“Nếu được vậy thì tốt quá!” Bạch Hổ vội lấy từ trong túi ra mười lượng vàng đưa cho quan tư hình. “Chút tiền lẻ này đại nhân hãy tạm thời cầm lấy lo liệu, còn rượu thịt ra sao, tất cả đều nhờ đại nhân làm chủ!”
Tư hình vội từ chối: “Tổ chức tiệc chúc mừng cho Bạch thiếu gia, sao lại có thể dùng tiền của thiếu gia được?”
“Nếu đại nhân không cầm, thì rượu này hạ quan không thể uống!”
Tư hình từ chối không được, đành phải nhận lấy mười lượng, sau đó chia việc cho thuộc hạ lo liệu.
Đến chập tối, trong phủ quản ngục bắt đầu vui vẻ náo nhiệt, rượu thịt ê hề. Bạch Hổ vốn tửu lượng tốt, song vì hôm nay có việc trọng đại nên không dám uống nhiều, từ chối được thì cố từ chối, không từ chối được mới miễn cưỡng uống một chén.
Rượu được ba tuần, thấy tư hình và mọi người đã say tuý luý. Bạch Hổ cầm bầu rượu lên, mang theo hai cái bát lớn và một con gà quay, hai cân thịt bò, một mình đi thẳng tới khu ngục tử tù. Hai tên ngục tốt đứng canh nghe tiếng bước chân lại gần, liền chạy ra xem, thấy Bạch Hổ đến thì vội quỳ xuống đất bái lạy: “Tiểu nhân khấu kiến quản ngục đại nhân!”
Bạch Hổ đặt rượu thịt xuống, đưa tay đỡ họ dậy: “Hôm nay là ngày vui của bản phủ, mọi người đều đang uống rượu, nhưng hai ngươi lại phải canh giữ ở đây, thật khiến bản phủ áy náy. Nào, bản phủ uống với các ngươi mấy bát!”
Quản ngục đại nhân đích thân tới hỏi thăm, lại tự tay kính rượu, hai tên ngục tốt cảm kích vô cùng, vội quỳ xuống nói: “Tiểu nhân đa tạ ân điển của đại nhân!”
Bạch Hổ đích thân xé gà quay thành từng miếng, đặt cùng với thịt bò, nói: “Nào, chúng ta vừa ăn, vừa uống, nhân tiện trò chuyện đôi câu!”
Hai tên ngục tốt bèn nói: “Đa tạ đại nhân ban thưởng!”
Bạch Hổ uống cùng hai người họ mấy bát, hỏi chuyện mới biết một người tên Phùng Quý, một người tên Trần Kỳ, đều là những người thật thà, đã có gia thất, thì do dự một lát, nhưng rồi cũng đành phải dằn lòng, hỏi sang chuyện khác: “Trong ngục có động tĩnh gì không?”
Phùng Quý đáp: “Bẩm đại nhân, không có động tĩnh gì!”
“Đây là nơi trọng yếu trong ngục, không được để xảy ra mảy may sai sót. Bản phủ là quan mới nhậm chức, mọi người lại đều đang trong phủ uống rượu, bản phủ rất không yên tâm, muốn đi kiểm tra một lượt, các ngươi dẫn bản phủ đi được chăng?”
Phùng Quý, Trần Kỳ vội đặt bát rượu và miếng thịt trong tay xuống, đưa tay áo chùi miệng, đốt đuốc dẫn Bạch Hổ đi kiểm tra nhà lao. Kiểm tra tới gian cuối cùng, Bạch Hổ chỉ tay vào trong lao: “Phùng Quý, nghe nói chúng là khâm phạm, phải canh chừng thật nghiêm ngặt. Ngươi mở cửa ra, để bản phủ vào xem thế nào!”
Phùng Quý bèn mở cửa nhà lao, cùng Bạch Hổ đi thẳng vào trong. Bàng Quyên, Tôn Tân đã sớm biết dụng ý của Bạch Hổ, nên chỉ nằm bất động trên đất.
Bạch Hổ nhìn hai người họ một lát, ngẩng đầu hỏi: “Xiềng trên chân chúng liệu có mở ra được không?”
Phùng Quý chỉ tay vào chìa khoá bên hông: “Hồi bẩm đại nhân, xiềng xích của tử tù đều giống nhau, chìa khoá này có thể mở được tất cả!”
Bạch Hổ gật đầu, rồi đi ra khỏi nhà lao. Phùng Quý đang mải khoá cửa, thì Bạch Hổ thình lình rút kiếm đâm Trần Kỳ. Phùng Quý nghe thấy tiếng kêu sau lưng, vội ngoảnh lại nhìn, đã thấy Trần Kỳ đổ phịch xuống đất, nhất thời kinh hoàng đứng chết trân tại chỗ. Bạch Hổ rút kiếm ra, chĩa mũi nhọn vào giữa ngực Phùng Quý.
Phùng Quý khiếp đảm, hai chân run bắn, lắp bắp: “Đại… đại nhân!”
Bạch Hổ thở dài: “Phùng Quý, lát nữa gặp Trần Kỳ, ngươi hãy nói với hắn là bản phủ có lỗi với các ngươi. Vợ con các ngươi, bản phủ sẽ nuôi dưỡng chu đáo!” Lời vừa dứt, mũi kiếm đã xuyên thấu qua lưng Phùng Quý.
Bạch Hổ lấy chùm chìa khoá đeo bên hông Phùng Quý, mở cửa nhà lao, mở xiềng xích cho Bàng Quyên và Tôn Tân, rồi lại kéo xác Phùng Quý, Trần Kỳ vào trong nhà lao, lấy kiếm của họ đưa cho Bàng Quyên, Tôn Tân, bảo hai người cởi quần áo của họ ra mặc vào: “Ân công, nơi này không phải chỗ nói chuyện, mau đi theo tại hạ!”
Bàng Quyên thoáng ngẫm nghĩ một lát, rồi đưa ngón tay chấm đẫm máu của hai tên ngục tốt, viết lên tường: “Mối thù giết cha, không đội trời chung; gian tặc Trần Chẩn, chờ ta ba năm! Bàng Quyên”.
Bàng Quyên viết xong, rồi cùng Tôn Tân đi theo Bạch Hổ, chạy thẳng ra ngoài.
Lúc gần đến cổng hình ngục, Bạch Hổ bảo hai người giả bộ say rượu, bá vai bá cổ nhau, lảo đảo đi ra. Lính canh cửa biết bên trong có tiệc rượu, lại thấy hai người mặc trang phục ngục tốt, có vẻ đã say mèm, nên không để ý thật giả, cho hai người đi ra.
Sau khi ra khỏi cổng hình ngục, hai người ẩn vào một chỗ khuất, chờ một lúc thì thấy Bạch Hổ vội vàng chạy tới. Bàng Quyên liền gọi lại, ba người cấp tốc theo phố mà đi, thẳng tới bên tường thành. Vì không có chiến sự nên trên mặt tường thành không có lính canh. Ba người chọn được một nơi kín đáo, Bạch Hổ mở chiếc túi mang theo, lấy ra hai bộ quần áo cho hai người thay đổi, sau đó lại lấy một sợi dây thừng quẳng lên trên mặt tường thành.
Làm xong mọi việc, Bạch Hổ mới quỳ xuống dập đầu nói: “Ân công, xin hãy nhận của Bạch Hổ một lạy!”
Bàng Quyên vội đỡ Bạch Hổ dậy: “Bạch thiếu gia mau đứng lên!”
Bạch Hổ bèn đứng dậy. Bàng Quyên nói: “Sao thiếu gia lại khấu lạy tại hạ? Nếu nói khấu lạy, phải là tại hạ lạy thiếu gia mới đúng! Nếu không có thiếu gia, chắc chắn tại hạ sẽ phải bỏ mạng!”
“Xin ân công đừng nói vậy! Không có ân công, thì Bạch Hổ ngày nay còn chẳng bằng giống súc sinh!”
“Được rồi, không nói chuyện này nữa!” Bàng Quyên chỉ sang Tôn Tân. “Bạch thiếu gia, đây là Tôn Tân, huynh đệ kết nghĩa trong nhà lao của tại hạ!”
Bạch Hổ vòng tay: “Bạch Hổ xin chào Tôn tướng quân! Đại danh của Tôn tướng quân, tại hạ đã ngưỡng mộ từ lâu!”
Tôn Tân vòng tay nói: “Tại hạ xin chào Bạch thiếu gia. Bạch thiếu gia thả chúng tôi đi, nếu bên trên điều tra ra, sẽ là tội chết!”
“Tôn tướng quân yên tâm, chuyện này đã có tại hạ lo liệu. Không nên chậm trễ nữa, hai người hãy đi mau!” Bạch Hổ nói xong, lại lấy từ trong người ra một vật, ấn vào tay Bàng Quyên. “Ân công hãy cầm lấy thứ này, rồi mau ra khỏi thành!”
Bàng Quyên nhận lấy, thấy nặng nặng, biết là túi tiền nên cũng không từ chối, cầm tay mà Bạch Hổ nói: “Huynh đệ tốt, hẹn ngày gặp lại!” Sau đó vái dài một lễ, rồi quay người bám dây đu lên, vượt qua thành. Tôn Tân cũng vòng tay từ biệt rồi trèo theo.
Bạch Hổ vẫy tay từ biệt hai người, rồi quay trở lại, nhanh chóng chìm vào bóng tối.

Trong phủ thượng đại phu, Trần Chẩn đang viết chữ trong phòng thì Thích Quang hấp tấp đi vào, chẳng kịp hành lễ đã lắp ba lắp bắp: “Chúa công, xảy… xảy ra chuyện lớn rồi!”
Trần Chẩn đặt bút xuống, liếc mắt nhìn ông ta: “Chuyện lớn gì?”
“Bàng Quyên, bọn chúng… trốn thoát rồi!”
Trần Chẩn giật bắn mình, hai mắt trợn trừng nhìn Thích Quang, có vẻ như không tin vào tai mình: “Bị nhốt trong nhà lao tử tù, làm sao lại trốn được?”
“Đã trốn thoát tối qua! Bàng Quyên giả bị đau bụng, lừa ngục tốt lại gần, giết chết hai tên ngục tốt, lấy chìa khoá trên người họ để mở khoá, rồi lại mặc quần áo ngục tốt để vượt khỏi thành!”
Trần Chẩn chau tít đôi mày: “Chu Uy có biết không?”
“Tiểu nhân đã cho người dò la, Chu Uy sau khi biết chuyện đã nổi trận lôi đình, lập tức cho dán thông cáo truy nã, bãi chức tư hình, dâng biểu tấu lên bệ hạ!”
“Ồ?”
Thích Quang bước lại gần một bước, nói khẽ: “Chúa công, tiểu nhân rất nghi ngờ sự việc này. Hình ngục của Đại Ngụy, tường vây trùng trùng, canh giữ nghiêm ngặt, mấy chục năm nay chưa từng có tử tù vượt ngục bao giờ. Nhưng chỉ trong mấy ngày, phạm nhân mà phủ ta đưa đến đã trốn thoát!”
“Theo ý của ngươi, chuyện này có liên quan tới tư đồ?”
“Tiểu nhân chỉ đoán như vậy! Còn nữa… tên Bàng Quyên còn dùng máu viết hai hàng chữ lên tường!”
“Dùng máu để viết? Viết gì?”
“Mối thù giết cha, không đội trời chung; gian tặc Trần Chẩn, chờ ta ba năm!”
Trần Chẩn bàng hoàng, một lúc sau mới thở dài mà nói: “Xem ra ngươi đã đoán đúng, không nên đưa họ tới quan phủ!” Rồi nét mặt lộ vẻ căm hận. “Chu Uy kia thật to gan, ngoài mặt thì đù đờ, mà hành sự thật ghê gớm, còn dám…”
“Chúa công nói rất đúng, Bàng Quyên chắc chắn do ông ta thả ra, chúa công hãy tố cáo chuyện này lên bệ hạ!”
Trần Chẩn suy nghĩ một hồi lâu, rồi lắc đầu nói: “Tố cáo phải có chứng cứ. Hình ngục là địa bàn của ông ta, ông ta dám thả người, chắc chắn đã có tính toán từ trước. Hơn nữa, chắc chắn Công Tôn Diễn cũng biết rõ chuyện ở lầu Nguyên Hanh. Hai người họ đã móc nối với nhau, nếu ta tố cáo, chắc chắn ông ta sẽ quay đầu cắn lại ta. Hiện giờ lầu Nguyên Hanh tiếng xấu khó giấu, nếu bệ hạ hay tin, lại mượn cớ điều tra, chẳng phải sẽ làm hỏng đại sự của ta ư? Hơn nữa, Chu Uy lại là quốc thích, nắm trong tay quyền cao chức trọng, rất được bệ hạ tin tưởng. Hiện giờ đang là thời khắc trọng yếu, chúng ta không thể vì chút chuyện vặt này mà tự làm mình rối loạn!”
“Chúa công nhìn xa trông rộng, tiểu nhân kính phục!”
Trần Chẩn cười nhạt nói: “Còn về tên Bàng Quyên, cứ để cho hắn sống, xem hắn làm được trò trống gì? Phái người đi tìm hắn, gặp được lập tức tiền trảm hậu tấu! Bất kể người nào, chỉ cần lấy được đầu Bàng Quyên, sẽ trọng thưởng trăm lượng vàng!”
“Tiểu nhân tuân lệnh!”
#?
Bàng Quyên, Tôn Tân trốn khỏi An Ấp, không đi đường lớn mà men theo đường mòn, chưa đến một ngày đã sang được địa phận nước Hàn.
Đến được nước Hàn, hai người cùng thở phào nhẹ nhõm, bước đi cũng tự tin hơn. Đi được vài dặm thì gặp một ngã ba, hai người cùng dừng bước.
Bàng Quyên đi lên phía trước, nhìn cột mốc bên đường, nói với Tôn Tân: “Hai ngả đường này, một đường đi về phía nam, có thể đến Nghi Dương; đường còn lại hướng bắc, có thể đến Thượng Đảng. Tôn huynh, chúng ta nên đi đường nào?”
“Hiền đệ muốn đi đâu?”
“Trong lòng Quyên chỉ có bốn chữ, báo thù rửa hận, ngoài ra không còn điều gì khác!”
Tôn Tân trầm ngâm suy nghĩ: “Tâm tư của hiền đệ, Tân có thể thấu hiểu. Có điều hiện giờ thời cơ chưa đến, nếu hiền đệ cứ làm liều, e rằng thù chưa báo được mà mạng đã mất!”
Bàng Quyên gật đầu nói: “Tôn huynh nói chí phải! Hiện giờ đệ cũng không biết nên đi đâu về đâu, Tôn huynh có nơi nào để đi chăng?”
“Lần này huynh lên đường, vốn định đến núi Vân Mộng!”
“Núi Vân Mộng? Tới đó làm gì?”
“Không giấu hiền đệ, khi còn ở nước Vệ, huynh đã được gặp cự tử Mặc gia. Ta rất kính phục cự tử, thành tâm bái làm sư phụ. Không ngờ cự tử lại bảo ta đến núi Vân Mộng bái sư học nghệ. Theo cự tử nói, trong núi Vân Mộng có một cao nhân đắc đạo, tên gọi Quỷ Cốc Tử, người này học vấn uyên thâm, không gì không biết. Huynh tin lời cự tử, nên muốn đến bái tiên sinh làm sư phụ. Vốn định tới cửa Túc Tư để vượt Hà Thuỷ, rồi đi thẳng tới núi Vân Mộng, không ngờ gặp phải kẻ trộm, sau đó lại gặp được hiền đệ, rồi mới xảy ra một loạt sự việc sau này.”
Bàng Quyên cười nói: “Xem ra, huynh đệ chúng ta đã có duyên từ kiếp trước, muốn tránh cũng chẳng được. Không biết huynh bái Quỷ Cốc tiên sinh là muốn học môn gì?”
Tôn Tân cũng cười mà nói: “Huynh bản tính ngu muội, ngoài binh pháp ra chẳng có niềm vui nào khác, vì vậy muốn tới bái tiên sinh để học cái đạo dụng binh!”
Bàng Quyên hai mắt mở to, hào hứng nói: “Đạo dụng binh? Đây cũng là ước nguyện trong lòng đệ!”
“Ồ? Hiền đệ đã nói vậy, thì huynh đệ chúng ta hãy cùng tới núi Vân Mộng, bái Quỷ Cốc tiên sinh làm sư phụ!”
“Được, đợi sau khi đệ tu học thành tựu, sẽ lại đến tìm gian tặc kia tính sổ!”
Tôn Tân nhìn hai con đường trước mặt, hỏi: “Hiền đệ, không biết đường nào đi tới núi Vân Mộng tiện hơn?”
Bàng Quyên chỉ tay vào con đường đi lên phía bắc: “Đường này!”
***
Núi Vân Mộng vào thu, cảnh sắc tuyệt diệu khác thường. Vì mới đầu thu nên lá cây vẫn chưa vàng úa, thời tiết cũng chưa trở lạnh, vừa không có cảnh tượng u sầu gió thu quét rụng lá cây, lại không còn cái nóng nực ngày hè, tươi đẹp mát mẻ, thực khiến người ta sảng khoái.
Tô Tần và Trương Nghi men theo khe núi, đắm mình trong làn gió thu hiu hiu, tâm trạng cũng phơi phới hệt như cảnh thu, tình thu trước mắt, bốn bàn chân bước đi mỗi lúc một nhanh. Qua mấy quãng đường quanh, họ tiến vào một sơn cốc, thấy nơi cửa cốc có dựng tấm bia đá, trên khắc hai chữ “Quỷ Cốc”.
Hai người dừng lại bên tấm bia đá, rồi cùng vái tấm bia một vái, sau đó mới tiếp tục đi vào trong cốc. Đi dọc theo con suối trong sơn cốc chừng hơn hai dặm, quả nhiên thấy trước mặt xuất hiện một thảo đường, trước thảo đường có một tiểu đồng đang ngồi. Bước lại gần, họ lập tức nhận ra đó chính là tiểu đồng đã gặp ở Lạc Dương, thì trong lòng mừng rỡ. Tiểu đồng khoanh chân nhắm mắt, ngồi trên bãi cỏ, thản nhiên như không có chuyện gì.
Trương Nghi bước lên trước một bước, vòng tay hỏi: “Xin hỏi tiểu đồng, nơi đây phải chăng là Quỷ Cốc?”
Tiểu đồng dường như không nghe thấy, vẫn ngồi yên bất động. Kỳ thực, ngay từ khi họ tiến vào trong cốc, tiểu đồng đã nhìn thấy. Tư thế này là do tiểu đồng cố tình bày ra cho hai người thấy.
Trương Nghi biết tiểu đồng đang giả bộ, nhưng không còn cách nào khác, nên đành vòng tay vái, cao giọng hỏi: “Xin hỏi tiểu đồng, nơi đây phải chăng là Quỷ Cốc?”
Tiểu đồng mở mắt ra, đưa mắt nhìn Trương Nghi một lượt, rồi bắt chước giọng điệu của người lớn, chậm rãi nói: “Khi các người tiến vào, có nhìn thấy một tấm bia đá khắc chữ lớn hay không?”
Trương Nghi gật đầu: “Có nhìn thấy!”
Tiểu đồng lại nhắm mắt lại: “Đã nhìn thấy rồi, vậy còn hỏi làm gì?”
Trương Nghi vỗ trán, quay sang Tô Tần cười ngượng nghịu: “Ôi, vừa vào trong cốc đã thành kẻ ngốc!” Rồi quay sang tiểu đồng. “Xin hỏi, Quỷ Cốc tiên sinh có nhà không?”
Tiểu đồng từ từ đứng dậy, ngoái đầu về phía gian thảo đường, cất tiếng gọi: “Chị Thiền Nhi, có khách đến!”
Một lát sau, Ngọc Thiền ăn mặc theo lối sơn nữ bước ra, nhìn thấy Trương Nghi, Tô Tần thì sững người ngạc nhiên, nhưng rồi nhanh chóng định thần, chậm rãi bước tiếp.
Vừa nhìn thấy Ngọc Thiền, tim Trương Nghi đã nảy lên thình thịch, mắt mở tròn nhìn nàng không chớp, cả người ngây ra như một gã đần.
Tô Tần cũng giật mình kinh ngạc, ghé sát tai ngân nga với Trương Nghi: “Là Vũ công chúa!”
Trương Nghi vẫn đứng đờ ra tại chỗ, dường như không nghe thấy Tô Tần nói gì.
Ngọc Thiền đi tới bên cạnh tiểu đồng. Tiểu đồng thấy họ vẫn đứng ngây ra, liền gọi lớn: “Chị Thiền Nhi ra rồi, có gì thì mau nói đi!”
Tô Tần đưa khuỷu tay huých khẽ Trương Nghi, Trương Nghi giật mình choàng tỉnh, vội vàng bước lên phía trước, vòng tay vái mà nói: “Trương Nghi xin chào Vũ công chúa!”
Ngọc Thiền cười nhạt mà nói: “Trương sĩ tử nhận nhầm người rồi, nơi này không có Vũ công chúa!”
Trương Nghi ngẩn người, rồi lại vái một vái: “Trương Nghi xin chào tiên cô!”
Ngọc Thiền giọng vẫn lạnh lùng: “Nơi này cũng không có tiên cô, tiểu nữ tên gọi Ngọc Thiền!”
Trương Nghi đành phải vái thêm một lễ nữa: “Trương Nghi xin chào Ngọc Thiền cô nương!”
Ngọc Thiền vòng tay đáp lễ: “Hai vị sĩ tử đến u cốc, không biết có chuyện gì?”
“Hồi bẩm cô nương, chúng tôi đến để bái kiến Quỷ Cốc tiên sinh!”
“Xin hỏi hai vị, bái kiến tiên sinh có việc gì?”
“Việc này…” Trương Nghi không tiện nói tiếp, bèn đưa mắt nhìn Tô Tần.
Tô Tần bước lên trước một bước, vòng tay vái một vái thật dài, rồi kéo dài giọng ngân nga: “Tại hạ Tô Tần người Lạc Dương, Tô Tần xin chào Ngọc cô nương! Vương thành gặp cầm sư trên đường, cầm sư đưa cho một cẩm nang. Cẩm nang chỉ tôi đến nơi này, mong được cô nương giúp một tay!”
Ngọc Thiền thấy Tô Tần không còn nói lắp nữa, lại ngâm ngợi nghe cũng vui tai, cộng thêm lúc ở trong cung cũng từng gặp chuyện túi gấm, sắc mặt tươi tỉnh hẳn lên, vái đáp lễ mà nói: “Ngọc Thiền xin chào Tô sĩ tử, xin hỏi sĩ tử, túi gấm ở đâu?”
Tô Tần lấy từ trong ngực áo ra một chiếc túi gấm, nâng hai tay đưa lại. Ngọc Thiền ra hiệu, tiểu đồng liền bước tới nhận lấy, đưa lại cho nàng.
Ngọc Thiền mở túi gấm ra đọc một lượt, rồi trả lại cho Tô Tần, nói: “Sĩ tử có túi gấm này, ắt đã có duyên với tiên sinh. Có điều hiện giờ tiên sinh đi vân du chưa về, Ngọc Thiền không thể giữ sĩ tử ở lại. Xin sĩ tử tạm thời xuống núi, đợi ngày tiên sinh trở về rồi hãy quay lại, được chăng?”
Trương Nghi vội hỏi: “Cô nương có biết khi nào tiên sinh trở về không?”
Chưa đợi Ngọc Thiền lên tiếng, tiểu đồng đã đáp lời: “Tiên sinh vân du, trước nay chưa từng có thời hạn cố định, có thể là mười ngày nửa tháng, có thể là nửa năm, cũng có thể là dăm ba năm!”
Trương Nghi thất kinh, quay sang nhìn Tô Tần: “Tô huynh, việc này…”
Tô Tần lại vòng tay vái, cất giọng hát: “Khẩn cầu Ngọc Thiền cô nương, giúp chúng tôi thêm một lần; xin cho chúng tôi lưu lại cốc, đợi ngày tiên sinh về thảo đường.”
Ngọc Thiền đáp: “Hai vị sĩ tử muốn ở lại trong cốc để đợi tiên sinh, tiểu nữ không phản đối. Chỉ có điều thảo đường nhỏ bé, lại không có nhiều phòng, hai vị sĩ tử sao có thể ở được?”
Trương Nghi nghe thấy vậy, vội nói: “Cô nương yên tâm, núi này sơn thuỷ tuyệt đẹp, nơi đâu cũng có thể ở, chúng tôi tuyệt đối không phiền đến cô nương!”
Tiểu đồng tiếp lời: “Ban ngày thì sơn thuỷ tuyệt đẹp, không vấn đề gì. Nhưng đêm dài đằng đẵng, các vị sẽ ở đâu?”
Trương Nghi nháy mắt: “Tiểu huynh đệ, nói cho cậu biết nhé, đến tối chúng tôi sẽ học theo họ Hữu Sào(2), trèo lên cây lớn, bện cành lá với nhau làm tổ, sau đó chui vào trong đó ngủ, vừa tránh được gió, lại tránh được cả mưa!”
Tiểu đồng liếc xéo Trương Nghi, cười khúc khích mà nói: “Trên cây kể ra cũng tốt, có điều trong núi này có báo đốm, chúng biết trèo cây, lại chuyên săn mồi ban đêm. Còn có mãng xà, nếu ban đêm chúng ngửi thấy mùi thức ăn ngon rồi bò lên cây, thì sĩ tử sẽ…”
Trương Nghi nghe tiểu đồng doạ, trong lòng cũng thấy rờn rợn, thì Tô Tần lại hát: “Cô nương có lòng giữ lại, Tô Tần đa tạ cô nương. Còn việc chỗ ăn chỗ ngủ, chúng tôi tự biết liệu đường!”
“Hai vị sĩ tử đã quyết ý ở lại, xin cứ tự nhiên!”
Nói xong, Ngọc Thiền quay người đi luôn vào trong thảo đường.
Tô Tần ngửa đầu nhìn trời, ra hiệu cho Trương Nghi rồi mình đi trước, đến trước gian thảo đường, đặt tay nải xuống. Trương Nghi cũng đi theo, cùng Tô Tần trèo lên một con dốc cao. Tô Tần phóng mắt nhìn khắp xung quanh, sau đó xuống dốc, đi đến một lũng núi cách thảo đường chừng hai trăm bước, quay trước quay sau quan sát một hồi, cảm thấy hài lòng, bèn nhìn Trương Nghi gật đầu.
Trương Nghi không hiểu, nhìn Tô Tần ngạc nhiên: “Tô huynh, huynh định làm gì?”
Tô Tần hát: “Nơi đây thích hợp đọc sách, có thể dựng lều làm nhà!”
“Dựng lều làm nhà? Dựng lều làm nhà như thế nào?”
“Hiền đệ hãy lấy rìu cưa, cùng huynh vào rừng chặt gỗ!”
Trương Nghi đi đến trước nhà cỏ, mượn tiểu đồng rìu và cưa. Tiểu đồng lấy ra một cây rìu, nói không có cưa. Trương Nghi nhìn cây rìu, thấy khá sắc, bèn vòng tay đa tạ, sau đó giắt vào hông, cùng Tô Tần lên núi. Một lúc sau, mỗi người đã vác theo một thân gỗ lớn trở xuống.
Hai người miệt mài đến tận tối, đã dựng được hơn mười thanh gỗ trong lũng núi. Vào lúc chập tối, thời tiết rất đẹp, tiểu đồng cho hai người mượn một manh chiếu cỏ và tấm chăn mỏng, hai người nằm ngủ luôn trên cỏ. Có lẽ do đã thấm mệt, nên họ chưa kịp trò chuyện gì đã ngủ say sưa.
Đến khi gần sáng, sương xuống dầm dề, trời trở lạnh buốt, hai người đều ướt mèm, thấm lạnh mà tỉnh giấc. Tô Tần biết không thể ngủ tiếp được nữa, bèn cùng Trương Nghi lên núi, lại hì hục đến khi trời tối, tiếp tục vác về hơn chục cây gỗ lớn nhỏ. Đến ngày thứ ba, Tô Tần mượn một chiếc liềm, hai người đi cắt cỏ về rải xuống đất. Sau đó là chuyển đá, cắt dây leo, bận rộn liền mấy ngày trời, cuối cùng cũng đã chuẩn bị đủ các vật liệu để dựng nhà.
Sau đó một vài ngày, hai người chỉ dựa vào đôi bàn tay, đã dựng được hai gian nhà cỏ giản dị trong lũng núi. Đến hoàng hôn ngày thứ mười, Tô Tần trèo lên nóc nhà, lợp xong bó cỏ cuối cùng.
Trương Nghi xuất thân công tử nhà giàu, chưa bao giờ phải làm việc nặng nhọc. Lần này đích thân dựng được hai gian nhà cỏ, trong lòng vô cùng phấn chấn, hết chạy ra cửa này lại chạy vào cửa kia hệt như trẻ nít, sau đó nhảy tưng tưng ra khỏi nhà, đi khoảng hai chục bước, nheo mắt lại ngắm nghía kiệt tác của mình.
Tô Tần nhìn ngang ngắm dọc một hồi, thấy đã hoàn thiện, lúc này mới trèo xuống thang, đưa tay vẫy Trương Nghi. Trương Nghi chạy như bay đến gần, miệng cười hi hả, vỗ bồm bộp vào vai Tô Tần: “Giỏi lắm Tô huynh, không ngờ huynh lại tài khéo đến thế! Ha ha ha, nếu để mình đệ ở đây, chắc đệ đã leo lên cây làm tổ rồi!”
Đúng lúc này, từ phía xa có tiếng tiểu đồng gọi vọng lại: “Hai vị sĩ tử, chị Thiền Nhi gọi hai vị tới ăn cơm!”
Nghe nói Ngọc Thiền thưởng cơm, hai người đều ngạc nhiên đến sững sờ. Trương Nghi mừng rơn mà nói: “Tô huynh, mau, chắc chắn nhị công chúa thấy chúng ta vất vả suốt mấy ngày nay nên mới ban thưởng đấy!”
Tô Tần xoa tay, vỗ đập lên người, phủi đi vụn cỏ bám trên quần áo, rồi cười ngượng nghịu.
Trên bãi cỏ trước thảo đường, tiểu đồng đã bày sẵn một âu cháo và hai cái bát trên bàn đá, trong âu có một cái muôi.
Ngọc Thiền ngồi khoanh chân trên cỏ, đưa mắt nhìn hai người, khẽ cười mà nói: “Mấy ngày nay, hai người chắc đã mệt nhoài, hãy lại đây ăn chút cháo loãng!” Rồi đưa mắt cho tiểu đồng.
Tiểu đồng cầm bát và muôi lên, múc đầy hai bát, rồi đặt trước mặt mỗi người một bát. Trương Nghi bưng bát lên, thấy không còn quá nóng, bèn húp soàn soạt liền mấy miếng, chép miệng kêu lên: “Thơm quá!” Rồi quay sang phía Ngọc Thiền. “Là cô nương nấu ư?”
Tiểu đồng đáp: “Đương nhiên là chị Thiền Nhi nấu rồi!”
Trương Nghi vốn sẵn có ý nịnh nọt, lập tức mở miệng khen liền: “Chậc chậc, Trương Nghi chưa bao giờ được ăn thứ cháo nào thơm ngon đến vậy!”
Ngọc Thiền phì cười: “Lời này của Trương sĩ tử, e rằng là do đói quá mà nên!”
Trương Nghi quay sang nhìn Tô Tần: “Có phải là do đói quá hay không, Tô huynh hãy nói xem!”
Tô Tần đang húp cháo, nghe vậy bèn nuốt vội xuống, ngẫm nghĩ một lát, rồi lại cất tiếng hát: “Tô Tần thành tâm khen ngợi, cháo này vị ngọt hương thơm!”
Trương Nghi quay sang cười với Ngọc Thiền: “Thấy chưa, không phải chỉ mình tại hạ thấy vậy đâu nhé!”
Ngọc Thiền chưa kịp đáp lời, tiểu đồng đã quay sang nói với Tô Tần: “Cháo chị Thiền Nhi nấu có ngon cỡ nào, cũng chẳng hay bằng sĩ tử hát!”
Ngọc Thiền lại bật cười thành tiếng, nhưng tiểu đồng không cười, mà tò mò nhìn Tô Tần: “Tiểu đồng nghĩ mãi không hiểu, tại sao Tô sĩ tử cứ mở miệng là hát thế?”
Tiểu đồng rõ ràng là đã biết còn cố hỏi. Tô Tần đỏ bừng mặt, luống cuống hồi lâu mới ngân nga: “Tô Tần bẩm sinh lưỡi cứng nhắc, không biết nói năng chỉ biết hát!”
Tiểu đồng cúi đầu suy nghĩ một lát, rồi gật gù nói: “Ồ, tiểu đồng hiểu rồi! Nếu Tô sĩ tử nói chuyện thì sẽ bị nói lắp, còn hát thì sẽ không bị lắp, có đúng vậy không?”
Tô Tần gật đầu.
Tiểu đồng lại ngẫm nghĩ rồi nói: “Tô sĩ tử, hát tuy nghe cũng hay đấy, nhưng lại phải mất công soạn lời. Nếu chỉ hát dăm ba ngày thì còn dễ soạn, nhưng nếu hát cả đời, hẳn Tô sĩ tử không thể nghĩ ra được nhiều lời hát đến vậy?”
Lời này đã nói trúng chỗ băn khoăn của Tô Tần, Tô Tần thở dài một tiếng rồi cúi đầu xuống.
Tiểu đồng tỏ vẻ thương cảm, đứng dậy nhìn Tô Tần, khẽ thở dài: “Nói lắp thật là bất tiện. Tô sĩ tử đã từng nghĩ đến chuyện chữa trị căn bệnh này hay chưa?”
Tô Tần càng cúi đầu thấp hơn.
Ngọc Thiền mỉm cười, quay sang nói với tiểu đồng: “Tiểu đồng yên tâm, bệnh này tiên sinh sẽ có cách chữa. Tiên sinh đã để lại cho Tô sĩ tử một túi gấm, hẹn Tô sĩ tử vào trong sơn cốc, cũng chỉ vì muốn giúp sĩ tử chữa dứt bệnh này. Có điều sĩ tử đến không phải lúc, lại đúng dịp tiên sinh đi ngao du, nên mới phải đợi chờ.”
Nghe Ngọc Thiền nói vậy, Tô Tần, Trương Nghi đều giật nảy mình. Lần này họ đến, chữa bệnh chỉ là thứ yếu, bái sư học đạo mới là mục đích chính. Lời này của Ngọc Thiền rõ ràng đã chặn mất đường đi của họ. Nhưng trên túi gấm viết rất rõ ràng, hai người cũng không tiện nói thêm, chỉ đưa mắt nhìn nhau rồi lại cắm cúi húp cháo.
Tiểu đồng vỗ trán: “Nghe chị Thiền Nhi nói vậy, tiểu đồng mới nhớ lại một việc. Lúc tiên sinh chuẩn bị lên đường đã để lại một túi thuốc, nói là để chữa bệnh lưỡi. Tiên sinh không nói gì thêm, cái lưỡi của tiểu đồng lại chẳng có vấn đề gì, không cần phải uống thuốc, nên cứ để thuốc ở đó, mới có mấy ngày mà đã quên bẵng đi mất!”
Ngọc Thiền trâm ngâm suy nghĩ một lát, rồi gật đầu nói: “Nếu nói như vậy, túi thuốc này chắc chắn là do tiên sinh để lại cho Tô sĩ tử. Hãy mang lại đây xem sao!”
Tiểu đồng thoăn thoắt chạy đi, một lát sau đã mang túi thuốc tới.
Ngọc Thiền mở ra xem, mừng rỡ mà nói: “Mau nhìn xem, chính là thuốc mà tiên sinh để lại cho Tô sĩ tử, còn có chữ viết nữa!”
Ngọc Thiền lấy ra một mảnh tre, thấy có viết hai hàng chữ: “Thuốc cho Tô Tần, mỗi ngày một viên; trăm ngày thuốc hết, nói lắp sẽ khỏi. Dùng ngâm thay hát, luyện tập hàng ngày; dùng nói thay ngâm, đầu lưỡi tự mềm.”
Tô Tần cầm lấy nhìn, rồi đặt bát cháo xuống, quỳ sụp xuống đất, ngửa mặt nhìn lên không trung, rơi lệ mà vái lạy: “Tiên sinh, Tô Tần…”
Có lẽ do quá cảm động, Tô Tần lạy liền ba lạy, rồi gục đầu xuống đất, không nói được lời nào nữa. Trương Nghi thấy Tô Tần cứ gục mãi trên đất, liền đưa tay đỡ dậy, bật cười mà nói: “Tô huynh, đừng vì vui quá mà quên mất lời tiên sinh. Tiên sinh đã bảo huynh dùng ngâm thay hát, luyện tập hàng ngày. Huynh đã hát lâu như vậy, bây giờ đến lúc phải ngâm rồi! Nào, trước tiên hãy ngâm một bài thơ, bài ‘Quan quan thư cưu’ đi!”
Tô Tần gật đầu, thấy Ngọc Thiền, tiểu đồng đều nhìn mình chăm chú, liền cất giọng ngâm:
Thư cưu ríu rít,
Trên cồn bãi sông.
Cô gái dịu dàng,
Sánh cùng quân tử.
So le rau hạnh,
Phải trái ven dòng.
Cô gái hiền thục,
Thức ngủ mơ mòng.
Mơ nàng chẳng gặp,
Thức ngủ nhớ nhung.
Nhớ nhung dằng dặc,
Trằn trọc bâng khuâng…(3)

Tô Tần ngâm một mạch hết bài thơ, quả nhiên không bị lắp chỗ nào.
Trương Nghi vỗ tay reo lên: “Đúng là phương pháp tuyệt hay! Nghe Tô huynh ngâm thơ, đâu có giống người nói lắp?”
Tô Tần mỉm cười, quay sang vòng tay vái Ngọc Thiền và tiểu đồng, ngâm rằng: “Tô Tần đa tạ tiểu đồng, Tô Tần đa tạ Ngọc Thiền cô nương!”
Ngọc Thiền, tiểu đồng đều vái đáp lễ. Tiểu đồng cười khanh khách mà nói: “Đúng là ngâm tốt hơn, không cần phải soạn sẵn câu từ, Tô sĩ tử muốn nói gì, cứ thuận miệng ngâm ra là được.”
Tô Tần mỉm cười với tiểu đồng, đang định nói thì thấy Ngọc Thiền đưa túi thuốc lại, rồi quét mắt qua Tô Tần, Trương Nghi, lập tức đổi giọng, chậm rãi nói: “Tô sĩ tử, túi gấm mà tiên sinh đưa cho sĩ tử đâu?”
Tô Tần đưa tay vào trong tay áo, lấy túi gấm ra, hai tay đưa lại, ngâm nga: “Hồi bẩm cô nương, túi gấm đây!”
Ngọc Thiền nhận lấy túi gấm, chẳng buồn nhìn đã nhét luôn vào trong tay áo, sau đó vái hai người một vái: “Tô sĩ tử, điều tiên sinh hứa với sĩ tử trong túi gấm đã được hoàn thành. Hai vị còn tiếp tục ở lại, chẳng phải là chuyện dư thừa ư?” Nói đoạn, chỉ tay vào âu cháo. “Cháo này, coi như tiểu nữ tiễn biệt hai vị. Hai vi sĩ tử ăn uống no rồi, có thể xuống núi!”
Lời vừa nói ra, Tô Tần, Trương Nghi lập tức chết sững, đặc biệt là Trương Nghi, người ngây ra như khúc gỗ, cái bát cắm trong tay nghiêng sang một bên, phần cháo còn chưa húp hết chảy cả ra ngoài, rớt xuống bãi cỏ, mà vẫn không hề hay biết.
Tiểu đồng thấy vậy, vội kêu lớn: “Trương sĩ tử, mau, cháo của sĩ tử đổ hết xuống đất rồi!”
Trương Nghi giật mình, cúi xuống nhìn bát cháo, rồi lại đầu lên, hai mắt nhìn chằm chằm vào Ngọc Thiền.
Ngọc Thiền cũng nhìn lại, rồi lạnh nhạt nói: “Trương sĩ tử cứ nhìn tôi như vậy là vì sao?”
Trương Nghi bừng tỉnh, liền đặt bát cháo xuống bàn: “Ngọc Thiền cô nương, nếu đã nói vậy, thì bát cháo này tại hạ sẽ không ăn nữa!”
Tiểu đồng cầm bát lên nhìn, rồi chỉ tay vào, cười toáng lên: “Trương sĩ tử, bát cháo đã sắp trơ cả đáy rồi, sĩ tử lại nói không ăn, như vậy sao được?”
Trương Nghi giở bài ương bướng: “Chỗ rơi trên đất hiện vẫn còn đó; chỗ đã ăn vào, tại hạ trả lại là được!” Nói đoạn, liền đi sang một bên, thò tay vào cổ họng móc liền mấy cái, chớp mắt, nửa già bát cháo đã ăn vào đều nôn ra bằng hết.
Ngọc Thiền lạnh lùng nhìn Trương Nghi, đợi hắn nôn xong mới nói: “Trương sĩ tử, bát cháo này chỉ là chút lòng thành của tiểu nữ. Sĩ tử ăn vào, coi như xem trọng tiểu nữ. Sĩ tử không ăn, tiểu nữ cũng chẳng còn gì để nói!”
Nói đoạn đi tới trước bàn đá, cầm lấy chiếc bát gỗ mà Tô Tần vừa đặt xuống, lại múc đầy, hai tay đưa cho Tô Tần: “Tô sĩ tử, xin mời!”
Tô Tần đưa hai tay ra nhận, khom lưng cúi đầu hành lễ với Ngọc Thiền, ngâm nga: “Tô Tần đa tạ Ngọc Thiền cô nương!”
“Tô sĩ tử uống hết bát cháo này, coi như đã là đa tạ!”
Tô Tần không nói thêm một lời, đưa bát cháo lên húp liền mấy hơi, hết veo phân nửa.
Trương Nghi thấy thái độ của Ngọc Thiền như vậy, trong lòng cuống quýt, nói không thành câu: “Trời… trời xanh chứng giám, tại hạ… tại hạ không có ý đó, không phải tại hạ coi thường cô nương, mà là… mà là…”
Ngọc Thiền đưa ánh mắt lạnh lẽo nhìn Trương Nghi, ngắt lời: “Trương sĩ tử, Tô sĩ tử, các vị coi trọng cũng được, coi thường cũng không sao, tất cả đều xứng đáng. Tiểu nữ không cảm kích, cũng chẳng buồn lòng. Có điều hai vị sĩ tử không thể tiếp tục ở trong sơn cốc này, cũng chẳng có lý do để ở tiếp nữa! Tiểu nữ mong hai vị hãy mau xuống núi cho, nếu không, đến khi tiên sinh trở về, chắc chắn sẽ trách mắng tiểu nữ!”
Tô Tần đã nhận ra, Ngọc Thiền kiên quyết muốn đuổi họ xuống núi. Lúc trước họ đã bàn nhau sẽ lên núi học nghệ, nay còn chưa gặp được tiên sinh mà đã bị đuổi đi, thực là nằm ngoài dự liệu.
Tô Tần húp cháo chậm lại, cúi đầu suy nghĩ tìm kiếm đối sách. Khi bát cháo vừa húp hết, cũng là lúc Tô Tần nảy ra một ý, liền đặt chiếc bát không lên mặt bàn, lại khom lưng trước Ngọc Thiền, ngâm nga: “Tô Tần đa tạ cháo ngon của cô nương!”
“Lời của tiểu nữ, Tô sĩ tử vẫn chưa trả lời!”
Tô Tần kéo dài giọng, nửa ngâm nửa hát: “Bây giờ Tô Tần sẽ trả lời cô nương!” Rồi tay nâng túi thuốc lên. “Tiên sinh để lại túi thuốc này, chỉ nói là có thể chữa khỏi bệnh cho tại hạ, nhưng thuốc có hiệu nghiệm hay không, vẫn còn chưa biết. Hơn nữa, sau khi uống thuốc, nếu tại hạ cơ thể khó chịu, biết phải làm sao? Cô nương là người nhân từ, tại hạ khẩn cầu cô nương hãy mở lòng từ bi, để hai chúng tôi ở lại trong cốc thêm vài ngày, một là đợi xem thuốc có hiệu nghiệm hay không, hai là cung kính chờ đợi tiên sinh. Nếu quả thật tiên sinh có thể chữa khỏi bệnh nói lắp cho tại hạ, với tại hạ khác nào có ơn tái sinh, bất kể thế nào, tại hạ cũng phải gặp mặt tiên sinh nói lời cảm tạ mới phải!”
Lời Tô Tần hợp tình hợp lý, Ngọc Thiền không có cách nào phản bác, cũng thấy nếu cứ khăng khăng đuổi họ đi, hiển nhiên không được ổn thoả cho lắm, bèn đưa mắt nhìn tiểu đồng.
Tiểu đồng cười khúc khích mà nói: “Chị Thiền Nhi, Tô sĩ tử đã nói như vậy, thì cứ để họ ở lại. Dù sao thì trong cốc cũng không có người ngoài, tiên sinh lại không ở đây, thêm hai người để nói chuyện, chẳng phải sẽ vui hơn ư?”
Ngọc Thiền quay sang nói với Tô Tần: “Tô sĩ tử đã muốn ở lại vài ngày, vậy xin cứ tự nhiên. Tiểu nữ vào trong nhà đây!”
Thấy Ngọc Thiền đã thong thả đi vào thảo đường, Trương Nghi xoạc hai bước đã tới trước bàn đá, vét hết cháo ra bát rồi húp liền mấy hơi, chép miệng than thở: “Hay thật, cô nương này thật biết cách hành hạ người khác! Tại hạ phục rồi!”
Mấy ngày sau đó, trời mưa dầm dề không ngớt. Vì đã có hai gian nhà cỏ nên Tô Tần, Trương Nghi cũng dễ sống hơn.
Buổi trưa hôm đó, Tô Tần kéo Trương Nghi vào rừng kiếm chút nấm dại để thêm món cho bữa ăn. Hai người khoác theo sọt tre, đi ra khỏi cửa, đang định lên núi thì thấy tiểu đồng từ trong thảo đường tung tăng chân sáo nhảy ra, từ xa đã cất tiếng gọi, rồi chạy lại gần nói nhỏ: “Hai vị sĩ tử, nói cho hai vị biết, tiên sinh đi vân du, vừa nãy đã trở về!”
Tô Tần, Trương Nghi đưa mắt nhìn nhau, rồi quẳng luôn sọt tre xuống đất, vội vàng chạy về thay quần áo tề chỉnh, rồi lại chạy sang gian thảo đường của Quỷ Cốc Tử.
Nghe thấy tiếng nói, Ngọc Thiền liền bước ra.
Trương Nghi vòng tay nói: “Nghe nói tiên sinh đã trở về, chúng tôi muốn đến bái kiến, phiền cô nương báo giúp một tiếng!”
Ngọc Thiền chỉ tay vào tấm rèm tre vừa buông xuống: “Tiên sinh vừa trở về, giờ đang nghỉ trưa!”
Tô Tần, Trương Nghi cùng nhìn qua bức rèm, quả nhiên thấy tiên sinh đang ngồi ngay ngắn bên trong, giống như đã nhập định. Trương Nghi, Tô Tần không nói lời nào, chỉ khuỵu hai đầu gối, cùng quỳ xuống, dập đầu sát đất chờ đợi.
Một canh giờ trôi qua, Quỷ Cốc Tử vẫn ngồi bất động.
Lại một canh giờ nữa, Quỷ Cốc Tử vẫn ngồi bất động.
Trương Nghi huých khuỷu tay vào Tô Tần, Tô Tần quay sang nhìn Trương Nghi. Trương Nghi nói khẽ: “Không biết làm sao mà tim tiểu đệ cứ như bị mèo cào, đau nhói lên từng chặp!”
Tô Tần ngâm nga: “Hiền đệ là vì chuyện gì?”
Trương Nghi dẩu mỏ về phía tấm rèm tre: “Huynh nói xem, phải chăng tiên sinh vẫn còn giận về chuyện ở Lạc Dương mà không chịu thu nạp đệ?”
Lời còn chưa dứt, Quỷ Cốc Tử đã dang rộng hai tay, vươn người mấy cái, rồi cất giọng ngâm: “Xào xạc chừ gió núi, thâm u chừ rừng dày. Người đẹp chừ có hẹn, thoả thích chừ lòng này.”
Trương Nghi giật mình, lè lưỡi, rồi lại dập đầu sát đất.
Ngọc Thiền nghe thấy tiếng người, liền chậm rãi bước vào sau bức rèm, bẩm báo với Quỷ Cốc Tử: “Hai vị sĩ tử ở ngoài núi cầu kiến tiên sinh, đã đợi nhiều ngày rồi!”
Quỷ Cốc Tử nói: “Ồ, có khách đến ư? Mau kéo rèm lên!”
Ngọc Thiền liền kéo rèm, Quỷ Cốc Tử quay lại, ngồi đối diện với hai người.
Tô Tần, Trương Nghi lạy liền ba lạy, rồi phủ phục xuống đất.
Quỷ Cốc Tử cười vang, nói: “Lão hủ vân du đã nhiều ngày, hôm nay mới trở về, vốn chỉ định nghỉ ngơi chốc lát, không ngờ chợp mắt liền mấy canh giờ, đã để khách phải đợi lâu!”
Tô Tần ngâm nga: “Vãn bối mạo muội tìm đến sơn cốc, đã quấy quả sự thanh tịnh của tiên sinh, mong tiên sinh thứ lỗi!”
Quỷ Cốc Tử lại cười vang: “Lão hủ nhớ ra rồi, ngươi chính là vị khách quan ở thành Lạc Dương! Là lão hủ đã mời ngươi đến, cớ sao lại nói là mạo muội? Trước khi lão hủ vân du, đã chế sẵn thuốc để lại trong cốc, tiểu đồng đã đưa cho khách quan hay chưa?”
Tô Tần lại lạy, ngâm: “Vãn bối đã nhận thuốc của tiền bối, mỗi tối một viên, đã uống được mấy ngày!”
Quỷ Cốc Tử gật đầu nói: “Uống rồi thì tốt. Đối với sĩ tử, mặc dù thuốc này có thể làm mềm lưỡi, nhưng lại chưa phải là thứ cốt yếu!”
Tô Tần nghe mà giật mình. “Ý tiền bối là… bệnh của vãn bối, đến thuốc này cũng không thể chữa khỏi?”
“Đúng thế!” Quỷ Cốc Tử đáp. “Chứng nói lắp của sĩ tử không phải bẩm sinh đã có, mà do hậu thiên dưỡng thành. Sĩ tử tâm khí cao, nhưng lại thiếu tự tin. Đối với sĩ tử, nói lắp không phải là bệnh, thiếu tự tin mới là bệnh thực.”
Tô Tần trầm ngâm một lát, rồi lại bái lạy: “Vãn bối đa tạ tiên sinh đã chỉ rõ chỗ mê muội!”
Ánh mắt Quỷ Cốc Tử chuyển sang Trương Nghi: “Ồ, vị khách quan này, lão hủ cũng đã nhớ ra! Hẳn không phải là đuổi tận lên núi để xé phướn của lão hủ đấy chứ?”
Trương Nghi giật bắn mình, toàn thân lạnh toát, vội dập đầu mà nói: “Vãn sinh không dám!”
“Đã không phải đến xé phướn của lão hủ, vậy sĩ tử đến đây làm gì?”
“Vãn sinh…” Trương Nghi đảo mắt, “vãn sinh xin bái phục chịu thua. Tiên sinh thần toán, câu nào cũng linh nghiệm, tại hạ còn nợ tiên sinh ba cái dập đầu, nên hôm nay tìm đến trả! Tiên sinh ở trên, xin nhận của Trương Nghi ba lạy!”
Lời vừa dứt, Trương Nghi đã lập tức dập đầu liền ba cái thật vang.
“Được rồi!” Quỷ Cốc Tử gật đầu nói. “Ba lạy lão hủ đã nhận, sĩ tử có thể đi rồi!”
Trương Nghi lo lắng, vội huých khuỷu tay sang Tô Tần. Tô Tần liền ngâm: “Vãn bối còn có một thỉnh cầu, mong được tiền bối chấp nhận!”
“Là cầu quẻ ư?”
“Vãn bối không cầu quẻ. Lần này vãn bối đến, chữa bệnh chỉ là thứ yếu, thực ra là muốn khẩn cầu tiên sinh một chuyện!”
“Sĩ tử cứ nói!”
“Vãn bối mong tiên sinh thu nhận hai người vãn bối ở lại hầu bên tả hữu, nghe tiên sinh dạy bảo.”
Quỷ Cốc Tử trầm ngâm một lát, rồi quay sang nói với Trương Nghi: “Vị khách quan này cũng muốn vậy ư?”
Trương Nghi vội bái lạy, nói: “Vãn sinh bất tài, muốn cùng Tô sĩ tử bái tiên sinh làm thầy!”
Quỷ Cốc Tử gật gù, rồi chậm rãi nói: “Tốt lắm, hai người có tâm cầu học, thật đáng mừng, cũng đáng khen. Hiện nay, kẻ có học nhiều vô số, bậc đại gia cũng đông đảo, có đám Mạnh Kha học Nho học của Trọng Ni, có đám Trang Chu học Đạo học của Lão Đam, có đám Tuỳ Sào Tử học Mặc học của Mặc Địch, có đám Công Tôn Ưởng, Thân Bất Hại hoằng dương pháp học, có đám Huệ Thi, Công Tôn Long mở phái danh thực, có đám Thuần Vu Khôn, Trâu Kỵ nổi tiếng nhờ ẩn ngữ, có đàm Hoàn Đoàn nổi danh vì ngụy biện, còn có Dương Chu, Bành Mông, Điền Biên, Thận Đáo, đều là đại gia, ai cũng viết sách lập thuyết, khai tông lập phái. Liệt quốc lại càng là trường học như nấm, học phong sôi nổi. Lão hủ muốn hỏi, tại sao hai người không đi theo họ, mà lại đến chốn thâm sơn cùng cốc này cầu bái một lão già quê mùa như ta?”
Nghe Quỷ Cốc Tử kể ra một mạch vô số cái tên, Trương Nghi hào khí dâng cao, lập tức đáp lời: “Vãn sinh đã quan sát khắp học vấn trăm nhà, hoặc là tuyên dương đạo lớn, hoặc là tìm tòi thuật nhỏ, phần lớn đều là cái thuật kiểu cách màu mè, không hề thực dụng!”
Quỷ Cốc Tử gật đầu, ung dung hỏi lại: “Tại sao không thực dụng, khách quan có thể nói rõ hơn chăng?”
Trương Nghi trầm ngâm suy nghĩ một lát, rồi dõng dạc đáp: “Cái học của Lão Trang xa rời trần thế, đề xướng vô vi mà trị, nhưng thiên hạ hiện nay, nếu như vô vi, căn bản sẽ không thể trị, bởi vậy nên không thể dùng. Cái đạo Khổng Mạnh lấy nhân nghĩa làm gốc, lấy lễ nhạc làm khuôn, nhưng thiên hạ từ lâu đã lễ băng nhạc hoại, bất nhân bất nghĩa, nên cũng khó thực hành. Cái học của Mặc, Dương, tu thân thì có thừa, nhưng trị thế lại không đủ, nên các chư hầu cũng bỏ đi mà không dùng. Cái học hình danh chỉ đề xướng lấy sức lực phục lòng người, khó lòng tiến xa; tranh cãi về danh thực, luận thuyết về ngụy biện, tất cả đều kiểu cách khiên cưỡng, không thể sử dụng. Còn về thuật dụng binh, thuật âm dương, đạo kinh doanh, thuyết nông tang, nhiều vô số kể, mặc dù hữu dụng, nhưng quá hẹp hòi, không đủ để cứu vớt đời loạn trước mắt!”
Quỷ Cốc Tử chậm rãi nói: “Vì vậy nên sĩ tử mới chạy tới sơn cốc này ư?”
“Đúng vậy!” Trương Nghi buột miệng đáp liền. “Vãn sinh nghe nói tiên sinh có tài kinh thiên vĩ địa, học vấn trong thiên hạ không gì không biết, nên cùng Tô Tần bôn ba ngàn dặm đến đây, cầu bái tiên sinh làm thầy, dám mong tiên sinh chấp thuận!” Nói xong, lại dập đầu xuống lạy.
Quỷ Cốc Tử bật cười mấy tiếng, rồi thong thả nói: “Trương sĩ tử hẳn đã nghe nhầm rồi! Ngoài xem tướng đoán mệnh, lão hủ đây chẳng biết gì khác, lấy đâu ra tài kinh thiên vĩ địa? Hơn nữa, nghe những lời khi nãy của sĩ tử, có thể thấy sĩ tử đã học hết học vấn trăm nhà, lại tự biết phán đoán, lão hủ đây dù đã đọc được hai cuốn sách, cũng dám đâu sánh được với sĩ tử? Trước cửa nhà lão hủ chỉ có một khe suối nhỏ bé chảy qua, không đủ sức cho con rồng lớn như sĩ tử vùng vẫy!”
Lời Quỷ Cốc Tử khác nào một gáo nước lạnh giội thẳng xuống, khiến Trương Nghi lạnh toát từ đỉnh đầu tới tận gót chân, vội dập đầu lia lịa: “Vãn bối lỡ lời, mong tiên sinh rộng lòng tha thứ!”
Giọng Quỷ Cốc Tử vẫn vô cùng hoà nhã: “Lời nói là tiếng của tâm, sao lại lỡ được?” Rồi quay sang Ngọc Thiền. “Thiền Nhi, trời đã tối, hãy để vị khách quan này tạm nghỉ trong sơn cốc một đêm, sớm mai tiễn người này xuống núi!”
Lời còn chưa dứt, Quỷ Cốc Tử đã đứng dậy đi thẳng vào trong.
Trương Nghi cuống lên, miệng gọi “tiên sinh”, rồi đứng bật dậy định đuổi theo, nhưng bị Ngọc Thiền đưa tay chặn lại: “Trương sĩ tử!”
Trương Nghi vừa hổ thẹn vừa lo sợ, liếc Ngọc Thiền một cái, rồi hậm hực cùng Tô Tần quay về căn nhà cỏ mới dựng.
Trở vào nhà, Trương Nghi ôm đầu ngồi ủ ê một lúc, rồi chậm chạp đứng dậy, lặng lẽ đi thu dọn hành lý. Tô Tần thấy vậy, cũng đi về gian phòng của mình. Trương Nghi thấy lạ, bèn ngoảnh sang nhìn, thấy Tô Tần cũng đang thu dọn hành trang.
Trương Nghi vội hỏi: “Tô huynh, làm gì vậy?”
Tô Tần ngâm nga: “Cùng hiền đệ xuống núi!”
Trương Nghi vội cản Tô Tần lại: “Tiên sinh chỉ đuổi Trương Nghi, không nói Tô huynh phải xuống núi, Tô huynh nên ở lại Quỷ Cốc, thu dọn hành lý làm gì?”
Tô Tần lùi lại một bước, ngồi lên mép giường, thở dài một tiếng: “Hiền đệ đi rồi, huynh sao có thể ở lại?”
Trương Nghi thấy Tô Tần nói thật lòng, trong lòng cảm động, cười buồn một tiếng, sau đó vung tay vả mạnh vào miệng mình mấy cái, uất ức mà nói: “Đều trách cái miệng thối này, đệ thật đáng đời!”
Tô Tần suy nghĩ một lát, rồi chậm rãi ngâm: “Hiền đệ ngồi đợi một lát, hãy để huynh thử đi cầu xin tiên sinh lần nữa xem sao!”
“Chỉ e Tô huynh có cầu xin cũng vô dụng!”
Tô Tần ngâm: “Hiền đệ sao lại nói vậy?”
Trương Nghi than thở: “Than ôi! Tiểu đệ vốn cho rằng tiên sinh là người đắc đạo, hẳn sẽ rộng lượng khoan dung, ai ngờ lại hẹp hòi đến vậy! Rõ ràng là tiên sinh còn ghi hận chuyện ở Lạc Dương, nên không chịu thu nhận đệ!”
Tô Tần không nói thêm lời nào, lập tức đi thẳng ra khỏi nhà, đến trước gian thảo đường của Quỷ Cốc Tử, vào gặp Ngọc Thiền, nói rõ ý định. Ngọc Thiền đi vào trong động, một lát sau đã trở ra, nói với Tô Tần: “Tô sĩ tử, tiên sinh đồng ý gặp sĩ tử, mời vào!”
Gian thảo đường của Quỷ Cốc Tử được dựng thuận theo thế núi, trong phòng có một đường hầm nối thông với sơn động, thảo đường và sơn động hợp thành một thể, hài hoà như nhất. Tô Tần đi theo Ngọc Thiền, vòng vèo một hồi thì đến một nơi, phía trên có treo tấm rèm vải.
Ngọc Thiền đứng ngoài tấm rèm, khẽ giọng bẩm báo: “Tiên sinh, Tô sĩ tử đã đến!”
“Mời vào!”
Ngọc Thiền vén rèm lên, nói với Tô Tần: “Tô sĩ tử, mời!”
Tô Tần đi vào, khấu đầu sát đất, ngâm: “Vãn bối khấu kiến tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử lập tức hỏi thẳng: “Có phải ngươi đến để cầu xin cho Trương sĩ tử?”
“Vâng!”
“Nói đi!”
“Vãn bối và Trương sĩ tử đã kết nghĩa kim lan ở thành Lạc Dương, tình như thủ túc, cùng hẹn nhau đến Quỷ Cốc để bái tiên sinh làm thầy. Nay tiên sinh không nhận Trương Nghi, chỉ nhận vãn bối. Nếu vãn bối một mình ở lại, tức là đã làm trái lời thề khi kết nghĩa. Vãn bối to gan cầu xin tiên sinh hãy thu nhận cả Trương sĩ tử, mong được tiên sinh ân chuẩn!”
“Trong sơn cốc này chỉ có thiên đạo, không có trung nghĩa. Lão hủ thu nhận ngươi, một là vì ta và ngươi đã có hẹn ước từ trước, hai là thấy ngươi bản tính thuần phác, rất có tâm lực, nếu như khổ công tu luyện, hoặc giả có thể đắc đạo. Nếu ngươi không thể quên được trung nghĩa của thế gian, thì hãy cùng Trương sĩ tử xuống núi đi!”
Tô Tần im lặng suy nghĩ một lát, rồi lại dập đầu mà ngâm: “Khẩn cầu tiên sinh cho phép vãn bối nói thêm một câu. Vãn bối tiên thiên bất túc, tư chất ngu độn, tài hoa học thức còn xa mới bằng Trương sĩ tử. Vãn bối tuy tâm có thừa, nhưng lực không đủ, nếu ở lại đây tu luyện, e rằng sẽ làm mất mặt sư môn. Bởi vậy, vãn bối nguyện thay Trương sĩ tử xuống núi, cầu xin tiên sinh giữ Trương sĩ tử lại để tu học!”
Quỷ Cốc Tử lắc đầu, khẽ thở dài: “Than ôi, ngươi thực hồ đồ, việc tu thân ngộ đạo, lẽ nào có thể tuỳ tiện mang ra trao đổi?” Rồi quay sang Ngọc Thiền. “Thiền Nhi, vị khách quan này nói mình tiên thiên bất túc, tư chất ngu độn, không có lòng tin ở đây tu luyện. Nếu hắn đã muốn đi, vậy hãy để hắn cùng xuống núi luôn đi!”
Ngọc Thiền bước lại, vòng tay vái: “Tô sĩ tử, mời!”
Tô Tần cúi đầu ủ rũ bước ra khỏi thảo đường.
Trời đã tối mịt, Trương Nghi không nhìn rõ sắc mặt của Tô Tần, chỉ thấy một bóng đen từ xa đi lại, biết là Tô Tần nên vội chạy ra đón: “Tô huynh…”
Tô Tần đi lại gần, khẽ lắc đầu.
Trương Nghi ngửa cổ lên trời cười một tràng dài.
Tô Tần ngạc nhiên, ngâm: “Hiền đệ…”
Trương Nghi cười xong, rồi đi thẳng vào phòng, xách lấy tay nải đã chuẩn bị sẵn, khoác lên vai, vái Tô Tần mà nói: “Đệ đã sớm dự liệu được kết cục này! Hừ, Trương Nghi ta cả đời đã học qua vô số thầy, nào biết phục ai? Lần này khó khăn lắm mới tìm được một vị tiên sinh, ta thành tâm kính ý bái làm sư phụ, mà ông ta lại làm cao làm kỳ! Tô huynh, không cần đợi đến ngày mai nữa, chúng ta hãy chia tay ngay bây giờ, Trương Nghi xuống núi luôn đây!”
Tô Tần vội ngăn lại, ngâm: “Hiền đệ, đường núi khó đi, trời lại tối mịt mù không đèn không đuốc, có nôn nóng cũng không nên vội vã một lúc này. Đợi đến sáng mai, ta sẽ cùng lên đường với đệ!”
Trương Nghi kinh ngạc: “Cái gì, Tô huynh cũng đi?”
Tô Tần ngâm: “Y huynh đã quyết, lúc nãy đã từ biệt tiên sinh!”
“Tô huynh!” Trương Nghi cả kinh, vội nói. “Huynh làm như vậy, sao có thể được? Những lời khi nãy của tiểu đệ chẳng qua chỉ là nói bừa trong lúc giận, sao huynh có thể coi là thật? Tiểu đệ đã nhận ra, tiên sinh đích thực học vấn uyên thâm, nếu Tô huynh có thể ở lại học nghệ, đúng là cơ may trời ban. Không phải Trương Nghi không muốn bái sư, mà là không có phúc phận này! Tô huynh, Trương Nghi khẩn cầu huynh, mặc dù chúng ta là huynh đệ, nhưng kiểu gì huynh cũng phải nghe đệ một lời, tuyệt đối không được xốc nổi, vì đệ mà bỏ lỡ cơ hội một đời!”
Tô Tần buồn bã, chậm rãi ngâm: “Hiền đệ bất tất phải nhiều lời. Sáng mai gà gáy, chúng ta sẽ cùng lên đường!”
Trương Nghi thấy Tô Tần nói thực tình, biết không phải lời giả dối, trầm ngâm một lát rồi gật đầu nói: “Tiểu đệ sẽ theo ý Tô huynh! Giờ đã muộn rồi, chúng ta hãy đi ngủ sớm, sáng mai dậy sớm lên đường!”
Hai người trở vào nhà cỏ, buồn bã lên giường. Tô Tần nằm mãi, cứ trằn trọc qua lại, đến tận nửa đêm mới ngủ thiếp đi. Đến khi bừng tỉnh, trời đã sáng trưng. Tô Tần ngồi dậy, bước ra ngoài nhìn trời, nào phải gà gáy, mà lúc này hẳn đã quá giờ Thìn.
Tô Tần vội đi tới trước phòng Trương Nghi, thấy cửa phòng mở toang, trong lòng giật thột, vội chạy vào trong, thấy người không còn trong phòng nữa, chỉ thấy một tấm thẻ tre đặt trên bàn, trên thẻ tre viết: “Hậu nghĩa của Tô huynh, đệ xin ghi lòng tạc dạ. Tục ngữ có câu, trồng dưa được dưa, nay đệ không gặp phải cơ duyên này, cũng là đáng kiếp. Đệ xin xuống núi trước, mong Tô huynh ở lại chăm chỉ tu luyện, thành tựu đại nghiệp khanh tướng. Trương Nghi.”
Tô Tần không nói thêm một lời, vội khoác tay nải lên vai, không kịp từ biệt tiên sinh và Ngọc Thiền, lập tức men theo con đường nhỏ bên suối vội vã chạy đi.

Trong núi Vân Mộng, sương thu bảng lảng, mây mù vấn vít, không thấy mặt trời.
Bàng Quyên, Tôn Tân đang đi theo con đường mòn trong núi, bỗng thấy trước mặt xuất hiện một tảng đá lớn. Lại gần tảng đá, thấy có một con đường nhỏ, không cần nghĩ ngợi, lập tức đi theo. Đi được một hồi, bất giác lại vòng trở lại, đến bên cạnh tảng đá lớn.
Bàng Quyên đi đến bên tảng đá, quan sát kỹ lưỡng, sau đó gãi đầu nói: “Không đúng, Tôn huynh, hình như chúng ta lại quay về chỗ cũ rồi!”
Tôn Tân nhìn khắp xung quanh, cũng gật đầu nói: “Có vẻ chính là tảng đá lúc nãy!”
Hai người đứng ngẩn ra một hồi. Lát sau, Bàng Quyên chau mày, trèo lên một thân cây lớn, phóng mắt quan sát một lúc rồi tụt xuống, chỉ về một hướng, nói: “Tôn huynh, ở đằng kia lờ mờ như có bóng người, chúng ta hãy đi tới đó hỏi thăm xem sao!”
Tôn Tân và Bàng Quyên vội đi theo hướng đó, một lúc sau, quả nhiên thấy một người đang đi trên đường.
Người đến chính là Trương Nghi.
Trương Nghi mặt mũi ủ ê, cúi gằm đầu mà đi, bước chân nặng nề, lúc đi lúc dừng. Đang lúc ngẩn ngơ, bỗng nghe phía trước có tiếng bước chân vọng lại.
Trương Nghi ngẩng đầu lên nhìn, thấy Bàng Quyên, Tôn Tân đang đi đến gần, rồi dừng bước trước mặt, cùng khom lưng hành lễ với mình.
Trương Nghi đang rầu rĩ, làm gì còn tâm trí để ý đến họ, chỉ thờ ơ liếc mắt nhìn qua, rồi ngoảnh mặt sang hướng khác, tiếp tục bước đi.
Bàng Quyên thấy vậy, vội chạy lên trước chặn đường: “Nhân huynh xin dừng bước, tại hạ muốn hỏi một câu!”
Trương Nghi liếc xéo mắt nhìn: “Hỏi chuyện gì?”
“Xin hỏi, đến Quỷ Cốc đi đường nào?”
Trương Nghi trong lòng chấn động, đưa mắt quan sát hai người một chốc, rồi hỏi: “Quỷ Cốc? Hai người đến Quỷ Cốc làm gì?”
Bàng Quyên thấy Trương Nghi đã đáp lời, bèn vội nói: “Tới bái kiến Quỷ Cốc tiên sinh!”
Trương Nghi nhìn phục sức của hai người, bỗng hiểu ra, buột miệng hỏi liền: “Các người phải chăng muốn tới bái Quỷ Cốc tiên sinh học nghệ?”
Thấy đối phương một lời nói trúng, Bàng Quyên phấn chấn đáp: “Đúng vậy!”
“Hai người có hẹn trước với tiên sinh chăng?”
Bàng Quyên lắc đầu.
“Vậy… hai người đã từng gặp tiên sinh chưa?”
Bàng Quyên lại lắc đầu.
Trương Nghi trầm ngâm một lát, sau đó lại hỏi: “Hai người là ai? Từ đâu đến? Tại sao lại muốn lên núi bái Quỷ Cốc tiên sinh làm sư phụ?”
Bàng Quyên tỏ vẻ không vui: “Chúng tôi chỉ hỏi đường đi, nhân huynh không muốn nói thì thôi, sao lại hỏi nhiều đến vậy, là có ý gì?”
Trương Nghi hừ mũi một tiếng, đứng thẳng người định cất bước đi thì Tôn Tân vội bước lên, vòng tay vái mà nói: “Tại hạ Tôn Tân xin chào nhân huynh!”
Trương Nghi liếc nhìn một cái rồi đáp lễ: “Tại hạ Trương Nghi xin chào Tôn huynh!”
Tôn Tân lại vái, sau đó nói thực tình: “Tại hạ đến từ thành Đế Khâu, vị này là Bàng Quyên người An Ấp, là nghĩa đệ của tại hạ. Hai huynh đệ chúng tôi được cự tử Mặc gia mách bảo, đến núi Vân Mộng để bái Quỷ Cốc tiên sinh làm sư phụ, không ngờ lại bị lạc đường ở đây, mong Trương huynh giúp đỡ!”
Nghe Tôn Tân nói rõ thân thế, Trương Nghi bỗng nảy ra một ý, đảo mắt mấy cái, rồi mặt mũi hớn hở, gật đầu lia lịa, vòng tay cười mà nói: “Quả nhiên là hai vị, tại hạ đã đợi ở đây lâu rồi!”
Tôn Tân kinh ngạc: “Trương huynh là…”
Trương Nghi cười vang: “Không dám giấu hai vị, tại hạ phụng mệnh tiên sinh đến đây đón hai vị vào Quỷ Cốc!”
Bàng Quyên nghe mà trợn mắt líu lưỡi: “Tiên sinh… tại sao lại biết chúng tôi sẽ đến?”
Trương Nghi liếc xéo Bàng Quyên, rồi nói: “Tiên sinh là người đắc đạo, trước biết tám trăm năm, sau biết tám trăm năm, chuyện nhỏ nhặt thế này, sao lại không biết? Nói cho nhân huynh hay, tiên sinh không những biết được hai vị sẽ đến, mà còn biết chắc hai vị sẽ lạc đường, vì vậy tối qua đã dặn dò tại hạ, bảo tại hạ vào giờ Thìn hôm nay đến đây dẫn hai vị vào cốc. Tại hạ tính khí vội vàng, nghe nói có hai vị nhân huynh đến, trong lòng rất vui, nên đi đón hơi sớm. Lúc nãy cũng có hai người đi qua đây, tại hạ cứ ngỡ là hai bạn đồng học, đến hỏi hoá ra lại là người lên núi đốn củi. Tại hạ đang lúc bực bội thì gặp được hai vị. Tại hạ e sợ lại nhận nhầm người nên mới hỏi han hơi nhiều, không dè Bàng huynh đây lại nghi ngờ.”
Bàng Quyên vội vòng tay vái: “Bàng Quyên ngu muội, đã đắc tội nhiều, mong Trương huynh bỏ qua!”
Trương Nghi cười vang mà nói: “Bàng huynh bất tất phải khách khí, sau khi vào cốc, chúng ta sẽ trở thành huynh đệ một nhà!” Sau đó chìa tay mời. “Hai vị nhân huynh, xin mời, tiên sinh đang ở trong sơn cốc đợi hai vị!”
Bàng Quyên, Tôn Tân cùng đi theo Trương Nghi tiến về Quỷ Cốc. Vừa đi tới cửa sơn cốc thì thấy Tô Tần vai khoác tay nải hối hả đi tới. Trương Nghi bèn chạy lên trước đón Tô Tần, từ xa đã cất tiếng gọi: “Tô huynh!”
Tô Tần đang cắm cúi bước đi, chợt nghe thấy tiếng gọi liền ngẩng đầu lên, thấy Trương Nghi dẫn theo hai người đến, rất đỗi ngạc nhiên, vui mừng kinh ngạc lẫn lộn, liền cất tiếng ngâm: “Hiền đệ, đệ trở về rồi ư?”
Trương Nghi hớn hở: “Trở về rồi! Trở về rồi!” Sau đó quay sang Tôn Tân, Bàng Quyên, chỉ vào Tô Tần đang đi đến. “Đây là Tô Tần, sư huynh của tại hạ, cũng phụng mệnh tiên sinh đến đón hai vị!”
Bàng Quyên nhìn vào tay nải trên vai Tô Tần, đôi mày chau lại, nghi ngờ hỏi: “Đến đón chúng tôi, tại sao phải mang theo hành lý?”
Trương Nghi ngây ra một thoáng, rồi lập tức cười đáp: “Hai vị có điều không biết, vị Tô huynh này của tại hạ cũng là một người kỳ lạ, hễ mở miệng nói chuyện là không ngâm lại hát, hễ đi ra ngoài là phải mang theo tay nải!”
Nhớ lại lúc nãy Tô Tần có ngâm nga, Bàng Quyên bèn bật cười vang: “Chà chà, xem ra trên thế gian này đúng là kiểu người nào cũng có!”
Lời vừa dứt, Tô Tần đã bước đến nơi. Tôn Tân, Bàng Quyên cùng khom lưng vái chào: “Tại hạ xin chào Tô sư huynh!”
Bỗng chốc trở thành Tô sư huynh, Tô Tần ngây người, vội đáp lễ rồi ngâm: “Tô Tần xin chào hai vị nhân huynh!” Rồi quay sang Trương Nghi. “Hiền đệ, hai vị này là…”
Trương Nghi cười lớn mà nói: “Thực đúng như tiên sinh đã đoán, hai vị nhân huynh này quả nhiên đã lạc đường ở chỗ đó!”
Tô Tần càng nghe càng chẳng hiểu gì, chưa kịp hỏi thì Trương Nghi đã chỉ tay vào Tôn Tân, Bàng Quyên, cười nói: “Tô huynh, đệ xin giới thiệu, vị này là Tôn Tân người nước Vệ, đến từ Đế Khâu; vị này là Bàng Quyên người nước Nguy, đến từ An Ấp. Giống như hai chúng ta, hai người này cũng là huynh đệ kết nghĩa, nghe theo lời mách bảo của cự tử Mặc gia, đến đây cầu bái tiên sinh làm sư phụ, không ngờ lại bị lạc đường ở trước sơn cốc, cứ thế đi lòng vòng quanh một ngọn núi nhỏ. Ha ha ha, nếu không phải đệ kịp thời đến nơi, e rằng đến bây giờ họ vẫn đi vòng vèo quanh đó!”
Tô Tần lại càng chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, song thấy Trương Nghi nháy mắt ra hiệu, nên đành phải vòng tay vái mà nói: “Hai vị nhân huynh, mời!”

Quỷ Cốc Tử đang ngồi trong động nhắm mắt dưỡng thần, thì Ngọc Thiền đi vào, khẽ bẩm báo: “Tiên sinh, lại có hai người nữa đến bái kiến!”
Quỷ Cốc Tử chau mày: “Người đến là ai?”
“Một người tên Tôn Tân, người thành Đế Khâu nước Vệ; một người tên Bàng Quyên, người An Ấp nước Ngụy.”
“Tô Tần, Trương Nghi đã xuống núi chưa?”
“Trương Nghi lúc gà gáy đã xuống núi, Tô Tần ngủ quên, nửa canh giờ sau mới tỉnh, thấy Trương Nghi đã đi nên vội vàng đuổi theo. Nhưng lúc nãy, hai người đó lại quay lại. Tôn Tân và Bàng Quyên được hai người họ dẫn vào đây!”
Quỷ Cốc Tử thở dài: “Ồ, nếu đã đến rồi, vậy hãy cho họ vào đi!”
Quỷ Cốc Tử đi cùng Ngọc Thiền ra khỏi sơn động, rồi ngồi xuống trong gian thảo đường.
Ngọc Thiền mở cửa, vái chào Tôn Tân, Bàng Quyên đang đợi phía ngoài: “Hai vị sĩ tử, tiên sinh mời vào!”
Tôn Tân, Bàng Quyên vội bước vào, dập đầu sát đất: “Vãn sinh khấu kiến Quỷ Cốc tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử đưa mắt nhìn hai người một lượt, chậm rãi hỏi: “Nghe nói các ngươi muốn đến bái sư?”
Vì đã được Trương Nghi giới thiệu, nên Bàng Quyên cũng mạnh dạn hơn nhiều, bèn nói rành rọt: “Vãn sinh Bàng Quyên ngưỡng mộ danh tiếng tiên sinh đã lâu, nên cùng nghĩa huynh Tôn Tân vào Quỷ Cốc, xin bái tiên sinh làm sư phụ, khẩn cầu tiên sinh thu nhận!”
Quỷ Cốc Tử đưa mắt quan sát Bàng Quyên một lượt: “Lão hủ trước nay không qua lại với bên ngoài núi, không biết cái danh tiếng mà ngươi vừa nói từ đâu mà đến?”
Bàng Quyên giật mình, không biết đối đáp thế nào, bèn đưa mắt nhìn sang Tôn Tân. Tôn Tân liền bái lạy mà nói: “Hồi bẩm tiên sinh, vãn bối Tôn Tân may mắn gặp được cự tử Mặc gia, chính cự tử đã chỉ điểm vãn bối tới đây bái sư!”
Nghe nhắc đến Tuỳ Sào Tử, Quỷ Cốc Tử đã hiểu ra mọi chuyện, bèn đưa mắt nhìn thẳng vào Tôn Tân, quan sát một hồi, rồi khẽ gật đầu: “Lão hủ cũng đã từng gặp vị cự tử này. Tôn sĩ tử, ngươi thử nói xem, tại sao cự tử lại bảo ngươi đến gặp ta?”
“Hồi bẩm tiên sinh, lần trước nước Vệ bị ôn dịch hoành hành, vãn bối đã may mắn được gặp cự tử. Vãn bối ngưỡng mộ cái đạo kiêm ái của cự tử, vốn muốn bái cự tử làm sư phụ, nhưng cự tử lại nhất quyết từ chối. Vãn bối cầu xin nhiêu lần không được, cuối cùng cự tử mới bảo vãn bối tới gặp tiên sinh. Cự tử nói rằng, tiên sinh là người đắc đạo, học vấn trong thiên hạ không gì không biết, nếu vãn bối bái tiên sinh làm thầy, có lẽ sẽ được thành tựu. Vãn bối không dám không nghe lời cự tử, nên đến đây cầu bái tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử lại nhìn Tôn Tân, thấy Tôn Tân diện mạo hiền hậu, phong thái thuần chân, đúng là một nhân tài tu đạo trời sinh, bèn nói: “Nhìn tướng mạo của ngươi, chính là người của Mặc đạo, cự tử lại từ chối không nhận ngươi làm đệ tử, hẳn là có nguyên do?”
“Hồi bẩm tiên sinh, vãn bối tư chất ngu muội, không có sở trường gì. Tất cả đệ tử Mặc gia đều có sở trường riêng, vãn bối thẹn mình không bằng, nên không dám miễn cưỡng cầu xin!”
“Ồ, ngươi có thể bẩm báo thực thà như vậy, thật đáng quý! Ngươi đã không có sở trường gì, vậy đến sơn cốc này là muốn học nghệ gì đây?”
“Hồi bẩm tiên sinh, mặc dù vãn bối không có sở trường, nhưng có sở thích!”
“Ồ, là sở thích gì?”
“Binh pháp chiến trận!”
“Ồ, đây quả nhiên là một sở thích. Nước Vệ có Tôn Cơ, ngươi có biết người này chăng?”
“Chính là tiên tổ phụ của vãn bối!”
Nghe thấy chữ “tiên”, Quỷ Cốc Tử giật mình, sững lại một lát rồi mới hỏi: “Ông ấy qua đời lúc nào?”
“Bẩm tiên sinh, ba tháng trước!”
Quỷ Cốc Tử “ồ” lên một tiếng, khép mắt lại một lúc, sau đó quay sang Bàng Quyên: “Còn vị khách quan này từ đâu đến? Cũng là để học binh pháp chiến trận ư?”
Bàng Quyên vội dập đầu nói: “Đúng vậy! Vãn bối đến đây, chính là muốn cùng Tôn huynh học binh pháp chiến trận!”
Quỷ Cốc Tử gật gù, rồi chậm rãi đứng dậy: “Hai vị sĩ tử, xem ra hai vị đi chuyến này đã uổng công rồi. Lão hủ lâu ngày sống trong núi thẳm, chỉ biết tu đạo luyện tiên, không biết binh pháp chiến trận. Hai người hãy mau xuống núi, tìm thầy khác đi!” Lời vừa dứt, chân đã bước vào trong động.
Bàng Quyên vô cùng kinh ngạc, đưa mắt liếc trộm, thấy Quỷ Cốc Tử không giống như đùa, thì vội nói: “Tiên sinh, tiên sinh chẳng phải đã phái người…”
Quỷ Cốc Tử đã đi đến cửa động, bèn ngoái đầu lại nói với Ngọc Thiền: “Thiền Nhi, tiễn khách!”
Ngọc Thiền liền vòng tay tiễn Tôn Tân, Bàng Quyên ra khỏi thảo đường, sau đó quay vào, đóng luôn cửa lại.
Hai người hoàn toàn không ngờ lại gặp phải kết cục thế này, cứ đứng sững sờ ngoài cửa một hồi lâu, rồi Bàng Quyên kéo phắt tay Tôn Tân, hùng hổ đi thẳng đến căn nhà cỏ của Tô Tần, Trương Nghi.
Tô Tần, Trương Nghi đang đứng chờ trên bãi cỏ trước cửa, thấy hai người đến, liền chạy ra đón. Bàng Quyên mặt mũi hằm hằm, đi thẳng tới trước mặt Trương Nghi, giận dữ: “Họ Trương kia, chẳng phải ngươi nói tiên sinh đã đoán được chúng ta sẽ đến, nên đã phái ngươi ra đón ư?”
Trương Nghi đã hiểu ra sự tình, bèn cười lớn mà nói: “Đúng là tại hạ đã nói như vậy!”
Bàng Quyên hừ mũi một tiếng: “Họ Trương kia, vậy ta hỏi ngươi, nếu đã như vậy, tại sao tiên sinh lại không thu nhận chúng ta làm đệ tử?”
Trương Nghi cũng bật cười lạnh lẽo: “Họ Bàng kia, tại hạ chỉ nói tiên sinh đoán được hai người sẽ đến, đâu có nói tiên sinh sẽ thu nhận hai người?”
Bàng Quyên sững người, há miệng đến vài lần mà không thốt được một lời, rồi ngồi phịch xuống, quay mặt đi, thở phì phì.
Trên bãi cỏ bỗng chốc yên ắng lạ thường, chỉ nghe thấy tiếng thở gấp của Bàng Quyên.
Tôn Tân đưa mắt nhìn Bàng Quyên, rồi chậm rãi đi tới trước mặt Tô Tần, Trương Nghi, vòng tay vái mà nói: “Tôn Tân khẩn cầu Tô huynh, Trương huynh, mong hai vị lựa lời nói với tiên sinh, mong tiên sinh thu nhận chúng tôi!”
Tô Tần khẽ thở dài, ngâm: “Tôn huynh có điều không biết, tại hạ và Trương hiền đệ cũng đến đây để cầu bái tiên sinh, nhưng tiên sinh…”
Bàng Quyên đứng bật dậy, hai mắt trợn trừng: “Ý huynh là, tiên sinh cũng chưa chịu thu nhận hai vị làm đệ tử?”
Tô Tần gật đầu.
Bàng Quyên ngây ra một lát, rồi đột nhiên vỡ lẽ, quay sang Trương Nghi cười lớn: “Ha ha…, mẹ cha nó, đúng là ông trời có mắt! Ha ha…”
Trương Nghi cười nhạt một tiếng, gườm gườm nhìn Bàng Quyên, vặc lại: “Có giỏi thì khiến tiên sinh thu nhận đi!”
Bàng Quyên cũng cười nhạt: “Huynh cho rằng tại hạ không thể?”
Trương Nghi hất hàm về phía thảo đường, mỉm cười nói: “Đi đi, Bàng huynh!”
Bàng Quyên lập tức quay phắt đi, sải bước tiến thẳng về phía gian thảo đường.
Tôn Tân cuống lên, vội gọi với theo: “Hiền đệ, đệ muốn làm gì?”
Bàng Quyên không quay đầu lại: “Không làm gì cả, đệ chỉ muốn mời tiên sinh ra, khẩn cầu tiên sinh thu nhận hai chúng ta làm đệ tử!”
Bàng Quyên cứ thế bước sầm sầm về phía trước, được hơn mười bước thì đi chậm dần, sau đó dừng bước, từ từ vòng lại.
Trương Nghi phì cười châm chọc: “Ồ, Bàng huynh, trống tấn công còn chưa nổi, sao đã vội đánh chiêng thu binh rồi?”
Bàng Quyên vặc lại: “Tại hạ sắp xung phong xuất trận, nhưng có người lại muốn ngồi không hưởng lợi, tại hạ không ngốc đến mức đó!”
“Hay lắm! Hay lắm!” Trương Nghi cố tình vỗ tay vài cái. “Bàng huynh biết tiến biết lui, biết tự lượng sức, tại hạ bội phục!”
Thấy hai người cứ mải đấu võ mồm, Tôn Tân khuyên: “Bàng đệ, Trương huynh, theo ý của tại hạ, chúng ta hãy nên ngồi xuống, cùng nhau bàn bạc, tìm ra kế sách vẹn toàn là hơn!”
Hai người không nói thêm gì nữa, rồi cùng ngồi xuống bãi cỏ, ngẫm nghĩ tính toán.
Ngồi một lúc, Trương Nghi chớp mắt thật mạnh, kêu lên: “Có rồi!”
Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía Trương Nghi.
Trương Nghi nói lớn: “Ngày nào tiên sinh không nhận, thì ngày đó chúng ta không chịu đi, thi gan với tiên sinh!”
Bàng Quyên vỗ tay nói: “Hay đấy! Quỷ Cốc này không phải của một mình tiên sinh, tiên sinh ở được, tại sao chúng ta không ở được?”
Tô Tần vội nói: “Không… không được!”
Trương Nghi nhìn Tô Tần: “Có gì mà không được?”
Tô Tần ngâm: “Chúng ta đến bái sư, không thể đến ép sư!”
Tôn Tân gật đầu lia lịa: “Lời Tô huynh rất chí lý, mọi chuyện trong thiên hạ đều không thể miễn cưỡng, chúng ta hãy nghĩ cách khác xem sao!”
Lại một hồi im lặng kéo dài hơn nữa.
Tôn Tân đột nhiên sực nhớ ra một điều, vội đưa tay vào trong tay áo, trước ánh mắt kinh ngạc của mọi người, chậm rãi lấy ra một túi gấm.
Bàng Quyên tò mò hỏi: “Tôn huynh, đây là vật gì?”
Tôn Tân cầm túi gấm trong tay, nói: “Lúc huynh chuẩn bị lên đường, cự tử đã giao túi gấm này cho huynh, dặn rằng sau khi vào Quỷ Cốc, nếu xảy ra chuyện không như ý, có thể mở ra xem. Nay sự việc quả thật đã ứng với lời cự tử, chúng ta hãy thử mở ra xem sao!”
Ba người đều quây cả lại.
Tôn Tân chậm rãi mở túi gấm ra.

Trong thảo đường, Ngọc Thiền đang ngồi tĩnh toạ, thì tiểu đồng hấp tấp đi vào, gọi khẽ: “Chị Thiền Nhi! Chị Thiền Nhi!”
Ngọc Thiền thu công, ngẩng mặt lên nhìn: “Có chuyện gì thế?”
Tiểu đồng chỉ tay ra ngoài cửa sổ: “Chị Thiền Nhi, hãy nhìn xem!”
Ngọc Thiền đứng dậy, đi tới bên cửa sổ, nhìn qua tấm rèm thì thấy Tô Tần, Trương Nghi, Tôn Tân, Bàng Quyên đang quỳ thành một hàng trên bãi cỏ, phơi đầu trần dưới ánh nắng mùa thu.
Ngọc Thiền mỉm cười lạnh nhạt: “Họ muốn quỳ, vậy thì cứ để họ quỳ!”
Tiểu đồng bèn gật đầu.
Đêm đã về khuya, trên bãi cỏ, bốn người Tô, Trương, Tôn, Bàng vẫn quỳ bất động. Tiểu đồng đứng bên cửa, liếc nhìn họ một cái, rồi đóng luôn cánh cửa lại. Một lát sau, ánh đèn trong thảo đường tắt phụt, xung quanh một màn tối mịt như bưng…
Trời đã sáng bạch, tiểu đồng trở dậy, vặn mình mấy cái rồi chậm rãi đi đến trước cửa. Rút then mở cửa, mắt vừa nhìn ra, đã vội nhắm tịt lại, đưa tay dụi liền vài cái.
Trên bãi cỏ, bốn người vẫn quỳ nguyên tại chỗ, đầu tóc, mặt mũi, quần áo đều ướt đẫm sương đêm.
Đến trưa, ánh nắng mặt trời còn gay gắt hơn hôm trước. Tiểu đồng suy nghĩ một lát, rồi bưng ra một nồi cháo và bốn cái bát, đặt trước mặt bốn người: “Các vị sĩ tử, cháo đến rồi, hãy ăn tạm một chút cho ấm bụng, mới có sức để quỳ tiếp chứ!”
Chẳng ai đáp lời tiểu đồng. Bốn người vẫn quỳ tại chỗ, hai mắt nhắm nghiền. Tiểu đồng gãi đầu gãi tai, rồi bưng cháo vào, sau đó mang ra một chậu nước, trong chậu đặt sẵn một cái bát: “Các vị sĩ tử, không ăn cháo cũng được, nhưng hãy uống lấy chút nước!”
Vẫn không ai động lòng.
Tiểu đồng ngẩn ra một lát, rồi múc một bát nước chìa tới trước mặt Tô Tần: “Tô sĩ tử, cơm có thể không ăn, nhưng nước thì phải uống. Nào, uống một chút nước cho mềm lưỡi!”
Tô Tần vẫn nhắm nghiền hai mắt, không ngó ngàng gì tới tiểu đồng.
Tiểu đồng lại đưa nước tới trước mặt Trương Nghi: “Trương sĩ tử, có muốn uống không, uống một hớp nhé!”
Trương Nghi cũng không buồn ngó ngàng. Tiểu đồng lại chuyển qua Tôn Tân, Bàng Quyên, song chẳng ai chịu mở mắt ra. Tiểu đồng không biết làm thế nào, liền đặt chậu nước vào giữa bốn người, sau đó quay người bước đi…
Lại một buổi sáng sớm. Tiểu đồng mở cửa, thấy bốn người vẫn quỳ trơ trơ tại đó. Tiểu đồng trợn mắt, chạy ào lại gần, nhìn vào chậu nước, thấy không vơi lấy một giọt.
Tiểu đồng hai mắt trợn tròn, không thể tin vào sự thể trước mắt, kêu toáng lên: “Này, các người muốn học tiên sinh tu tịch cốc(4) ư?”
Bốn người vẫn quỳ bất động…
Đến buổi sáng thứ tư, bốn người vẫn không nhúc nhích, có điều lúc này mặt đã vàng như sáp, cắn răng cố trụ.
Thời tiết trong núi nói thay đổi là thay đổi được ngay. Đến trưa, trong sơn cốc bỗng gió lớn tung trời, mây đen cuồn cuộn, chốc lát sau đã sấm chớp nhì nhằng, mưa rào sầm sập, bốn người đều ướt như chuột lột.
Tiểu đồng nhìn Ngọc Thiền, nói: “Chị Thiền Nhi, trời mưa rồi!”
Ngọc Thiền điềm nhiên nhìn ra ngoài cửa sổ, không nói một lời. Tiểu đồng lo cuống lên, thấy trên tường có manh áo tơi, vội chạy đến lấy xuống, đẩy cửa rồi lao thẳng vào màn mưa. Ngọc Thiền khẽ thở dài, quay người đi vào trong động.
Trong động, Quỷ Cốc Tử ngồi ngay ngắn trên nền đất, đang nhập định. Ngọc Thiền khẽ khàng vén tấm rèm vải, rón rén bước vào, từ từ quỳ xuống bên cạnh Quỷ Cốc Tử.
Quỳ được một lát, khoé miệng Quỷ Cốc Tử khẽ lay động: “Là Thiền Nhi chăng?”
Ngọc Thiền khẽ bẩm: “Là Thiền Nhi!”
“Có chuyện gì ư?”
“Vâng, tiên sinh. Bốn người đó vẫn quỳ ngoài kia!”
Quỷ Cốc Tử dường như không nghe thấy.
Sau một hồi yên lặng, Ngọc Thiền lại nói: “Họ đã quỳ ở đó suốt ba ngày rồi!”
Quỷ Cốc Tử vẫn ngồi bất động.
Lại im lặng một lúc, Ngọc Thiền nói tiếp: “Họ không ăn gì cả!”
Quỷ Cốc Tử vẫn ngồi yên.
Lại im lặng thêm một lúc nữa, Ngọc Thiền tiếp tục: “Họ không uống lấy một giọt nước!”
Vành tai Quỷ Cốc Tử khẽ lay động, song vẫn không lên tiếng.
Sau một hồi trầm lặng nữa, hai dòng nước mắt từ từ lăn xuống má Ngọc Thiền, giọng nàng càng khẽ: “Trời mưa lớn rồi, tiên sinh!”
“Than ôi!” Quỷ Cốc Tử cuối cùng cũng thở dài một tiếng. “Cái lão Tuỳ Sào Tử này!”
“Tuỳ Sào Tử?” Ngọc Thiền ngẩn người, đưa tay áo lau nước mắt. “Ý tiên sinh là họ đang làm theo lời mách nước của Tuỳ Sào Tử?”
“Phải!” Quỷ Cốc Tử gật đầu. “Cũng chỉ có ông ta mới nghĩ ra được khổ chiêu này! Mau ra gặp họ, nói rằng ta bảo họ đứng lên!”
Ngọc Thiền vâng lời, đứng dậy đi ra khỏi động.
Bên ngoài gian thảo đường, trận mưa núi mỗi lúc một thêm ồ ạt, bốn người vừa đói vừa rét, toàn thân run lẩy bẩy, ai nấy đều đưa tay ôm đầu, co ro quỳ trong mưa, bộ dạng rất đỗi thảm thương.
Tiểu đồng toàn thân ướt sũng, hết lôi người nọ lại kéo người kia, nhưng bốn người vẫn lì ra không chịu đứng dậy. Tiểu đồng cuống quá, giậm chân bật khóc: “Các vị sĩ tử, tiểu đồng xin các vị đấy!”
Ngọc Thiền điềm nhiên đứng trước cửa, đưa mắt nhìn một chốc, rồi lạnh lùng nói: “Bốn vị sĩ tử, hãy nghe đây, tiên sinh bảo bốn vị đứng lên!”
Bốn người đều nghe thấy rành rọt bên tai, chút sức tàn còn gắng gượng cầm cự bỗng chốc tiêu tan, lập tức đổ vật xuống đất như bốn đống bùn nhão.


Hồi Thứ 14

Ra đề khó, tiểu đồng thử lòng tứ tử
Thương thời loạn, Quỷ Cốc phá lệ nhận trò


Tiểu đồng, Ngọc Thiền hết lôi lại kéo, vận hết sức bình sinh mới đưa được bốn người vào trong gian nhà cỏ của Tô Tần và Trương Nghi, đặt họ nằm xuống. Ngọc Thiền nấu canh gừng và cháo bột, tiểu đồng bón cho họ uống.
Trận mưa thu nhỏ dần, rồi rỉ rả kéo dài suốt ba ngày trời mới ngớt và tạnh hẳn. Mấy người uống canh gừng và ăn cháo bột xong, tiểu đồng lại tìm ít thảo dược về sắc cho họ uống. Bốn người cứ mê man nửa tỉnh nửa mơ liền mấy ngày, đến khi mưa tạnh cũng là lúc họ tỉnh táo trở lại.
Đến ngày thứ năm, bốn người ra ngoài được. Ăn cơm xong, Bàng Quyên mượn dụng cụ của tiểu đồng, học theo Tô Tần và Trương Nghi, kéo Tôn Tân lên núi chặt cây cắt cỏ. Tô Tần, Trương Nghi cũng đến giúp một tay, bốn người hợp sức, chỉ vài ngày sau, trong núi đã mọc lên thêm hai gian nhà cỏ nữa.
Buổi trưa hôm đó, căn nhà cỏ mới đã được dựng xong. Bàng Quyên kéo theo ba người, đi đến bãi đất trống cách đó mười mấy bước để ngắm nghía thành quả vừa hoàn thành, miệng cười hớn hở.
Bốn người đứng nhìn ngắm một lúc, Bàng Quyên quay sang Tôn Tân, tươi cười mà nói: “Ha ha, đúng là nhà mới dựng có khác, muốn ra dáng có ra dáng, muốn khí thế có khí thế!”
Tôn Tân còn chưa lên tiếng, Trương Nghi đã đưa mắt liếc xéo căn nhà mới, cười khùng khục mấy tiếng rồi nói: “Hai gian nhà mới quả nhiên rất ra dáng. Nếu vách tường chái phía đông không nghiêng một chút xíu, nóc nhà phía tây không cao hơn một chút xíu, thì hẳn cũng gần bằng hai gian nhà cũ!”
Bàng Quyên cười vang mà nói: “Trương huynh này, nghiêng hay thẳng, cao hay thấp, không phải huynh nói là xong!” Rồi quay sang Tô Tần. “Tô huynh, huynh là người trong nghề, thử nói mấy câu xem!”
Hai gian nhà mới cũng được dựng theo sự hướng dẫn của Tô Tần, bảo Tô Tần phải so sánh thế nào? Tô Tần chỉ cười trừ hai tiếng, rồi cúi đầu xuống. Bàng Quyên thấy tiểu đồng đang từ xa tiến lại, liền cất tiếng gọi: “Tiểu sư đệ, đi nhanh lên nào!”
Tiểu đồng vẫn lững thững bước đi như cũ. Bàng Quyên gắng kiên nhẫn chờ tiểu đồng đến nơi, rồi chỉ tay vào hai gian nhà cỏ: “Tiểu sư đệ, mắt đệ tinh tường, hãy thử nhìn xem hai căn nhà này, căn nào đẹp hơn?”
Tiểu đồng liếc mắt nhìn qua, rồi chậm rãi lắc đầu: “Nếu nói về đẹp, thì chẳng khác nhau là mấy, nhưng theo tiểu đồng thấy, cả hai căn đều nên dỡ bỏ!”
Cả bốn người đều ngây ra, Bàng Quyên vội hỏi: “Này tiểu sư đệ, tại sao lại bảo chúng tôi dỡ đi?”
Tiểu đồng cười khanh khách mà nói: “Đẹp mã nhưng không dùng được!”
Bốn người đưa mắt nhìn nhau.
Trương Nghi không phục, liền hỏi: “Tại sao lại nói đẹp mã mà không dùng được?”
Tiểu đồng đưa tay chỉ vào hai căn nhà: “Mọi người nhìn xem, triều hướng không đúng, phương vị không chuẩn, cửa không hợp lý, mái nhà quá thoải, cả bốn gian nhà, chẳng có lấy một gian hợp cách, dùng thế nào được?”
Trương Nghi, Bàng Quyên, Tôn Tân đều quay sang nhìn Tô Tần. Tô Tần cuống lên, tật nói lắp lại tái phát: “Tất… tất cả những nhà… nhà trong thôn… đều… đều… đều xây như vậy!”
Tiểu đồng cười nói: “Tô sĩ tử, đó là ở trong thôn của sĩ tử, chứ không phải ở trong sơn cốc này!”
Bàng Quyên đưa mắt nhìn căn nhà, rồi lại nhìn sang tiểu đồng: “Tiểu sư đệ, theo như đệ nói, cả hai căn nhà này đều không có điểm nào hợp cách ư?”
“Có hợp cách hay không, qua mùa đông mùa hạ sẽ biết ngay thôi!”
Tô Tần ngẫm nghĩ một lát, rồi ngâm: “Xin sư đệ hãy giải thích tường tận!”
Bàng Quyên tiếp lời: “Đúng, tiểu sư đệ hãy nói cho rõ ràng. Trước tiên hãy nói về triều hướng, có điểm nào không chính xác?”
Tiểu đồng chỉ vào dốc núi trước cửa: “Chỗ này phía tây rộng rãi bằng phẳng, nhà cỏ nên toạ đông hướng tây, mà nhà của các vị lại toạ bắc hướng nam, ra cửa là gặp núi chắn. Người ta nói, trước cửa là núi, tâm chí không rộng.”
Tô Tần giải thích: “Cửa nhà mở hướng nam, đây là quy tắc trong xây cất nhà ở!”
Tiểu đồng bật cười: “Đó là quy tắc ngoài núi, không thể dùng khi xây nhà trong núi!”
Bàng Quyên vỗ đầu: “Đúng đúng đúng, tiểu sư đệ nói rất đúng, còn gì nữa?”
Tiểu đồng chỉ tay xuống nền móng: “Nơi này thoạt nhìn thì bằng phẳng, nhưng lại đối diện với khe núi. Khi trời mưa, nước mưa sẽ theo khe mà chảy xuống, vừa hay xối thẳng đến nơi này, bị ngôi nhà của các vị chặn lại, nước không chảy đi được, sẽ gây ngập úng.”
Bàng Quyên tấm tắc khen ngợi: “Đúng đúng đúng, mấy ngày trước có mưa, vũng nước ngập trước cửa đến hôm qua mới cạn!”
“Đó mới chỉ là mưa nhỏ. Còn nếu là mưa lớn, hi hi…”
Bốn người đưa mắt nhìn nhau.
Tiểu đồng thấy họ đều nghệt cả ra, liền chỉ tay vào cửa nhà: “Lại nói đến phần cửa. Cửa chính cao, cửa sổ rộng, mùa hè thì mát mẻ đấy, nhưng mùa đông thì lãnh đủ!” Lại chỉ tay vào mái nhà. “Mưa ở trong núi đều là mưa rào hoặc mưa dầm, mái nhà thoải thế này, nước mưa không chảy nhanh, chắc chắn sẽ thấm xuống. Tiểu đồng dám chắc, đợi đến mùa mưa, ngoài trời mưa to thì trong nhà sẽ mưa nhỏ, các vị có thể hứng nước uống ngay trong nhà!”
Bốn người đều ngây ra như phỗng, ai nấy đều mắt tròn mắt dẹt nhìn đứa trẻ mới chừng mười tuổi.
Bàng Quyên chặc lưỡi: “Ghê chưa, một đứa trẻ nít, sao có thể hiểu rộng biết nhiều đến vậy?” Rồi quay sang nhìn Trương Nghi, nhưng lời lại là nói với Tôn Tân. “Tôn huynh, căn nhà của chúng ta, tường chái không thẳng, nóc không cân, hay là dỡ đi dựng lại?”
Trương Nghi lừ mắt nhìn lại: “Muốn dỡ thì dỡ, lắm lời làm gì?”
Tiểu đồng lại nói: “Theo ý của tiểu đồng, các vị không cần phải dỡ đâu!”
Trương Nghi ngạc nhiên hỏi: “Tại sao vậy?”
Tiểu đồng lại cười khanh khách: “Dù sao thì các vị cũng không ở đây được mấy ngày, cứ dỡ đi dựng lại, há chẳng phải tự làm khổ mình hay sao?”
Bốn người đều ngạc nhiên đứng sững.
Bàng Quyên định thần lại, nhìn thẳng vào tiểu đồng: “Tiểu sư đệ, sao lại nói vậy?”
“Còn nữa!” Tiểu đồng nhìn khắp lượt bốn người. “Các vị sĩ tử xin đừng động tí là gọi sư đệ nữa. Sư huynh sư đệ không phải có thể tuỳ tiện xưng hô đâu!”
Bốn người lại càng sững sờ.
“Tiểu sư đệ!” Bàng Quyên vội nói. “Xin hãy giải thích rõ hơn! Tiên sinh đã đồng ý thu nhận bọn ta, như vậy chẳng phải bọn ta là sư huynh, thân là sư huynh, lẽ nào không thể gọi đệ một tiếng sư đệ?”
Tiểu đồng quay sang Bàng Quyên, cười khanh khách mấy tiếng rồi hỏi lại: “Tiên sinh đã nói như vậy ư?”
Thấy bốn người đều không lên tiếng, tiểu đồng lại nói tiếp: “Ồ, phải rồi, bốn vị sĩ tử, suýt nữa thì quên mất, tiên sinh có lời mời!” Nói đoạn, liền quay người đi về phía thảo đường.
Nhìn theo tiểu đồng, Bàng Quyên ngẩn ra một hồi, sau đó quay sang nhìn Trương Nghi, hỏi nhỏ: “Trương huynh, huynh có hiểu ý của tiểu đồng không?”
Trương Nghi ngẫm nghĩ một lát, rồi bật cười vang mà nói: “Trẻ con nói chuyện, thường thích doạ dẫm lên mặt, hẳn đã khiến Bàng huynh phải lo sợ?” Rồi quay sang Tô Tần, Tôn Tân. “Hai vị nhân huynh, còn không đi mau, lẽ nào định để tiên sinh đích thân ra mời vào?”
Tô Tần gật đầu ngâm: “Hiền đệ nói rất đúng, không nên để tiên sinh đợi lâu!”
Mấy ngày nay, vì bận bịu dựng nhà, mọi người đều mặc áo vải thô đơn giản. Tôn Tân vốn trọng lễ nghi, liền nói: “Nếu đến chỗ tiên sinh, chúng ta phải thay quần áo đàng hoàng mới được!”
Cả mấy người đều gật đầu tán thành, vội vàng quay vào phòng, tìm áo mũ thay ra, rồi đi đến gian thảo đường. Đi được mấy bước, Bàng Quyên bỗng đi chậm lại, nói nhỏ: “Các vị nhân huynh, tại hạ có lời muốn nói!”
Ba người cùng dừng bước, nhất tề nhìn Bàng Quyên.
Bàng Quyên hạ thấp giọng: “Chuyện ngày hôm nay, quả thực tại hạ không thể yên tâm. Tại hạ có một ý này, đề phòng vạn nhất. Lát nữa khi tới gặp tiên sinh, mấy người chúng ta hãy lập tức quỳ xuống dập đầu bái lạy. Tiên sinh chắc chắn sẽ bất ngờ, chúng ta nhân lúc tiên sinh chưa kịp phản ứng, nhất tề gọi sư phụ, rồi bất kể tiên sinh có đồng ý hay không, lập tức hành lễ bái sư, thực hiện kế sách tiền trảm hậu tấu!”
“Được thì có được,” Trương Nghi nói. “Nhưng như vậy cũng quá phức tạp. Theo ý của tại hạ, khi chúng ta tiến vào cửa, hãy lập tức hô lên, sư phụ ở trên, xin nhận của đệ tử một lạy, sau đó hành lễ bái sư luôn, đơn giản chóng vánh!”
Bàng Quyên có vẻ bực bội: “Được được được, hãy cứ làm theo ý Trương huynh!”
Tô Tần suy nghĩ một lát, rồi ngâm: “Tại hạ chưa từng bái sư bao giờ, không biết phải bái thế nào đây?”
“Cái này dễ thôi!” Trương Nghi đáp. “Tiểu lễ là một lạy ba dập đầu, trung lễ là hai lạy sáu dập đầu, đại lễ là ba lạy chín dập đầu!”
“Được!” Bàng Quyên lập tức quyết định. “Chúng ta hãy hành lễ ba lạy chín dập đầu, cứ đem gạo nấu thành cơm đã, khiến tiên sinh nhận cũng phải nhận, không nhận cũng phải nhận!”
Ba người cùng gật đầu, cất bước tiến về phía thảo đường.
Tiểu đồng đứng hầu ngoài cửa, thấy bốn người đã đến, liền chạy vào báo: “Chị Thiền Nhi, bốn vị sĩ tử đã đến!”
Ngọc Thiền đi ra, vòng tay vái mà nói: “Bốn vị sĩ tử, tiên sinh có lời mời!”
Bốn người đưa mắt nhìn nhau, rồi tự chỉnh đốn lại trang phục. Theo như bàn bạc từ trước, Tô Tần đi trước dẫn đầu, tiếp đó là Trương Nghi, Tôn Tân, Bàng Quyên, đi theo Ngọc Thiền vào trong.
Quỷ Cốc Tử ngồi ở giữa nhà, còn tiểu đồng không biết đã đến đứng ở bên trái Quỷ Cốc Tử từ lúc nào. Ngọc Thiền tiến thẳng tới, đứng bên phải Quỷ Cốc Tử. Bốn người bước vào, xếp thành một hàng ngang từ trái qua phải, rồi nhất tề quỳ sụp xuống, hô lớn: “Tiên sinh ở trên, xin nhận của đệ tử một lạy!”
Bốn người nói xong, lập tức thực hiện đại lễ ba lạy chín dập đầu. Bốn người bốn phách, vái lạy lộn xộn mỗi người một kiểu. Tôn Tân trọng lễ nghĩa, lạy xong một lạy, đều đứng dậy khom lưng, sau đó mới lạy tiếp. Khi ba người kia đều đã lạy xong, Tôn Tân mới bắt đầu lạy thứ ba, sau đó là ba dập đầu.
Lúc đầu Quỷ Cốc Tử cũng bất ngờ, sau đó chỉ mỉm cười, đợi Tôn Tân lạy xong mới chậm rãi hỏi: “Các ngươi đã lạy xong cả chưa?”
Bốn người đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng nhìn sang Tô Tần.
Tô Tần thong thả ngâm: “Hồi bẩm tiên sinh, lạy… lạy xong rồi!”
“Đã lạy xong rồi, các ngươi còn có chuyện gì khác chăng?” Quỷ Cốc Tử lại hỏi.
Tô Tần nhất thời không biết ứng phó ra sao, bèn đưa mắt nhìn ba người kia, lắp bắp: “Không… không còn chuyện gì nữa!”
“Đã không còn chuyện gì nữa, thì các người có thể xuống núi được rồi!”
Bốn người đều chết lặng.
Trương Nghi vội nói: “Tiên sinh, là tiên sinh gọi chúng con đến!”
“Không sai!” Quỷ Cốc Tử gật đầu. “Là lão hủ gọi các ngươi đến. Lão hủ gọi các ngươi đến, để nói với các ngươi một câu: có thể xuống núi được rồi!”
Bàng Quyên ngẩng đầu cất giọng dõng dạc: “Tiên sinh, vào hôm trời mưa, chúng tôi đã nghe thấy Ngọc Thiền cô nương nói rõ ràng, tiên sinh bảo chúng tôi đứng dậy. Như vậy, chẳng phải tiên sinh đã đồng ý thu nhận chúng tôi làm đệ tử ư, sao giờ lại đuổi chúng tôi xuống núi?”
Quỷ Cốc Tử mỉm cười, quay sang phía Ngọc Thiền: “Thiền Nhi, con đã nói với họ thế nào?”
“Hồi bẩm tiên sinh,” Ngọc Thiền môi son khẽ động, “Thiền Nhi nói rằng: tiên sinh bảo bốn vị đứng lên!”
“Đã nghe thấy chưa?” Quỷ Cốc Tử quay sang bốn người. “Ta chỉ bảo các ngươi đứng lên, chứ có nói sẽ thu nhận các ngươi làm đệ tử đâu? Bốn người các ngươi cứ ngày đêm quỳ trước cửa nhà lão hủ, chặn mất đường ra lối vào. Lão hủ bảo các ngươi đứng lên, chẳng qua vì muốn ra ngoài, nên bảo các ngươi nhường đường mà thôi!”
Quỷ Cốc Tử quay ngoắt không nhận, khiến cả bốn người đều bàng hoàng chết lặng.
Tô Tần lại dập đầu mà nói: “Tiên sinh, bốn… bốn người chúng… chúng con đã… không còn nơi… nơi nào để đi, cầu… cầu xin tiên sinh thu… thu nhận!”
Tô Tần vừa nói ra lời này, Bàng Quyên vốn đã lâm vào cảnh cùng đường, trong lòng xúc động, liên dập đầu xuống đất, khóc thất thanh mà nói: “Tiên sinh, đệ tử cầu xin tiên sinh, quả thực đệ tử không còn chốn nào để đi nữa, mong tiên sinh thương xót mà thu nhận đệ tử!”
Tôn Tân, Trương Nghi cũng đều dập đầu cả xuống.
Quỷ Cốc Tử đưa mắt nhìn khắp lượt bốn người, nụ cười dần tắt trên khuôn mặt: “Các ngươi nghe cho rõ đây, khóc cũng vô ích, quỳ cũng vô dụng. Nói thực cho các ngươi biết, lão hủ đây không thu nhận kẻ danh lợi, không thu nhận người tranh cường hiếu dũng, các ngươi hãy mau xuống núi cho sớm, đi tìm danh sư khác đi!”
Nghe Quỷ Cốc Tử nói những lời này, Tôn Tân bỗng thấy chấn động trong lòng, bèn ngẩng lên hỏi: “Vãn bối xin hỏi, tiên sinh muốn nhận đệ tử thế nào?”
Quỷ Cốc Tử nhìn Tôn Tân, chậm rãi nói: “Lão hủ chỉ thu nhận người tu đạo luyện tiên!”
Tôn Tân thở phào một tiếng, lại dập đầu mà nói: “Vãn bối bất tài, nguyện theo tiên sinh tu đạo luyện tiên, mong tiên sinh thu nhận!”
Lời Tôn Tân vừa thốt ra, mọi người đều kinh ngạc, cùng đổ dồn ánh mắt nhìn lại.
Quỷ Cốc Tử mỉm cười: “Tôn Tân, chẳng phải ngươi muốn học binh pháp chiến trận ư?”
Tôn Tân đáp rành rọt: “Trọng Ni có câu, ‘sáng nghe đạo chiều chết vẫn vui’, nếu vãn bối có thể theo tiên sinh lĩnh ngộ đại đạo của trời đất, quả thực là điều may mắn kiếp này, còn học binh pháp làm gì nữa?”
Bàng Quyên đảo mắt mấy cái, cũng dập đầu mà nói: “Vãn bối và Tôn Tân tình như thủ túc, tâm ý của Tôn huynh cũng chính là tâm ý của vãn bối!”
Không đợi Quỷ Cốc Tử lên tiếng, Trương Nghi cũng khấu đầu mà nói: “Tiên sinh, vãn bối cũng nguyện tu đạo luyện tiên, mong tiên sinh thu nhận!”
Quỷ Cốc Tử mỉm cười, quay sang phía Tô Tần: “Tô sĩ tử, ba vị công tử này đều đã muốn tu đạo luyện tiên ở đây, tại sao ngươi không nói gì?”
Tô Tần lắp bắp nói: “Tiên sinh, vãn… vãn bối…”
“Hẳn là ngươi không thể bỏ được vinh hoa phú quý, khanh tướng công hầu, đúng không?” Quỷ Cốc Tử vẫn mỉm cười mà hỏi.
Tô Tần sắc mặt lúng túng, chỉ dập đầu xuống đất không nói lời nào.
Quỷ Cốc Tử thu lại nụ cười, quan sát bốn người một lượt rồi thở dài.
Trương Nghi đưa khuỷu tay huých Tô Tần, nói khẽ: “Tô huynh, huynh…”
Tô Tần vẫn gục đầu sát đất.
Trương Nghi cuống quýt, vội nói lớn: “Tiên sinh, vãn bối rất hiểu Tô huynh, kỳ thực Tô huynh sớm đã có tâm tu đạo, có điều… có điều không muốn nói ra mà thôi!”
Quỷ Cốc Tử nhìn Tô Tần, hỏi nhỏ: “Tô sĩ tử, có đúng như vậy không?”
Trương Nghi lại giơ khuỷu huých thẳng cánh vào Tô Tần, Tô Tần không biết làm thế nào, chỉ lắp bắp: “Hồi… hồi bẩm tiên sinh, đúng… đúng vậy!”
Quỷ Cốc Tử lại nhìn khắp bốn người một lượt, rồi nói: “Nói như vậy, tất cả các ngươi đều tình nguyện ở lại trong núi, cùng lão hủ cảm ngộ đại đạo?”
Bốn người nhất tề khấu đầu: “Chúng con nguyện theo tiên sinh, cảm ngộ đại đạo!”
Quỷ Cốc Tử đột nhiên bật cười một tràng dài.
Bốn người đang ngơ ngác không hiểu, thì Quỷ Cốc Tử ngừng cười, chậm rãi nói: “Thật cũng tốt, giả cũng được, các ngươi có lời này, lão hủ cũng cảm thấy an ủi! Có điều, tu đạo cần phải có đạo khí, bốn người các ngươi không phải là đạo khí, chưa nói đến chuyện còn có lòng khác, cho dù có thành tâm tu luyện, cũng chưa chắc đã thành tài. Ta thực lòng khuyên các ngươi, tốt nhất hãy mau mau xuống núi, đừng tốn thời gian vô ích ở đây, làm lỡ mất tiền đồ!”
Đã cầu xin đến nước này rồi mà Quỷ Cốc Tử vẫn kiên quyết không chịu nhận, bốn người thực không còn phương cách nào khác. Tôn Tân đột nhiên nhớ đến lời trong túi gấm, lại dập đầu xuống đất. Bàng Quyên, Trương Nghi thấy vậy, lập tức hiểu ý, cũng dập đầu theo. Tô Tần cũng vội vàng bắt chước, bốn người không ai nói thêm lời nào, lại giống như trong cơn mưa hôm trước, tất cả cùng ôm đầu, phủ phục, trán tì sát đất.
Thấy họ lại giở chiêu này, tiểu đồng lo lắng, nói nhỏ: “Tiên sinh, theo ý tiểu đồng, hay là cứ tạm giữ họ lại, cho họ nếm thử mùi tu đạo. Nếu có thể tu, hãy cho họ ở lại. Nếu không thể tu, lúc đó hãy bảo họ xuống núi, xem họ còn gì để nói nữa không!”
Nghe tiểu đồng nói vậy, bốn người vội vàng khấu đầu, đồng thanh nói: “Tiên sinh, chúng con đồng ý!”
Quỷ Cốc Tử quay sang Ngọc Thiền: “Thiền Nhi, tiểu đồng muốn thử giữ họ lại xem sao, họ cũng đồng ý, ý con thế nào?”
Bốn người cùng ngẩng đầu lên, tám con mắt đầy hy vọng cùng nhìn chằm chằm vào Ngọc Thiền.
Ngọc Thiền sắc mặt thoáng ửng hồng, vẻ ngúng nguẩy: “Tiên sinh muốn giữ thì giữ, không muốn giữ thì bảo họ xuống núi, Thiền Nhi xin nghe theo tiên sinh!”
“Được!” Quỷ Cốc Tử quay sang bốn người. “Vậy hãy theo lời tiểu đồng, ta tạm thời giữ các ngươi ở lại đây ba tháng. Trong vòng ba tháng, nếu như các ngươi có thể chứng minh được bản thân là đạo khí, tự nhiên ta sẽ thu nhận các ngươi làm đệ tử. Còn nếu không thể, thì chớ trách ta vô tình!”
Bốn người đều thở phào nhẹ nhõm, dập đầu đáp: “Đa tạ tiên sinh đã thu nhận!”
Chưa đợi Quỷ Cốc Tử nói tiếp, Trương Nghi đã lên tiếng hỏi: “Vãn bối xin hỏi tiên sinh, phải làm thế nào mới có thể chứng minh được mình có phải đạo khí hay không?”
Quỷ Cốc Tử đưa tay chỉ vào tiểu đồng: “Bắt đầu từ ngày mai, các ngươi hãy làm theo lời tiểu đồng!” Rồi quay sang phía tiểu đồng. “Tiểu đồng, căn cứ theo những gì ngươi đã học, hãy dẫn dắt các sĩ tử đây tu luyện cẩn thận. Bốn người họ có thể thành đạo khí hay không, nhờ cả vào ngươi đấy!”
Tiểu đồng bước lên, cúi đầu nói: “Tiểu đồng xin nghe theo lời dặn của tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử chậm rãi đứng dậy, Ngọc Thiền bước tới, dìu lấy tay Quỷ Cốc Tử, tiến vào trong động.
Bốn người vẫn quỳ dưới đất, nhìn theo Quỷ Cốc Tử, Ngọc Thiền cho đến khi họ khuất hẳn vào trong động, mới đứng dậy.
Tô Tần vòng tay vái tiểu đồng một vái dài: “Đa tạ tiểu đồng đã giúp đỡ!”
Tiểu đồng vái đáp lễ: “Tô sĩ tử bất tất phải khách khí!”
Bàng Quyên bước tới, vỗ nhẹ lên đầu tiểu đồng, cười ha hả mà nói: “Tiểu đồng, hôm nay may mà có cậu! Đi nào, Bàng đại ca đưa cậu vào rừng chơi, sẽ bắt cho cậu mấy con chim nhé!”
Tiểu đồng lùi lại một bước, liếc xéo Bàng Quyên một cái, nghiêm mặt mà nói: “Bàng sĩ tử, sĩ tử không được gọi là tiểu đồng nữa!”
Bàng Quyên phì cười: “Không gọi là tiểu đồng, vậy phải gọi thế nào?”
Tiểu đồng liếc nhìn khắp lượt bốn người, dõng dạc: “Lúc nãy, các vị đều đã nghe rõ rồi đấy, tiên sinh bảo tiểu đồng quản giáo dẫn dắt các vị. Bắt đầu từ ngày hôm nay, trong vòng ba tháng, các vị phải gọi ta là tiểu đồng sư huynh! Còn về phần ta, sẽ cố gắng làm tròn chức trách sư huynh, dẫn dắt các vị cần cù tu luyện, giúp các vị thành tài. Nếu các vị tự thân trễ nài, không muốn thành tài, thì sư huynh ta cũng chẳng thể giúp được!”
Tiểu đồng sắc mặt nghiêm túc, hệt như người lớn. Bốn người nghe thấy vậy, đều ngạc nhiên sững sờ. Trương Nghi kinh ngạc đến hai mắt trợn trừng, đi quanh tiểu đồng mấy vòng rồi dừng lại, gật đầu với tiểu đồng, rồi vái mà nói: “Được, Trương Nghi phục rồi! Xin hỏi sư huynh, sau ba tháng thì sao?”
Tiểu đồng mỉm cười: “Trong vòng ba tháng, mọi người nghe ta. Sau ba tháng, nếu như mọi người có thể ở lại sơn cốc, chúng ta sẽ cùng nghe theo tiên sinh. Tuy nhiên, theo như sư huynh thấy…” lại liếc nhìn khắp lượt bốn người, rồi khẽ lắc đầu, “khả năng này là rất rất nhỏ!”
Bàng Quyên vội hỏi: “Sao sư huynh lại nói vậy?”
Tiểu đồng cố tình kéo dài giọng, thở dài một tiếng: “Chà chà, mọi người có điều không biết, tu đạo luyện tiên không phải chuyện dễ dàng, các vị sĩ tử đây hẳn chưa bao giờ phải nếm mùi khổ cực. Xem bộ dạng của các vị, chưa đến một tháng, e rằng đã nhao nhao đòi xuống núi cả!”
Bàng Quyên bật cười mấy tiếng lạ lùng: “Tiểu sư huynh, huynh chớ quá lời, đừng nói tu đạo luyện tiên khó cỡ nào, cho dù phải chết, Bàng Quyên cũng quyết trụ lại!”
“Trụ được thì tốt!” Tiểu đồng liếc xéo hắn. “Bây giờ các vị sĩ tử hãy mau trở về nghỉ ngơi, sáng mai vào lúc gà gáy, mọi người hãy đứng đợi sẵn trước cửa!”

Trở về nhà cỏ, mọi người ai nấy đều hoa tay múa chân, hào hứng bàn chuyện tu đạo.
Vào lúc gà gáy, tiểu đồng quả nhiên đã đến.
Bốn người vội ra nghênh đón, Tô Tần vái mà nói: “Tô Tần xin chào sư huynh!”
Tiểu đồng đáp lễ, nhìn qua mọi người một lượt, sau đó lớn tiếng sắp xếp: “Hiện giờ mới vào thu, đúng vào mùa quả rừng chín rộ. Tiên sinh muốn ăn quả tươi, bảo các vị đi hái quả!”
Bàng Quyên bật cười, hỏi: “Xin hỏi sư huynh, trên núi nhiều quả như vậy, không biết tiên sinh thích loại quả nào?”
“Bàng sĩ tử xin đừng nôn nóng!” Tiểu đồng đưa mắt lườm hắn. “Sư huynh đang chuẩn bị dặn dò đây. Quả mà tiên sinh muốn ăn không phải thứ quả bình thường. Các vị hãy đi dọc theo con suối này lên thượng lưu, đến đầu nguồn con suối sẽ thấy một sơn cốc, ở nơi tận cùng của sơn cốc có một vách đá, trên vách đá có một cây đào lông, mấy ngày nay quả đào hẳn đã chín rồi, mọi người hãy hái về. Tiên sinh thích ăn thứ này!”
“Đào lông?” Bàng Quyên nhắc lại, rồi hỏi. “Xin hỏi tiểu sư huynh, loại đào này hình thù thế nào?”
Tiểu đồng móc từ trong túi ra một quả đào, đưa cho Bàng Quyên: “Chính là loại đào này, mọi người đã nhìn rõ chưa? Đừng có hái nhầm đấy!”
Bốn người chụm đầu quan sát quả đào, quả nhiên không giống đào thường, to cỡ quả táo, sắc xanh pha vàng phơn phớt, ngoài vỏ phủ một lớp lông tơ.
Thấy mọi người đã nhìn kỹ, tiểu đồng lại nói: “Vì tránh để các người lỗ mãng làm lỡ việc, sư huynh ta xin nhắc nhở một câu, mọi người hãy nhớ cho kỹ. Sơn cốc này có tên là Dã Nhân cốc, có dã nhân ra vào, các vị phải hết sức cẩn thận, đừng để bọn chúng bắt được. Còn nữa, cốc này có một đàn khỉ tên là khỉ đuôi dài, chúng rất thích ăn giống đào này!” Tiểu đồng dặn dò xong, liền quay người bước đi.
Bốn người ngửa mặt nhìn sắc trời, rồi quyết định lập tức xuất phát. Vì nghe thấy có dã nhân, nên Tôn Tân, Bàng Quyên, Trương Nghi đều mang theo bảo kiếm, Tô Tần cũng tự tìm cho mình một cây gậy gỗ. Theo lời dặn của tiểu đồng, họ men theo con suối trước cửa, đi ngược lên phía thượng nguồn.
Bốn người đi suốt mấy canh giờ, núi mỗi lúc một hùng vĩ, rừng mỗi lúc một rậm rạp, con suối quanh co khuất khúc, chẳng thấy đầu nguồn ở đâu. Gần tới giờ Ngọ, bốn người nghe thấy đằng xa có tiếng nước ào ào, tiến lại gần, thì nhìn thấy một vách đá dựng đứng trước mặt. Con suối đổ từ trên vách đá xuống, tạo thành một dòng thác, phía dưới thác là một đầm nước sâu. Bốn người cùng ngồi xuống một tảng đá bên đầm nước, vừa nghĩ cách trèo lên, vừa tìm kiếm chút gì lót dạ.
Trương Nghi ngẩng nhìn vách đá dựng đứng, tặc lưỡi nói: “Chà, vách đá này chí ít cũng phải cao đến bảy tám trượng, trèo lên thế nào được?”
Bàng Quyên cười nói: “Đường về dễ đi hơn rất nhiều, nếu Trương huynh nản lòng, hãy mau quay về đi!”
Trương Nghi đứng phắt dậy: “Ai quay về trước, giờ vẫn chưa biết chắc đâu!” Rồi đưa tay kéo Tô Tần. “Tô huynh, cứ để họ ngồi nghỉ, chúng ta đi tìm đường!”
Hai người không tiến lên phía trước mà quay ngược lại. Bàng Quyên liếc nhìn họ, phá lên cười một tràng, rồi vẫn ngồi yên. Nhưng Tôn Tân lại đứng dậy nói: “Hiền đệ, chúng ta hãy đi cùng họ, đều là huynh đệ, chớ để lạc nhau!”
Bàng Quyên cười lớn mà nói: “Còn cây đào dại ở đó, không đi lạc được đâu. Huynh cứ ngồi nghỉ đi, khi nào nghỉ xong, đệ sẽ đưa huynh trèo lên!”
Tôn Tần nhìn vách đá cao ngất, chau mày hỏi: “Trèo lên?”
“Tôn huynh yên tâm, đệ đảm bảo huynh sẽ tới nơi trước hai người đó!”
Tôn Tân đành phải ngồi xuống. Hai người ngồi nghỉ một lát, rồi Bàng Quyên tới phía dưới thác, bắt mấy con cá, mổ bỏ ruột, mang, vớt nước rửa sạch rồi đưa cho Tôn Tân hai con, cười mà nói: “Tôn huynh, chúng ta hãy thử ăn sống nuốt tươi, làm người dã man một lần xem sao!”
Lời vừa dứt, Bàng Quyên đã đưa con cá vào miệng. Tôn Tân đang đói ngấu, cũng cầm lấy một con cá sống ăn luôn.
Ăn xong cá, Bàng Quyên dường có vẻ sung sức hơn nhiều, liền đi tới phía trước một bụi sắn dại, vung kiếm chặt đứt hai dây dài, nối lại làm một, rồi buộc một hòn đá vào một đầu, nhắm chuẩn một cây tùng trên vách đá, “vù” một tiếng quăng vụt lên trên. Hòn đá bay vòng qua cành tùng, không chệch một ly. Bàng Quyên thả lỏng sợi dây sắn, hòn đá liền rơi trở xuống, Bàng Quyên bắt lấy, quấn viên đá quanh sợi dây sắn, thắt nút rồi kéo mạnh, sợi dây sắn lập tức được thắt chặt vào cành tùng. Bàng Quyên buộc sợi dây quanh thắt lưng, sau đó bám dây trèo lên, chớp mắt, người đã lơ lửng trên cành tùng kia. Bàng Quyên thu dây, tiếp tục lặp lại phương cách ban nãy để quấn dây vào một cây tùng cao hơn. Một lúc sau, Bàng Quyên đã lên được đến đỉnh vách đá, rồi ném sợi dây xuống dưới dòng thác. Tôn Tân nhận lấy, cũng bắt chước Bàng Quyên, buộc sợi dây quanh hông, rồi bám dây trèo lên.
Từ lúc cắt dây cho tới lúc trèo lên đến đến đỉnh, hai người chưa mất quá một tuần hương. Tôn Tân đứng trên đỉnh vách đá, đưa mắt nhìn xuống, thán phục nói với Bàng Quyên: “Hiền đệ quả là cao thủ!”
Bàng Quyên nhún vai: “Chuyện nhỏ nhặt này sao có thể làm khó được đệ? Tôn huynh, đi thôi!”
Tôn Tân kinh ngạc: “Hiền đệ, không đợi hai người họ ư?”
Bàng Quyên cười đáp: “Tên tiểu tử họ Trương kia rất tinh quái, chưa biết chừng đã đi trước chúng ta rồi!”
Tôn Tân lắc đầu: “Chắc chắn là không thể. Cho dù họ có lên được, cũng sẽ đợi chúng ta ở trên đỉnh!”
Bàng Quyên suy nghĩ một lát, rồi nói: “Được rồi!” Sau đó rút kiếm ra, dùng mũi kiếm khắc lên đá dòng chữ: “Tô huynh, Trương huynh, chúng tôi đi trước một bước để dò đường!”
Khắc xong, Bàng Quyên ngắm nghía rồi cười nói với Tôn Tân: “Tôn huynh, như thế này được chưa?”
Tôn Tân thấy Bàng Quyên khăng khăng muốn đi trước, nên đành phải chiều ý, hai người lại đi dọc theo con suối. Đi đến lúc sẩm tối, hai người đã vượt qua cả thảy hàng chục con thác, nhưng con suối vẫn chưa đến điểm tận cùng, nên đành phải tìm một chỗ để nghỉ qua đêm, đợi hôm sau lại tiếp tục lên đường.
Đi đến giữa trưa, con suối đột nhiên biến mất, phía trước chỉ còn lổn nhổn đá cuội lớn nhỏ. Hai người vô cùng kinh dị, bèn quan sát kỹ, thì ra con suối vẫn chảy ngầm phía dưới lớp đá cuội, chỉ nghe thấy tiếng nước chảy mà không thấy nước đâu. Rõ ràng bắt đầu từ chỗ này, con suối đã trở thành suối ngầm.
Bàng Quyên nói: “Tôn huynh, xem ra chỗ này đã là điểm tận cùng của con suối!”
Tôn Tân gật đầu: “Hiền đệ nói rất đúng. Dòng suối đã chảy ngầm phía dưới lớp đá cuội!”
Bàng Quyên ngước mắt nhìn lên, thấy núi non càng trùng điệp, sơn cốc càng thâm u, rừng càng rậm rạp, cây càng to lớn. Bàng Quyên quan sát một lúc, sau đó chỉ tay về sơn cốc phía trước: “Tôn huynh, nơi đây không còn khe núi nào khác, xem ra sơn cốc này chính là Dã Nhân cốc!”
Tôn Tân gật đầu, rồi tìm một tảng đá ngồi xuống: “Hiền đệ, chúng ta hãy đợi ở đây, hai người họ chắc chắn chưa kịp đến đâu!”
“Không cần phải đợi,” Bàng Quyên ngoảnh lại nhìn, vẻ coi thường. “Chưa biết chừng họ thấy đường đi hiểm trở, đã quay về rồi cũng nên!”
“Không đâu! Tô huynh, Trương huynh tuyệt đối không tầm thường như vậy, chúng ta hãy ngồi đợi một lát!”
“Tôn huynh!” Bàng Quyên kiên quyết muốn tranh hơn. “Chúng ta cứ đi trước một bước, đến trước vách đá nơi tận cùng Dã Nhân cốc rồi đợi họ ở đấy, huynh thấy thế nào?”
“Việc này…” Tôn Tân ngẫm nghĩ một lát, “trước lúc lên đường, sư huynh từng nói sơn cốc này có dã nhân ra vào, đợi hai người họ cùng đi, người đông gan lớn, nếu chẳng may gặp phải dã nhân, cũng dễ dàng đối phó!”
Lúc này Bàng Quyên cũng nhớ lại lời của tiểu đồng nên không dám liều lĩnh, vội gật đầu: “Được, vậy hãy làm theo lời huynh. Chúng ta hãy ở đây chợp mắt một lát, nếu hai con ốc sên đó không nản mà quay về, chắc hẳn trước khi trời tối sẽ bò được đến đây…”
Lời còn chưa dứt, từ phía xa đã có tiếng Trương Nghi vọng lại: “Người đang nói ở phía trước, phải chăng là Bàng nhân huynh?”
Bàng Quyên giật nảy mình, vội đưa mắt nhìn, quả nhiên là hai người Trương Nghi và Tô Tần, mỗi người chống một cây gậy gỗ, thở hổn hà hổn hển.
Thấy bộ dạng thảm hại của hai người, Bàng Quyên cười toáng lên mà nói: “Hai vị nhân huynh, tại hạ và Tôn huynh đã đợi hai vị ở đây mấy canh giờ rồi!”
Trương Nghi vô cùng khâm phục, nói: “Bàng huynh quả nhiên tài giỏi, hai chúng tôi gắng hết sức đuổi theo mà vẫn đến chậm nửa bước. Trương Nghi phục rồi!”
Bốn người cười nói một hồi, rồi cùng chuẩn bị nước uống, thấy trời vẫn còn sớm, liền quyết định lập tức tiến vào Dã Nhân cốc.
Nơi đây núi cao khe sâu, dưới sơn cốc chỉ thấy đá cuội chồng chất, không thấy một giọt nước chảy. Bốn người đi một mạch đến khi trời tối, nhưng vẫn chưa đến được tận cùng, cũng chẳng hề gặp phải dã nhân. Thấy trời sắp tối, họ tìm hái chút quả rừng lót dạ, rồi kiếm một nơi kín đáo để ngủ qua đêm. Sáng hôm sau, lại đi thêm nửa ngày nữa, bỗng thấy vách núi hai bên đột nhiên thu hẹp, phía trước không thấy sơn cốc nữa, chỉ còn lại một vách đá hùng vĩ chắn ngang trước mặt.
Quả nhiên là một vách đá hùng vĩ! Bốn người ngẩng đầu nhìn, ai nấy đều hít ngược một hơi khí lạnh. Vách đá vươn cao sừng sững, ước chừng trăm trượng, dựng đứng nhẵn nhụi, hệt như một bức tường trời xây. Nhìn kỹ, thì thấy vách này là một tảng đá nguyên khối, chỉ duy nhất ở chỗ cao chừng sáu bảy mươi trượng có một rãnh hẹp, trong rãnh mọc một cây tùng thân to quãng miệng bát và lơ thơ mấy gốc cây trông giống bụi gai. Do cách mặt đất quá cao nên không thể nhìn rõ, đoán rằng chắc hẳn là thứ đào dại mà tiểu đồng đã nói.
Bốn người mắt trợn trừng, miệng há hốc một hồi lâu, không ai thốt được tiếng nào. Người đầu tiên phá vỡ sự im lặng là Tô Tần. Nhìn vách đá một lúc, Tô Tần từ từ ngồi thụp xuống, ngâm: “Nơi này cao đến thế, lại chẳng phải chim ưng, làm sao mà lên được?”
Trương Nghi cũng hùa theo: “Chậc chậc! Trong núi bao nhiêu hoa quả, tiên sinh loại nào không thích, lại thích ăn cái thứ quả mọc trên sợi dây leo kia!”
Vẫn là Bàng Quyên nhanh trí, mắt vừa liếc nhìn đã phát hiện ra trên vách đá có ít dây leo buông rủ lơ thơ, sợi ngắn sợi dài, lòng thòng buông từ trên đỉnh xuống, phất phơ theo gió, bèn nảy ra một ý, liền chỉ vào chúng mà nói: “Chúng ta hãy tìm cách leo lên đỉnh vách đá từ lối khác, rồi bám dây leo trèo xuống, may ra có thể hái được quả đào!”
Ba người ngước mắt nhìn lên, thấy mấy sợi dây leo thưa thớt lại mỏng manh như sợi tóc, thì đều lắc đầu ngao ngán.
Bàng Quyên không phục, liền sục sạo khắp xung quanh tìm kiếm. Một lúc sau, Bàng Quyên vừa kinh ngạc gọi toáng lên: “Ba vị nhân huynh, mau đến đây!”
Mọi người vội vàng chạy tới, thì nhìn thấy một tán cây chi chít những quả đào phủ mượt lông tơ. Bàng Quyên lấy từ trong tay áo ra quả đào lông mà tiểu đồng đưa cho, so sánh hai loại, thấy giống nhau y đúc.
Trương Nghi ngẩng đầu lên nhìn, lại càng mừng quýnh: “Mau nhìn kìa, toàn là giống đào này!”
Ba người cùng ngước lên nhìn, thảy đều kinh ngạc đến sửng sốt. Nguyên một khoảng rừng là cả một thế giới đào dại, rộng tới gần nửa mẫu, dây đào chằng chịt, quả chín đầy trĩu trên các cành cây.
Tôn Tân chau mày nói: “Sư huynh đã dặn, thứ quả mà tiên sinh muốn ăn là quả đào trên vách đá, không phải đào trong sơn cốc, chắc chắn hai loại đào này mùi vị khác nhau!”
Bàng Quyên vặt lấy một quả, cắn thử một miếng, thấy vừa đắng vừa chua vừa chát, vội nhổ phì phì, nhăn mặt mà nói: “Tôn huynh nói đúng, thứ đào này mùi vị thực không nuốt nổi!”
Ba người thấy vậy cũng thử hái ăn, song đều vội nhổ cả ra. Bàng Quyên lo lắng, liền lấy quả đào tiểu đồng đưa cho cắn một miếng, rồi cũng nhổ ra ngay, đổi buồn làm vui, nói: “Các vị, mùi vị giống hệt nhau!”
Mọi người lần lượt nếm, rồi lại nếm quả ở trên cây, đúng là mùi vị không có gì khác biệt.
“Các vị nhân huynh,” Bàng Quyên quan sát địa thế xung quanh, rồi cười nói, “mọi người nhìn xem, nơi đây hẻo lánh, hẳn là tiên sinh cũng chưa từng đặt chân tới, vì vậy chỉ biết trên vách có đào, mà không biết nơi đây có cả rừng đào. Chúng ta hãy hái đào ở đây mang về, nói là đào hái ở trên vách đá, chắc hẳn tiên sinh sẽ không nhận ra đâu!”
Tôn Tân trầm ngâm suy nghĩ, rồi gật đầu nói: “Có thể hái về, nhưng chỉ được nói là đào hái ở dưới đáy sơn cốc, không được nói là đào hái ở trên vách đá!”
“Tôn huynh ơi,” Bàng Quyên lắc đầu quầy quậy, “tiên sinh đã nói muốn ăn đào ở trên vách núi, chứ không nói muốn ăn đào dưới đáy sơn cốc. Chúng ta đã đến được dưới vách đá, song lại hái đào ở dưới đáy sơn cốc mang về, như vậy, ngay cả tiểu đồng cũng sẽ cười chê chúng ta!”
“Hai người đừng tranh cãi nữa!” Trương Nghi ngắt lời. “Chúng ta mỗi người hãy hái một ít mang về, không ai được nói là hái ở dưới đáy sơn cốc. Nếu tiên sinh ăn mà phát hiện ra được thì tại hạ khâm phục. Nếu không phát hiện ra, chúng ta cũng không ai được tiết lộ, chỉ cần tự biết với nhau là được!”
Thấy Trương Nghi, Bàng Quyên đều quyết định như vậy, Tô Tần, Tôn Tân cũng không biết nói gì thêm, mỗi người hái lấy một ít quả đào, cho vào trong túi, sau đó trở về theo đường đã đến.
Lúc quay về do đã quen đường, cộng thêm đã vượt núi băng rừng liên tiếp mấy ngày, chân cẳng bốn người đã khoẻ lên đáng kể, chưa đầy hai ngày đã về đến Quỷ Cốc, từng người giao lại túi đào của mình cho tiểu đồng.
Tiểu đồng kiểm tra, rồi ngẩng lên hỏi: “Có phải đào hái trên vách đá không?”
“Đương nhiên!” Bàng Quyên ngoác miệng cười. “Nếu sư huynh không tin, thử nếm một miếng là biết ngay!”
Tiểu đồng không nói gì, chỉ cầm túi đi vào thảo đường.
Bốn người cũng đã mệt rã rời, liền ai về phòng nấy, đánh một giấc say sưa.

Sáng sớm hôm sau, tiểu đồng cầm bốn túi đào đi tới trước cửa nhà cỏ của bốn người, quẳng đánh vèo xuống đất rồi nói với họ: “Tiên sinh nói, các người hãy giữ lại chỗ đào này mà ăn!”
Bàng Quyên, Trương Nghi đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng đồng thanh hỏi: “Tại sao tiên sinh không ăn?”
Tiểu đồng liếc xéo hai người, lạnh nhạt nói: “Bốn vị sĩ tử hãy theo ta!”
Bốn người tim đập thình thịch, thấp thỏm đi theo tiểu đồng đến một thung lũng. Tiểu đồng chỉ tay vào vạt rừng trước mặt: “Các người tới đó mà xem, sẽ biết tại sao tiên sinh không ăn!”
Bốn người vội vàng chạy tới, thảy đều há hốc miệng kinh ngạc, vì trải rộng trước mắt họ là một rừng đào dại còn rộng lớn hơn cả trong sơn cốc hôm trước. Bàng Quyên hái một quả nếm thử, quả nhiên cũng vừa chua vừa chát, chẳng khác gì những quả đào mà họ vừa phải trải bao khổ cực mới mang được về.
Tiểu đồng chậm rãi bước lại gần, bốn người không ai nói được lời nào, đều cúi gằm mặt xuống.
Tiểu đồng bật cười: “Đã biết tại sao tiên sinh không ăn hay chưa?”
“Tiểu sư huynh,” Bàng Quyên ra vẻ hối hận, “chúng tôi đã biết sai rồi! Xin hãy nói lại với tiên sinh, rằng chúng tôi sẽ tới Dã Nhân cốc một chuyến nữa, nhất định sẽ hái được đào cho tiên sinh!”
Tiểu đồng lừ mắt nhìn Bàng Quyên, rồi lại quét mắt qua từng người: “Hừm, e rằng với khả năng của các người, cả đời này cũng chẳng thể hái được một quả đào trên vách!”
Trước mắt bốn người lập tức hiện ra vách đá dựng đứng trơn nhẵn, cao chót vót, ai nấy đều cúi đầu thở dài.
Trương Nghi sực nghĩ ra điều gì, bèn ngẩng lên nói: “Xin hỏi sư huynh, phải chăng tiên sinh sớm đã biết chúng tôi không thể hái được?”
“Đương nhiên!” Tiểu đồng trả lời.
Trương Nghi vẻ không phục: “Tiên sinh đã biết, tại sao lại nhất định bắt chúng tôi đi hái? Chẳng phải cố tình gây khó dễ ư?”
“Các người không thể hái, nhưng vẫn có kẻ hái được!”
Bàng Quyên vội hỏi: “Ai?”
“Khỉ!” Tiểu đồng lên giọng giáo huấn như kẻ bề trên. “Người trí tuệ khéo nhờ vào vật. Trước lúc các người lên đường, chẳng phải sư huynh đã dặn rằng trong sơn cốc có một đàn khỉ, rất thích ăn giống đào này ư? Đến mùa quả chín, vào lúc sáng sớm, lũ khỉ thường kéo nhau bám theo dây leo mà xuống, sau đó nhảy lên cây tùng, ngồi đó hái đào ăn. Lũ khỉ hiếu động, thường vừa ăn đào vừa nhảy nhót đùa giỡn. Nếu các người bình tĩnh, giỏi quan sát, chắc chắn sẽ phát hiện ra điều này. Tới lúc đó, chỉ cần đứng chờ phía dưới, chẳng phải tốn chút công sức, cứ đưa tay ra bắt lấy những quả đào tươi mà bầy khỉ ném xuống là đã có thể thưởng thức quả tiên!”
Nghe tiểu đồng nói vậy, cả bốn người đều tâm phục khẩu phục.
Bàng Quyên nói lớn: “Xin sư huynh hãy nói lại với tiên sinh, chúng tôi sẽ lập tức đi lấy đào!”
“Không cần phải đi nữa!” Tiểu đồng lại lừ mắt nhìn hắn. “Sở thích của tiên sinh rất đặc biệt. Trong một năm, đào ở trên vách núi chỉ ngon nhất vào hai ngày trước, các người giờ có đi thì cũng đã quá muộn rồi!”
“Vậy thì…” Bàng Quyên bối rối, “chắc tiên sinh cũng muốn ăn chút gì đó khác chứ?”
“Tiên sinh mới hái được một ít lá trà hảo hạng, cần dùng nước suối Cam Tuyền ở đỉnh Hầu Vọng để pha. Tiên sinh nói, nếu các người có lòng, mỗi người hãy đi xách lấy một thùng nước suối Cam Tuyền về để tiên sinh pha trà!”
Bốn người phấn chấn hẳn lên. Bàng Quyên vội hỏi: “Xin hỏi sư huynh, đỉnh Hầu Vọng ở đâu?”
Tiểu đồng chỉ về một ngọn núi cao chót vót phía xa: “Chính là ngọn núi nhọn hoắt kia! Các người hãy nhìn cho kỹ, chớ đi nhầm đường, ở phía tây đỉnh núi này, cách đỉnh vài trượng có một cây tùng đơn độc, bên cạnh cây tùng có một con suối, thứ tiên sinh muốn chính là nước ở nguồn suối đó!”


Nửa canh giờ sau, bốn người đều cõng theo thùng gỗ đựng nước, rời khỏi Quỷ Cốc, dõi về đỉnh Hầu Vọng mà tìm đường đi tới.
Đỉnh núi nhìn thì có vẻ không xa, song để đi đến nơi cũng mất khá nhiều thời gian. Bốn người đi vòng vèo theo con đường mòn dưới đáy sơn cốc, hơn nửa ngày trời mới đến được chân núi.
Bốn người ngước mắt nhìn lên, ai nấy đều thở dài ngao ngán. Đỉnh Hầu Vọng trông giống như một cây cột dựng thẳng đứng trên mặt đất, xuyên đến tận mây. Trước mắt, ngoài những vách đá cheo leo dựng ngược, không thấy bất cứ thứ gì có thể bám víu để trèo lên.
Trương Nghi tặc lưỡi than: “Cha chả, đừng nói là người, cho dù là khỉ cũng chưa chắc đã trèo lên được!”
Bàng Quyên nói: “Nói thừa, nếu không, tại sao lại gọi là đỉnh Hầu Vọng?”
Trương Nghi không ngó ngàng gì đến họ, hai mắt chỉ nhìn chằm chằm vào cây tùng trơ trọi ở gần đỉnh núi. Bốn người đang đứng ở mé tây nam, nhìn thấy rất rõ ràng. Do khoảng cách quá xa, nên cây tùng gần như dính vào vách đá, nhỏ tới mức tưởng như có thể đưa tay hái luôn xuống được.
Bàng Quyên nhìn lên vách đá, thở dài mà nói: “Chao ôi, cái gì mà nước suối pha trà, rõ ràng tiên sinh đang cố ý làm khó chúng ta!”
Trương Nghi lườm hắn một cái, cất giọng tưng tửng: “Ai không dám lên thì cứ quay về theo đường cũ, đừng đứng đây làm trò khó coi nữa!”
Bàng Quyên cười nhạt một tiếng: “Ai khó coi, bây giờ vẫn chưa biết được đâu!” Rồi kéo Tôn Tân. “Tôn huynh, mau đi tìm đường!”
Tôn Tân bị Bàng Quyên túm lấy cánh tay lôi đi, thấy không thể giật ra được, đành phải ngoái nhìn Trương Nghi, Tô Tần, cất giọng áy náy: “Hai vị nhân huynh, chúng tôi đi trước một bước, nếu như tìm được đường đi, sẽ gọi hai vị!”
Trương Nghi cười ha hả mà nói: “Không cần đâu, Tôn huynh. Chưa biết trong chúng ta ai sẽ tìm được đường trước!”
Tôn Tân, Bàng Quyên vòng theo chân núi đi về phía bắc, nhưng không tìm được bất cứ con đường nào. Hai người đang lúc ủ ê, thì mắt Bàng Quyên bỗng vụt sáng. Hắn nhìn thấy không xa phía trước có một người hái thuốc đang lúi húi ở đấy. Hai người vội chạy đến hỏi đường lên đỉnh, người hái thuốc bèn chỉ vào một hẻm núi nhỏ khuất nẻo phía trước: “Men theo hẻm núi này, có thể lên được đỉnh núi.”
Bàng Quyên vội hỏi: “Còn đường nào khác không?”
Người hái thuốc lắc đầu: “Núi này không còn đường lên nào khác, ngay cả con đường này cũng chỉ có những người hái thuốc như chúng tôi mới biết. Hai vị hỏi tại hạ là hỏi đúng người rồi đấy.”
Hai người bèn cảm tạ, sau đó men theo hẻm núi mà trèo lên. Hai canh giờ sau, cuối cùng cũng lên tới đỉnh.
Đứng trên đỉnh núi, Tôn Tân, Bàng Quyên phóng mắt nhìn ra xa, cảnh sắc vô cùng tráng lệ. Tôn Tân, Bàng Quyên không dám chậm trễ, lập tức biện nhận phương hướng, rồi đi đến bên một gốc tùng ở phía tây, tìm cây tùng đơn độc mà tiểu đồng đã nói. Họ đi đến cạnh cây tùng, bám lấy cành cây, rồi nhìn xuống dưới.
Vừa nhìn xuống, cả hai đã bủn rủn tay chân. Phía dưới là vách sâu vạn trượng, hun hút thẳng đứng, không có bất cứ một cây tùng nào cả.
Bàng Quyên kinh sợ, vội đưa mắt nhìn khắp bốn phía, sau đó đi ra một mỏm đá chìa ra ở mé tây nam, nghiêng ngó nhìn về phía tây, lúc này mới phát hiện ra cây tùng nằm ở ngay dưới chân Tôn Tân. Thì ra nơi đó là một hõm núi, khiến cây tùng thụt sâu vào bên trong vách đá, đứng ở trên đỉnh, đương nhiên sẽ không thể nhìn thấy nó.
Bàng Quyên quay trở lại chỗ Tôn Tân, áp tai vào đá lắng nghe, quả nhiên nghe thấy phía dưới vách có tiếng nước róc rách, thì mừng rỡ reo lên: “Là nước suối! Tôn huynh, huynh đợi ở đây, để đệ xuống dưới múc nước!”
Bàng Quyên nói xong, liền dỡ ra hai sợi dây leo đã chặt sẵn trong khi trèo lên núi, thắt nút chắc chắn để nối liền với nhau, một đầu buộc lên thân cây tùng bên cạnh, một đầu quấn ngang thắt lưng, hai tay bám chặt sợi dây, sau đó từ từ tụt xuống men theo vách núi.
Một lát sau, Bàng Quyên đã xuống được tới cây tùng lẻ, tìm chỗ đứng vững, rồi tháo sợi dây leo ra, ngửa mặt gọi lớn: “Tôn huynh, chính là con suối này! Huynh hãy kéo dây lên, rồi thả thùng nước xuống đây!”
Tôn Tân kéo sợi dây lên, buộc thùng gỗ vào thả xuống. Bàng Quyên múc đầy một thùng nước, rồi gọi lớn: “Tôn huynh, nước đầy rồi, mau kéo lên!”
Tôn Tân kéo lên, thả nốt thùng còn lại xuống, kéo lên rồi lại thả dây xuống. Một lúc sau, Bàng Quyên nhờ sự trợ giúp của Tôn Tân, đã trèo lên được đỉnh núi.
Bàng Quyên đưa tay áo lau mồ hôi, rồi lôi từ trong ngực áo ra hai tấm da dê, bịt lên miệng thùng, lại cắt lấy một đoạn dây leo, tước làm đôi, buộc thật chặt tấm da dê vào miệng thùng.
Động tác của Bàng Quyên hết sức lẹ làng chóng vánh, Tôn Tân đứng nhìn mà thán phục, thực lòng khen ngợi: “Hiền đệ quả là người chu đáo, ngay cả những tiểu tiết thế này cũng nghĩ ra được!”
Bàng Quyên cười vang mà nói: “Những chuyện nhỏ nhặt thế này thực không đáng nói!” Rồi đi quanh đỉnh núi một vòng, nhìn xuống phía dưới một hồi, sau đó quay đầu lại cười. “Tôn huynh, hai vị nhân huynh kia không biết đã lang thang đâu rồi, đến cái bóng cũng không nhìn thấy!”
Tôn Tân nói: “Lúc nãy người hái thuốc có nói, ngoài hẻm núi khi nãy, không còn bất cứ con đường nào có thể lên được đỉnh Hầu Vọng. Chúng ta hãy lên tiếng gọi để họ biết đường mà lên!”
“Tôn huynh, không được!” Bàng Quyên lắc đầu. “Chẳng phải họ Trương kia luôn cậy mình tài trí cao siêu ư, tại sao lại không để hắn từ từ tìm đường mà đi?” Ánh mắt dừng lại ở hai sợi dây leo, tròng mắt đảo vài vòng, rồi bước tới cuộn hai sợi dây lại, ném thẳng xuống dưới vách đá.
Tôn Tân vội gọi giật: “Bàng đệ…”
Nghe thấy tiếng cuộn dây leo lăn long lóc rơi xuống, Bàng Quyên vỗ vỗ hai tay, rồi ngoái cổ xuống dưới lầm bầm: “Hừm, họ Trương kia, cho ngươi tranh giành! Cho dù ngươi có bản lĩnh lên được tới đây, không có cuộn dây, xem ngươi lấy nước bằng cách nào?”

Ở lưng chừng núi, cuối cùng Tô Tần, Trương Nghi cũng tìm được nơi có thể bám víu, họ từ từ trèo lên vách núi cheo leo từng chút một. Không ngờ vách núi càng lúc càng dựng đứng, trèo được một quãng, đừng nói là cây lớn, ngay đến bụi cỏ lùm cây có thể bám vào cũng thưa thớt khó tìm. Tô Tần, Trương Nghi tay bám chân đạp, mắt đảo liên hồi để tìm nơi có thể bấu víu.
Trương Nghi ngẩng đấu nhìn mặt trời: “Tô huynh, đã quá chiều rồi, e rằng chưa trèo lên tới đỉnh, trời đã tối mất!”
Tô Tần cũng ngẩng đầu nhìn, phấn khởi reo lên: “Nhìn kìa, chính là cây tùng kia!”
Trương Nghi nhìn theo, quả nhiên trông thấy một cây tùng. Lúc này cây tùng đã lớn hơn rất nhiều so với ban nãy, trông như một tán ô lớn xoè rộng trên đầu, còn cách họ chừng mấy chục trượng. Hai người lập tức tràn đầy tin tưởng, tiếp tục leo lên. Song mới trèo thêm được mấy trượng, họ đã bị một vách đá dựng đứng chặn lại.
Vách đá phải cao tới vài trượng, đừng nói là cây lớn, ngay cả một cọng cỏ nhỏ cũng không mọc nổi.
Trương Nghi quan sát xung quanh, thấy không có chỗ nào có thể bám tay đặt chân được, liền than thở: “Tô huynh ơi, chúng ta đã đi phải đường cùng rồi!”
Tô Tần đưa mắt nhìn quanh, đôi mày nhíu chặt.
Hai người đang lúc ngẩn ngơ, bỗng nghe trên đầu có tiếng loạch xoạch, rồi một vật gì rơi thẳng từ trên xuống, nảy tưng tưng mấy cái trên vách đá trên đầu họ, sượt qua một ngọn tùng bên cạnh rồi lăn thẳng xuống núi.
Trương Nghi nhìn thấy rõ ràng, vội nói: “Là dây leo! Chắc hẳn thằng cha Bàng Quyên đã mò được lên tới đỉnh!”
Tô Tần gật đầu.
Trương Nghi sốt một, hai mắt đảo liên hồi, nhìn khắp xung quanh, rồi đột nhiên chỉ tay vào vách đá bên trái: “Tô huynh, mau nhìn xem!”
Tô Tần đưa mắt nhìn, thì thấy một dòng nước nhỏ đang chảy xuống theo vách đá. Vì chảy quá chậm, nên không phát ra âm thanh. Trương Nghi vội trèo qua, vốc lên nếm thử, chép chép miệng rồi reo toáng lên: “Cam Tuyền! Tô huynh! Lại đây, huynh uống thử xem!”
Tô Tần cũng uống thử, sung sướng nói: “Nước này rất ngọt, là nước Cam Tuyền!”
Trương Nghi khẽ nhướng mày động, sau đó với lấy thùng nước ở sau lưng xuống, hứng vào chỗ nước chảy. Tô Tần thấy vậy, hiểu ý Trương Nghi, bèn lắc đầu nói: “Làm vậy sao được?”
“Tại sao lại không được?” Trương Nghi chỉ vào dòng suối. “Tô huynh nhìn xem, hiện giờ chúng ta ở ngay phía dưới cây tùng, nước này chắc chắn là chảy từ suối Cam Tuyền xuống. Núi là cả một ngọn núi, đá là cả một tảng đá, suối cũng là cả một con suối, chẳng qua chỉ khác biệt ở chỗ trên dưới mà thôi. Cho dù tiên sinh có là thần tiên cũng chẳng thể phân biệt!”
“Nhưng đây không phải là đỉnh núi. Chuyện cây đào lúc trước đã làm tiên sinh thất vọng, hiền đệ tuyệt đối không được tái phạm lần nữa!”
“Tô huynh đừng cứng nhắc như thế, tiên sinh muốn uống nước suối Cam Tuyền, nước chúng ta lấy ở đây cũng chính là nước suối Cam Tuyền. Hơn nữa, chẳng phải lúc này, chúng ta đã đi phải đường cùng rồi hay sao? Trước mặt không có đường lên, còn quay lại thì đã muộn. Nếu như trở về tay không, chưa nói chuyện khác, thằng cha Bàng Quyên kia chắc hẳn sẽ cười chúng ta thối mũi!”
Tô Tần vẫn lắc đầu. Trương Nghi bực bội nói: “Tô huynh đừng cố chấp như vậy! Lần này không giống lần trước, chắc chắn tiên sinh sẽ không thể nhận ra!”
“Tại sao hiền đệ lại khẳng định như vậy?”
“Lần trước tiên sinh chưa ăn đào đã biết là giả, vì không ai có thể trèo lên vách đá dựng đứng hái đào, nhưng chúng ta lại mang về những bốn túi lớn, lũ khỉ không thể ném xuống nhiều như thế được. Dựa vào trí tuệ của tiên sinh, chắc chắn có thể đoán ra! Nhưng lần này thì khác, tay Bàng Quyên kia đã lên đến đỉnh núi, chứng tỏ sức người có thể trèo lên tới đỉnh. Lên được đỉnh núi, đương nhiên sẽ lấy được nước suối Cam Tuyền. Nước suối Cam Tuyền đã có thể lấy được, thì tiên sinh phải đích thân nếm thử mới phân biệt được thật giả. Cùng một dòng nước, chỉ khác nhau một đoạn trên dưới, nếu tiên sinh có thể phát hiện ra, thì Trương Nghi quả là bái phục sất đất!”
Tô Tần nghe nói có lý, suy nghĩ một lát, thấy cũng chẳng còn cách nào khác nên đành gật đầu đồng ý. Hai người hứng đầy hai thùng nước, đeo lên lưng rồi thận trọng trèo xuống theo đường đã lên. Xuống đến sơn cốc, trời đã nhá nhem. Hai người đang vội vã đi về, bỗng Trương Nghi đứng khựng lại.
Tô Tân thấy vậy liền hỏi: “Hiền đệ, trời sắp tối rồi, không về mau, còn dừng lại làm gì?”
“Không! Không!” Trương Nghi cười lớn. “Chúng ta phải đợi họ Bàng kia!”
Tô Tần ngạc nhiên, không thể tin được lời này vừa thốt ra từ miệng Trương Nghi, bèn nhìn Trương Nghi với ánh mắt ngỡ ngàng.
“Là thế này,” Trương Nghi giải thích, “chúng ta phải bịt cái miệng thối của tay này lại, để phòng hắn trở về mách lẻo!”
Đợi được một lúc, hai người quả nhiên nhìn thấy Bàng Quyên, Tôn Tân đang vội vã rảo bước theo con đường mòn dưới đáy sơn cốc. Trương Nghi vội lên tiếng gọi: “Tôn huynh, Bàng huynh, cuối cùng cũng đợi được hai vị!”
Bàng Quyên kinh ngạc: “Đợi bọn ta?”
“Đúng vậy! Muộn thế này mà chưa thấy hai vị, Tô huynh lo hai vị gặp điều gì bất trắc, nên quyết định dừng ở đây chờ đợi. Nếu không, hẳn chúng tôi đã về tới Quỷ Cốc rồi.”
Tôn Tân vội vòng tay vái Trương Nghi, Tô Tần: “Đa tạ hai vị nhân huynh!”
Bàng Quyên nôn nóng bước lại gần Tô Tần, Trương Nghi, nhìn vào hai thùng nước của họ, kinh ngạc hỏi: “Hai… hai người cũng lấy được nước suối rồi ư?”
“Đương nhiên là lấy được rồi!” Trương Nghi cười lớn. “Thế nào, hai người đi lâu như vậy, chẳng lẽ vẫn chưa lấy được nước?”
Bàng Quyên hai mắt trợn trừng, ngờ vực hỏi lại: “Nước mà hai người lấy được, có phải nước suối Cam Tuyền không đấy?”
“Hỏi thừa!” Trương Nghi lừ mắt. “Không phải nước suối Cam Tuyển, lấy về làm gì? Sao kia, phải chăng nước mà hai người lấy được không phải là nước suối Cam Tuyền?”
Bàng Quyên nhất quyết không chịu tin, vò đầu bứt tóc mà nói: “Quái lạ, hai người không lên tới đỉnh núi, sao có thể lấy được nước?”
“Ha ha ha!” Trương Nghi phá lên cười lớn. “Bàng huynh nhắc đến đây, mới thấy quả là thần kỳ. Tại hạ và Tô huynh nhắm đến cây tùng rồi bám đá trèo lên. Trèo mãi, trèo mãi, khi trèo gần tới cây tùng, thì bị một vách đá dựng đứng chặn lại. Chúng tôi không còn đường lên nữa, đang lúc tuyệt vọng, bỗng thấy một sợi dây leo từ trên trời rơi xuống. Chắc hẳn là thành ý của chúng tôi đã cảm động đến trời xanh, nên một đầu sợi dây kẹt cứng vào khe đá, còn đầu kia thõng xuống ngay trên đầu chúng tôi không chệch lấy một ly. Hai chúng tôi thấy vậy, đúng là sung sướng không sao kể xiết, lập tức bám lấy trèo lên, chớp mắt đã tới nơi. Huynh thấy có kỳ lạ không, Bàng nhân huynh?”
Bàng Quyên trợn mắt há miệng, một hồi lâu sau mới cười gượng một tiếng: “Hờ hờ, quả là thần kỳ!”

Trở về tới Quỷ Cốc, đã đến giờ Nhân định.
Tiểu đồng nghe thấy tiếng động liền chạy ra đón, bảo họ mang nước vào trong thảo đường, rồi ra bãi cỏ ăn cơm.
Vẫn là món cháo gạo mà Ngọc Thiền nấu. Bốn người mỗi người húp liền mấy bát, rồi xuống suối tắm rửa sạch sẽ, sau đó trở về nhà, vừa đặt mình xuống giường là ngáy pho pho. Có lẽ do quá mệt, nên bốn người ngủ như chết, đến khi tỉnh dậy, mặt trời đã lên quá đỉnh núi, tiểu đồng đã đứng chờ ngoài cửa một hồi lâu.
Tô Tần vừa bước ra khỏi nhà cỏ đã nhìn thấy tiểu đồng, vội vã vái chào: “Sư huynh!”
Tiểu đồng đáp lễ, nói với Tô Tần: “Tô sĩ tử, đợi mọi người tỉnh dậy, tất cả hãy đến thảo đường, sư huynh có điều muốn nói!”
Nói xong liền quay trở về thảo đường.
Tô Tần vội đi vào phòng Trương Nghi, thấy Trương Nghi đã dậy, liền chuyển lại lời tiểu đồng, thấp thỏm bất an ngâm rằng: “Liệu có phải vì chuyện nước suối chăng?”
Trương Nghi cũng thấy lo lắng, nghĩ ngợi một lát rồi hỏi: “Huynh không nói lộ gì chứ?”
Tô Tần lắc đầu.
“Không lộ thì tốt! Chúng ta cứ khẳng định đó là nước suối Cam Tuyền, xem sư phụ có thể nói được gì?”
Tô Tần, Trương Nghi gọi Tôn Tân và Bàng Quyên dậy, bốn người chỉnh trang y phục, ra suối rửa mặt, rồi đi tới thảo đường. Tiểu đồng ngồi khoanh chân trên chiếu của Quỷ Cốc Tử, trước mặt bày bốn thùng nước. Ngọc Thiền ngồi ở gian bên cạnh, tay cầm cuộn thẻ tre, đang chăm chú nhẩm đọc.
Nhìn thấy bốn thùng nước, bốn người đã hiểu ra nguyên do. Nước mà Bàng Quyên mang về là nước suối thật, nên hắn rất tự tin, bước ngay lên trước vòng tay vái chào: “Bàng Quyên xin chào sư huynh!”
Tiểu đồng đưa mắt nhìn, hắng giọng rồi nói: “Bốn vị hiền đệ nghe đây, sư huynh ta sẽ thay tiên sinh hỏi chuyện!”
Bàng Quyên đứng ngây ra, thấy Tô Tần, Trương Nghi và Tôn Tân đều quỳ xuống, nên cũng vội vã quỳ theo. Bốn người liền hành đại lễ tham bái tiên sinh, tiểu đồng bèn bắt chước ngữ điệu của Quỷ Cốc Tử mà nói: “Đứng dậy đi!” Bốn người đa tạ, sau đó đứng dậy, tránh sang một bên. Tiểu đồng chỉ tay vào hai thùng nước chỉ còn chừng non nửa: “Hai thùng nước này là của ai?”
Trương Nghi, Tô Tần đều tim đập như trống. Trương Nghi sợ Tô Tần thực thà nói lộ, liền tranh nói trước: “Hồi bẩm sư huynh, là nước do tại hạ và Tô huynh mang về!”
Tiểu đồng cười nhạt, trách mắng: “Ta thay tiên sinh hỏi chuyện, sao dám gọi là sư huynh?”
Trương Nghi vội đổi giọng: “Vâng! Vâng! Hồi bẩm tiên sinh, đây là nước do đệ tử Trương Nghi và Tô Tần mang về.”
Tiểu đồng lại hỏi: “Nước của hai người có phải nước suối Cam Tuyền không?”
Trương Nghi không chút do dự, lập tức khẳng định: “Hồi bẩm tiên sinh, nước hai chúng tôi mang về đích thực là nước suối Cam Tuyền!”
Tiểu đồng quay sang Tô Tần: “Tô sĩ tử, ngươi nói đi!”
Tô Tần thoáng ngần ngừ, ngẩng nhìn Trương Nghi, thấy Trương Nghi đưa mắt ra hiệu, đành phải ấp úng: “Đúng là nước suối Cam Tuyền, tiên sinh…”
Tiểu đồng học theo bộ dạng của Quỷ Cốc Tử, khẽ thở dài một tiếng, rồi chậm rãi nói: “Hai ngươi một mực khẳng định đây là nước suối Cam Tuyền, nhưng lão hủ uống thử, thấy rõ ràng chỉ là nước thác ở lưng chừng núi. Là lão hủ mồm miệng nhầm lẫn, hay là các ngươi nói lời không thực?”
Ngay cả nước thác ở lưng chừng núi mà tiên sinh cũng phát giác ra, Tô Tần, Trương Nghi sắc mặt tái mét, bốn mắt nhìn nhau, rồi vội vã dập đầu xuống đất.
Tô Tần giọng nói run rẩy, lập tức nhận sai: “Tiên sinh, Tô Tần biết sai rồi! Nước mà Tô Tần mang về đích xác là nước thác ở lưng chừng núi!”
Tiểu đồng liếc sang Trương Nghi: “Trương sĩ tử, nước Tô Tần mang về là nước ở lưng chừng núi, vậy còn nước của sĩ tử?”
Trương Nghi vội lạy liền ba lạy: “Trương Nghi biết sai rồi! Khẩn cầu tiên sinh cho hai chúng tôi thêm một cơ hội, hôm nay nhất định sẽ mang được nước suối Cam Tuyền về cho tiên sinh!”
Tiểu đồng thở dài, xua tay nói: “Nước này mặc dù là nước thác, nhưng cũng bắt nguồn từ suối Cam Tuyền trên đỉnh núi. Niệm tình hai ngươi không cố ý lừa dối, lại đã biết sai, nên ta bỏ qua. Bốn người nghe đây!”
Tôn Tân, Bàng Quyên cũng vội vàng quỳ xuống.
Tiểu đồng bắt chước giọng Quỷ Cốc Tử: “Tu đạo trọng ở tu tâm, không phải là mưu khéo. Nếu bốn người muốn lưu lại trong núi, thì phải thành tâm hướng đạo, dốc lòng thể ngộ, không được có chút cơ tâm(1). Nước mà các ngươi mang về, chính là cơ tâm của các ngươi. Các ngươi hãy mang về đi, mỗi ngày nếm một bát, chiêm nghiệm cho kỹ!”
Bàng Quyên thấy hai thùng nước của mình và Tôn Tân vẫn còn bít kín da dê, cảm thấy oan uổng, liền biện luận: “Tiên sinh, Tôn Tân và đệ tử thành tâm lấy nước, không có một chút cơ tâm, tại sao tiên sinh lại không uống?”
Tiểu đồng liếc xéo Bàng Quyên một cái, chậm rãi nói: “Bàng Quyên, ngươi đã lên tiếng, thì lão hủ đây cũng nói cho ngươi biết. Mặc dù nước hai ngươi mang về múc ở đúng nguồn suối Cam Tuyền, nhưng lại bít tấm da dê lên miệng thùng, nước đã nhiễm mùi hôi tanh, uống vào còn kém xa nước lấy ở lưng chừng núi!”
Bàng Quyên cứng họng, không biết phải nói gì.
Tiểu đồng thấy họ đều ngẩn ngơ, thì phì cười mà nói: “Được rồi, được rồi, tiên sinh đã nói xong, các ngươi đứng dậy đi!”
Bốn người đưa mắt nhìn nhau, lại bái tạ rồi mới đứng dậy.
Tiểu đồng liếc mắt nhìn Ngọc Thiền vẫn đang ngồi một bên đọc sách, hỏi nhỏ: “Chị Thiền Nhi, tiếp theo phải nói gì?
Ngọc Thiền lườm tiểu đồng: “Không biết nói gì, thì không cần nói nữa!”
Tiểu đồng vội gật đầu, rồi quay sang bốn người: “Bốn vị sư đệ, tiên sinh đã hỏi xong, sư huynh ta cũng không còn chuyện gì để nói nữa. Các người hãy xách lấy thùng nước của mình trở về đi, đợi lát nữa nghe sư huynh căn dặn!”
Bốn người xách lấy thùng nước của mình, cắm đầu đi về.
Bàng Quyên đi tới trước cửa phòng, đang định xách thùng nước vào trong, thì thấy Trương Nghi cũng đặt thùng nước xuống trước cửa, nhất thời nảy ra ý trêu chọc, bèn đặt thùng nước xuống, ngoảnh nhìn Trương Nghi, lắc đầu quầy quậy, rồi chép miệng mà nói: “Chậc chậc! Quả là một thủ đoạn hay ho, thuật trộm xà đổi trụ không ngờ lại dám thực thi với cả tiên sinh! Không giấu nhân huynh, tối qua tại hạ cả đêm không ngủ, cứ nghĩ mãi về thùng nước suối của nhân huynh. Tại hạ nghĩ không thông, sợi dây leo rơi từ trên trời xuống lại kẹt ngay vào khe đá, rồi lại thòng xuống đúng đỉnh đầu nhân huynh, không chệch một ly, lẽ nào trên đời thực sự có chuyện vừa khéo đến vậy? Nếu chẳng phải tiên sinh công lực cao thâm, phân biệt được mùi vị nước thác ở lưng chừng núi, thì tại hạ đã bị qua mắt rồi!”
Trương Nghi cười lớn, đáp trả: “Trộm xà đổi trụ vẫn chưa phải là thủ đoạn, vẽ rắn thêm chân mới là bản lĩnh!”
Bàng Quyên sững người, quay nhìn tấm da dê bịt trên miệng thùng, mặt đỏ rần, vội vàng đi tới tháo sợi dây leo ra, gỡ tấm da xuống, hùng hục đi đến vạt rừng bên cạnh, thẳng tay quăng vụt đi.
Trương Nghi đứng dựa cửa, thản nhiên quan sát Bàng Quyên, rồi thung dung bước tới, nhặt lại tấm da dê, quay lại bên thùng nước của Bàng Quyên, mỉm cười mà nói: “Bàng nhân huynh, lúc nãy tiên sinh nói thế nào? Tiên sinh nói, những thùng nước này là cơ tâm của chúng ta, bảo chúng ta mỗi ngày hãy nếm một bát để chiêm nghiệm cho kỹ. Huynh lại ném tấm da đi, cũng có nghĩa là mang cơ tâm ném đi. Huynh ném cơ tâm đi, chẳng phải nước này uống vào sẽ chẳng còn vị gì nữa ư? Nếu tiên sinh biết Bàng nhân huynh uống thứ nước vô vị, vậy thì…”
Bàng Quyên lại ngẩn người, miệng há ra ngậm lại mấy lần, không nói được lời nào.
Trương Nghi thấy Bàng Quyên đã ngậm miệng, lại càng làm già, đi vài vòng quanh thùng nước của Bàng Quyên, gật gù tấm tắc: “Ái chà chà, thùng nước của nhân huynh không những có đủ vị hôi tanh, mà còn đầy ắp, không thiếu một giọt, nếu mỗi ngày uống một bát, chí ít cũng phải uống đến nửa tháng!” Rồi lại ngoái nhìn thùng nước chỉ còn phân nửa của mình, lắc đầu nói. “Ô, thật đáng tiếc, tại hạ chỉ có nửa thùng thôi, nhiều nhất cũng chỉ uống mươi ngày là hết mất rồi!”
Những lời châm chọc của Trương Nghi cứ tuôn ra như suối, song lại hữu lý, khiến Bàng Quyên máu sôi sùng sục, hai mắt trợn trừng, nhưng chẳng làm được gì Trương Nghi, chỉ biết hằm hằm lừ mắt nhìn hắn một cái, sau đó xách thùng nước vào phòng, đưa tay sập mạnh cánh cửa lại.
Trương Nghi chõ miệng vào cửa phòng Bàng Quyên cười ha hả mấy tiếng, đang định xách thùng nước của mình vào nhà, chợt thấy tiểu đồng đã đứng bên cạnh tự bao giờ.
Trương Nghi vội vàng vái chào: “Trương Nghi xin chào sư huynh!”
Tiểu đồng lừ mắt nhìn Trương Nghi, không thèm đáp lễ, lập tức hỏi phủ đầu: “Trương Nghi, mấy ngày nay cảm thấy thế nào?”
Trương Nghi chẳng buồn để tâm, tiện miệng nói luôn: “Hồi bẩm sư huynh, chẳng qua chỉ là chút mệt mỏi về xương cốt, chút vất vả về thân thể, Trương Nghi chịu được!”
Tiểu đồng chau tít đôi mày: “Sư huynh không hỏi cái đó, sư huynh hỏi ngươi, có cảm ngộ gì chăng?”
Trương Nghi vội cười giả lả: “Có có có, tại hạ cảm ngộ sâu sắc!”
Tiểu đồng nghiêm mặt: “Nói đi!”
Trương Nghi liếc xéo tiểu đồng: “Chính là điều sư huynh vừa nói khi nãy, tất cả mọi chuyện đều không được nảy cơ tâm. Tại hạ quyết chí làm theo lời sư huynh, mỗi ngày uống một bát nước để loại bỏ cơ tâm!”
Tiểu đồng cười nhạt nói: “Nếu như loại bỏ cơ tâm bằng cách đó, e rằng ngươi phải ở lại đỉnh Hầu Vọng mà uống cạn cả dòng suối!”
Trương Nghi sững người, rồi cất giọng thán phục: “Sư huynh mặc dù nhỏ tuổi, nhưng cái gì cũng hiểu, tại hạ phục rồi! Xin hỏi sư huynh, hôm nay tiên sinh còn muốn ăn uống thức gì không? Mấy ngày nay, tại hạ đã luyện được đôi chân cứng rắn, bất kể là ngọn núi nào, chỉ cần sư huynh căn dặn, tại hạ sẽ lập tức đi ngay!”
Tiểu đồng cười nhạt, liếc xéo Trương Nghi: “Ngươi gọi tất cả ra đây, sư huynh có việc cần căn dặn!”
Trương Nghi đang định gọi, mấy người trong nhà đã nghe thấy tiếng tiểu đồng, đều đi cả ra, vái chào tiểu đồng.
Tiểu đồng đáp lễ, cười khúc khích mà hỏi: “Các vị sư đệ, mấy ngày nay cảm thấy thế nào?”
Bàng Quyên thấy tiểu đồng thái độ khác hẳn mọi ngày, thì lập tức đổi ngay sắc mặt, ra vẻ thân mật, đi lại gần tiểu đồng, vừa toét miệng định làm thân thì tiểu đồng lùi ngay lại một bước. Bàng Quyên nhất thời sượng mặt, đứng ngây tại chỗ.
Tiểu đồng thu nụ cười lại, nhìn thẳng vào Bàng Quyên, nghiêm giọng nói: “Bàng sư đệ, sư huynh hỏi ngươi, mấy ngày nay cảm thấy thế nào?”
Bàng Quyên có được đường lui, cũng lập tức mặt mũi nghiêm trang, đáp lời: “Hồi bẩm sư huynh, trải qua mấy ngày tu đạo, Bàng Quyên đã học hỏi được rất nhiều!”
“Bàng sư đệ đã học được những gì?”
Bàng Quyên suy nghĩ một lát tìm cách trả lời: “Bàng Quyên vốn chẳng biết thế nào là tu đạo, nhưng mấy ngày nay đã bắt đầu hiểu ra, thì ra tu đạo chính là như vậy!”
“Là thế nào?”
“Thứ nhất không sợ khổ, thứ hai không được giả dối gian trá!”
“Hừm…” Tiểu đồng cười nhạt. “Nghe lời này của Bàng đệ, đã biết là vẫn mù mờ, ngay đến cánh cửa tu đạo cũng chưa tìm thấy!”
Bàng Quyên kinh ngạc: “Xin hỏi sư huynh, thế nào là tu đạo?”
“Lần này sư huynh đến, chính là nói cho các vị biết thế nào là tu đạo. Các vị sư đệ, hãy đi theo ta!” Tiểu đồng nói xong, phăm phăm đi trước dẫn đường.
Bốn người ngơ ngác nhìn nhau, rồi cùng đi theo tiểu đồng, bước theo con đường núi trong sơn cốc.
Đường núi ngoằn nghèo quanh co, thông tới một cánh rừng. Tiểu đồng dẫn họ đi vào trong rừng, ngồi khoanh chân dưới gốc một cây lớn, căn dặn bốn người: “Hãy ngồi như sư huynh, bắt đầu từ bây giờ, ngồi đến tận khi trời tối mới thôi!”
Trương Nghi tìm lấy một chỗ, ngồi xuống đầu tiên, trong miệng lẩm bẩm: “Cái này lại chẳng quá dễ? Lần trước chúng ta còn quỳ liền ba ngày ba đêm mà cũng không sao!”
Thấy Bàng Quyên, Tô Tần, Tôn Tân đều đã ngồi xuống, lúc này tiểu đồng mới nói: “Quỳ liền ba ngày thì dễ, nhưng ngồi thế này mới khó!” Rồi đứng dậy, chỉnh sửa tư thế cho bốn người, sau đó cao giọng. “Các vị hãy nghe cho rõ, phải giống như cây đinh cắm thẳng tại đây, mắt nửa mở nửa khép, lưng không được cúi khom, đầu không được cúi thấp, miệng không được nói chuyện, toàn thân bất động, dù Thái Sơn có sập xuống, cũng phải thản nhiên như không.”
Bàng Quyên cười nói: “Sư huynh yên tâm, cho dù lưỡi dao kề cổ, Bàng Quyên cũng tuyệt đối không động cựa.”
Tiểu đồng nhìn ba người còn lại: “Bàng sư đệ đã nói, cho dù lưỡi dao kề cổ cũng tuyệt đối không động cựa, ba người các ngươi có thể làm được chăng?”
Ba người cùng đáp: “Sư huynh yên tâm, tuyệt đối không động đậy một ly!”
Tiểu đồng gật đầu, nghiêm giọng nói: “Ngồi thế này hoàn toàn không giống với lấy nước, hái đào, không động đậy một ly, nói thì dễ, nhưng làm thì không dễ đâu! Song các ngươi đã nói như vậy, sư huynh sẽ tin các ngươi. Sư huynh chỉ muốn các ngươi ghi nhớ một câu, lừa người dễ, lừa tâm mới khó!”
Bốn người cùng ngồi ngay ngắn, hai mắt khép hờ, không nói năng gì nữa. Đúng vậy, lừa người thì dễ, nhưng lừa tâm mới khó. Ngồi ở đây, có động đậy hay không, chỉ mình họ biết, cũng chỉ có thể trông vào tâm thái của mỗi người.
Tiểu đồng kiểm tra lại một lượt tư thế ngồi của bốn người, uốn nắn lại cho Tô Tần, rồi gật gù nói: “Được rồi, hãy ngồi nguyên theo tư thế này, quên đi tất cả. Tất cả trung hiếu yêu hận, ân oán ưu phiền, công danh phú quý, cơm ngon rượu ngọt, bạn bè thù địch, tất cả mọi chuyện thế gian đều phải quên hết. Không nghĩ gì cả, không có gì cả, trong tâm các ngươi chỉ còn một bầu trống rỗng, trống rỗng hệt như sơn cốc này, hệt như khoảng trời này! Tóm lại, các ngươi phải quên rằng mình đang tĩnh toạ, chỉ có quên đi, mới có thể ngồi được lâu!”
Bốn người đưa mắt nhìn nhau.
Tiểu đồng lại quét mắt nhìn khắp lượt: “Nếu không thể quên được, sư huynh mách cho các ngươi một vài bí quyết. Một là nghe tiếng thu, hai là nghe nhịp tim, ba là nghe hơi thở, nếu ngốc hơn chút nữa, thì có thể đếm số, lắng nghe tiếng lá cây rụng, rơi một lá đếm một số!” Nói xong, liền khoanh chân ngồi bất động.
Quả như lời tiểu đồng đã nói, ngày hôm nay trôi qua cực kỳ khổ sở. Nửa ngày đầu, bốn người cố gắng lắm mới kiên trì được. Đến nửa ngày sau, Trương Nghi thấy lưng ngứa ran, rất muốn thò tay gãi, nhưng rồi lại gắng gượng chịu đựng. Cảm giác ngứa ngáy thực vô cùng khó chịu, Trương Nghi càng nghĩ càng ngứa, càng ngứa càng nghĩ, bị cơn ngứa ngáy giày vò đến mức nghiến răng lệch miệng, mặt mũi méo xệch. Trương Nghi lén liếc mắt nhìn sang mấy người kia, thấy họ vẫn ngồi im lìm, không biết làm sao, đành phải cắn răng chịu đựng.
Bàng Quyên lại gặp nỗi khổ sở khác. Nơi đây là rừng bạch dương, vì đang tiết thu, lá rụng tơi bời, một phiến lá rụng xuống sau gáy Bàng Quyên, vừa hay mắc kẹt vào trong cổ áo. Gió nhẹ hiu hiu, phiến lá lay động, cứ cọ qua quẹt lại trên gáy, khiến Bàng Quyên tâm hoả bốc lên ngùn ngụt, mấy lần định đưa tay hất đi, nhưng liếc thấy mọi người đều ngồi yên như tượng, cũng đành gắng gượng chịu trận.
Cứ thế ngồi đến tận khi trời tối, cuối cùng tiểu đồng cũng mở mắt ra, khẽ nói: “Các vị sư đệ, có thể thu công rồi!” Bốn người nghe thấy, đang định đứng lên, nhưng hai chân tê bại, không thể nhúc nhích nổi.
Tiểu đồng cười nói: “Các vị hãy nằm xuống một lát, duỗi thẳng hai chân, một chốc nữa sẽ dễ chịu hơn!”
Tiểu đồng nói xong, liền nằm ngửa ra phía sau. Bốn người làm theo tiểu đồng, cũng ngửa người ra phía sau nằm xuống, duỗi thẳng hai chân, một lát sau khí huyết dồn xuống, hai chân một trận tê rần, hệt như kim châm.
Tiểu đồng vẻ như chẳng hề hấn gì, chậm rãi đứng dậy, nhìn bộ dạng nhăn nhó khó coi của mọi người, liền cười khúc khích mà hỏi: “Cảm giác thế nào?”
Bàng Quyên đưa hai tay bóp chân, cố gắng chịu đựng cơn tê mỏi, nói: “Hồi… hồi bẩm sư huynh, hôm nay… tại hạ quả thực không động cựa chút nào!”
Tiểu đồng gật đầu khen ngợi: “Bàng sư đệ quả là tâm lực mạnh mẽ, bị phiến lá giắt vào sau gáy, mà sư đệ vẫn có thể nhẫn nhịn được!”
Bàng Quyên kinh ngạc: “Tại sao sư huynh lại biết?”
Tiểu đồng không trả lời, lại quay sang Trương Nghi: “Còn Trương sư đệ, trên người ngứa ngáy phải không? Sư đệ cố chịu đựng không gãi, cũng coi như có chút định lực!”
Trương Nghi kinh ngạc đến sững sờ, nhìn tiểu đồng, liên tục tặc lưỡi: “Đến việc trên người tại hạ ngứa ngáy mà sư huynh cũng biết, Trương Nghi phục rồi!”
Tiểu đồng lắc đầu, nói: “So với tiên sinh, sư huynh vẫn kém xa. Nếu như tiên sinh ở đây, đừng nói là chỗ ngứa trên người các vị, cho dù là suy nghĩ của các vị, tiên sinh cũng nhìn thấu!”
Nghe thấy vậy, bốn người đều trợn mắt kinh ngạc, không ai nói được lời nào.
Trương Nghi vội hỏi: “Trời ơi, đây chẳng phải là thuật tha tâm thông(2) trong truyền thuyết ư?”
Tiểu đồng liếc xéo hắn: “Cái gì mà tha tâm thông? Đây là đạo cảnh! Rất nhiều người muốn theo tiên sinh tu đạo, nhưng tiên sinh đều không thèm tiếp nhận. Lần này giữ bốn vị ở lại, lại còn cho sư huynh đây rèn luyện các vị, đúng là xưa nay chưa từng thấy. Nếu các vị không chịu khó luyện tập, để lỡ cơ duyên, sau này có hối hận cũng không kịp nữa!”
Trương Nghi đứng dậy, vòng tay vái tiểu đồng rồi nói: “Sư huynh giáo huấn rất đúng! Tại hạ nhất định sẽ theo sư huynh, chăm chỉ luyện tập, dốc sức thành tài, giúp sư huynh mở mặt!”
“Ngươi đúng là tên lẻo mép! Không phải là giúp sư huynh mở mặt, mà là giúp chính các vị! Cửa ải ngày hôm nay, coi như các vị đã miễn cưỡng vượt qua, ngày mai sẽ còn cửa ải khó khăn hơn nữa!”

Bắt đầu từ hôm đó, tiểu đồng ngày ngày dẫn họ vào rừng, thay đổi đủ các tư thế tĩnh toạ, mỗi ngày chỉ ăn một bữa cơm no. Hơn hai tháng sau, cơ thể cường tráng của bốn người đã gầy xọp đi trông thấy, nhìn từ xa, trông cũng đã phảng phất chút tiên phong đạo cốt. Còn về công phu tĩnh toạ, bốn người cũng đã rèn thành, mặc dù chưa thể đạt tới mức tâm tĩnh như gương, nhưng cũng có thể ngồi yên như đá, không động mảy may, gặp kinh không loạn.
Sáng hôm nay, tiểu đồng lại tiếp tục dẫn họ vào rừng. Bốn người vẫn như thường lệ, sau khi vào rừng, không nói nửa lời, chỉ âm thầm đi đến nơi thường ngày vẫn ngồi, sau đó chỉnh đốn y phục, rồi ngồi xuống nhập định.
Nhưng lần này tiểu đồng không ngồi theo, mà đứng tựa gốc cây, mắt nheo lại nhìn họ, rồi chậm rãi nói: “Chư vị hiền đệ!”
Nghe thấy tiếng nói, bốn người liền mở mắt ra, ngạc nhiên nhìn tiểu đồng.
Tiểu đồng cười hỏi: “Mọi người đã luyện tĩnh toạ hơn hai tháng rồi, cảm thấy thế nào?”
Bị hỏi bất thình lình, bốn người đều ngẩn tò te.
Bàng Quyên suy nghĩ một lát, rồi nói: “Hồi bẩm sư huynh, tại hạ đã có thể đạt đến độ toàn thân bất động.”
Tiểu đồng gật đầu nói: “Điểm này sư huynh đã sớm nhìn thấy, nhưng đây mới chỉ là bước đầu tiên. Nếu hôm nay, chư vị có thể tiếp tục toàn thân bất động, thì sư huynh xin được chúc mừng!” Nói đoạn, lấy từ trong túi ra một chiếc lọ nhỏ.
Bốn người đưa mắt nhìn, thấy trong lọ đựng đầy mật ong.
Tiểu đồng đổ mật ong ra tay, sau đó lần lượt bôi lên cổ chân, cổ tay, gáy và sau tai của bốn người.
Bốn người đều thất kinh. Lúc này đang giữa mùa thu, chính là thời điểm cuối cùng để lũ kiến, ong mật kiếm thức ăn dự trữ tha về tổ. Bôi mật ong lên người, hậu quả thế nào, không nghĩ cũng biết.
Trương Nghi mặt mày biến sắc, sợ hãi kêu lên: “Sư huynh, thế này mà bọn kiến kéo đến, chẳng phải sẽ nuốt sống chúng đệ ư?”
Tiểu đồng cũng bôi mật ong lên người mình, sau đó ngồi ngay ngắn trên đất, ném chiếc lọ rỗng sang một bên, mỉm cười mà nói: “Bốn vị sư đệ yên tâm, kiến chỉ ăn mật ong, không ăn thịt người!”
“Nhưng…” Bàng Quyên tiếp lời, “nếu ong vò vẽ kéo đến, chẳng phải sẽ còn thê thảm hơn ư?”
Tiểu đồng lại mỉm cười: “Bàng sư đệ, sư huynh nhớ có người từng nói, cho dù lưỡi dao kề cổ cũng không động cựa. Lẽ nào sư đệ lại sợ một con ong bé xíu?”
Bàng Quyên gân cổ: “Ai sợ? Tại hạ chẳng qua chỉ nói vậy thôi!”
“Chư vị hiền đệ,” tiểu đồng nói lớn, “chỉ cần tâm lặng như gương, không chút xao động, đừng nói là ong vò vẽ, cho dù mãng xà có đến, sư huynh đảm bảo mọi người vẫn bình an vô sự!”
Bốn người thấy tiểu đồng cũng bôi mật khắp người nên không dám nói gì thêm, lục tục ngồi xuống, chờ đợi các loại côn trùng đến hỏi thăm.
Hôm ấy vừa hay gặp ngày ấm áp. Lúc sáng sớm, vẫn chưa có chuyện gì, nhưng đến khi mặt trời lên, ánh nắng chiếu rọi khắp khu rừng, lũ côn trùng bắt đầu bận rộn. Lúc đầu, chỉ dăm con kiến bò đến, sau đó là vô vàn những kiến, chia quân mấy lộ, trật tự xếp hàng, tăm tắp bò lên từng cơ thể. Cho dù họ đã chuẩn bị tâm lý sẵn sàng, song cảm giác đó quả thật chẳng khác gì cực hình. Lại một lúc sau, quả nhiên ong rừng bay tới thật, những tiếng vo ve vụt qua vụt lại khiến họ lập tức quên phắt bầy kiến trên người, đầu óc căng như dây đàn, dõi theo kẻ thăm viếng có thân xác lớn hơn hẳn.
Đến khi mặt trời xuống núi, đám côn trùng cũng lũ lượt rút quân, bốn người đã có thể thở phào nhẹ nhõm.
Ngày hôm nay, cuối cùng cũng đã nhẫn nhịn qua được!
Tiểu đồng là người đầu tiên đứng dậy, cười khanh khách mà nói với bốn người: “Sư huynh chúc mừng các vị, cửa ải ngày hôm nay coi như đã vượt qua!”
Bàng Quyên đứng phắt ngay dậy, thọc vội cánh tay vào trong áo, sờ lần một lúc moi ra được một con kiến, vê mạnh ngón tay, bóp nó chết dí, giận dữ mắng: “Mẹ cha mày, định xây nhà ở đây chắc!”
“Xây nhà cái gì?” Trương Nghi phì cười. “E rằng cơ thể Bàng huynh quá nhiều chỗ khúc khuỷu quanh co, con kiến này lại lòng dạ thẳng thắn nên lạc đường cũng nên!”
Mọi người đều bật cười, Bàng Quyên cũng cười mà nói: “Trương huynh miệng lưỡi sắc bén, tại hạ khâm phục! Nhân tiện xin hỏi một câu, lúc trưa khi con ong vàng to đùng bay tới, nghe thấy tiếng nó vo ve lượn qua lượn lại, khi đó trong đầu nhân huynh đang nghĩ gì?”
Trương Nghi lập tức trả lời: “Cầu khấn!”
“Cầu khấn?” Bàng Quyên ngạc nhiên. “Thử nói xem, huynh cầu khấn thế nào?”
“Tại hạ cầu khấn rằng, này con ong lớn khiến người ta phát khiếp kia, nếu ngươi muốn hạ cánh, hãy hạ cánh xuống con người ngồi đối diện với ta ấy! Tên đó cơ thể cường tráng, da thịt dày dặn, nếu cái vòi của ngươi mà cắm xuống đó, chắc chắn sẽ sung sướng lắm!”
Trương Nghi mồm mép liến thoắng, mọi người đều cười nghiêng ngả, tiểu đồng cũng cười khanh khách, cười đến sặc sụa, vừa cười vừa đưa tay chống hông kêu lên oai oái. Bàng Quyên vừa cười, vừa bước lại gần, đưa tay vỗ nhẹ mấy cái vào lưng, thấy tiểu đồng đã đỡ tức thở, liền nhấc bổng tiểu đồng lên, xóc một cái đã vác luôn lên vai, nói: “Sư huynh đại nhân, hôm nay sư đệ thất lễ, cõng sư huynh về nhé!”

Vào lúc hoàng hôn, trong gian thảo đường ở Quỷ Cốc, Ngọc Thiền cầm cây kim bạc, châm từng nhát vào một quả mướp. Quỷ Cốc Tử bước ra khỏi động, đứng nhìn một lúc rồi đi lại gần, ngồi xuống trước bàn, gật đầu nói: “Thiền Nhi, lại đây!”
Ngọc Thiền bước lại bên bàn. Quỷ Cốc Tử vén tay áo, đặt cánh tay trái lên mặt bàn, mỉm cười nói: “Châm vào đây!”
Ngọc Thiền không ngờ Quỷ Cốc Tử lại đem thân thể ra cho mình châm thử, tay cầm kim run lên: “Tiên sinh, con…”
“Châm từ trên xuống, trước tiên châm huyệt Vân môn.”
Tay Ngọc Thiền càng run mạnh: “Con…”
Quỷ Cốc Tử nhìn thẳng vào Ngọc Thiền, khích lệ: “Thiền Nhi, đạo tạo hoá ra vạn vật, kỳ diệu nhất không gì bằng sinh mạng. Mà trong sinh mạng, kỳ diệu nhất không gì bằng con người. Hiểu người, không ai bằng thầy thuốc. Con chọn cách từ y nhập đạo, chừng đó cũng đủ thấy được huệ tâm của con. Từ y nhập đạo, không ở đọc sách, mà ở cảm ngộ. Những ngày qua, con đã đọc thuộc ‘Nội kinh’, nhưng ‘Nội kinh’ chỉ có thể dạy con y pháp, nếu muốn thực sự lĩnh ngộ được y đạo, thì phải đích thân thể ngộ. Chỉ châm lên quả mướp, con sẽ không thể ngộ được!”
Ngọc Thiền còn đang do dự, thì Quỷ Cốc Tử vỗ nhẹ vào tay mình, cười nói: “Yên tâm, bộ da già này không thể rách hỏng được đâu!”
Ngọc Thiền nhắm mắt lại, trấn tĩnh tinh thần, sau đó mở mắt ra, khẽ nói: “Tiên sinh, Thiền Nhi… Thiền Nhi sẽ châm thật đấy!”
“Châm đi, cứ coi nó là quả mướp!”
Ngọc Thiền tìm đúng vị trí huyệt Vân môn, thấy tiên sinh gật đầu, liền cắn răng đâm thẳng mũi kim xuống.
Quỷ Cốc Tử khen ngợi: “Tốt, châm tốt lắm, vị trí đúng rồi, hơi vê vào trong một chút, đúng rồi, đúng thế, vê như thế, hơi chếch sang trái một chút, chính là chỗ đó. Tốt, Thiền Nhi, huyệt Vân môn chính là chỗ này!”
Ngọc Thiền lo lắng hỏi: “Tiên sinh, có đau không?”
Quỷ Cốc Tử cười nói: “Con châm đúng huyệt, sao lại đau được?” Rồi ngước nhìn trời, bỗng đổi giọng. “Đáng lẽ họ phải trở về rồi chứ!”
Ngọc Thiền khẽ hỏi: “Tiên sinh, liệu họ có thể vượt qua được cửa ải hôm nay không?”
Quỷ Cốc Tử gật đầu.
“Tiên sinh để tiểu đồng giày vò họ như vậy, liệu có được không?”
“Có được hay không, còn phải xem cửa ải ngày mai thế nào. Nếu bốn người có thể vượt qua, thì có thể dạy được!”
Ngọc Thiền ngẫm nghĩ một lát, rồi ngẩng lên hỏi: “Tiên sinh, Thiền Nhi có chuyện không hiểu!”
“Nói đi!”
“Bốn người họ không có một ai đến vì tu đạo, nhưng tiên sinh lại bắt họ tu đạo, đây chẳng phải leo cây tìm cá hay sao?”
Quỷ Cốc Tử khẽ thở dài: “Họ lên núi này có phải để tu đạo hay không, chẳng lẽ lão hủ lại không nhận ra? Chỉ có điều… trong những ngày này, lão hủ đã suy nghĩ kỹ, cảm thấy lời của Tuỳ Sào Tử cũng không phải hoàn toàn sai!”
“Tuỳ Sào Tử?” Ngọc Thiền ngạc nhiên. “Tuỳ Sào Tử tiên sinh đã nói những gì?”
“Ông ta nói, sướng khổ của đời người tuy là tự nhiên, song chiến loạn tàn sát lại là nhân hoạ. Đã là nhân hoạ, phải có người trị. Hiện giờ thế đạo hỗn loạn, dân chúng lầm than, trái ngược với thiên đạo, cũng nên sớm kết thúc mới phải!”
Ngọc Thiền hai mắt mở to: “Tiên sinh, lẽ nào người muốn bốn người họ đi trị lý sự hỗn loạn của thế gian?”
“Còn phải xem họ có thành tài hay không!”
“Đã đủ ba tháng rồi, tiên sinh thấy họ liệu có thành tài được chăng?”
“Đương nhiên có thể nhìn ra! Họ đều là những viên ngọc thô rất đẹp, chỉ cần mài giũa chút ít là có thể thành tài. Còn về thành tài lớn nhỏ ra sao, phải dựa vào chính bản thân họ.”
“Ý tiên sinh là, thành tài lớn hay nhỏ, hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân họ, vậy, điều đó được quyết định bởi thứ gì?”
“Quyết định bởi sự cảm ngộ về đạo. Ngộ được nhiều, có thể thành tài lớn; ngộ được ít, có thể thành tài nhỏ; không ngộ được, sẽ không thể thành tài.”
Ngọc Thiền lại hỏi: “Vậy nếu ngộ được hoàn toàn thì sao?”
Quỷ Cốc Tử cười nói: “Sẽ là bất khí!”
“Thế nào là bất khí?’
“Bất khí chính là người ngộ đạo, xưa gọi là thánh nhân, có thể thấu suốt bí mật của vạn vật, thông tỏ huyền cơ của trời đất.”
“Nói như vậy, thì tiên sinh đã trở thành bậc bất khí rồi!”
Quỷ Cốc Tử lắc đầu, khẽ thở dài: “Lão hủ khổ sở tìm kiếm cả đời, cũng chỉ vì muốn thành bậc bất khí. Nhưng đến nay vẫn thấy con đường phía trước xa vời vợi. Thời gian của ta không còn nhiều nữa, vốn muốn toàn tâm cầu đạo, thế nhưng việc trần gian vẫn không thể dứt bỏ hoàn toàn.”
Ngọc Thiền đột nhiên bừng tỉnh: “Chẳng trách tiên sinh một mực không nhận họ làm đệ tử, thì ra là vậy!”
“Đã là duyên phận, chính là thiên đạo, cho dù ta có muốn tránh, cũng chẳng thể tránh được.”
Ngọc Thiền trầm tư một lát, lại ngẩng lên hỏi: “Tiên sinh, Thiền Nhi có điều không hiểu, người thế gian phần nhiều là nham hiểm độc ác, mưu kế đa đoan, tiên sinh lại để bốn người họ thể ngộ đại đạo, lẽ nào đại đạo có thể ứng phó với những kẻ gian hiểm trong thế gian?”
“Đúng vậy!” Quỷ Cốc Tử gật đầu nói. “Người ta thường nói, một chính áp trăm tà, tức tà không thể thắng chính. Người có cơ tâm, phần lớn là phường tham lam danh lợi, lòng dạ hẹp hòi, không thể làm nên đại sự. Người làm nên đại sự, ngoài trừ bỏ cơ tâm, còn phải bồi dưỡng đạo tâm!”
“Ý của tiên sinh là bốn người này đều đã có cơ tâm, duy chỉ thiếu đạo tâm. Người để họ ngày ngày tu luyện, chính là để họ cảm ngộ được đại đạo, nuôi dưỡng đạo tâm!”
Quỷ Cốc Tử lại gật đầu: “Đúng vậy, cơ tâm là thuật, nếu không có đạo tâm chế ngự, thuật càng cao, hành vi lại càng lầm lạc, đến cuối cùng không những khó thành đại khí, mà e rằng muốn bảo vệ bản thân cũng khó. Trên đời có biết bao người mê đắm vì đó, mà tự rước hoạ vào thân, lại liên luỵ đến người khác!”
Vừa nói đến đây, đã thấy tiểu đồng nhảy chân sáo tung tăng chạy về, nhìn thấy Ngọc Thiền, thì hào hứng reo lên: “Chị Thiền Nhi, mấy vị sư đệ đều đã vượt qua cửa ải!”
Ngọc Thiền đáp: “Em vui mừng đến thế kia ư? Tiên sinh đã biết lâu rồi!”
Lúc này tiểu đồng mới biết Quỷ Cốc Tử cũng ở đây, vội bước tới trước mặt tiên sinh: “Tiên sinh, tiếp theo sẽ là cửa ải gì?”
“Dẫn họ lên đỉnh Hầu Vọng!”
“Tiểu đồng hiểu rồi!”

Sáng sớm hôm sau, tiểu đồng vẫn giống như mọi ngày, đi tới trước cửa nhà của bốn người, và bốn người cũng đã đợi sẵn ở đó. Thấy tiểu đồng vai khoác tay nải, Trương Nghi tươi cười chạy lên mấy bước, hành lễ xong bèn chỉ vào tay nải, hỏi: “Sư huynh, trong đây hẳn không phải đựng toàn mật ong đấy chứ?”
Tiểu đồng lắc đầu.
Trương Nghi tỏ vẻ thất vọng: “Tại sao không mang nữa? Cảm giác ngày hôm qua, ban đầu có hơi khó chịu thực, nhưng về sau cũng quen dần. Cuối cùng, tại hạ đã kết thân được với cả bầy kiến, khi chúng nhao nhao từ biệt, tại hạ thấy lưu luyến quá!”
Mọi người đều cười phá lên.
Tiểu đồng ngừng cười, nói: “Trương sư đệ, hôm nay sư huynh dẫn mọi người tới một nơi, đảm bảo vô cùng thú vị!”
Bàng Quyên vội hỏi: “Là nơi nào?”
“Đỉnh Hầu Vọng!”
Nghe thấy ba chữ “đỉnh Hầu Vọng”, Trương Nghi không nói thêm nửa lời, đùng đùng đi vào trong nhà, đeo thùng gỗ lên, phăm phăm đi trước.
Tiểu đồng nhìn theo Trương Nghi, cười hỏi: “Trương sĩ tử, định làm gì vậy?”
Trương Nghi đáp: “Không giấu sư huynh, tại hạ mong đợi ngày này đã lâu lắm rồi. Lần trước chưa trèo lên tới đỉnh, để họ Bàng nhanh hơn một bước, vẫn thấy ấm ức trong lòng. Lần này, tại hạ nhất định sẽ là người đầu tiên lên đến đỉnh núi, nhất định!”
Bàng Quyên đang định vặc lại, tiểu đồng đã nhắc nhở: “Đặt thùng xuống, mang thêm vài bộ quần áo. Thời hạn ba tháng đã đến, nếu các đệ không thể vượt qua cửa ải hôm nay, thì ngày mai lập tức xuống núi!”
Nghe tiểu đồng nói vậy, cả bốn người đều không dám nói gì thêm, cùng quay về phòng, gói ghém áo ấm giống như tiểu đồng, sau đó cùng đi về phía đỉnh Hầu Vọng.
Tiểu đồng đi trước dẫn đường, đưa bốn người đi theo hẻm núi mà lần trước Tôn Tân, Bàng Quyên đã đi để lên đỉnh Hầu Vọng. Nhìn vẻ thông đường thuộc lối của tiểu đồng, hiển nhiên tiểu đồng thường xuyên lên đỉnh núi này.
Lúc này đã cuối thu, trên đỉnh núi gió lạnh ào ào, giá buốt thấu xương. Năm người vừa lên đến đỉnh được chốc lát, cái nóng nực trong lúc leo núi nhanh chóng bị xua tan, ai nấy đều vội mở tay nải, lấy áo bông ra mặc vào.
Trương Nghi hỏi: “Xin hỏi sư huynh, phải chăng hôm nay sẽ tĩnh tọa ở đây?”
Tiểu đồng gật đầu.
Trương Nghi không nói một lời, vội tìm một nơi khuất gió, ngồi xuống. Đỉnh Hầu Vọng dù thế núi cao chót vót, nhưng đỉnh núi chỉ lớn bằng mấy căn nhà, lại gồ ghề nhấp nhô, Bàng Quyên nhìn khắp một vòng, quả thật chỉ có chỗ của Trương Nghi là lý tưởng nhất, vừa khuất gió lại an toàn, liên bật cười mà nói: “Trương nhân huynh, chỗ này nên nhường cho sư huynh mới đúng. Sư huynh còn chưa cất bước, mà huynh đã ngồi xuống trước rồi!”
Trương Nghi bật thẳng người dậy như con cá chép, nói: “Bàng huynh, nếu huynh muốn ngồi, tại hạ nhường cho là được, sao phải lôi sư huynh ra làm gì?”
Tiểu đồng cười nói: “Chỗ này chỉ để cho người thường ngồi, người tu đạo không thể ngồi!”
Trương Nghi cười vang mà nói: “Nghe sư huynh nói vậy, chỗ này có lẽ thích hợp với Bàng nhân huynh hơn!” Rồi quay sang Bàng Quyên. “Bàng huynh, mời!”
Trương Nghi chuyển từ thủ sang công, khiến Bàng Quyên tức giận đến đờ người, đang định nổi đoá thì tiểu đồng đã nói: “Không còn sớm nữa, hôm nay là cửa ải cuối cùng, nếu chư vị sư đệ có thể ngồi vững vàng được như mọi ngày, tiểu đồng sẽ bẩm báo thực tình với tiên sinh. Các vị đi hay ở, hoàn toàn do tiên sinh quyết định!”
Nghe thấy lời lẽ nghiêm khắc của tiểu đồng, bốn người không dám chần chừ, lập tức thu thần tĩnh khí.
“Nếu đã nói vậy, thì sư huynh, ngồi luôn tại đây đi!”
Bàng Quyên chủ động đi tới nơi đón gió, khoanh chân ngồi xuống.
Tiểu đồng nhìn Bàng Quyên: “Bàng sư đệ, mời đứng dậy!”
Bàng Quyên ngạc nhiên: “Không phải tĩnh toạ ở đây ư?”
“Đây không phải chỗ ngồi của người tu đạo!”
Bốn người đều kinh ngạc, Bàng Quyên vội đứng dậy, hai mắt ngơ ngác nhìn tiểu đồng: “Xin hỏi sư huynh, chúng ta ngồi ở đâu được?”
“Hãy đi theo ta!” Tiểu đồng nói đoạn, đi thẳng tới vách đá dựng đứng ở phía tây, đứng dưới cây tùng mà Bàng Quyên đã buộc dây leo hồi trước, chỉ vào mép vách đá. “Ngồi tại đây!”
Bốn người mặt cắt không còn hạt máu, đưa mắt nhìn nhau. Nơi này phía dưới trống không, nhìn từ xa giống như một cánh tay khổng lồ giơ ngang trên cơ thể tiên nhân. Đứng ở trên đó, ngay cả cây tùng lẻ phía dưới mấy trượng cũng không thể nhìn thấy, nguy hiểm thế nào, không nghĩ cũng biết.
Trương Nghi dè dặt đi tới chỗ tiểu đồng đang đứng, đưa tay bám vào cành tùng, thò đầu ngó xuống dưới, rồi vội rụt ngay cổ lại, kêu lên rối rít: “Trời ơi, hun hút nhìn không thấy đáy, ngộ nhỡ trượt chân rơi xuống, cho dù là viên đá cũng tan thành vụn cám. Mọi người ai thích ngồi cứ ngồi, tại hạ sợ độ cao, không ngồi đâu, không ngồi đâu!”
Bàng Quyên nhanh trí: “Có cách rồi! Để tại hạ đi tìm mấy sợi dây leo, một đầu buộc vào lưng, một đầu buộc vào cây, nếu chẳng may rơi xuống, cũng không đến nỗi mất mạng!”
“Phải đấy!” Trương Nghi khen. “Đúng là một ý hay! Bàng huynh, tại hạ sẽ cùng huynh đi kiếm dây leo!”
Tiểu đồng cười nhạt nhìn họ, rồi quay sang Tô Tần và Tôn Tân: “Hai người có muốn buộc dây không?”
Tôn Tân trả lời: “Tôn Tân xin nghe sư huynh sắp đặt!”
Tiểu đồng gật đầu, lại nhìn thẳng vào Tô Tần: “Tô sư đệ, tại sao sư đệ không lên tiếng?”
Tô Tần liền di chuyển, bước từng bước tới bên mép vực, ngồi xuống tại chỗ chỉ cách mép vực một bước chân, rồi khép mắt ngâm nga: “Sư huynh, chỗ này được chăng?”
Tiểu đồng quay sang Tôn Tân: “Tôn sư đệ, cũng ngồi đi!”
Tôn Tân đi tới bên cạnh Tô Tần, khoanh chân ngồi xuống.
Không đợi tiểu đồng lên tiếng, Bàng Quyên cũng vội vàng bước tới, ngồi ngay xuống bên cạnh Tôn Tân. Trương Nghi thấy vậy, cũng bước lại ngồi sát Tô Tần.
Tiểu đồng cười hỏi: “Trương sư đệ, chẳng phải sư đệ sợ độ cao ư?”
Trương Nghi cười hì hì mà nói: “Hồi bẩm sư huynh, đó chỉ là chuyện lúc nhỏ!”
Tiểu đồng bật cười: “Đệ lớn nhanh thật đấy!” Rồi quay sang Bàng Quyên. “Bàng sư đệ, đệ không buộc dây nữa ư?”
“Hồi bẩm sư huynh, Trương sĩ tử có chứng sợ độ cao, tại hạ lo lắng hắn bị ngã xuống dưới, nên mới định đi chặt dây leo để buộc hắn lại!”
Trương Nghi cười nhạt: “Họ Bàng kia, ngươi muốn buộc thì cứ buộc, sao phải đổ lên đầu bản thiếu gia?”
Bàng Quyên đang định vặc lại, thì tiểu đồng đã bắt chước giọng điệu của Quỷ Cốc Tử, khẽ thở dài một tiếng: “Than ôi, xem bụng dạ của các ngươi kìa, sao có thể thành đại khí được đây?”
Bàng Quyên lời ra đến miệng, lại đành phải nuốt xuống họng, chỉnh trang quần áo, rồi khép mắt lại. Bốn người không ai lên tiếng, tất cả đều nhắm mắt tĩnh toạ. Thấy mọi người đều đã ngồi yên, tiểu đồng bèn chậm rãi nói: “Các vị sư đệ, hãy mở mắt ra, dịch về phía mép vực thêm nửa bước.” Mọi người nghe mà hãi hùng, song tất cả vẫn mở mắt, dè dặt dịch về phía trước nửa bước, rồi lại vội vàng nhắm mắt lại.
Được một lát, tiểu đồng lại nói: “Các vị sĩ tử, nhích thêm nửa bước!”
Bốn người chỉ đưa mắt nhìn nhau, một lúc sau, Tô Tần mới bạo gan tiếp tục nhích thêm nửa bước về phía mép vực. Ba người thấy vậy, cũng đều bấm bụng nhích theo.
Tiểu đồng hài lòng, gật đầu nói: “Tốt lắm, chỉ cần nhích thêm một chút nữa là được rồi!”
Nhưng mọi người không ai dám động cựa.
Bàng Quyên cuống quýt: “Sư huynh, đã… đã đến tận mép rồi, nếu nhích thêm một chút xíu, sẽ rơi xuống mất!”
“Các vị sư đệ, hãy nhìn đây!” Tiểu đồng thoăn thoắt bước tới mép vực, khoanh chân ngồi xuống ngay bên mép, hai đùi thò hẳn ra ngoài, từ xa nhìn lại, trông hệt như đang ngồi giữa không trung.
Sau khi ngồi ổn định, tiểu đồng khép hờ hai mắt, chậm rãi nói: “Làm như ta đây, khép hờ hai mắt, quên đi vực thẳm trước mặt, tưởng tượng mình vẫn ngồi dưới gốc cây như mọi ngày. Tâm có vững thì cơ thể mới vững. Tâm vững bao nhiêu, cơ thể sẽ vững bấy nhiêu. Nếu tâm vững tựa Thái Sơn, các đệ ngồi ở đây, cho dù có gió dữ mưa dông cũng chẳng thể lay động nổi!”
Đây là những lời mà Quỷ Cốc Tử đã nói với tiểu đồng khi lần đầu tiên dẫn tiểu đồng đến tĩnh toạ ở nơi này, tiểu đồng nhắc lại không sót một chữ. Bốn người nghe mà tâm phục khẩu phục, không ai nói thêm nửa lời, lập tức bắt chước của tiểu đồng, nhích lên cho hai đùi thò hẳn ra ngoài không trung.
Kể cũng lạ, bốn người sau khi hạ quyết tâm, lại không cảm thấy sợ hãi nữa, cứ thế ngồi lửng lơ bên mép vực suốt hai canh giờ.
Tiểu đồng liếc nhìn bốn người, thấy sắc mặt họ không còn vẻ sợ hãi, dáng điệu điềm nhiên, biết rằng họ đã nhập định. Tiểu đồng khẽ thở phào, đứng dậy rồi nói: “Chư vị hiền đệ, hãy đứng dậy đi!”
Lúc này, bốn người mới sực nhớ ra mình đang ngồi trên mép vực, thì không ai dám liều lĩnh, tất cả đều từ từ nhích về phía sau từng chút một, lùi đến tận vị trí an toàn, mới dám lật người bò dậy.
Trương Nghi giận dỗi hỏi: “Sư huynh, tại hạ vừa mới nhập định, đang định ngồi tới khi trời tối, tại sao đã bảo đứng dậy rồi?”
Tiểu đồng ngước mắt nhìn trời: “Chắc hẳn tiên sinh đang đợi ở nhà, lẽ nào các vị muốn bắt tiên sinh đợi lâu?”
Ba tháng nay, tiên sinh luôn tránh mặt không gặp, bốn người suýt chút nữa đã quên bẵng mất tiên sinh. Giờ nghe tiểu đồng nhắc đến, đều không khỏi kinh ngạc.
“Tiên sinh đợi chúng đệ ư?” Trương Nghi bước lên trước, hai mắt mở to. “Sư huynh, ý huynh là, tiên sinh muốn gọi chúng đệ đến?”
Tiểu đồng gật đầu.
Bốn người đưa mắt nhìn nhau, Bàng Quyên thấp thỏm bất an, hỏi: “Sư huynh, tiên sinh… chắc sẽ không đuổi chúng đệ xuống núi nữa chứ?”
Tiểu đồng nói: “Sáng sớm hôm nay tiên sinh đã dặn, nếu các vị có thể ngồi trên mép vực hai canh giờ mà sắc mặt không đổi, coi như đã qua cửa ải, có thể quay về hành lễ bái sư. Hai canh giờ đã trôi qua, sư huynh chúc mừng chư vị!”
Nghe đến đây, bốn người vừa kinh ngạc vừa vui sướng, nhất thời ngây sững, một lúc sau mới dám tin là sự thực, cả bốn đều nghẹn ngào đến ứa nước mắt, xúc động khôn xiết.
Tôn Tân bước lên, quỳ xuống trước mặt tiểu đồng, lạy liền ba lạy, rồi thành tâm nói: “Sư huynh, Tôn Tân đa tạ sư huynh!”
Tô Tần, Trương Nghi, Bàng Quyên thấy vậy, cũng nhớ đến sự cực khổ của tiểu đồng suốt ba tháng vừa qua, tất cả đều quỳ xuống lạy tiểu đồng ba lạy. Tiểu đồng nhất thời không kịp phản ứng, chỉ đứng như trời trồng. Sau khi định thần, tiểu đồng cũng vội vàng quỳ xuống, rối rít kéo họ dậy, nói: “Chư vị sĩ tử, các vị hành đại lễ như vậy, tiểu đồng làm sao dám nhận? Các vị muốn bái, thì hãy mau về bái tiên sinh!”

Giữa trưa, trong gian thảo đường của Quỷ Cốc Tử, không khí hết sức trang nghiêm. Hai cánh cửa gỗ khép hờ, Tô Tần, Trương Nghi, Bàng Quyên, Tôn Tân, Ngọc Thiền năm người xếp thành một hàng, quỳ ở ngoài cửa chờ đợi.
Tiểu đồng đứng bên cửa, sắc mặt nghiêm nghị.
Tại gian chính của thảo đường, trên tường treo bức đồ hình âm dương bát quái cỡ lớn, trên bàn đặt bài vị của bốn vị Hiên Viên Đế, Chu Văn Vương, Lão Đam, tiên sư Quan Doãn Tử.
Quỷ Cốc Tử tự tay thắp ba nén hương, cắm vào lư đồng phía trước bài vị, quỳ xuống bái lạy: “Đệ tử Vương Hủ khấu bái tiên thánh, tiên sư, khẩn cầu tiên thánh, tiên sư lắng nghe đệ tử tỏ bày!” Nói đoạn, lạy liền ba lạy, nhắm mắt lầm rầm. “Tiên thánh, tiên sư từng nói, sống chết, hưng vong, hoạ phúc, sướng khổ, tất cả đều là cái đạo tự nhiên, sức người không thể cưỡng cầu, đệ tử vẫn luôn coi là chân lý. Suốt mấy chục năm nay, đệ tử ở trong Quỷ Cốc, không màng tới thời thế loạn lạc, chỉ đứng ngoài nhìn chuyện phân tranh, ngày ngày tu thân dưỡng tính, khắc khắc thể ngộ thiên đạo vô thường, thế đạo biến ảo, những mong có thể đạt tới cảnh giới tự giác tự ngộ. Vậy mà, cây muốn lặng mà gió chẳng dừng, thiên hạ ngày càng hỗn loạn, trăm họ khổ cực lầm than, lại được lão bằng hữu Tuỳ Sào Tử thường xuyên vào núi giảng giải, khuyên bảo đệ tử. Đệ tử biết rõ, người tính chẳng bằng trời tính, thu nhận bốn người chính là tham niệm. Nhưng trời đất nhật nguyệt chứng giám, cái tâm của đệ tử chẳng mong cầu gì khác, chỉ mong sớm ngày chấm dứt cảnh liệt quốc phân tranh, nhân gian thanh bình, bách tính an cư lạc nghiệp! Quyết định của đệ tử lần này, nếu là hồ đồ, không tự lượng sức, dám mong tiên thánh lượng thứ! Ngọc Thiền chất thuần tính khiết, thông tuệ mẫn tiệp, giống như tiểu đồng, chính là nhân tài tu đạo trời sinh, đệ tử lưu lại nơi đây, hôm nay cũng đồng thời thu nhận!”
Quỷ Cốc Tử khấn xong, lại lạy ba lạy, rồi chậm rãi đứng dậy, ngồi xuống chiếu phía trước bài vị, quay sang nói với tiểu đồng: “Cho họ vào!”
Tiểu đồng dõng dạc hô: “Các vị sĩ tử, Ngọc Thiền, tiên sinh mời vào!”
Ngọc Thiền đi trước, Tô Tần, Trương Nghi, Tôn Tân, Bàng Quyên lần lượt đi sau, cùng tiến vào trong. Tiểu đồng bước lại, đứng hầu ở bên trái Quỷ Cốc Tử.
Năm người bước tới trước mặt Quỷ Cốc Tử, cùng dập đầu sát đất, đồng thanh nói: “Đệ tử khấu kiến tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử đặng hắng một tiếng, ôn tồn nói: “Ngọc Thiền, Tô Tần, Trương Nghi, Tôn Tân, Bàng Quyên, lão hủ hỏi các ngươi, có tình nguyện cùng ta ở trong cốc này, cảm ngộ đại đạo hay không?”
Năm người cùng lạy mà nói: “Đệ tử nguyện bái tiên sinh làm sư phụ, theo tiên sinh cảm ngộ đại đạo!”
Quỷ Cốc Tử nói: “Năm người các ngươi có lòng tu đạo, đã trải qua nhiều tháng thử thách, cũng đã là đạo khí. Nay lão hủ thuận theo ý trời, chính thức thu nhận năm người các ngươi làm đệ tử cùng với tiểu đồng, giờ lập tức hành lễ bái sư!”
Năm người lại bái lạy: “Đệ tử đa tạ đại ân của tiên sinh!”
“Sáu người các ngươi đã là đệ tử đồng môn, hãy căn cứ vào thời gian lên núi để sắp xếp thứ tự. Tiểu đồng lên núi sớm nhất, sẽ là sư huynh, Ngọc Thiền thứ hai, là sư tỷ, sau đó đến Tô Tần, Trương Nghi, Tôn Tân, Bàng Quyên!
“Đệ tử tuân mệnh sư phụ!”
Quỷ Cốc Tử quay sang tiểu đồng: “Tiểu đồng, cho hành lễ đi.”
Tiểu đồng hô lớn: “Sư muội, chư vị sư đệ, lễ bái sư bắt đầu! Nhất bái thiên đạo!”
Quỷ Cốc Tử chậm rãi đứng dậy, quay người lại, quỳ xuống trước đồ hình âm dương bát quái, hành lễ ba lạy chín dập đầu. Tiểu đồng, Ngọc Thiền và bốn người còn lại cũng làm theo tiên sinh, cùng hành đại lễ.
Tiểu đồng hô tiếp: “Nhị bái tiên thánh, tiên sư!”
Quỷ Cốc Tử và chúng đệ tử tiếp tục khấu bái bốn bài vị trên án.
Bái bài vị xong, tiểu đồng lại hô: “Tam bái ân sư!”
Quỷ Cốc Tử đứng dậy, chỉnh trang y phục, rồi ngồi xuống trước bài vị.
Năm đệ tử cùng khấu bái trước mặt Quỷ Cốc Tử, hành đại lễ ba lạy chín dập đầu. Lạy xong, cùng đồng thanh thề: “Tiên thánh, tiên sư ở trên, đệ tử nguyện làm môn sinh của Quỷ Cốc tiên sinh, bái tiên sinh làm sư phụ. Bắt đầu từ hôm nay, sẽ vứt bỏ mọi tạp niệm, theo tiên sinh tu thân dưỡng tính, một lòng hướng đạo. Nếu trái lời thề, trời đất không dung!”
Quỷ Cốc Tử nói lớn: “Tiên thánh, tiên sư ở trên, bắt đầu từ hôm nay, Vương Hủ sẽ thuận theo ý trời, thu nhận năm người Ngọc Thiền, Tô Tần, Trương Nghi, Tôn Tân, Bàng Quyên làm đệ tử, đôn đốc họ tu thân ngộ đạo, thành tựu chính quả!” Rồi đưa mắt nhìn khắp lượt năm người. “Chúng đệ tử, nghi lễ đã kết thúc, các con hãy lại đây!”
Năm người đa tạ, chuyển từ quỳ sang ngồi, cũng ngồi xếp bằng giống như Quỷ Cốc Tử.
Quỷ Cốc Tử nhìn họ một lượt, mỉm cười nói: “Các con đã đến đây để giác ngộ đại đạo, vậy ta sẽ hỏi một câu, đạo là gì?”
Bốn người đưa mắt nhìn nhau, không ai dám nói trước.
Ngọc Thiền vòng tay nói: “Hồi bẩm tiên sinh, tiên thánh Lão Đam có nói: ‘Có một vật hỗn độn mà nên, sinh trước trời đất. Yên lặng, trống không, đứng một mình mà chẳng thay, đi khắp nơi mà không mỏi, có thể làm mẹ thiên hạ. Ta không biết tên, miễn cưỡng đặt tên là Đạo, miễn cưỡng gọi nó là Lớn.’ Cái đạo mà tiên sinh nói, phải chăng cũng giống như vậy?”
“Đây là lời của tiên thánh, lão hủ muốn hỏi, con có biết đạo là gì chăng?”
Ngọc Thiền lắc đầu.
Quỷ Cốc Tử lại quay sang phía bốn người: “Bốn người các con, có ai biết không?”
Trương Nghi nói lớn: “Bẩm tiên sinh, đạo là hỗn độn!”
Quỷ Cốc Tử mỉm cười: “Còn gì nữa không?”
“Đạo là âm dương!”
Quỷ Cốc Tử lại mỉm cười: “Còn gì nữa không?”
Trương Nghi há miệng định nói, nhưng lại ngậm lại.
Bàng Quyên đảo mắt một vòng, tiếp lời: “Đạo là mơ hồ, là như có như không!”
“Còn gì nữa không?”
Bàng Quyên cũng không trả lời được tiếp.
Quỷ Cốc Tử quay sang hỏi Tô Tần: “Tô Tần, con có biết chăng?”
Tô Tần lắp bắp: “Đệ… đệ tử không biết!”
“Tôn Tân, con có biết chăng?”
Tôn Tân suy nghĩ một lát, rồi lắc đầu: “Hồi bẩm tiên sinh, đệ tử không biết!”
Quỷ Cốc Tử cười vang: “Năm người các con đến đây để ngộ đạo, nhưng lại có ba người không biết đạo là gì, hai người nói biết, nhưng chỉ là bề ngoài, chỉ là nhai lại lời của người khác, không phải đích thân thể ngộ!”
Quỷ Cốc Tử nói xong, Trương Nghi, Bàng Quyên đều đỏ mặt, cúi gằm đầu xuống không nói năng gì.
Ngọc Thiền ngẩng lên hỏi: “Đệ tử ngu muội, xin tiên sinh chỉ dạy!”
“Đạo là huyền cơ của thiên địa, là khởi nguồn của vạn vật, tiên thánh gọi nó là Không.”
Trương Nghi hỏi: “Xin hỏi tiên sinh, đạo đã là Không, vậy đệ tử phải bắt đầu cảm ngộ từ đâu?”
“Hỏi rất hay! Mặc dù là Không, song có thể sinh Có. Vạn vật đều do đạo sinh ra, đây chính là cái lý trong lời nói của tiên thánh, đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật.”
Bàng Quyên nói xen vào: “Xin hỏi tiên sinh, đạo đã là Không, vậy chúng con phải tìm kiếm ở đâu? Nếu tìm không thấy, thì phải cảm ngộ như thế nào?”
“Hỏi rất hay!” Quỷ Cốc Tử trả lời. “Đông Quách Tử người Tống gặp Trang Tử, Đông Quách Tử bèn nói, xin hỏi tiên sinh, đạo ở đâu. Trang Tử đáp, đạo có ở mọi nơi. Đông Quách Tử muốn Trang Tử chỉ rõ, Trang Tử bèn chỉ vào một đàn kiến, nói, đạo ở đây. Đông Quách Tử ngạc nhiên hỏi, tại sao đạo lại nhỏ bé đến thế. Trang Tử bèn chỉ vào đám cỏ dại bên cạnh nói, cũng ở đây. Đông Quách Tử kinh ngạc, Trang Tử lại tiếp tục chỉ tay vào đống gạch vụn bên cạnh nói, ở đây nữa. Đông Quách Tử không tin, hỏi rằng, tại sao tiên sinh càng nói càng thái quá vậy. Chưa đợi Đông Quách Tử dứt lời, Trang Tử lại chỉ tay vào bãi phân bên cạnh nói, nhìn xem, đạo ở đó.”
Ngọc Thiền đột nhiên bừng tỏ: “Ý tiên sinh là, vạn vật đều do đạo sinh ra, đạo cũng có trong vạn vật. Vạn vật có ở khắp nơi, đạo cũng có ở khắp nơi. Chúng ta nếu muốn ngộ đạo, thì phải bắt đầu từ cảm ngộ vạn vật?”
Quỷ Cốc Tử khen ngợi: “Nói hay lắm! Vạn vật trên thế gian đều do đạo sinh ra. Đã là do đạo sinh ra, tức bên trong vạn vật cũng có đạo, vì vậy cái lý của vạn sự vạn vật cũng chính là cái lý của đạo. Gọi là ngộ đạo, chính là rèn luyện một cặp huệ nhãn, từ cái lý của việc này để thấy được cái đạo của nó, lại từ cái đạo đó mà thấy được cái đạo khác, cứ tầng tầng mà suy ra, cuối cùng sẽ thấy được đạo. Tu luyện càng cao thâm, huệ nhãn càng sắc bén, quan sát càng thấu suốt, đích đến cũng càng gần lại.”
Bàng Quyên như đã ngộ ra ít nhiều, phấn khởi vỗ đùi đánh đét, nói lớn: “Tiên sinh, đệ tử đã biết đạo rồi!”
Thấy Bàng Quyên “biết” nhanh như vậy, mọi người đều không khỏi kinh ngạc, đưa ánh mắt ngỡ ngàng nhìn hắn.
Quỷ Cốc Tử cũng quay sang nhìn Bàng Quyên, mỉm cười mà nói: “Ngộ đạo có bốn loại cảnh giới, thứ nhất là nghe đạo, thứ hai là thấy đạo, thứ ba là biết đạo, thứ tư là đắc đạo. Trọng Ni người nước Lỗ thời Xuân Thu nghe đạo, nhưng không biết tại sao nó lại như thế, nên đã không quản ngại khó nhọc, đi đến Lạc Dương để hỏi tiên thánh Lão Đam. Tiên thánh luận đạo ba ngày, Trọng Ni hiểu được, giác ngộ ra cái lý của đời người, rồi lập nên học thuyết Nho gia. Từ đó có thể thấy, hai chữ ‘biết đạo’ thực chẳng tầm thường!”
Mặc dù Quỷ Cốc Tử không một lời trách mắng, nhưng Bàng Quyên mặt mũi đỏ bừng, cúi gằm mặt xuống.
Tôn Tân bèn hỏi: “Xin hỏi tiên sinh, vạn vật trên thế gian nhiều không kể xiết, đệ tử phải bắt đầu cảm ngộ từ đâu?”
Quỷ Cốc Tử gật đầu nói: “Hỏi hay lắm! Dựa vào thể ngộ của lão hủ, các con có thể bắt đầu từ những sự việc mình ưa thích nhất. Có ưa thích, mới có thể giác ngộ sâu sắc. Nói đến đây, hôm nay cũng là một cơ duyên, các con hãy nói ra chí nguyện của mình, lựa chọn phương pháp nhập đạo yêu thích nhất. Sư phụ đây cũng lựa theo từng người mà dạy dỗ, giúp các con sớm ngày ngộ đạo. Thiền Nhi, con nói trước đi.”
Ngọc Thiền nói: “Hồi bẩm tiên sinh, đệ tử rất thích y học, nguyện từ y nhập đạo, mong tiên sinh thành toàn!”
Quỷ Cốc Tử gật đầu nói: “Tốt lắm! Tô Tần, con muốn nhập đạo từ đâu?”
Tô Tần chưa từng nghĩ tới chuyện này, nhất thời ngẩn ra, ngẫm nghĩ hồi lâu mới ngâm nga: “Đệ… đệ tử không biết, mong tiên sinh chỉ điểm!”
“Con thích gì nhất?”
Tô Tần càng luống cuống: “Đệ… đệ tử…”
Quỷ Cốc Tử thấy Tô Tần cứ ấp úng, liền đổi cách hỏi khác: “Con có mong muốn gì?”
Tô Tần suy nghĩ một lát, rồi ngâm: “Đệ tử có tật nói lắp, nếu có thể nói năng trôi chảy lưu loát, đã thấy mãn nguyện lắm rồi!”
Quỷ Cốc Tử gật đầu nói: “Đây cũng là một nguyện vọng, con có thể học cái đạo nói năng, nhập đạo từ cái học miệng lưỡi.”
“Đệ tử tuân mệnh!”
Quỷ Cốc Tử đưa mắt nhìn Trương Nghi. Không đợi tiên sinh hỏi đến, Trương Nghi đã hỏi trước: “Xin hỏi tiên sinh, thế nào là cái học miệng lưỡi?”
“Cái học miệng lưỡi chính là cái học bài hạp, tức mở miệng và khép miệng.”
Trương Nghi hai mắt mở to: “Mở miệng khép miệng cũng có học vấn ư?”
“Đương nhiên!”
Trương Nghi ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Tiên sinh, đệ tử từ nhỏ lắm mồm lắm miệng, nguyện theo Tô huynh, bắt đầu nhập đạo từ cái học miệng lưỡi!”
Quỷ Cốc Tử gật đầu, quay sang Tôn Tân: “Tôn Tân, con muốn nhập đạo từ đâu?”
“Binh học có được chăng?”
“Binh học cũng là học vấn, đương nhiên là được!”
Bàng Quyên mừng rỡ, vội nói: “Tiên sinh, đệ tử cũng theo Tôn huynh, nhập đạo từ binh học!”
Quỷ Cốc Tử gật đầu, đưa mắt nhìn chúng đệ tử một lượt, sau đó nói rành rọt: “Tốt, các con mỗi người đều có chí riêng, đã tìm được cánh cửa nhập đạo, trong lòng lão hủ cũng có tính toán. Học vấn trong thiên hạ, mỗi thứ có đặc sắc riêng, học đến cùng cực, đều thông với đạo, đây gọi là khác đường mà cùng đích. Cái thuật học vấn, vạn thuật đều quy về đạo. Y học, binh học, cái học miệng lưỡi, bên trong vừa có cái thuật cơ xảo, lại vừa có cái đạo thống ngự. Thuật do đạo chế ngự, cũng do đạo sử dụng. Nói cách khác, thuật là lưỡi sắc, đạo là cội cán. Nếu chỉ học thuật mà không ngộ được đạo, cuối cùng sẽ tự rước hoạ vào thân.”
Bàng Quyên há hốc miệng mà nghe, song vẫn không hiểu, bèn hỏi: “Ý tiên sinh là, trong binh học cũng chia thành thuật, đạo?”
“Đương nhiên! Bất cứ học vấn nào cũng được chia thành thuật và đạo. Ví dụ như binh học, cái thuật dụng binh nằm ở chiến thắng, cái đạo dụng binh nằm ở kết thúc chiến tranh. Nên người giỏi dụng binh sẽ không hiếu chiến, cái đạo dụng binh nằm ở chỗ không đánh mà khuất phục được quân địch, ở chỗ biến can qua thành ngọc lụa, dùng bốn lạng thắng ngàn cân.”
Trương Nghi nghe đến ngẩn người, vội hỏi: “Xin hỏi tiên sinh, thế còn cái học miệng lưỡi?”
“Cái học miệng lưỡi cũng có thuật có đạo. Thuật miệng lưỡi nằm ở chế ngự người, đạo miệng lưỡi nằm ở phục tâm!”
“Phải phục tâm như thế nào?”
“Miệng là cánh cửa của tâm, tâm là cánh cửa của thần, nếu có được thiện ngôn, sẽ thông được tới tâm thần, mà có thể phục tâm.”
“Ý tiên sinh là, chỉ cần giỏi nói năng, sẽ phục được tâm?”
“Không đúng, giỏi nói năng chưa chắc đã là thiện ngôn!”
“Thế nào là thiện ngôn?”
“Người thiện ngôn, lời nói trôi chảy lưu loát, trích dẫn phong phú sinh động, có thể khiến người ta muốn cái họ không muốn, làm điều họ không thích làm. Không nói thì thần trí an định như núi, thế như tên trên cung căng, có thể khiến người ta tâm thần bất an, giống như rơi xuống từ năm dặm mây mù. Đây gọi là không nói mà như nói, vô thanh thắng hữu thanh.”
Tô Tần nói xen vào: “Đệ tử hiểu rồi, thiện ngôn chính là biết lúc nào nên nói, lúc nào không nên nói!”
“Chính phải!”
Trương Nghi lại hỏi: “Làm thế nào mới biết lúc nào nên nói, lúc nào không nên nói?”
“Ngộ đạo! Chỉ có ngộ đạo mới có thể chế ngự được miệng lưỡi, đạt đến độ biết được lúc nào nói, lúc nào không nên nói!”
“Ồ, bên trong thuật miệng lưỡi cũng có học vấn lớn lao đến vậy, Trương Nghi phục rồi!”
Nghe Trương Nghi nói vậy, mọi người đều bật cười.
Thầy trò mấy người hết hỏi lại đáp, trò chuyện thêm một lúc nữa, rồi Quỷ Cốc Tử đưa mắt nhìn chúng đệ tử: “Không còn sớm nữa, các con hãy mau đi nghỉ! Ở trong động có một thư viện, bảo quản được một vài cuốn sách, đều nói về thể nghiệm ngộ đạo của tiên thánh, tiên hiền. Bắt đầu từ ngày mai, các con hãy tới đó tự chọn sách mà đọc, từ từ thẩm đạo.”
Năm người đứng dậy, cúi đầu mà nói: “Đệ tử xin vâng!”
Trải qua bao lần thất vọng, tuyệt vọng, qua ba tháng thử thách gian nan, quanh quẩn đường vòng, bốn người giờ đột nhiên khổ tận cam lai, không những trở thành đệ tử chính thức của Quỷ Cốc Tử, mà còn toại nguyện mong muốn bình sinh, quả là hệt như một giấc chiêm bao.
Từ thảo đường đi ra, cho dù ai nấy đều vui mừng khôn xiết, song cả bốn người đều khác hẳn ngày thường, cứ im lặng đi thẳng về phòng mình. Ngay cả Bàng Quyên, Trương Nghi cũng cúi đầu lầm lũi bước đi, không còn vẻ hớn hở như mọi bữa.
Bên tai họ vẫn văng vẳng lời nói của Quỷ Cốc Tử, cũng đang tự mình nghiền ngẫm từng lời Quỷ Cốc Tử đã nói.
Trở về nhà cỏ, ai nấy đều quay vào phòng riêng. Được một lúc, Trương Nghi liền sang phòng Tô Tần, thấy Tô Tần đang nằm lặng trên giường, thì chần chừ một lát rồi tìm chỗ ngồi xuống. Tô Tần cũng chẳng để ý đến, có vẻ đang mải miết suy nghĩ chuyện gì.
Trương Nghi không nhịn thêm được nữa, khẽ đặng hắng một tiếng rồi gọi: “Tô huynh…”
Tô Tần ngoảnh đầu nhìn.
Trương Nghi khẽ thở dài: “Than ôi, chuyện ngày hôm nay, Trương Nghi thực sự phục rồi!”
Tô Tần vốn nghĩ Trương Nghi sẽ nói ra lời gì kinh động lắm, hoá ra chỉ là lời này, liền quay mặt đi luôn.
Trương Nghi bước tới bên giường, lật Tô Tần lại, nói: “Tô huynh, huynh có nghe thấy không?”
“Nghe thấy rồi!”
Trương Nghi lại cất giọng thán phục: “Huynh nói xem, tiên sinh uyên thâm tới nhường nào?”
Tô Tần ngồi dậy, ngẩng đầu nhìn Trương Nghi.
Trương Nghi chép miệng liền mấy cái: “Vừa rồi, cuối cùng thì đệ cũng đã hiểu ra, tiên sinh ngoài miệng tuy đuổi chúng ta xuống núi, nhưng kỳ thực từ lâu trong lòng đã tiếp nhận chúng ta. Tiên sinh làm như vậy, là cố tình muốn thử thách chúng ta. Hôm nay nghĩ lại, mới biết những thử thách đó chính là để giáo huấn chúng ta, rèn giũa chúng ta thành tài!”
“Đúng vậy!” Tô Tần cũng cảm thán.
“Đáng lắm! Đời này Trương Nghi có thể bái tiên sinh làm sư phụ, đáng lắm, đáng lắm! Ha ha!”


Hồi Thứ 15

Trương Nghi cùng Bàng Quyên đấu tài
Ngọc Thiền giúp tứ tử ngộ đạo


Mùa đông trong núi, nói đến là đến liền. Chỉ mấy ngày sau, gió bắc ào ào thổi tới, tiết trời đột nhiên lạnh buốt. Căn nhà cỏ của bốn người, quả như lời tiểu đồng nói, cửa lớn đón gió, ở trong nhà mà lạnh như cắt, không thể giữ lại chút hơi ấm. Mấy người cùng bàn bạc, sau đó nhờ đại sư huynh tiểu đồng chỉ dạy, chọn lại nền móng, rồi bận rộn suốt mấy ngày, dựng lại nhà cỏ, trông chắc chắn kín đáo hơn nhiều.
Sau khi an cư, bốn người cùng nhau xuống núi, đến cửa Túc Tư để mua sắm những thứ cần thiết cho mùa đông như lương thực, dầu, muối… mang về sơn cốc. Kể từ đó, bốn người không còn bận tâm gì nữa, tâm thần an định, bắt đầu cuộc sống tu đạo trường kỳ, chia thời gian một ngày thành nhiều phần, lúc thì luyện quyền, lúc thì tĩnh toạ, lúc thì đọc sách, lúc thì tập đàn, lúc thì đánh cờ, lúc thì hái lượm, lúc thì nấu nướng, cụ thể làm việc gì, đều nghe theo sự sắp xếp của đại sư huynh tiểu đồng, dùng đạo âm dương để điều dưỡng sinh tức, mặt trời mọc thì dậy, mặt trời lặn thì nghỉ, vô cùng quy củ.
Động Quỷ Cốc sâu hút khôn lường, bên trong quanh co lắt léo, giống như mê cung. Trong mê cung lại có rất nhiều động lớn nhỏ, được Quỷ Cốc Tử dùng vào những việc khác nhau, trong đó có ba động là nơi tu luyện và nghỉ ngơi của Quỷ Cốc Tử, Ngọc Thiền và tiểu đồng, mỗi động cách nhau hơn mười bước chân, cửa động đều được che bởi rèm vải. Đi tiếp vào trong, cách động của Ngọc Thiền chừng hơn hai mươi bước, có một cái động lớn rộng khoảng mấy trượng vuông, bên trong bày vô số cuộn thẻ tre.
Sau khi bái sư xong, Quỷ Cốc Tử liền bảo tiểu đồng lắp cửa cho động này, mặc dù cửa không khoá, nhưng rõ ràng nơi đây đã được ngăn thành cấm địa. Ngoài ra, Quỷ Cốc Tử còn giao cho Ngọc Thiền trông coi động tàng thư này, bất cứ ai, kể cả tiểu đồng, cũng không được tuỳ tiện ra vào.
Ngọc Thiền cũng quản lý rất nghiêm, ngay từ khi nhận trách nhiệm này, đã đặt ra quy tắc, hàng ngày sáng sớm mượn sách, mỗi lần chỉ cho phép mượn một cuốn, và trước khi mặt trời lặn phải trả. Ngay cả việc chọn sách, Ngọc Thiền cũng chỉ giới hạn trong thời gian một tuần hương, tuyệt đối không được lần lữa quá lâu.
Trong động, thư tịch vô cùng phong phú, nhiều giá gỗ kê dựa vách đá, trên giá gỗ xếp từng bó thẻ tre. Nếu chất toàn bộ chỗ sách này lên xe bò, e rằng tám, mười cỗ xe cũng chưa chắc đã chở hết. Muốn đọc hết số sách trong tàng thư viện, đừng nói là dăm ba năm, đến mười năm, hai mươi năm e rằng cũng khó lòng. Vì vậy, bốn người đặc biệt trân trọng khoảng thời gian mượn sách vào buổi sáng sớm, đều muốn nhanh chóng tìm thấy cuốn sách phù hợp với mình.
Chỉ vào lúc này, sự khác biệt giữa bốn người Tô Tần, Trương Nghi, Tôn Tân, Bàng Quyên mới được bộc lộ rõ. Tô Tần chưa được đọc nhiều sách, nên chẳng khác nào gã ăn mày lạc vào kho báu, nhìn vàng bạc châu báu la liệt đầy kho mà hoa mắt chóng mặt. Với Tô Tần, bất kỳ cuốn sách nào cũng đều là sách hay. Trương Nghi thì lật chỗ này bới chỗ nọ, vẻ như cuốn nào cũng không vừa ý. Bàng Quyên thì chúi đầu vào đống sách, chỉ lựa chọn những cuốn thẻ tre có liên quan đến binh pháp chiến trận, tìm được một cuốn thì khác nào nhặt được báu vật, ôm khư khư vào lòng rồi đi ra luôn. Tôn Tân lại có sở thích khác, tất cả những sách tìm đọc đều có liên quan đến binh hoặc đạo.
Riêng đối với Trương Nghi, khoảng thời gian mượn sách, trả sách còn có một ý nghĩa khác, đó chính là được tiếp cận với Ngọc Thiền. Vào những khoảng thời gian này, Ngọc Thiền luôn đứng ngoài cửa động, nghiêm túc quan sát họ chọn sách hoặc trả sách. Khi hết thời gian cho phép, bất kể ai còn lần chần trong động, Ngọc Thiền sẽ không nhiều lời, lập tức nghiêm mặt đuổi thẳng ra ngoài.
Trương Nghi luôn là người vào đầu tiên và ra cuối cùng, và phần nhiều là bị Ngọc Thiền đuổi cổ mới chịu đi. Nhưng đừng nói là đuổi, cho dù có bị trách mắng mấy câu, Trương Nghi cũng cảm thấy thân tâm sảng khoái, làm việc gì cũng thấy hào hứng.
Thời gian vùn vụt trôi đi, bốn người hàng ngày mượn sách, đọc sách, trả sách, đông qua xuân tới rồi hạ đến, thấm thoắt đã qua hơn nửa năm.
Buổi tối hôm nay, lại là thời gian trả sách. Trương Nghi là người đầu tiên trở về thảo đường, vẫn như thường lệ, vui vẻ đi vào trong động, đột nhiên thấy trước mắt sáng bừng, vì đã nhìn thấy Ngọc Thiền xiêm y trắng muốt đang ngồi ngay ngắn trong nhà. Nhìn lại, thấy Quỷ Cốc Tử trong tấm áo nâu cũng đang ngồi ở đó, còn tiểu đồng đứng phía bên kia Quỷ Cốc Tử.
Mấy tháng nay, Quỷ Cốc Tử vẫn hiếm khi xuất hiện, hôm nay đột nhiên xuất động, khiến Trương Nghi giật mình ngạc nhiên, rồi lập tức quỳ xuống bái lạy: “Đệ tử Trương Nghi khấu kiến tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử cười hiền từ nói: “Ngồi đi!”
Trương Nghi đưa mắt liếc nhìn, thấy bên cạnh Ngọc Thiền có một chỗ trống, vốn định ngồi xuống cạnh nàng, nhưng lại sợ Ngọc Thiền nổi giận, khiến mình bẽ mặt trước tiên sinh. Do dự một lát, Trương Nghi bước tới chỗ cách Ngọc Thiền chừng một bước chân, khoanh chân ngồi xuống. Một lát sau, Tô Tần, Tôn Tân cũng trở về, lần lượt hành lễ rồi tìm chỗ ngồi xuống.
Khi Bàng Quyên trở về, trước mặt chỉ còn lại hai chỗ trống, một chỗ ở giữa Ngọc Thiền và Trương Nghi, chỗ còn lại ở giữa Tô Tần và Tôn Tân. Bàng Quyên chẳng buôn nghĩ ngợi, đi thẳng tới bên cạnh Ngọc Thiền, khoanh chân ngồi xuống. Bàng Quyên thân người cao lớn, khi Trương Nghi ngồi xuống lại không chừa lại nhiều khoảng trống, nên lúc này, nhìn từ phía Trương Nghi, chân trái của Bàng Quyên dường như đã đè lên chân phải của Ngọc Thiền. Trương Nghi thấy vậy, hối hận cũng không kịp, lừ mắt lườm Bàng Quyên một cái rồi nhích sang phía Tô Tần, để thêm khoảng trống cho Bàng Quyên. Bàng Quyên thấy vậy, nhìn Trương Nghi cười mủm mỉm, rồi cũng nhích sang bên, chỉnh trang y phục ngồi ngay ngắn.
Quỷ Cốc Tử đưa mắt nhìn mọi người, mỉm cười hỏi: “Lão hủ có thể xem các con đọc sách gì không?”
Bốn người đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng đặt cuốn sách đang cầm trong tay xuống trước mặt.
Quỷ Cốc Tử nhìn Trương Nghi: “Trương Nghi, con đọc sách gì?”
“Hồi bẩm tiên sinh, đệ tử đang đọc ‘Thuyết kiếm’!”
“Ừm!” Quỷ Cốc Tử gật đầu nói. “Con rất biết chọn sách. Cuốn sách này là do lão bằng hữu Liệt Ngự Khấu tặng khi đến thăm lão hủ vào năm ngoái, nói là trước tác mới của Trang Tử nước Tống. Con có cảm ngộ gì chăng?”
Trương Nghi được thầy khen ngợi, mặt mày hớn hở, tự tin đáp: “Đệ tử cho rằng, ba loại kiếm mà Trang Tử đã nói, có thể coi là ba phương pháp trị thế. Kiếm của thiên tử, chú trọng thuận theo thiên đạo. Kiếm của chư hầu, chú trọng thuận theo thế đạo. Kiếm của thứ dân, chú trọng lấy sức phục người.”
“Con có thể ngộ được đến mức này, thực là hiếm có. Nếu cho con chọn, con sẽ chọn loại kiếm nào để trị thế?”
“Đệ tử sẽ chọn kiếm của chư hầu!”
“Cớ sao không chọn kiếm của thiên tử?”
“Kiếm của thiên tử chú trọng đạo trời, đạo trời chính là thuận ứng theo tự nhiên, không thể dùng lực tạo tác, là vô vi mà trị. Vô vi mà trị thích hợp với thời đại tam thánh, không thích hợp với thời loạn hiện nay!”
“Tại sao kiếm của chư hầu lại thích hợp với thời loạn hiện nay?”
“Kiếm của chư hầu trên ứng với đạo trời, dưới thuận theo tứ thời, giữa hài hoà với thứ dân. Nếu nắm được nó, có thể hưng khởi vương nghiệp!”
Quỷ Cốc Tử khẳng định: “Con nói rất đúng, Chu Văn Vương chính là sử dụng kiếm này!” Rồi quay sang phía Bàng Quyên. “Bàng Quyên, con đọc sách gì?”
Bàng Quyên thấy cơ hội chứng tỏ đã bị Trương Nghi cướp mất, đang lúc bực bội, nghe thấy Quỷ Cốc Tử hỏi, thì vội vàng đáp: “Hồi bẩm tiên sinh, đệ tử đang đọc ‘Lục thao’ của Lã Công Vọng!”
Quỷ Cốc Tử gật đầu nói: “Con muốn nhập đạo từ binh pháp, sách này không thể không đọc. Con thử nói xem, trong ‘Lục thao’, con thích thao nào nhất?”
“Mỗi thao đều có đặc sắc riêng, tuy nhiên, đệ tử coi trọng bốn thao phía sau hơn cả, đó là ‘Long thao’, ‘Hổ thao’, ‘Báo thao’, ‘Khuyển thao’!”
“Tại sao không trọng hai thao đầu tiên?”
Bàng Quyên không cần suy nghĩ, lập tức trả lời: “‘Văn thao’ coi trọng thuật trị quốc, khác biệt rất nhiều với sở học của đệ tử. ‘Võ thao’ viết rất hay, có điều vẫn không đặc sắc bằng bốn thao sau!”
“Bốn thao sau đặc sắc thế nào?”
“Đệ tử có thể ngộ ra từ trong bốn thao đó phương cách giao chiến và cách chiến thắng!”
Quỷ Cốc Tử trầm tư một lát: “Nói rất đúng, bốn thao này đích thực là dạy thuật chiến đấu. Ta hỏi con, nếu con là chủ tướng của một nước, có nước bên cạnh đến tấn công, con sẽ chiến thắng bằng cách nào?”
Bàng Quyên suy nghĩ một lát rồi nói: “Bẩm tiên sinh, khả năng này không thể xảy ra!”
Quỷ Cốc Tử ngạc nhiên hỏi: “Ồ, tại sao lại như vậy?”
“Nếu đệ tử là chủ tướng của một nước, sẽ chỉ đi đánh nước khác, tuyệt đối không để nước khác tới đánh mình!”
Nghe Bàng Quyên quả quyết chắc nịch, mọi người đều kinh ngạc. Trương Nghi phì cười mà nói: “Đúng! Đúng! Có Bàng tướng quân, còn ai dám đến nộp mạng?”
Bàng Quyên không thèm để ý, vẫn ngồi nghiêm trang để chứng tỏ lời mình nói không phải là đùa cợt.
“Được thôi!” Quỷ Cốc Tử khẽ mỉm cười. “Vậy khi đi chinh phạt nước khác, con sẽ chiến thắng bằng cách nào?”
“Binh hùng tướng mạnh, ba quân đồng lòng, tấn công bất ngờ!”
“Giả dụ con đã có đủ cả ba điều đó, đại quân cũng đã bao vây đô thành của nước đó, đang lúc con định tấn công thì nhận được lệnh lui quân của quân chủ, lúc đó, con sẽ xử lý ra sao?”
“Việc này thì… tướng ở bên ngoài, có thể không theo lệnh quân chủ!”
“Con có thể không theo lệnh quân chủ, nhưng quân chủ vẫn khăng khăng không chịu, liên tiếp phát chiếu thư lui quân, lúc này, con còn dám không nghe lệnh chăng?”
“Vậy… tại sao quân chủ nhất định muốn lui quân?”
Quỷ Cốc Tử lắc đầu nói: “Ta không biết, con phải đi hỏi quân chủ mới đúng!”
Bàng Quyên suy nghĩ một lát, rồi nói: “Đệ tử hiểu rồi!”
“Con hiểu gì?”
“Đệ tử đã bỏ gốc lấy ngọn, đệ tử sẽ đọc kỹ hai thao đầu tiên!”
Quỷ Cốc Tử thấy Bàng Quyên đã có chút lĩnh ngộ, liền đưa mắt sang phía Tôn Tân: “Tôn Tân, con đọc sách gì?”
Tôn Tân cười ngượng nghịu, hai tay dâng bó thẻ tre trước mặt lên. Quỷ Cốc Tử nhận lấy xem, là cuốn “Quản Tử”, bèn gật đầu khen: “Con nhập đạo từ binh pháp, cuốn ‘Quản Tử’ rất đáng đọc. Khi Quản Tử phò tá nước Tề, không dùng sức mạnh binh đao mà chín lần triệu tập chư hầu, uy chấn thiên hạ, có thể coi là điển phạm của ‘không đánh mà khuất phục được người’.”
Tôn Tân hỏi: “Tiên sinh, tiên tổ phụ cũng nhiều lần nói với đệ tử về ‘không đánh mà khuất phục được người’, đệ tử rất muốn biết, điển này khởi nguồn từ đâu?”
“Khởi nguồn từ tiên tổ Tôn Vũ Tử của con. Tôn Vũ Tử nói: ‘Trăm trận trăm thắng, không phải là người tài giỏi nhất trong số những người tài giỏi. Không đánh mà thắng được người, mới là người tài giỏi nhất trong số những người tài giỏi’.”
“Tại sao trăm trận trăm thắng lại không phải là tài giỏi?” Bàng Quyên kinh ngạc. “Xin hỏi tiên sinh, nếu như lời này đã thành điển phạm, vậy ắt phải có sách này?”
Quỷ Cốc Tử gật đầu: “Đúng vậy, Tôn Vũ Tử đúng là đã viết một cuốn sách, có tên là ‘Tôn Tử’, còn gọi là ‘Binh pháp Tôn Tử’, chuyên nói về đạo dụng binh.”
Bàng Quyên vội hỏi: “Tiên sinh, có thể cho đệ tử mượn cuốn sách đó được chăng?”
Quỷ Cốc Tử lắc đầu.
“Tại sao?”
“Tôn Vũ Tử viết xong sách này, đem dâng Ngô Vương Hạp Lư, Hạp Lư coi là quốc bảo, cất giữ ở đài Cô Tô, không cho ai đụng đến. Sau này, Việt Vương Câu Tiễn phá Ngô, đốt cháy đài Cô Tô, cuốn ‘Tôn Tử’ cũng hoá tro tàn!”
“Câu Tiễn thật đáng hận!” Bàng Quyên tức giận mắng liền, hai mắt nhìn thẳng vào Quỷ Cốc Tử. “Có điều… đệ tử vẫn có điều khúc mắc!”
“Nói đi!”
“Cuốn ‘Tôn Tử’ đã hoá thành tro, vậy tại sao tiên sinh vẫn biết được nội dung trong đó?”
Quỷ Cốc Tử khẽ liếc mắt sang Bàng Quyên: “Ta chẳng qua là được nghe người khác nói lại mà thôi!” Rồi quay sang Tô Tần. “Tô Tần, con đọc sách gì?”
Trong lúc mọi người bàn luận, Tô Tần chỉ ngồi cúi đầu tại chỗ. Thấy Quỷ Cốc Tử hỏi đến, Tô Tần không những không ngẩng đầu lên, mà ngược lại còn cúi thấp hơn.
Quỷ Cốc Tử lại hỏi: “Ta có thể xem sách của con không?”
Tô Tần không ngẩng lên, mãi một lúc sau mới lúng búng: “Đệ… đệ tử…”
Trương Nghi sốt ruột, đưa tay với lấy bó thẻ tre trước mặt Tô Tần, dâng cho Quỷ Cốc Tử: “Sách Tô huynh đọc là cuốn ‘Đạo đức ngũ thiên ngôn’ của tiên thánh, mời tiên sinh xem!”
Quỷ Cốc Tử nhận sách nhưng không nhìn mà đặt sang một bên, nhìn Tô Tần mỉm cười hỏi: “Tô Tần, ta hỏi con, đọc sách của tiên thánh, có cảm ngộ gì không?”
Tô Tần vẫn cúi đầu, lắp bắp: “Đệ… đệ tử không… không cảm ngộ… được… được gì!”
Quỷ Cốc Tử khẽ gật đầu, mỉm cười nói: “Tốt lắm! Tiên thánh nói, ‘vạn vật sinh ra từ có, có sinh ra từ không’, có nghĩa là trong không sinh có. Con nói không có, tức là có. Con đã không muốn nói ra cảm ngộ của mình, lão hủ cũng không miễn cưỡng.” Rồi quay sang nói với mọi người. “Các con đã đọc sách một ngày, chắc cũng đã mệt, giờ hãy về nghỉ ngơi đi!”
Mọi người bái lạy, sau đó đặt các cuộn thẻ tre xuống đất rồi trở ra. Ngọc Thiền thu lại các cuốn sách, định mang cất vào trong động thì Quỷ Cốc Tử cất tiếng gọi: “Thiền Nhi!”
Ngọc Thiền buông các bó thẻ tre, ngồi xuống trước mặt Quỷ Cốc Tử.
“Gần đây Tô Tần thường làm những gì?”
“Hồi bẩm tiên sinh, mấy tháng nay Tô Tần đột nhiên thay đổi tính khí, hành động kỳ quặc, rất ít trò chuyện, cũng rất ít khi ở cùng những người khác, cho dù là với Trương Nghi cũng không được thân mật như trước, hễ thấy Thiền Nhi là tránh mặt. Chỉ cởi mở chút ít khi gặp tiểu đồng.”
Quỷ Cốc Tử nói: “Đây là tâm chướng!”
Ngọc Thiền hai mắt tròn xoe, ngạc nhiên hỏi: “Thế nào là tâm chướng?”
“Tôn Tân là hậu duệ của danh môn, Trương Nghi là hậu duệ của quý tộc, Bàng Quyên mặc dù không phú quý, nhưng cũng lớn lên ở thành An Ấp, không lo cơm áo, cũng được coi là nửa thiếu gia, con thì càng không cần phải nói. Trong năm người các con, chỉ có Tô Tần xuất thân thấp hèn, bảo hắn làm sao có thể ngẩng đầu?”
“Tô Tần xuất thân thấp hèn, điều này hắn từ lâu đã rõ, nhưng…” Lời tiếp theo không nói cũng hiểu, nên Ngọc Thiền dừng lại nửa chừng.
“Thân phận thấp hèn chỉ là thứ yếu, điều quan trọng là, bốn người các con trước lúc vào cốc đã có căn cơ, thông hiểu lục nghệ. Còn Tô Tần không được học hành, căn cơ gần như trống rỗng. Còn nữa, Tô Tần miệng lưỡi cứng nhắc, nay lại học cái thuật miệng lưỡi, nên càng cảm thấy con đường phía trước gian nan.”
“Nhưng trước lúc bái sư, Tô Tần không hề như vậy.”
“Con nói rất đúng! Nhưng trước lúc bái sư, Tô Tần chỉ có Trương Nghi để so sánh, còn có chút lòng tin. Sau khi bái sư, số người để so sánh bỗng chốc nhiều lên, Tô Tần tự thẹn mình thấp kém, trong tâm nặng trĩu như đá đè. Ví như căn bệnh nói lắp của Tô Tần, nửa năm trước đã uống hết thảo dược, theo lý thì phải khỏi rồi, nhưng con thấy đấy, lúc nãy, đầu tiên hắn không chịu nói, sau do bị thúc giục, lại nói lắp như cũ!”
“Tiên sinh!” Ngọc Thiền lại hỏi. “Có cách nào trừ được tâm chướng này chăng?”
“Những chướng khác thì dễ trừ, nhưng tâm chướng rất khó trừ!”
“Nhưng… chúng ta không thể đứng nhìn Tô Tần như vậy được!”
“Tâm chướng của Tô Tần là bởi thiếu tự tin. Bản thân không tự tin, người khác sao có thể khiến hắn tự tin được?”
Ngọc Thiền lập tức bừng tỉnh, bèn nói: “Thiền Nhi đã hiểu rồi!”
Ngọc Thiền mang sách của bốn người vào động, sau đó rảo bước ra khỏi thảo đường.
Trời đã tối mịt, Ngọc Thiền cũng chưa muốn ngủ, liền đi tới bên suối.
Bây giờ đã là đầu hạ, cỏ xanh mơn mởn, hoa rừng đua hương. Ngọc Thiền đang thong dong dạo bước, thưởng thức hương hoa, bỗng loáng thoáng nghe thấy tiếng người rì rầm. Ngọc Thiền vội dừng bước, đưa mắt nhìn, thì thấy trên tảng đá lớn ven suối ở đằng xa có hai bóng người.
Cảm thấy hiếu kỳ, Ngọc Thiền lại bước lên vài bước, nấp vào sau một thân cây.
Một lát sau, lại có tiếng nói vọng đến, Ngọc Thiền chăm chú lắng nghe, thì ra là giọng của Trương Nghi.
Tô Tần hai tay ôm đầu, ngồi ủ rũ trên tảng đá. Trương Nghi nhảy xuống khỏi tảng đá, đi lòng vòng trên bãi đá cuội xung quanh.
Đi một lúc, Trương Nghi liền dừng bước, thở dài mà nói: “Ôi, Tô huynh, huynh bảo đệ phải nói thế nào? Huynh bảo đệ phải nói gì đây? Hai chúng ta quen nhau, biết nhau cũng chẳng phải ngày một ngày hai, trong lòng huynh nghĩ gì, chẳng nhẽ đệ lại không hiểu? Trong lòng huynh có cảm ngộ, tại sao vừa nãy không chịu nói ra?”
Tô Tần vẫn hai tay ôm đầu, không nói một lời.
Trương Nghi lại đi vòng quanh tảng đá, rồi dừng bước trách móc: “Tô huynh, không phải nói quá, nhưng với cảm ngộ của huynh, chỉ cần nói đại vài câu, đảm bảo sẽ vượt mặt thằng cha Bàng Quyên! Nhìn bộ dạng của hắn mà xem, giống cái thá gì? Cảm ngộ của hắn không bằng cái rắm chó! Tiên sinh đã nói, đạo dụng binh nằm ở ngừng chiến, thuật dụng binh nằm ở chiến thắng, nhưng hắn ta lại để ngoài tai, trước mặt tiên sinh dám lớn giọng nói vẻ phương thuật, mà không nói về đại đạo, chẳng phải là bỏ gốc tìm ngọn ư? Tiên sinh tính khí hài hoà, chứ nếu là Nghi, chắc chắn sẽ chửi cho vuốt mặt không kịp!”
Tô Tần vẫn không nói lời nào.
Nhắc đến Bàng Quyên, Trương Nghi càng nói càng hăng: “Hừ! Mới học được tí chút đã ra vẻ ta đây! Huynh có biết tại sao hắn nôn nóng muốn thể hiện vậy không? Hắn muốn lấy lòng sư tỷ! Hừm! Một tên lưu manh đầu đường xó chợ, cũng dám hống hách ta đây? Nhìn cái bộ dạng của hắn xem! Sáng chiều mỗi khi gặp sư tỷ là hai con mắt giặc lại đảo như bi, mồm miệng cứ như bôi mật mỡ. Sư tỷ là ai kia? Là công chúa Đại Chu băng thanh ngọc khiết! Còn hắn là ai? Chỉ là một con cóc ghẻ! Nhưng trên đời lại có chuyện quái lạ thế đấy, cóc ghẻ mà muốn ăn thịt thiên nga! Thật quái quỷ! Tô huynh, huynh thử nói xem, bên cạnh Tôn Tân còn chỗ trống rộng như thế, hắn không chịu ngồi, lại chen vào giữa đệ và sư tỷ, cái giò thối của hắn suýt chút nữa đã đè lên chân ngọc của sư tỷ, thật là tức chết…” Nói đến đây, Trương Nghi lại hằm hằm đi vòng quanh tảng đá.
Ngọc Thiền nghe thấy câu chuyện có liên quan đến mình, bất giác hai má nóng bừng. Lại thấy Trương Nghi xét nét đến vậy, suýt chút nữa thì bật cười thành tiếng.
Trương Nghi đi lòng vòng một chốc, ngẩng lên nhìn, thấy Tô Tần vẫn ngồi cúi đầu ủ rũ, bèn sốt ruột trèo lên tảng đá, giơ tay vặn đầu Tô Tần ngửa lên: “Tô huynh, huynh có thể ngẩng đầu lên không? Con người huynh hồi trước biến đâu mất rồi? Còn nhớ đêm đó, chúng ta cùng nằm ngắm sao trời hay không? Huynh chọn một ngôi sao không sáng, huynh nói, sẽ có một ngày, ngôi sao của huynh sẽ sáng chói! Huynh nghe xem, câu nói ấy nghe mới khí phách làm sao! Nhưng bây giờ, hãy nhìn huynh xem, lúc nào cũng cúi đầu, lúc nào cũng lẩn tránh. Nếu cứ như vậy, e rằng ngôi sao của huynh mãi mãi không bao giờ sáng nổi đâu! Đệ cho huynh biết, Tô huynh, bắt đầu từ ngày mai, huynh đi đường phải thế này này…” Rồi một tay nâng đầu, một tay nắn lưng Tô Tần. “Ngẩng đầu, ưỡn ngực, như thế này này! Nhìn thấy Tôn Tân, Bàng Quyên, coi như nhìn thấy hai khúc gỗ! Huynh có nghe thấy không?”
Nhưng Tô Tần lúc này mới giống như khúc gỗ.
Trương Nghi dường như đã phát tiết xong, bèn buông đầu Tô Tần ra, giậm chân mà nói: “Buồn đi, buồn đi, buồn cho thành con lợn chết luôn đi!” Nói xong, liền nhảy xuống tảng đá, hậm hực bỏ đi.
Một lát sau, Tô Tần chậm chạp ngẩng đầu lên, ngẩn ngơ nhìn theo bóng Trương Nghi xa dần, nhìn một lát, rồi lại cúi gục xuống, ngồi thẫn thờ như mất hồn trên tảng đá.
Phía sau gốc cây cách đó không xa, Ngọc Thiền nán lại thêm một lát, đôi mắt đẹp chớp liền mấy cái, rồi cũng quay người bỏ đi.

Ngày hôm sau, vầng dương lại nhô lên phía đằng đông. Bốn người vội vàng đến động tàng thư, bắt đầu lựa chọn sách cho một ngày mới.
Không biết tại sao, hôm nay Ngọc Thiền không đến, đứng canh trước cửa là tiểu đồng.
Thấy Ngọc Thiền không đến, bốn người thấy thoải mái hơn hẳn, ít nhất cũng không phải chạy đua với khoảng thời gian một tuần hương. Đặc biệt là Bàng Quyên và Trương Nghi, không còn sự quản thúc của sư tỷ, bàn tính cuồng phóng đã hoàn toàn lộ rõ.
Bước vào trong động, bốn người vẫn giống như mọi ngày, đi thẳng tới chỗ cuốn sách mình đã nhắm sẵn từ trước. Bàng Quyên tìm cuốn “Lục thao”. Trương Nghi tối qua đã được thầy khen ngợi, lập tức chọn lấy một cuốn sách khác của Trang Tử. Tôn Tân tìm thấy cuốn “Lễ”, cầm luôn trong tay. Tô Tần dừng bước trước một đống thẻ tre lớn, trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu, rồi tìm một sợi dây thừng buộc toàn bộ lại, đang định vác lên vai, thì mắt bỗng vụt sáng, vội vàng đặt xuống, đi sang bên cạnh, lại cầm lên cuốn sách mà mình vẫn đọc suốt mấy ngày nay, chính là “Đạo đức ngũ thiên ngôn”, rồi đứng đó ngần ngừ, dường như đang phân vân xem nên chọn cuốn nào.
Bàng Quyên cầm sách bước tới, thấy Tô Tần một lúc giữ nhiều sách như vậy thì kinh ngạc hỏi: “Tô huynh đã chọn được sách gì hay?”
Tô Tần vội nghiêng người che chắn, miệng lắp bắp: “Chưa… chưa chọn gì!”
Bàng Quyên thấy Tô Tần giấu giấu giếm giếm, càng thấy hiếu kỳ, liền lấn tới, gắng sức giằng lấy bó sách của Tô Tần, mở ra xem, rồi cười toáng lên: “Ôi Tô huynh, đệ cứ tưởng là sách quý gì, té ra lại là ‘Đạo đức ngũ thiên ngôn’! Ồ, đống sách này chẳng phải ‘Thi’ ư? Không giấu Tô huynh, những cuốn sách này từ lúc chưa đầy mười tuổi đệ đã ghi nhớ nằm lòng!”
Tô Tần bối rối, mặt đỏ rần, cúi đầu không nói.
Trương Nghi nghe thấy vậy, liền chậm rãi bước tới, trừng mắt nhìn Bàng Quyên như khiêu chiến: “Vừa nãy hình như tại hạ nghe thấy có người muốn khoe mẽ ở đây thì phải, tại hạ nặng tai không nghe rõ, có người lúc mười tuổi đã đọc thuộc lòng gì thế?”
Bàng Quyên liếc xéo Trương Nghi một cái, cười lớn mà nói: “Có người không nghe rõ, tại hạ sẽ nói lại cho nghe. Tại hạ hai tuổi biết chữ, bốn tuổi biết ‘Lễ’, sáu tuổi thông ‘Thi’, tám tuổi đọc ‘Đạo đức’, mười hai tuổi đã đọc hơn vạn cuốn sách!”
Trương Nghi cười nhạt: “Tại hạ còn ngỡ có người chưa sinh ra đã biết đọc sách kia, té ra là nghe nhầm! Tại hạ một tuổi biết chữ, ba tuổi biết ‘Lễ’, sáu tuổi thông ‘Nhạc’, chín tuổi đọc hơn vạn cuốn sách, lúc mười hai tuổi, tại hạ đã tạm thông lục…”
Chữ “nghệ” của Trương Nghi còn chưa kịp thốt ra, lưỡi đã rụt ngay lại.
Bàng Quyên thấy lạ, quay đầu lại nhìn, thấy Ngọc Thiền không biết đã đứng trước cửa động từ lúc nào, thì mặt nóng ran, vội vã quay người đi.
Ngọc Thiền cười nhạt, nói: “Trương sĩ tử, nói tiếp đi, tạm thông lục gì thế?”
Trương Nghi mặt biến sắc, lắp bắp: “Sư… sư tỷ, tại hạ… tại hạ…”
Ánh mắt Ngọc Thiền nhìn xói vào Trương Nghi, hừ mũi một tiếng: “Trương sĩ tử thường ngày mồm mép lanh lợi, sao đột nhiên lại trở nên lắp bắp như vậy? Chẳng phải sĩ tử muốn nói ‘tạm thông lục nghệ’ ư? Nói ‘tạm thông’ dường như có vẻ khiêm tốn quá, nên nói là ‘tinh thông’ mới đúng!”
Trương Nghi mặt đỏ tưng bừng, chỉ muốn tìm cái lỗ nẻ để chui xuống.
Ngọc Thiền quay sang phía Tôn Tân: “Nghe nói Tôn sĩ tử là hậu duệ của danh tướng nổi tiếng thiên hạ Tôn Vũ Tử, sáu tuổi tri thư đạt lý, mười hai tuổi tinh thông lục nghệ, mười bốn tuổi được phong làm thú uý thành Đế Khâu, thống lĩnh ba quân nước Vệ lấy yếu chống mạnh, thế đơn lực yếu mà cố thủ thành Đế Khâu suốt hơn hai mươi ngày trời, khiến năm vạn quân Ngụy nhìn mà chùn bước, song Tôn công tử lại nói mình không hiểu về binh, vì vậy mới hạ quyết tâm, vượt qua trùng trùng gian khổ tìm đến Quỷ Cốc. Tôn công tử, Thiền Nhi nói có đúng không?”
Tôn Tân vòng tay vái một vái thật sâu: “Lời sư tỷ nói rất đúng. Tôn Tân từ trong đổ máu mà biết được rằng, Tôn Tân hoàn toàn không hiểu về binh!”
Ngọc Thiền cầm lấy cuốn sách từ trong tay Tôn Tân: “Trương sĩ tử, Bàng sĩ tử, hai người nhìn xem, cuốn Tôn sĩ tử chọn là ‘Lễ’, hẳn là hai vị đã đọc thuộc lòng cuốn này ngay từ khi còn trong bụng mẹ!”
Trong động tàng thư bỗng chốc lặng phắc như tờ, Bàng Quyên, Trương Nghi xấu hổ đến đỏ mặt tía tai, cúi gằm mặt không nói năng gì, Tô Tần lại càng thấp thỏm bất an.
Ngọc Thiền dừng lại một lát, rồi đưa mắt sang Bàng Quyên: “Bàng sĩ tử, tại sao lại quay mặt đi? Lúc nãy Thiền Nhi nghe thấy Bàng sĩ tử nói sáu tuổi thông ‘Thi’, tám tuổi thông ‘Đạo đức’, mười hai tuổi đọc hơn vạn cuốn sách. Còn Trương sĩ tử đã đọc cả vạn cuốn sách, vậy Thiền Nhi xin hỏi, ‘kẻ tự cho là mình hiểu biết lại không hề thông minh, kẻ tự cho mình là đúng lại không hề sáng suốt, kẻ tự khoe khoang lại không hề có công lao, kẻ tự kiêu ngạo lại không được kính trọng’, câu này xuất phát từ sách nào?”
Bàng Quyên đâu còn dám nói thêm nửa lời?
“Bàng sĩ tử, sao lại không nói gì? Bàng sĩ tử đã không chịu nói, vậy Thiền Nhi sẽ nói cho mà biết, câu này nằm trong cuốn ‘Đạo đức ngũ thiên ngôn’ của tiên thánh, cũng chính là cuốn mà Tô sĩ tử đang đọc. Tô sĩ tử, sĩ tử hãy nói xem, sĩ tử đã đọc được bao nhiêu chương trong sách này?”
Tô Tần vẫn cúi gằm đầu: “Tôi… tôi…”
“Được thôi, Tô sĩ tử đã không muốn nói, vậy Thiền Nhi sẽ nói hộ. Theo những gì Thiền Nhi tận mắt chứng kiến, Tô sĩ tử hàng ngày đều chọn cuốn sách này. Với tài trí của Tô sĩ tử, hẳn từ lâu đã thuộc nằm lòng. Người đã thuộc lòng một cuốn sách mà vẫn bền bỉ đọc lại, Thiền Nhi thực lòng khâm phục!”
Lời Ngọc Thiền vừa dứt, phía sau liền vang lên một giọng nói trầm trầm: “Nói hay lắm!”
Mọi người đều giật mình kinh ngạc, nhìn ra thì thấy Quỷ Cốc Tử đang đứng ngoài cửa động, vội vàng vòng tay vái chào: “Đệ tử bái kiến tiên sinh!”
Ngọc Thiền thấy tiên sinh đến, bèn nhanh chóng đứng tránh sang một bên.
Quỷ Cốc Tử bước vào cửa động, mỉm cười với Ngọc Thiền, rồi lại khen ngợi: “Thiền Nhi, nói hay lắm!”
Sau đó quay sang phía bốn người: “Các ngươi trở về, hãy suy nghĩ kỹ lưỡng những lời vừa nãy của Thiền Nhi. Núi không quý ở cao, mà quý ở có tiên; nước không quý ở sâu, mà quý ở có rồng; đọc sách không quý ở nhiều, mà quý ở tinh, quý ở lĩnh ngộ. ‘Ngũ thiên ngôn’ của tiên thánh Lão Đam, ta cả đời không biết đã đọc bao nhiêu lượt, nhưng đến nay vẫn chưa hoàn toàn hiểu hết. Mới biết mấy chữ, đọc dăm cuốn sách, có gì đáng khoe? Kẻ tự cho là mình hiểu biết lại không hề thông minh, kẻ tự khoe khoang lại không hề có công lao, người ta sống trên đời, sao có thể tự coi mình là thông minh được?”
Bốn người lại vái thật sâu: “Đệ tử xin ghi nhớ lời giáo huấn của tiên sinh!”
“Đi đi!”
Bốn người bèn cầm sách lên rồi đi ra.
Tô Tần đi được mấy bước, bèn ngoảnh đầu nhìn Ngọc Thiền, thấy Ngọc Thiền cũng đang đưa mắt nhìn theo. Hai ánh mắt giao nhau, trong ánh mắt của Ngọc Thiền chứa chan hy vọng và khích lệ. Tô Tần cúi người thật thấp hành một lễ, rồi nhanh chóng rảo bước đi.
Ngọc Thiền quay lại, thấy Quỷ Cốc Tử đang mỉm cười nhìn mình, sắc mặt bỗng ửng hồng, bèn nói: “Tiên sinh, Thiền Nhi muốn giúp Tô Tần loại trừ tâm chướng!”
“Thiền Nhi, con không chỉ giúp mình Tô Tần đâu!”
Ngọc Thiền ngạc nhiên nhìn Quỷ Cốc Tử: “Con…”
“Thực ra, con cũng đã giúp Bàng Quyên và Trương Nghi. Tâm chướng của hai người này không hề nhỏ hơn Tô Tần!”
Ngọc Thiền kinh ngạc hỏi: “Họ cũng có tâm chướng?”
Quỷ Cốc Tử sắc mặt nghiêm nghị: “Trong mắt không coi ai ra gì, tự cao tự đại, không chịu suy ngẫm sâu xa, mơ mộng hão huyền, tranh chấp hơn thua, tự cậy thông minh, tất cả những điều này, không phải tâm chướng thì là gì?”
Ngọc Thiền đột nhiên bừng tỉnh: “Ý tiên sinh là, tâm chướng của Tô Tần nằm ở tự ti, còn tâm chướng của Trương, Bàng nằm ở tự phụ.”
“Thường có câu, nhân vô thập toàn. Ý nói phàm là người, ai cũng có tâm chướng, hoặc biểu hiện thế này, hoặc biểu hiện thế khác. Bản chất của tu đạo chính là loại bỏ tâm chướng. Loại bỏ tâm chướng nằm ở tự biết mình, muốn biết mình thì phải biết người. Biết mình không dễ, biết người lại càng khó hơn. Thiền Nhi, con đã giúp họ, vừa tự biết mình, lại vừa biết người, đó chính là con đường tu đạo!”
Ngọc Thiền ngẫm nghĩ một lát, rồi lại gọi: “Tiên sinh…”

Cuối cùng, Tô Tần vẫn chọn cuốn sách “Đạo đức ngũ thiên ngôn”. Nhưng hôm nay, Tô Tần cảm thấy tinh thần sảng khoái, đi đường ngẩng đầu ưỡn ngực, rảo bước như bay, cứ thế đi thẳng tới bên bờ suối, ngồi xuống tảng đá thường ngày vẫn ngồi.
Đúng vậy, họ là người, Tô Tần cũng là người. Họ đều là người phú quý, nhưng tất cả chỉ là chuyện trước đây, ở trong Quỷ Cốc này, tất cả họ đều giống nhau, đều phải bắt đầu từ đầu.
Đúng vậy, tiên sinh nói rất đúng, núi không quý ở cao, mà quý ở có tiên; đọc sách không quý ở nhiều, mà quý ở lĩnh ngộ. Tô Tần ngày ngày mải miết đọc cuốn sách này, là bởi trong đó vẫn còn nhiều điều mà bản thân chưa hiểu được. Tô Tần vốn dĩ nghĩ rằng do mình quá ngu độn, nhưng tiên sinh nói, ngay cả tiên sinh cũng chưa thể hiểu hết, ngay cả tiên sinh cũng chưa lĩnh ngộ được hết kia mà…
Tô Tần mỉm cười.
Trên mặt Tô Tần lần đầu tiên bừng lên vẻ tự tin. Sự thực, đúng lời Ngọc Thiền đã nói, Tô Tần từ lâu đã thuộc lòng cuốn sách này, vốn chẳng cần mượn nữa. Nhưng lần nào Tô Tần cũng chọn, không phải là vì không nhớ nổi, mà bởi vì nếu không có cuốn sách này bên cạnh, Tô Tần cứ thấy như thiếu một thứ gì.
Lúc này, Tô Tần quay mặt về phía con suối, trải bó thẻ tre lên tảng đá, nhưng mắt lại không nhìn sách, mà hít vào một hơi thật sâu, quay mặt về phía núi xanh, cất tiếng đọc rành mạch: “Cái Đạo có thể gọi tên không phải là cái Đạo thường hằng; cái Danh có thể gọi tên không phải là cái Danh thường hằng. Không là khởi nguồn của trời đất, Có là mẹ của vạn vật. Nên thường không có dục để quan sát chỗ vi diệu của nó, thường có dục để quan sát chỗ vô biên của nó. Hai thứ đó cùng gốc nhưng khác tên, đều gọi là huyền. Huyền mà lại thêm huyền, là cánh cửa sinh ra mọi điều huyền diệu…”
Tô Tần đọc một lèo, đột nhiên kinh ngạc: không còn nói lắp nữa!
Tô Tần không tin vào tai mình, tiếp tục đọc: “Cái Đạo có thể gọi tên không phải là cái Đạo thường hằng; cái Danh có thể gọi tên không phải là cái Danh thường hằng. Không là khởi nguồn của trời đất, Có là mẹ của vạn vật. Nên thường không có dục để quan sát chỗ vi diệu của nó, thường có dục để quan sát chỗ vô biên của nó. Hai thứ đó cùng gốc nhưng khác tên, đều gọi là huyền. Huyền mà lại thêm huyền, là cánh cửa sinh ra mọi điều huyền diệu…”
Vẫn trôi chảy lưu loát, không vấp váp một chữ nào.
Tô Tần vội bước tới bên bờ suối, nhìn thấy một cọng lông vũ trôi nổi theo dòng, thuận miệng nói luôn: “Trên núi có cây, trên cây có chim, chim mọc lông vũ. Mùa hạ ấm áp, gió núi vi vu. Lông vũ rụng xuống, theo gió mà đi. Rơi xuống dòng nước, nước suối cuốn trôi. Lông vũ bập bềnh, suối vòng quanh núi, lông vũ theo suối mà trôi!”
Tô Tần sững lại một lúc, rồi lại hướng về dòng suối mà nói tiếp: “Dòng suối xanh xanh, dưới nước có đá, đá là đá cuội. Trong nước có cá, cá lội tung tăng, trên bờ cỏ mọc xanh xanh…”
Tô Tần cứ nghĩ gì nói đấy, cứ tuỳ ý mà nói ra, muốn nhanh nói nhanh, muốn chậm nói chậm, không ngờ lại có thể muốn sao được vậy, nghĩ gì nói nấy.
Tô Tần sung sướng vạn phần, quỳ xuống bên bờ, quay mặt về phía dòng suối mà bật khóc: “Trời ơi, Tô Tần ta không bị nói lắp nữa! Tô Tần ta không bị nói lắp nữa!”
Đột nhiên, Tô Tần đứng phắt dậy, quay người chạy như bay về phía rừng sâu, chạy một mạch đến dưới một gốc cây cổ thụ. Trương Nghi học theo họ Hữu Sào, rất thích ở trên cây. Cây cổ thụ này chính là chỗ Trương Nghi thường ngày đọc sách. Tô Tần đứng dưới gốc cây gọi liền mấy tiếng, nhưng không thấy có tiếng đáp.
Tô Tần ngẩng đầu nhìn lên tán cây, chỉ thấy cành lá rậm rạp, không nhìn rõ được bên trên, thì tự nhủ: “Hiền đệ đi đâu nhỉ? Hay là ngủ rồi? Mình phải trèo lên xem sao!”
Tô Tần trèo lên cây, quả nhiên thấy Trương Nghi đang nằm vắt vẻo trên một chạc cây lớn, mặt bị che kín bởi một cuộn thẻ tre trải rộng.
Tô Tần khẽ lay Trương Nghi, gọi: “Hiền đệ!”
Trương Nghi không động cựa.
Tô Tần cảm thấy bất an, vừa đưa tay định lật cuộn thẻ tre trên mặt ra, thì Trương Nghi đột nhiên lên tiếng: “Đừng động vào!”
Tô Tần hỏi: “Hiền đệ, làm sao thế?”
“Không sao cả!”
Tô Tần ngạc nhiên: “Vậy… tại sao hiền đệ lại che mặt?”
“Mặt?” Trương Nghi đưa hai tay giữ chặt lấy cuộn thẻ tre. “Làm gì còn mặt mũi nào nữa? Cái mặt của đệ hôm nay đã mất sạch trơn rồi! Đệ đúng là không còn mặt mũi nhìn ai nữa!”
Đột nhiên, Trương Nghi phát giác ra một chuyện, vội ngồi bật dậy, hai tay chụp lấy cánh tay Tô Tần, hai mắt mở to nhìn thẳng vào Tô Tần, cứ như nhìn một con quái vật.
Tô Tần vội nói: “Hiền đệ, đệ… đệ làm sao thế?”
Trương Nghi hít ngược một hơi dài, kinh ngạc kêu lên: “Ồ, nghe mà xem, huynh không nói lắp nữa rồi!”
Tô Tần thở phào một hơi dài, cười lớn: “Đúng thế, huynh không nói lắp nữa! Huynh đến cũng là muốn cho hiền đệ biết, huynh không nói lắp nữa!”
Trương Nghi vẫn chưa dám tin: “Tại sao huynh lại không nói lắp nữa?”
Tô Tần lắc đầu nói: “Huynh cũng không biết. Tự nhiên huynh lại không bị nói lắp nữa, thật đấy, huynh không bị nói lắp nữa rồi, ha ha ha ha… Tô Tần ta từ nay về sau sẽ không còn nói lắp nữa!”
Trương Nghi mừng rỡ: “Tốt quá, Tô huynh không nói lắp nữa rồi, tốt quá, tốt quá… Đệ xin chúc mừng Tô huynh!”
“Sau cơn mưa trời lại sáng, Tô Tần ta từ nay đã được thấy trời xanh!”
Nhưng sắc mặt Trương Nghi lại đột nhiên tối sầm, thở dài một tiếng: “Than ôi…!”
Tô Tần vội hỏi: “Hiền đệ cớ sao lại thở dài?”
Trương Nghi lại thở dài tiếng nữa: “Tô huynh nhìn thấy trời xanh, còn đệ lại gặp phải phong ba bão táp! Thiền Nhi… Thiền Nhi… hết rồi, đệ coi như đã hết rồi! Thiền Nhi, nàng ấy… Than ôi, Tô huynh thử nói xem, đệ bị ma xui quỷ khiến thế nào, sao lại đi cãi nhau với thằng cha Bàng Quyên kia chứ?”
Không đợi Tô Tần lên tiếng, Trương Nghi đã nghiến răng nghiến lợi mà nói: “Tất cả đều tại thằng cha chết toi ấy hãm hại! Nếu không phải ở Quỷ Cốc, đệ sẽ dần cho hắn một trận nên thân!”
Tô Tần bật cười: “Hiền đệ, nếu đánh nhau thực với Bàng Quyên, hai người ai dần ai cũng chưa biết đâu!”
Trương Nghi cười nhạt: “Tô huynh, ai đánh ai, huynh cứ chờ xem rồi biết!”

Gần đến trưa, Ngọc Thiền đã chuẩn bị xong cơm nước, đưa ngón tay vén lại mái tóc, khẽ khàng bước đi ra ngoài thảo đường. Thấy trên bãi cỏ có cánh bướm dập dờn theo gió, Ngọc Thiền nổi tính trẻ thơ, bèn chạy đuổi theo. Đuổi được một hồi, con bướm bay tới gần mấy gian nhà cỏ của bốn người, đậu xuống một đoá hoa dại.
Ngọc Thiền đang định tới bắt, bỗng ngửi thấy một mùi quái lạ, liền tự hỏi: “Mùi gì thế nhỉ, hôi quá!”
Ngọc Thiền quay lại, đi tìm xem cái thứ mùi hôi rình đó ở đâu ra, và kinh ngạc phát hiện ra mùi hôi bốc ra từ gian nhà của bốn người. Ngọc Thiền đi vào gian phòng ở rìa ngoài, là phòng của Tô Tần, thấy bên trong lộn xộn bừa bãi, giày tất áo quần không biết đã bao lâu chưa giặt, chất thành một đống thù lù ở góc phòng.
Ngọc Thiền kinh ngạc thốt lên: “Trời ơi, phòng ốc như vậy, làm sao có thể cho người ở?”
Ngọc Thiền đưa tay bịt mũi, ôm đống quần áo bẩn của Tô Tần ra ngoài, mở toang cửa sổ, sau đó quét tước thu dọn trong phòng. Dọn xong phòng Tô Tần, Ngọc Thiền lại sang dọn dẹp khắp lượt ba phòng còn lại, chất quần áo vào hai chiếc làn lớn, mỗi tay xách một làn tới bên bờ suối.
Một lúc sau, Tô Tần tay cầm thẻ tre, vừa đọc sách, vừa trở về phòng mình.
Vừa mở cửa phòng, thấy trong phòng sạch sẽ tinh tươm, Tô Tần cứ ngỡ mình đã vào nhầm phòng, nên vội vã lùi ra. Đi ra ngoài, định thần nhìn kỹ, mới dám tin đó là phòng mình, lại quay trở vào.
Tô Tần ngơ ngác đứng ngây ra trong phòng một lúc, gãi đầu tự hỏi: “Ồ, quần áo của mình đâu mất rồi nhỉ?”
Tô Tần đang tìm kiếm loạn lên, thì ba người Tôn Tân, Trương Nghi, Bàng Quyên cũng trở về.
Tôn Tân hỏi: “Tô huynh, huynh mất gì à?”
“Quần áo! Không biết quần áo biến đâu hết rồi? Còn nữa, mọi người nhìn xem, đây có giống phòng của ta không?”
Mấy người cùng nhìn, rồi cùng đứng nghệt ra.
Trương Nghi kinh ngạc nói: “Chậc chậc, không chừng có tiên nữ giáng trần, giúp huynh dọn dẹp đấy!”
Tô Tần cười nói: “Mọi người về phòng của mình xem, có phải cũng có tiên nữ hay không?”
Mấy người vội vã chạy về phòng, một lát sau, tất cả cùng gãi đầu gãi tai đi ra.
Trương Nghi hỏi: “Quái lạ, là ai thế nhỉ?”
Tôn Tân vỗ mạnh vào trán: “Liệu có phải là sư tỷ…”
Tô Tần cũng bình tĩnh trở lại, nói xen vào: “Đúng rồi, là sư tỷ! Chắc là sư tỷ đã mang ra suối giặt rồi!”
Trương Nghi đờ người, mặt thoắt biến sắc, bật kêu lên: “Sư tỷ? Thôi rồi…”
Tô Tần vội hỏi: “Sao thế, hiền đệ?”
Trương Nghi lắp bắp: “Đệ… đệ.. chết rồi… đệ…”
Bàng Quyên mắt đảo một vòng, rồi bật cười, nói lớn: “Ha ha ha, hẳn là tối qua nhân huynh tuấn mã phóng vọt!”
Trương Nghi bị Bàng Quyên nói một câu trúng phóc, mặt đỏ phừng phừng, trừng mắt lườm Bàng Quyên, rồi lao như bay về phía bờ suối.
“Quần áo dơ bẩn của chúng ta, sao có thể để sư tỷ giặt được?” Tô Tần nói xong, cũng cùng hai người còn lại vội vã chạy đi.
Trương Nghi cuống cuồng chạy tới bờ suối, quả nhiên thấy Ngọc Thiền chân để trần, quần xắn cao, đang hì hục giặt quần áo cho họ. Phần lớn quần áo đã được giặt xong, chỉ còn một ít vẫn ngâm dưới suối.
Trương Nghi cuống quýt kêu lên: “Sư tỷ, quần áo của đệ đâu?”
Ngọc Thiền thấy Trương Nghi, bèn tươi cười nói: “Trương sĩ tử, mau lại đây giúp một tay!”
Trương Nghi nhảy vài bước đã lao xuống suối, nháo nhào bới tung đám quần áo đang ngâm, vừa tìm vừa hỏi: “Quần áo của đệ đâu hết rồi?”
Ngọc Thiền chỉ tay vào đống quần áo đã giặt xong đang chất đống trên bờ: “Thử tìm trong đó xem!”
Trương Nghi ngẩng lên nhìn, lập tức trông thấy mớ quần áo của mình đã được giặt xong xuôi, vì chưa vắt nên còn nhỏ nước ròng ròng. Trương Nghi chết lặng, bối rối không biết làm gì.
Ngọc Thiền cười nói: “Trương sĩ tử, sao lại đứng ngây ra thế? Còn không mau giúp một tay!”
Trương Nghi biết chắc Ngọc Thiền đã thấy tất cả, thì cúi gằm mặt không dám lên tiếng.
Ngọc Thiền cao giọng: “Trương sĩ tử, bảo sĩ tử giúp, có nghe thấy không?”
Trương Nghi giờ mới giật mình bừng tỉnh: “Ồ, giúp? Giúp… giúp gì?”
“Vắt nước! Vắt khô đống quần áo kia, rồi phơi lên bãi cỏ. Việc này rất tốn sức!”
“Vắt vắt vắt! Đệ sẽ vắt!” Trương Nghi vội cầm lấy quần áo, đang định vắt thì ba người kia cũng chạy ào đến nơi.
Tô Tần nhìn thấy đống quần áo chất trên bờ, gãi đầu gãi tai mà nói: “Sư tỷ, quần áo của chúng đệ, sao có thể để sư tỷ phải giặt?”
Ngọc Thiền cười nói: “Đám đàn ông các người đúng thật là, không ai chịu thua kém ai, phòng nào phòng nấy bừa bãi lộn xộn, bẩn thỉu hôi hám. Quần áo cũng thế, dễ đến vài tháng trời không giặt! Nếu cũng trị quốc theo cách này, không biết lê dân bách tính có còn đường sống không?”
Bàng Quyên liếc nhìn Trương Nghi, sau đó cười nói với Ngọc Thiền, giọng đầy ẩn ý: “Sư tỷ nói quần áo của chúng đệ bẩn thỉu chẳng kém gì nhau, nhưng dù sao cũng phải có sự so sánh chứ. Sư tỷ thử nhận xét xem, trong đống quần áo này, chiếc nào bẩn nhất?”
Trương Nghi mặt đỏ phừng phừng, mắt nhìn Bàng Quyên toé lửa: “Họ Bàng kia, ngươi…”
Bàng Quyên đâu có chịu thua: “Sư tỷ, nhìn Trương nhân huynh lúc nào cũng áo mũ chỉnh tề, chẳng lẽ quần áo của hắn cũng dơ bẩn như chúng đệ?”
Trương Nghi hai tay nắm chặt, nghiến răng ken két: “Họ Bàng kia, ngươi… đừng ép người quá đáng!”
Bàng Quyên cười âm trầm: “Trương nhân huynh, chớ kích động, chớ nên kích động, tại hạ chẳng qua muốn đùa một chút cho vui mà thôi!”
Ngọc Thiền ngạc nhiên nhìn hai người: “Bàng Quyên, các người đang lấp lửng cái gì thế? Nếu không bận gì, mau lại giúp ta giũ sạch quần áo, vắt khô, mang lên phơi trên sợi thừng kia. Trời nóng rồi, các người tốt nhất nên giặt quần áo hàng ngày, không được cứ cởi ra rồi quăng bừa dưới đất!”
Bàng Quyên cười nói: “Được được được, sư tỷ hãy ngồi xuống nghỉ ngơi, chút việc vặt này, cứ để mình Bàng Quyên xử lý!”
Ngọc Thiền bật cười: “Thế mới giống đàn ông con trai chứ. Ta mệt phờ rồi, đúng là cũng muốn nghỉ tay.”
Ngọc Thiền đang định lên bờ, bỗng nhìn thấy Quỷ Cốc Tử và tiểu đồng đang đứng sau lưng bốn người, liền khẽ gọi: “Tiên sinh!”
Bốn người quay đầu, nhìn thấy Quỷ Cốc Tử, liền vội vàng bái lạy: “Đệ tử khấu kiến tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử không thèm đếm xỉa, chỉ sầm mặt đứng yên tại chỗ.
Tiểu đồng đặng hắng một tiếng, hỏi: “Bốn vị sư đệ, đây có phải quần áo của bốn người?”
Bốn người cúi gằm mặt không nói năng gì, đặc biệt là Trương Nghi và Bàng Quyên, bao nhiêu hậm hực đều nuốt vội xuống cổ. Những lời cãi vã vừa rồi của họ, chắc hẳn đều đã bị tiên sinh và tiểu đồng nghe thấy.
Tiểu đồng cao giọng: “Sư huynh đang hỏi các ngươi!”
Tô Tần ngẩng đầu đáp: “Hồi bẩm sư huynh, là quần áo của chúng đệ!”
“Nhà bẩn có thể quét, quần áo bẩn có thể giặt, nhưng nội tâm nhơ bẩn, dù là ai cũng hết cách! Mấy người các ngươi mang quần áo đi theo ta!” Tiểu đồng nói xong, liền đi trước dẫn đường.
Bốn người vơ vội lấy quần áo của mình, đi theo tiểu đồng. Năm người xếp thành một hàng, đi thẳng tới bãi cỏ đằng xa.
Thấy họ đã đi xa, Quỷ Cốc Tử khẽ thở dài, rồi bước lại gần, ngồi xuống phiến đá, nói với Ngọc Thiền: “Thiền Nhi, lại đây, đến ngồi cạnh ta!”
Ngọc Thiền liền cung kính ngồi xuống: “Tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử hỏi: “Thiền Nhi! Con nhìn xem, thứ gì đang chảy trong dòng suối?”
“Là nước!”
“Có biết nước chăng?”
“Tiên thánh nói, ‘thiện nhất như nước’.”
“Không sai!” Quỷ Cốc Tử gật đầu nói. “Thiền Nhi có biết, tại sao thiện nhất lại giống như nước không?”
“Nước làm lợi vạn vật mà không tranh chấp với vạn vật!”
“Không đúng! Nước làm lợi cho vạn vật, nhưng cũng tranh chấp với vạn vật.”
Ngọc Thiền ngạc nhiên hỏi: “Tiên sinh, nước cũng tranh chấp ư?”
“Đúng thế!” Quỷ Cốc Tử chỉ tay vào một ngọn núi lớn. “Con hãy nhìn ngọn núi kia, cứng rắn là thế, cao lớn là thế, sừng sững là thế. Lại nhìn dòng nước này, róc rách chảy đến, lững lờ chảy đi. Nhưng con hãy nhìn tiếp mà xem, nó đã khiến cho ngọn núi to lớn kia nứt thành khe, mài mòn đá tảng thành đá cuội. Tiên thánh nói, ‘thiên hạ không gì mềm hơn nước, nhưng công phá những thứ cứng rắn, lại không gì thắng nổi.’ Nếu nước không tranh chấp với vạn vật, thì làm sao có thể thắng được những thứ cứng rắn?”
“Nói như vậy, vạn vật trong thiên hạ, thảy đều tranh chấp ư?”
“Đều tranh chấp, nhưng cũng không tranh chấp!”
Ngọc Thiền càng mơ hồ không hiểu: “Đã là tranh chấp, sao lại có thể không tranh chấp được?”
“Đây chính là cái lý của đạo?”
“Xin tiên sinh nói rõ hơn!”
“Vạn vật dựa vào nhau mà sinh tồn, tương sinh tương khắc. Tương sinh sẽ không tranh, tương khắc sẽ tranh. Đây chính là đạo. Đạo ẩn tàng trong vạn sự vạn vật, vừa hiện, lại vừa không hiện.”
“Ý tiên sinh là, trong nước có đạo!”
“Con xem, nước thật gần gũi với đạo! Đạo lấy thiện mà hành, đạo làm thiện cho vạn vật. Nước lấy lợi mà hành, nước làm lợi cho vạn vật. Đạo lấy yếu chế mạnh, không gì không hoá; nước lấy mềm chế rắn, không gì không thắng!”
“Đạo ở trong nước, phải chăng là ‘ở thì am tường đất, lòng thì sâu kín, đối xử thì nhân đạo, lời nói thì tín nghĩa, đứng đầu thì giỏi trị người, làm việc thì hiệu quả, hành động thì hợp thời’ mà tiên thánh đã nói?”
“Lời của tiên thánh, bề ngoài nói về bảy đức của nước, nhưng trên thực tế là chỉ bảy phẩm của con người, con có thể từ từ lĩnh ngộ!”
“Đa tạ tiên sinh đã chỉ giáo!”
“Nếu muốn nói đa tạ, ta phải đa tạ Thiền Nhi mới phải!”
Ngọc Thiền ngạc nhiên hỏi: “Đa tạ con?”
“Xem ra bây giờ, nếu không có Thiền Nhi, e rằng mấy viên ngọc thô đó sẽ không thể thành tài!”
“Tiên sinh đã quá lời! Thiền Nhi chỉ là một nhi nữ bình thường, dù rằng muốn giúp tiên sinh rèn giũa họ, chỉ sợ tâm có thừa mà sức không đủ.”
“Thiền Nhi có điều không biết, ngọc thô là vật cứng rắn, giống như ngọn núi này. Còn Thiền Nhi lại giống như dòng suối.
Ngọc Thiền nói: “Thì ra tiên sinh thu nhận Thiền Nhi là để giúp tiên sinh tôi luyện ngọc khí!”
“Không phải!” Quỷ Cốc Tử lắc đầu. “Con hãy nhìn dòng suối nhỏ này, nó chảy ra từ lưng chừng núi, dọc đường phá gai nhổ bụi, gặp núi phá núi, gặp đá róc đá, không gì có thể ngăn cản nó, cũng không gì có thể khiến nó lưu luyến quên về. Nó cũng có lúc khốn quẫn, nhưng từ trong khốn quẫn lại học được trí tuệ. Nó cũng có lúc mê lầm, nhưng không bao giờ mê lạc chính mình. Con xem, nó không bao giờ lỗ mãng chạy bừa, không bao giờ trì trệ một chỗ, nó luôn luôn chảy về phía trước, chảy mãi, chảy mãi, đến khi ra khỏi núi cao, nhập vào biển lớn!”
Ngọc Thiền nhìn vào dòng suối, trong tâm bỗng chốc sáng quang: “Thiền Nhi hiểu rồi, con đường mà dòng suối chảy qua, kỳ thực chính là con đường tu đạo!”
“Đúng thế, Thiền Nhi, chỉ đến khi ra được biển lớn, nó mới đột nhiên phát giác ra, tất cả những nỗ lực trước đây đều là xứng đáng!”

Chớp mắt đã hai tháng nữa trôi qua, lúc này đã là giữa hè, trời nóng oi ả. Bốn người Tô Tần vẫn ngày ngày mượn sách, chọn sách, trả sách.
Sáng sớm hôm nay, lại là giờ chọn sách. Mặc dù động tàng thư vẫn do Ngọc Thiền trông nom, nhưng giờ đã chỉ còn trên danh nghĩa, vì Ngọc Thiền rất ít khi còn giám sát việc mượn trả sách nữa, tất cả đều do bốn người tự giác.
Tôn Tân đặt cuốn sách đã đọc hôm trước lên giá, sau đó lại tìm kiếm một lượt trên giá sách, chọn lấy cuốn khác rồi quay người bước đi. Bàng Quyên thấy Tôn Tân đã đi xa, vội vàng chạy đến, cầm lấy cuốn sách mà Tôn Tân vừa trả, đọc qua một lượt, sau đó mới nhặt lấy cuốn sách đã chọn, đi thẳng ra ngoài.
Nhìn thấy sự này, hai mắt Trương Nghi chớp đảo vài cái, lập tức nảy ra một ý, bèn lục lọi một hồi trên giá sách, cuối cùng cũng lôi ra được một cuộn thẻ tre trong một góc đầy bụi bặm, phủi bụi đi, giở đọc qua loa, rồi mừng rơn kêu lên: “Ô, đúng là nó rồi!”
Trương Nghi cầm theo cuốn thẻ tre, đến thẳng phía dưới vách núi nơi Tôn Tân thường ngày vẫn đọc sách. Tôn Tân đang chăm chú đọc, Trương Nghi đi tới tận trước mặt mà cũng không nghe thấy.
Trương Nghi lên tiếng: “Tôn huynh thật chuyên tâm!”
Tôn Tân ngẩng lên nhìn, vội đứng dậy vòng tay vái mà nói: “Tại hạ xin chào Trương huynh!”
Trương Nghi đáp lễ, rồi ngồi xuống bên cạnh Tôn Tân. Tôn Tân hỏi: “Hẳn là Trương huynh đọc sách đã mệt, nên mới ra ngoài đi dạo?”
Trương Nghi cười nói: “Tại hạ từ lúc sinh ra đã có số đọc sách, có đọc liền mười ngày mười đêm cũng không biết mệt. Tại hạ đến đây là muốn tìm Tôn huynh.”
Tôn Tân ngạc nhiên: “Tìm tại hạ?”
“Tại hạ vừa tìm được một cuốn sách nằm tít trong một xó, lật qua thì thấy là cuốn sách viết về tiên thánh, cảm thấy rất hay. Tại hạ biết Tôn huynh rất mực sùng bái tiên thánh, nên mang đến cho huynh đọc!” Trương Nghi nói xong, liền lấy ra cuộn thẻ tre lúc nãy, đưa cho Tôn Tân.
Tôn Tân vừa nhìn, thì ra là cuốn ‘Lão Tử Lân thị truyện’, thì mừng rỡ mà nói: “Sách này tuyệt hay, tại hạ đa tạ Trương huynh!”
Trương Nghi cười nói: “Nhưng tại hạ có một thỉnh cầu, mong Tôn huynh đồng ý!”
“Chỉ cần Tôn Tân có thể làm được, Trương huynh cứ nói đừng ngại!”
“Bàng Quyên thường gây khó dễ cho tại hạ, Tôn huynh đọc sách này, tuyệt đối đừng để cho Bàng Quyên biết. Sách hay thế này, hắn không xứng để đọc!”
Tôn Tân trầm ngâm một lát: “Vậy… tại hạ phải làm thế nào mới giấu được Bàng đệ?”
Trương Nghi ngẫm nghĩ rồi nói: “Tôn huynh hãy đến một nơi yên tĩnh để đọc. Trước bữa cơm tối, tại hạ sẽ tự đến tìm Tôn huynh lấy sách, huynh thấy thế nào?”
“Điều này không khó. Trước lúc mặt trời lặn, huynh hãy đến dưới gốc tùng cổ thụ nơi lưng chừng đỉnh Hùng Kê núi Đông Sơn tìm tại hạ.”
“Cứ quyết định như vậy đi!”
Bàng Quyên đang đọc sách dưới gốc cây, chợt nghe thấy có tiếng người trò chuyện, đưa mắt nhìn, thì ra là Trương Nghi và Tô Tần đang đi ngang qua trước mặt.
Trương Nghi vừa đi vừa hỏi: “Tô huynh, huynh có thấy Tôn Tân đâu không?”
Tô Tần đáp: “Lúc nãy tại hạ thấy Tôn huynh cầm theo hai cuốn sách, đi về phía Đông Sơn. Sao, đệ muốn tìm Tôn huynh ư?”
“Đúng thế, đệ có chút việc muốn tìm Tôn huynh. Huynh nhìn thấy Tôn huynh lúc nào?”
“Vừa nãy thôi. Tôn huynh cầm hai cuốn sách, có vẻ rất nặng, nhưng đi rất nhanh, huynh định chào nhưng vừa mở miệng đã không thấy người đâu nữa.”
“Quái lạ nhỉ! Thường ngày Tôn huynh đều đọc sách dưới vách núi kia mà, tại sao hôm nay lại thay đổi chỗ đọc?”
Hai người vừa đi vừa nói, từ từ xa dần.
Bàng Quyên bỗng sực nhớ ra, lẩm bẩm một mình: “Sáng sớm rõ ràng nhìn thấy huynh ấy chỉ cầm một cuốn sách, sao giờ lại là hai cuốn? Còn nữa, tại sao lại phải thay đổi chỗ đọc? Lẽ nào là để đề phòng mình ư? Phải chăng huynh ấy tìm được sách quý, không muốn cho người khác biết? Không được, chuyện này phải làm cho ra nhẽ!”
Bàng Quyên đặt bó thẻ tre trong tay xuống, rảo bước đi nhanh về phía Đông Sơn.
Quả nhiên, dưới gốc cây tùng cổ thụ ở lưng chừng đỉnh Hùng Kê, Bàng Quyên thấy Tôn Tân tay cầm một cuốn sách, đang mải miết đọc, cuốn còn lại đặt trên mặt đất. Bàng Quyên tiến lại mấy bước, vốn định nhìn cho rõ ràng, nhưng lại e sợ đến quá gần sẽ bị phát hiện.
Bàng Quyên chau mày, bắt đầu tính toán: “Phải rồi, ta cứ đường hoàng đi đến, xem huynh ấy có giấu giếm hay không. Nếu giấu đi, chắc chắn có chuyện mờ ám. Nếu không giấu, là ta đã quá đa nghi!”
Bàng Quyên quyết định như vậy, liền lùi lại chừng vài chục bước, vừa huýt sáo vừa theo đường núi đi lên, làm ra vẻ như đang đi dạo.
Nghe thấy tiếng huýt sáo của Bàng Quyên từ xa vọng lại, Tôn Tân thoáng giật mình. Nhớ tới lời dặn của Trương Nghi, Tôn Tân vội giấu cuốn “Lão Tử Lân thị truyện” vào trong hốc cây, rồi cầm cuốn sách đặt trên đất lên đọc.
Bàng Quyên đi tới bên gốc cây, giả bộ ngạc nhiên: “Tôn huynh, sao huynh lại ở đây?”
Tôn Tân ấp úng: “Ồ, huynh… phải rồi, cứ đọc sách mãi một chỗ cũng thấy chán, nên mới chuyển tới đây. Chỗ này yên tĩnh, rất thích hợp để đọc sách. Trông hiền đệ hôm nay có vẻ nhàn tản thực!”
“Đệ đọc sách thấy mệt, muốn đi dạo một chút, không ngờ lại gặp Tôn huynh ở đây. Nhìn Tôn huynh mê mải thế kia, hẳn là đọc được cuốn sách gì hay lắm?”
Tôn Tân đưa sách cho Bàng Quyên: “Là cuốn ‘Lục thao’, hiền đệ đã đọc từ lâu rồi.”
Bàng Quyên cầm lấy xem, quả nhiên là cuốn “Lục thao”, trong lòng thầm nghĩ: “Rõ ràng là hai cuốn, giờ chỉ còn lại một. Tôn Tân ơi là Tôn Tân, ta cứ nghĩ huynh là người thực thà, té ra chân nhân bất lộ tướng! Tốt, coi như Bàng mỗ đã nhìn lầm huynh!”
Bàng Quyên đưa trả sách cho Tôn Tân, cười ha hả mà nói: “Tôn huynh cứ từ từ mà đọc, đệ không làm phiền nữa!”
“Hiền đệ đi cẩn thận!”
Bàng Quyên miệng hát nghêu ngao, tiếp tục đi lên núi.
Trong một lùm cây gần đó, Trương Nghi đã nhìn rõ đầu đuôi, liền cười hinh hích, rồi vội vàng đi xuống núi, tới bên bờ suối, vừa cười vừa nói với Tô Tần: “Tô huynh, Bàng Quyên kia quả nhiên đã tìm đến!”
Tô Tần ngơ ngác không hiểu: “Hiền đệ, đệ bảo ta nói này nói nọ, bộ dạng lại mờ ám lén lút, rốt cuộc là có chuyện gì?”
Trương Nghi ghé sát tai Tô Tần thì thào một chặp. Tô Tần chau mày: “Nói như vậy, Bàng Quyên quả thực là người có tâm cơ!”
“Đâu chỉ là có tâm cơ, mà còn là tâm cơ đen tối!” Trương Nghi tức giận. “Tô huynh, lúc nãy đệ đã nghĩ ra được một cách để trị hắn, chỉ cần Tô huynh gật đầu, đệ đảm bảo sẽ cho Bàng Quyên kia một bài học nhớ đời!”
“Hiền đệ muốn trị hắn thì cứ đi mà trị, sao phải đợi huynh gật đầu?”
“Vì việc này phải phiền đến Tô huynh xung trận.”
Tô Tần kinh ngạc: “Huynh xung trận?”
“Đúng thế!” Trương Nghi cười cười. “Đệ và họ Bàng kia là oan gia, dù có nói thế nào hắn cũng không chịu tin. Nhưng Tô huynh thì khác, chỉ cần là huynh mở miệng, chắc chắn hắn sẽ tin!”
Tô Tần lắc đầu quầy quậy: “Không được, không được! Đệ muốn hại người, nhưng lại lấy ta làm mũi giáo, trong thiên hạ làm gì có chuyện như vậy?”
“Tô huynh hiểu nhầm rồi!” Trương Nghi ra vẻ nghiêm chỉnh mà nói. “Không phải đệ muốn hại hắn, mà là muốn giúp hắn! Hơn nữa, cũng là để giúp Tôn huynh!”
“Giúp hắn? Giúp Tôn huynh?”
“Tô huynh thử nghĩ xem, trong Quỷ Cốc này, nếu Bàng Quyên muốn đề phòng một người, thì đó là ai?”
Tô Tần cười nói: “Đương nhiên là Trương Nghi đệ. Hai người suốt ngày như mũi kim chọi mũi gai, chẳng ai chịu nhường ai!”
“Sai rồi!” Trương Nghi nói. “Tô huynh, nhìn người không được chỉ nhìn bề ngoài.”
“Ý đệ là, người mà Bàng Quyên đề phòng chính là Tôn huynh?”
“Đúng thế!” Trương Nghi nói thao thao một mạch. “Huynh thử nghĩ xem, trong Quỷ Cốc này, sư tỷ luyện y đạo, lại là thân nữ nhi, không cùng đường với Bàng Quyên, nên bỏ qua không tính. Huynh và đệ đều học thuật miệng lưỡi, cũng không liên quan đến hắn. Chỉ có Tôn Tân và hắn là cùng chí hướng, lại là đồng môn, cả hai đều hiểu rõ về nhau. Nếu cùng thờ một chủ, sẽ phải phân chia cao thấp; nếu mỗi người thờ một chủ, sẽ thành đối thủ một mất một còn. Huynh nghĩ xem, tay Bàng Quyên kia liệu có nên đề phòng không?”
Tô Tần trầm ngâm một lát: “Hiền đệ nói cũng có lý!”
“Tôn huynh là người thành thực, nếu Bàng Quyên có tâm cơ này, Tôn huynh chắc chắn không biết đề phòng, nên sẽ bị thua thiệt. Nếu chúng ta cứ để mặc cho tâm cơ của Bàng Quyên bành trướng, há chẳng phải là đã hại Bàng Quyên, cũng hại cả Tôn huynh?”
Tô Tần ngẫm nghĩ một lúc, rồi ngẩng lên hỏi: “Vậy, hiền đệ có cách gì hay?”
Trương Nghi ghé sát tai Tô Tần thì thào một chặp.
Tô Tần cười nói: “Làm thế… hình như hơi quá đáng!”
Trương Nghi toét miệng cười: “Chỉ đùa một chút cho vui thôi mà! Suốt ngày ở lì trong Quỷ Cốc, chẳng lẽ huynh không thấy tẻ nhạt ư?”

Hành động bất thường của Tôn Tân khiến Bàng Quyên không thể hiểu nổi.
Buổi chiều hôm đó, Bàng Quyên chẳng còn lòng dạ nào mà đọc sách, chỉ ngồi buồn bã dưới gốc cây. Theo suy nghĩ của Bàng Quyên, Tôn Tân tuyệt đối không phải người như vậy. Nhưng chuyện ngày hôm qua, lại là chính mắt hắn nhìn thấy. Thường có câu, trái tim cách lớp da, Tôn Tân thường ngày ít nói, cho dù có tâm sự, cũng rất ít khi thổ lộ ra miệng. Giờ nghĩ kỹ lại, thực ra Bàng Quyên cũng không hiểu nhiều về Tôn Tân. Ngay cả xuất thân danh môn của Tôn Tân, cũng là do Trần Chẩn tra hỏi mới biết. Xem ra, Tôn Tân tâm địa sâu xa, sau này vẫn cần phải để ý.
Bàng Quyên đang lúc mải miết suy nghĩ, Tô Tần tay xách giỏ tre đi lại gần, nhìn thấy Bàng Quyên, liền gọi từ xa: “Bàng huynh!”
Bàng Quyên sực tỉnh, thấy Tô Tần đến, thì đứng dậy vòng tay vái chào: “Tại hạ xin chào Tô huynh!” Rồi liếc nhìn giỏ tre. “Tô huynh, thứ gì đây?”
“À, lúc nãy gặp sư tỷ, sư tỷ nói đã lâu không được ăn nấm hương. Hôm qua trời mưa, hôm nay chắc chắn có nấm tươi, tại hạ muốn đi kiếm một ít mang về.”
Nghe nói Ngọc Thiền muốn ăn nấm hương, Bàng Quyên vội nói: “Ồ, ý nghĩ của sư tỷ luôn trùng hợp với tại hạ. Hôm qua trời mưa, tại hạ cũng dự định hôm nay sẽ đi hái nấm, không ngờ nhiều việc quá nên quên khuấy đi mất. Đi thôi, tại hạ sẽ cùng đi với Tô huynh!”
Tô Tần cười nói: “Như vậy thì tốt quá, tại hạ đang lo hái nhầm phải nấm độc. Sư tỷ thích ăn nấm hương mọc trên cây bạch dương, chúng ta hãy đến rừng bạch dương để hái, được chăng?”
Hai người cười cười nói nói, theo con đường núi đi về phía rừng bạch dương. Trò chuyện đến đoạn cao hứng, Tô Tần cười mà nói: “Tối qua có một chuyện rất quái lạ, tại hạ càng nghĩ càng thấy khó hiểu!”
“Ồ, là chuyện gì thế?” Bàng Quyên tò mò hỏi.
“Có lẽ tối qua tại hạ bị nhiễm lạnh, khi trời gần sáng, bụng đau dữ dội, nên đành phải xuống giường chạy ra rừng cây giải quyết. Xong chuyện trở về, đang định vào phòng, bỗng nghe thấy có tiếng người rì rầm!”
“Có người rì rầm?” Bàng Quyên kinh ngạc. “Nửa đêm canh ba, là ai trò chuyện?”
“Tại hạ cũng cảm thấy quái lạ, nên chú ý lắng nghe, thì ra là Tôn huynh!”
Nghe nhắc đến Tôn Tân, Bàng Quyên hai mắt mở to: “Là Tôn huynh! Huynh ấy nói những gì?”
“Cũng do tại hạ nổi tính hiếu kỳ, nên lắng tai nghe trộm. Ha ha ha, thì ra là Tôn huynh đang nói mơ!”
Bàng Quyên gật gù: “Ừ, vào thời điểm ấy thì chỉ có thể là nói mơ. Tôn huynh đã nói những gì?”
“Lúc đầu nghe không rõ, sau nghe thấy Tôn huynh hét to: Lý tướng quân, dẫn ba nghìn người di chuyển sang bên trái ba trăm bước, xếp thành đội hình trường xà chữ nhất. Trương tướng quân, dẫn ba nghìn người di chuyển sang bên phải ba trăm bước, xếp thành đội hình trường xà chữ nhất!”
“Chỉ vậy thôi ư?”
“Đâu chỉ có vậy. Giấc mơ của Tôn huynh cũng thực là dài, lúc la lúc hét, lúc điều chỗ này, lúc chuyển chỗ kia, cứ điều qua chuyển lại, tại hạ nghe mà rối hết đầu óc. Lại thêm lúc đấy buồn ngủ rũ mắt, tại hạ đâu còn tâm trí nào mà nghe nói mơ? Chỉ là bây giờ sực nhớ ra, cảm thấy nực cười nên mới kể cho Bàng huynh nghe. Mà trong Quỷ Cốc này, nếu nói về đọc sách nhập tâm, thực chẳng ai qua được Tôn huynh, ngay cả trong mơ cũng nhập tâm đến vậy!”
Bàng Quyên dừng bước, như có điều suy nghĩ, rồi lẩm bẩm một mình: “Theo như Tô huynh vừa kể, chắc Tôn huynh đang bày trận pháp gì đó. Thường có câu, ngày làm sao đêm chiêm bao làm vậy, phải chăng Tôn huynh đã đọc được cuốn sách gì về trận pháp?”
“Phải rồi!” Tô Tần gật đầu. “Nghe Bàng huynh nói vậy, tại hạ cũng đã nhớ ra, Tôn huynh có nhắc đến Thái Công bát trận gì gì đó!”
Bàng Quyên kinh ngạc: “Thái Công bát trận? Huynh có nghe rõ không?”
“Rất rõ!”
Hai đầu lông mày của Bàng Quyên chau tít thành một cục, lẩm bẩm: “Thái Công bát trận? Quả là mới mẻ!”
Rừng bạch dương nằm trên đỉnh Hùng Kê, cũng chính là nơi Tôn Tân kín đáo đến đọc sách. Đi được nửa canh giờ, hai người đã lên được đỉnh Hùng Kê, Tô Tần chỉ vào rừng cây nói: “Bàng huynh, đã đến rừng bạch dương rồi!”
Bàng Quyên “ừ” một tiếng, rồi cùng Tô Tần đi vào trong rừng, tìm hái nấm hương. Đang lúc tìm kiếm, Tô Tần bỗng gọi toáng lên: “Bàng huynh, mau đến xem, đây là cái gì?”
Bàng Quyên vội chạy đến, quả nhiên thấy trên bãi đất trống trong rừng có một hình vẽ. Bàng Quyên hết nhìn ngang lại nhìn dọc, nhưng không hiểu đó là hình gì.
Tô Tần cười lớn mà nói: “Trông y như bầy sâu đang bò. Chắc Trương Nghi kia ăn no rỗi việc, nghịch ngợm đấy mà! Bàng huynh, mặc kệ đi, chúng ta tiếp tục hái nấm!”
Nhưng Bàng Quyên lại đứng ngây người bất động, mắt nhìn chằm chằm vào bức hình: “Tô huynh, huynh đi hái trước đi, tại hạ muốn nhìn rõ xem đây là thứ gì?”
Tô Tần đi rồi, Bàng Quyên lẩm bẩm một mình: “Xem ra, đây chính là Thái Công trận pháp. Hôm qua Tôn Tân bí mật vào khu rừng này đọc sách, tối qua lại nằm mơ, hình này chắc chắn là Thái Công trận pháp. Hẳn là Tôn Tân đọc không hiểu, nên mới vẽ xuống đất để nghiền ngẫm cho kỹ. Hừm, Tôn Tân kia lén lút đọc sách dưới gốc cây, lại vào rừng vẽ hình, thật là mờ ám! Ta phải quay về tìm lấy mảnh gỗ, bút mực vẽ lại hình này để từ từ tìm hiểu mới được!”
Nhưng khi Bàng Quyên tìm được tấm ván gỗ và bút mực quay trở lại, thì hình vẽ đã biến mất. Bàng Quyên đứng ngây như trời trồng, một lúc lâu sau dường như mới hiểu ra, than rằng: “Tôn Tân ơi là Tôn Tân, huynh thật âm hiểm!”
Đến bữa cơm tối, mỗi người xúc lấy một bát, ngồi trên bãi cỏ vừa ăn vừa trò chuyện. Bàng Quyên không muốn ăn, bưng bát cơm đi sang một bên, đặt bát xuống đất rồi nhắm mắt suy nghĩ.
Tôn Tân bèn bước lại gần, quan tâm hỏi: “Hiền đệ, sao lại không ăn?”
“Không nuốt nổi!”
Tôn Tân vội hỏi: “Đệ mắc bệnh ư?”
Bàng Quyên ngẫm nghĩ một lát, quyết định thử Tôn Tân thêm một lần nữa, bèn ngẩng lên hỏi: “Tôn huynh, huynh đã từng nghe nói đến Thái Công trận pháp chưa?”
Tôn Tân ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi lắc đầu nói: “Huynh chỉ nghe tiên sinh nói về Thái Công binh pháp, chưa hề nghe thấy Thái Công trận pháp. Tại sao hiền đệ lại hỏi chuyện này?”
Bàng Quyên bật cười: “Tôn huynh đã không biết, vậy cứ coi như đệ chưa hỏi gì!” Rồi bưng bát cơm lên, quay đầu đi luôn.
Tôn Tân sững lại một lát, rồi gọi với theo: “Hiền đệ, đệ làm sao thế?”
Bàng Quyên cũng chẳng thèm quay đầu lại.
Đêm đó, không gian yên tĩnh lạ thường. Bàng Quyên nằm trằn trọc đến nửa đêm mới nhẹ nhàng trở dậy, mở cửa phòng đi ra, ghé sát tai vào cửa sổ phòng Tôn Tân.
Tôn Tân đang ngủ ngáy pho pho.
Bàng Quyên nghe một hồi lâu, bực tức lầm bầm: “Nói đi, con người tinh ranh kia, tại sao không nói mơ nữa?”
Buổi sáng, vào giờ chọn sách, Tôn Tân cầm lấy một cuốn đi ra ngoài. Bàng Quyên kín đáo bám theo phía xa, thấy Tôn Tân lại đi tới chỗ vách đá thường ngày, ngồi xuống một phiến đá rồi mở cuốn thẻ tre ra đọc.
Bàng Quyên hậm hực lầm bầm: “Hừ, giả bộ giống lắm! Ta phải xem xem, ngươi giả bộ được đến khi nào?”
Đợi đến tận trưa, rồi lại đến chiều, mặt trời đã xuống núi, nhưng Tôn Tân vẫn ngồi nguyên ở đó, không có biểu hiện gì khác lạ.
Bàng Quyên khổ sở canh chừng suốt một ngày trời, nhưng chẳng được việc gì, liền lẩm bẩm một mình: “Thế là thế nào? Tại sao hắn lại không để lộ một mảy may sơ hở? Lẽ nào hắn đã có đề phòng? Chắc chắn là vậy! Tối qua đáng lẽ không nên hỏi về Thái Công trận pháp! Là ta đã rút dây động rừng!”
Ngày hôm sau, Bàng Quyên lại tiếp tục theo dõi Tôn Tân, thấy Tôn Tân vẫn đi đến dưới vách núi, thì biết rằng sẽ chẳng thu hoạch được gì. Bàng Quyên chợt nảy ra một ý, liền quay đầu đi về hướng Đông Sơn, sục sạo tìm kiếm trên lưng chừng đỉnh Hùng Kê.
Quả nhiên, trời cao không phụ người có tâm. Sau một hồi tìm kiếm, cuối cùng Bàng Quyên cũng tìm được một hình vẽ khác trong rừng, ở cách đó không xa, lại là một đồ hình được tạo ra từ đá sỏi và cành cây.
Bàng Quyên mừng thầm: “Thì ra là vậy, suýt chút nữa thì lỡ mất việc lớn!”
Bàng Quyên tập trung tinh lực, dốc toàn thần vào nghiên cứu hai đồ hình, nhưng càng nhìn càng chẳng hiểu gì, liền lẩm bẩm: “Cái quái gì thế nhỉ? Lẽ nào không phải là trận pháp? Đúng, chắc chắn không phải trận pháp! Vậy nó là thứ gì mới được? Thái Công bát trận, lẽ nào đây chỉ là một phần trong đó, hoặc là biến hoá của một phần? Ta phải tiếp tục tìm kiếm xem sao?”
Bàng Quyên lại lùng sục một hồi, nhưng không tìm được gì thêm, đành phải quay lại chỗ hai bức hình khi nãy, vắt óc suy ngẫm mãi, đến tận khi mặt trời xuống núi vẫn chưa ngộ ra được gì.
Bàng Quyên đột nhiên vỗ trán, nói: “Ta đi hỏi tiên sinh, chẳng phải mọi việc sẽ sáng tỏ hay sao?”
Bàng Quyên đã có chuẩn bị trước, lập tức lấy bút mực ra, vẽ lại hai đồ hình, rồi mang về sơn cốc.
Ăn tối xong, mọi người đều tập trung trò chuyện. Trương Nghi nằm trên chiếc giường tre tự chế, phe phẩy cây quạt kết từ lông nhạn.
Bàng Quyên nhìn thấy, cười nói: “Trương huynh, quạt của huynh đẹp quá, có thể cho tại hạ mượn xem không?”
Trương Nghi thuận tay đưa luôn cho Bàng Quyên. Bàng Quyên ngắm nghía một hồi, rồi cười nói: “Ái chà, nắm lông quạ này cũng đẹp gớm!”
Trương Nghi giật phắt lấy chiếc quạt, cười mà nói: “Cái mỏ quạ thối của huynh thì chỉ biết nói đến lông quạ thôi! Nói cho huynh biết, quạt của tại hạ được làm từ lông phượng hoàng đấy!”
Nghe nói là lông phượng hoàng, Ngọc Thiền phì cười nói: “Ồ, là quạt lông phượng à, đưa ta xem nào!”
Ngọc Thiền nhìn một lúc, liền cười nói: “Lông phượng cái gì? Là lông nhạn!”
Mọi người đều cười.
Đúng vào lúc này, Quỷ Cốc Tử cũng phe phẩy một cánh quạt, khoan thai đi đến.
Mọi người vội vàng đứng lên, vòng tay vái chào: “Đệ tử bái kiến tiên sinh!”
Quỷ Cốc Tử đáp lễ, cười hỏi: “Lúc nãy các con cười chuyện gì vậy?”
Bàng Quyên liền nói: “Hồi bẩm tiên sinh, chúng đệ tử đang cười Trương Nghi, huynh ấy cầm chiếc quạt lông nhạn mà bảo là lông phượng hoàng!”
Quỷ Cốc Tử cười nói: “Lông nhạn, lông phượng cũng đều là lông vũ, nói theo đạo thì không hề khác biệt!”
Trương Nghi nghe thấy vậy, liền phất quạt phành phạch, cười lớn mà nói: “Lời của tiên sinh, mọi người đều nghe rõ cả chưa?”
Quỷ Cốc Tử nói tiếp: “Nói theo vật, thì lại là một trời một vực!”
Trương Nghi liền khựng lại, còn mọi người cười ồ cả lên.
Cười một lúc, Bàng Quyên liền hỏi: “Tiên sinh, đệ tử có điều không hiểu!”
Quỷ Cốc Tử đưa mắt nhìn Bàng Quyên: “Nói đi!”
“Thế nào là Thái Công bát trận?”
Quỷ Cốc Tử trầm ngâm một lúc: “Ta chỉ nghe nói về Thái Công trận pháp, chưa từng nghe nói đến Thái Công bát trận!”
Bàng Quyên cảm thấy nghi ngờ, liền trở về phòng, lấy bức phác thảo hình vẽ trong rừng ra: “Tiên sinh đã nhìn thấy bức đồ hình này bao giờ chưa?”
Quỷ Cốc Tử ngắm nghía một hồi, rồi lắc đầu hỏi: “Hình này ở đâu ra?”
“Đệ tử nhìn thấy trong rừng bạch dương ở Đông Sơn, đệ tử nghi ngờ có liên quan tới Thái Công bát trận, mong tiên sinh xem xét!”
Quỷ Cốc Tử lại ngắm nghía một hồi, vẫn lắc đầu nói: “Hình này rất quái dị, chắc chắn không phải trận pháp! Hơn nữa, theo như ta được biết, trong thiên hạ không hề có Thái Công bát trận.”
Bàng Quyên càng thấy ngờ vực: “Vậy ư?”
Trương Nghi liền xen vào: “Là bảo bối gì vậy, cho đệ tử xem với!”
Quỷ Cốc Tử liền đưa bức hình cho Trương Nghi, Trương Nghi liếc qua, rồi cười rinh rích mà nói: “Ồ, đây chẳng phải con rùa ngửa bốn cái cẳng lên trời hay sao? Lại còn ấp trứng nữa chứ!”
Ngọc Thiền, Tôn Tân, tiểu đồng nghe thấy vậy, đều xúm lại xem.
Ngọc Thiền ngắm nghía một lát, gật đầu nói: “Ừ, còn phải nói, trông giống thật đấy!”
Tôn Tân cười nói: “Kể cũng hơi giống, hẳn là sư đệ muốn chọc cười chúng ta đây mà!”
Trương Nghi cười toáng lên mà nói: “Ôi Bàng huynh, huynh cả ngày từ sáng đến tối thậm thụt bí hiểm, tại hạ cứ ngỡ huynh đã ngộ ra được trận pháp tuyệt diệu nào, té ra lại là con rùa ấp trứng!”
Bàng Quyên vội giật lại bức hình, nhìn kỹ một lượt, quả nhiên là một con rùa lật ngược đang ấp trứng thực, thì xấu hổ đến mặt đỏ tía tai. Mãi đến lúc này Bàng Quyên mới biết mình đã bị mắc bẫy, liền trừng mắt nhìn Trương Nghi, nghiến răng kèn kẹt mà mắng: “Đồ con rùa, cứ đợi rồi xem!” Rồi quay sang lừ mắt với Tô Tần. “Huynh… hừm!” Nói đoạn, đùng đùng phất tay bỏ đi.
Tô Tần sững sờ một chốc, rổi chạy theo mấy bước: “Bàng huynh! Bàng huynh! Hãy nghe tại hạ giải thích!”
Bàng Quyên chẳng thèm quay đầu lại, cứ thế sải bước xồng xộc đi tới bên suối. Mọi người cười cợt một hồi, rồi ai về phòng nấy.

Trên đường trở về thảo đường, Ngọc Thiền chậm rãi đi bên cạnh Quỷ Cốc Tử.
Bước chân của Quỷ Cốc Tử mỗi lúc một chậm, rồi từ từ dừng lại, hỏi nhỏ: “Thiền Nhi, con có biết tại sao Bàng Quyên lại nổi giận không?”
“Hẳn là Trương Nghi đã giở trò với hắn?”
Quỷ Cốc Tử trầm tư một lát: “Tại sao Trương Nghi lại giở trò với Bàng Quyên?”
“Từ sau khi vào cốc, hai người họ cứ như oan gia. Tiên sinh, sự việc này phải chăng là nghiêm trọng?”
“Đúng vậy!” Quỷ Cốc Tử gật đầu nói. “Thiền Nhi, bốn người này sẽ không thể ở mãi trong núi tu đạo. Sau khi xuống núi, nếu họ chỉ làm bách tính bình thường, sẽ không có gì nghiêm trọng. Nhưng nếu làm khanh tướng, e rằng sẽ xảy ra chuyện lớn. Tất cả những lời nói việc làm của họ trong cốc, đều không được coi nhẹ!”
Ngọc Thiền đột nhiên sực tỉnh: “Thiền Nhi hiểu rồi, nghe nói khi tướng Ngụy là Bạch Khuê đi thị sát đê Hồng Câu, nhìn thấy tổ kiến liền lấp lại. Tiên sinh cũng là đang lấp tổ kiến!”
“Đúng thế, ngày hôm nay sai một ly, ngày mai sẽ đi ngàn dặm! Có một số việc, tưởng nhỏ nhưng không nhỏ; một số việc, tưởng lớn lại chẳng lớn.”
Ngọc Thiền hỏi: “Tiên sinh, làm thế nào mới biết được là việc lớn hay nhỏ?”
“Quan sát cái lý! Người khác với động vật ở chỗ người biết trá nguỵ. Trá nguỵ tức là che giấu chân tâm. Lòng người khó đoán, cũng chính là chỉ cái trá nguỵ này. Nhưng cho dù có khéo trá nguỵ đến đâu, cuối cùng vẫn sẽ lộ ra chân tướng.”
“Tiên sinh, làm thế nào mới có thể nhìn ra chân tướng?”
“Thứ nhất quan sát ánh mắt, thứ hai quan sát lời nói hành vi. Mắt là cửa sổ của tâm, lời là tiếng của tâm, hành vi là biểu hiện của tâm.”
Ngọc Thiền lại hỏi: “Giả sử đã quan sát được cái lý, vậy phải làm cách nào mới phán đoán được là lợi hay hại, là lớn hay nhỏ?”
“Xem có thuận ứng với cái lý của đạo hay không?”
“Thế nào là cái lý của đạo?”
“Cái lý của đạo là hoà hợp, là thuận ứng, là vạn vật cộng sinh, là tranh và không tranh. Vạn sự vạn vật, thuận đạo thì vượng, nghịch đạo thì vong!”
Ngọc Thiền hai mắt sáng ngời, nói: “Ý tiên sinh là muốn Ngọc Thiền làm rõ nguyên nhân khiến Bàng Quyên nổi giận, rồi từ đó ngộ ra cái lý của đạo?”
Quỷ Cốc Tử mỉm cười: “Không chỉ là ngộ ra cái lý của đạo, mà còn phải dẫn dắt họ thuận ứng theo cái lý của đạo!”
Ngọc Thiền khẽ gật đầu, rồi ngẩng lên hỏi: “Tiên sinh, theo tiên sinh, tại sao Bàng Quyên lại nổi giận?”
“Việc này, con có thể đi hỏi Tô Tần!”
“Tô Tần?” Ngọc Thiền ngạc nhiên. “Không thể nào! Trong Quỷ Cốc này, nếu nói về thật thà khiêm tốn, thì chẳng có ai hơn được Tô Tần, làm sao hắn biết giở trò được? Hơn nữa Tô Tần luôn coi mình là người thấp kém, không thể nào lại dám trêu chọc Bàng Quyên!”
Quỷ Cốc Tử không trả lời, chỉ mỉm cười, rồi cất bước đi về phía thảo đường.

Đỉnh Hùng Kê mặc dù không cao và hiểm trở như đỉnh Hầu Vọng cách đó mười mấy dặm, nhưng lại là đỉnh núi cao nhất quanh Quỷ Cốc. Vì nhìn từ xa, trông giống như chú gà trống đang gáy, nên mới có tên gọi Hùng Kê. Phía đông, phía nam đỉnh Hùng Kê đều là vách đá cheo leo, nhưng phía tây và phía bắc lại là những con dốc thoai thoải, rừng cây rậm rạp.
Ngọc Thiền men theo đường núi, đi thẳng một mạch lên tới đỉnh, vừa đi vừa ngó nghiêng tìm kiếm, tự nhủ: “Trương Nghi nói rằng sáng sớm hắn đã đến đây, vậy người đâu nhỉ?”
Lời vừa dứt, đột nhiên nghe thấy có tiếng nói vọng lại từ vách núi bên kia.
Ngọc Thiền hiếu kỳ, liền dừng bước, dỏng tai lắng nghe, nhận ra là tiếng hai người đang nói chuyện, trong đó một người chính là Tô Tần:
“Thảo dân Tô Tần khấu kiến thượng đại phu!”
“Tô Tần? Ngươi quê quán ở đâu? Sư phụ là ai?”
“Thảo dân quê ở Lạc Dương, sư phụ là Quỷ Cốc tiên sinh!”
“Quỷ Cốc tiên sinh? Bản đại phu chưa từng nghe danh tiếng. Nhìn phục sức của ngươi, đâu có giống sĩ tử, rõ ràng là dân áo vải!”
“Đúng thế, tiểu nhân là sĩ tử áo vải, sư phụ là Quỷ Cốc tiên sinh, đầy bụng thi thư, giỏi thuật trị quốc an bang!”
“Ha ha… trị quốc an bang? Ha ha ha ha…”
Người này cười xong, âm thanh đột nhiên ngưng bặt.
“Thượng đại phu?” Ngọc Thiền kinh ngạc. “Trong Quỷ Cốc lại mọc ra một thượng đại phu từ bao giờ thế?” Đang lúc ngơ ngác, thì tiếng đối thoại lại vọng đến:
“Danh sĩ Lạc Dương Tô Tần khấu kiến tướng quốc!”
“Danh sĩ Lạc Dương Tô Tần? Ta chưa từng nghe danh! Sư phụ ngươi là ai, sao dám mạo nhận là danh sĩ?”
“Sư phụ của Tần là Quỷ Cốc tiên sinh ở núi Vân Mộng!”
“Ồ, thì ra là cao đồ của Quỷ Cốc tiên sinh, thất kính, thất kính! Nghe nói Quỷ Cốc tiên sinh có bốn cao đồ, ai nấy đều đầy mình tuyệt nghệ, văn có thể trị quốc, võ có thể an bang, có chuyện này chăng?”
“Chính phải! Sư đệ Tôn Tân là hậu duệ của Tôn Vũ Tử, cùng học binh pháp với sư đệ Bàng Quyên, hai người họ đều có thể thống lĩnh thiên binh vạn mã, chiến tất thắng, đánh tất hạ. Sư đệ Trương Nghi vốn được ngợi khen là ba tấc lưỡi kỳ tài, có tài…”
Tiếng nói lại đột nhiên ngưng bặt.
Ngọc Thiền chợt hiểu ra, bèn rảo bước tiến lại gần, quả nhiên chỉ thấy một mình Tô Tần đang ngồi ngay ngắn trên mặt đất, chuyên chú tự hỏi tự đáp. Có lẽ vì quá tập trung, nên không phát hiện ra Ngọc Thiền đang tới gần.
Ngọc Thiền thong thả đi tới trước mặt Tô Tần, bật cười mà nói: “Tô sĩ tử diễn thật là giống, lúc nãy còn khiến Ngọc Thiền tưởng lầm, cứ nghĩ có vị thượng đại phu, tướng quốc nào đó đến Quỷ Cốc này!”
Thấy Ngọc Thiền đến, Tô Tần giật nảy mình, rồi ngượng nghịu lắp bắp: “Sư tỷ, tỷ… đã nghe thấy hết rồi ư?”
Ngọc Thiền nửa đùa nửa thật: “Tô sĩ tử hết hỏi lại đáp, giọng nói sang sảng, Ngọc Thiền đi đến lưng chừng núi đã nghe thấy rồi!”
Tô Tần đỏ mặt, càng cảm thấy ngại ngùng hơn.
Ngọc Thiền đi tới trước mặt Tô Tần, khoanh chân ngồi xuống, chậm rãi hỏi: “Lúc nãy Thiền Nhi nghe thấy Tô sĩ tử khấu kiến toàn là thượng đại phu, tướng quốc, tại sao không trực tiếp gặp quân chủ?”
Tô Tần cúi thấp đầu, một lúc sau mới nói: “Sư tỷ cười chê rồi. Tô Tần trí không bằng người, không dám có mơ mộng đó!”
Ngọc Thiền lại bật cười: “Cái gì mà trí không bằng người? Có thể vào được Quỷ Cốc này, làm gì có ai là kẻ ngốc? Lời này của sĩ tử, e rằng không phải thật lòng!”
“Đúng là lời thật lòng. Tại hạ dù xét về mặt nào cũng không thể sánh được với Bàng huynh, Tôn huynh, lại càng chưa nói tới sư đệ Trương Nghi. Đời này của tại hạ, nếu có thể gặp được thượng đại phu hoặc tướng quốc, có chút tiến thân, đã là mãn nguyện lắm rồi!”
Ngọc Thiền sững người, nụ cười từ từ tắt ngấm, nhìn thẳng vào Tô Tần: “Lẽ nào sĩ tử lên núi tu đạo, chỉ vì muốn chút tiến thân?”
Tô Tần do dự một lát: “Cũng không hoàn toàn là vậy!”
“Thiền Nhi muốn nghe chí lớn của sĩ tử!”
Tô Tần thoáng ngần ngừ, rồi cười mà nói: “Chỉ e Tô Tần nói ra sẽ bị sư tỷ cười chê!”
Ngọc Thiền mỉm cười: “Mỗi người đều có chí riêng, tiểu nữ có tư cách gì mà cười chê sĩ tử?”
Tô Tần dõi mắt nhìn về dãy núi trập trùng bất tuyệt phía xa xăm, rồi bắt đầu giãi bày chí hướng của mình: “Đời này của Tô Tần, trước bốn mươi tuổi nhất định phải kiến công lập nghiệp, phong thành bái tướng, danh tiếng lừng lẫy chư hầu, lưu danh hậu thế!”
Ngọc Thiền nghiêng người hỏi: “Còn nữa không?”
“Tô Tần không còn mong muốn gì khác nữa!”
Ngọc Thiền trầm tư một hồi lâu, rồi ngẩng lên nói: “Tô sĩ tử quả nhiên có chí lớn! Nhưng Thiền Nhi có điều chưa hiểu, mong sĩ tử chỉ bảo.”
“Sư tỷ cứ nói!”
Ngọc Thiền hai mắt nhìn thẳng vào Tô Tần: “Lúc nãy Tô sĩ tử nói về chí, Thiền Nhi chỉ nghe ra bốn chữ ‘công danh phú quý’. Thiền Nhi xin hỏi, đối với Tô sĩ tử, công danh phú quý quan trọng đến vậy ư?”
Tô Tần cúi gằm mặt, một hồi lâu vẫn không lên tiếng.
“Tô sĩ tử?”
Tô Tần từ từ ngẩng đầu lên, khẽ thở dài một tiếng, rồi nhìn Ngọc Thiền: “Xin hỏi sư tỷ, sư tỷ đã bao giờ phải chịu đói chưa?”
Ngọc Thiền lắc đầu.
Tô Tần đưa mắt nhìn hút về phía xa: “Sư tỷ đã bao giờ phải làm ruộng chưa?”
Ngọc Thiền lắc đầu.
Tô Tần thu ánh mắt lại, tâm trạng có phần kích động, ngoái lại nhìn Ngọc Thiền: “Sư tỷ có biết cảm giác đi trong vương thành mà trên người không có lấy một xu dính túi? Sư tỷ đã bao giờ phải nhận lấy ánh mắt khinh miệt của những kẻ giàu sang? Sư tỷ đã bao giờ phải chịu nỗi nhục luồn háng?…”
Đôi mắt to tròn của Ngọc Thiền nhìn vào Tô Tần đầy kinh ngạc, liên tiếp lắc đầu.
Tô Tần lại đưa mắt dõi về phía xa xăm, dường như đang quay trở về thôn Hiên Lý nhiều năm trước: “Nhớ lại tháng bảy năm đó, ba anh em chúng tôi cùng cha đứng ở đầu ruộng, nhìn những ruộng mạ nối tiếp trải dài. Đó là mồ hôi của chúng tôi, là hy vọng trong suốt một năm trời của chúng tôi. Ánh mặt trời vô tình cứ đổ xuống chói chang, đổ lên những thửa mạ đã khô héo úa vàng, thiêu đốt từng cọng lá thành những cuộn rơm mảnh dài xoăn tít. Bên dưới đám mạ chết khô là những vết nứt, vết nọ nối với vết kia. Vết nứt càng ngày càng rộng, càng ngày càng sâu, tựa như vực thẳm, từng vết từng vết, cứa ngang dọc lên trái tim của chúng tôi. Bốn cha con chúng tôi lòng đau như cắt. Chúng tôi quỳ trên mặt đất, khẩn cầu ông trời cho mưa xuống, dù một giọt thôi cũng được. Chúng tôi quỳ hết ngày này qua ngày khác, cứ khẩn cầu mãi, khẩn cầu mãi… Rồi một hôm, mưa cũng đến! Cuối cùng cũng đã có mưa! Mưa xuống, mưa xuống, mưa hết ngày này qua ngày khác, hết ngày này qua ngày khác, hết ngày này qua ngày khác…”
Giọng Tô Tần càng lúc càng càng chậm, dần dần biến thành tiếng nghẹn ngào. Ngọc Thiền tâm can chấn động trước dòng cảm xúc mãnh liệt của Tô Tần, màn nước mưa mênh mông trong câu chuyện dường như đã hoá thành dòng nước mắt, chảy dài trên má Ngọc Thiền.
Tô Tần dừng lại, một lúc sau, dường như đang tự nói với chính mình: “Tất cả đều đã hết! Tất cả mồ hôi, tất cả hy vọng, đều mất hết rồi! Để lại cho chúng tôi chỉ còn có bùn, bùn lầy phủ đầy mặt đất, bùn lầy mênh mông, bùn lầy úng ngập bàn chân…”
Lại một hồi câm lặng.
Nước mắt từ từ ứa ra trên mí mắt Tô Tần: “Đến năm sau gặp nạn đói mùa xuân, tôi và em trai đi tới vương thành. Trên phố đâu đâu cũng bày đầy thức ăn ngon, đủ loại bánh trái ngon lành xếp thành hàng dài, chất thành đống lớn. Tôi và em trai cứ dán mắt nhìn mãi vào những quầy hàng, đến nước miếng cũng không còn để nuốt. Năm đó, tôi mười hai tuổi, là lần đầu tiên đến vương thành, và cũng là lần đầu tiên nhìn thấy quý nhân quan lớn. Họ ăn mặc thật đẹp đẽ, họ đi qua trước những dãy hàng quán, nhưng chẳng thèm liếc mắt ngó ngàng đến những món ngon lành bày la liệt ngay trước mắt. Sư tỷ, có lẽ chính là bắt đầu từ ngày đó, tôi mới biết thế nào là phú quý. Tôi thầm thề với lòng mình, tôi nhất định phải rời khỏi Hiên Lý, rời khỏi mảnh đất quê cằn cỗi đói nghèo, tôi nhất định phải có được cái gọi là phú quý!”
Giọng Tô Tần tràn đầy khát khao và kiên định, trong tâm Ngọc Thiền run rẩy một niềm chấn động trước nay chưa từng có. Nàng cúi thấp đầu, chìm trong suy ngẫm.
Một lúc sau, Ngọc Thiền mới ngẩng đầu lên, điềm tĩnh nhìn thẳng vào Tô Tần: “Cuối cùng Thiền Nhi đã hiểu, sở dĩ Tô sĩ tử cần cù quyết chí như vậy, tất cả cũng chỉ là vì cầu phú quý!”
Tô Tần cúi gằm mặt xuống.
Ngọc Thiền cao giọng, hai mắt nhìn thẳng vào Tô Tần: “Đúng thế, Thiền Nhi chưa từng phải nhịn đói, Thiền Nhi cũng chưa từng phải lội bùn như sĩ tử. Tất cả những gì mà Tô sĩ tử đã trải qua, Thiền Nhi đều chưa từng nếm trải. Thế nhưng, công danh phú quý thì Thiền Nhi đã gặp nhiều rồi, nhiều đến nỗi khiến Thiền Nhi căm ghét!”
Lại thêm một khoảng lặng thật dài.
Tô Tần ngẩng đầu, cười ngượng nghịu mà nói: “Sư tỷ, chắc sư tỷ đến đây không phải chỉ để nói chuyện này, đúng không?”
Ngọc Thiền cũng thuận thế thay đổi câu chuyện, mỉm cười mà nói: “Đúng thế! Tô sĩ tử nói về phú quý, Thiền Nhi nghe mà bị lôi cuốn theo, suýt nữa quên bẵng mất việc chính. Mấy ngày nay trời trong nắng đẹp, trăng sao sáng ngời, Thiền Nhi muốn mở một bữa tiệc đêm dưới ánh lửa, để mọi người vui vẻ với đất trời.”
“Sư tỷ, việc này đã bẩm với tiên sinh chưa?”
“Đã bẩm rồi!” Ngọc Thiền gật đầu nói. “Tiên sinh nói, ngày mai vào giờ Nhân định, đất mẹ nuốt trăng, đây là tượng lạ của trời, không thể không xem. Hơn nữa, ngày mai cũng là…” Nói đến đây, liền dừng lại.
“Sư tỷ, có gì xin cứ nói thẳng!”
Ngọc Thiền ngẩng đầu nhìn trời: “Giờ Nhân định ngày mai cũng là thời khắc Thiền Nhi tròn mười sáu, Thiền Nhi muốn… muốn được trải qua giờ khắc này cùng tiên sinh, tiểu đồng và các vị sĩ tử!”
Tô Tần lập tức vòng tay vái mà nói: “Sư tỷ tuổi tròn đôi tám, tại hạ xin chúc mừng! Sư tỷ yên tâm, tại hạ sẽ đi báo cho mấy người còn lại, chúng sư đệ rất mong được chia vui cùng sư tỷ!”
Ngọc Thiền cũng vái lại mà nói: “Đã khiến Tô sĩ tử phải vất vả! Nói tới mấy vị sĩ tử, Thiền Nhi nhân đây xin hỏi một câu, trận pháp con rùa ngày hôm qua rốt cuộc là như thế nào, sao lại có vẻ đáng ngờ đến vậy?”
Tô Tần bèn thực thà kể lại đâu đuôi sự việc cho Ngọc Thiền nghe, Ngọc Thiền bật cười mà nói: “Chẳng trách Bàng Quyên giận dữ đến vậy, thì ra đã phải nếm đủ giày vò khổ sở! Trương sĩ tử cũng thật là, sao có thể nghĩ ra trò tệ hại như thế?”
Tô Tần than thở: “Tại hạ cảm thấy lời của Trương Nghi ít nhiều có lý, nên mới trêu chọc Bàng huynh, không ngờ Bàng huynh lại cho là thực. Đợi có cơ hội, tại hạ sẽ giải thích rõ ràng với Bàng huynh!”
“Thôi, bỏ qua đi!” Ngọc Thiền lắc đầu nói. “Theo như tính cách của Bàng sĩ tử, e rằng Tô sĩ tử càng xin lỗi càng khiến sự việc phức tạp thêm!”
“Tại hạ xin nghe theo lời chỉ dạy của sư tỷ!”

“Cái gì?” Trương Nghi lập tức bật thẳng người dậy. “Ngày mai là sinh nhật thứ mười sáu của sư tỷ? Hay quá, lần này phải làm cho thật náo nhiệt mới được!”
“Huynh cũng nghĩ như vậy!” Tô Tần nói. “Sư tỷ muốn tổ chức buổi tiệc dưới ánh lửa, chúng ta phải cùng bàn bạc chuẩn bị cho chu đáo!”
Trương Nghi ngẫm nghĩ một lát rồi phân công: “Thế này nhé, huynh chuẩn bị hoa quả, đệ chuẩn bị thức ăn. Rượu, đúng rồi, dịp này không thể thiếu rượu được, nghe sư huynh nói ở trong động của tiên sinh có rượu lâu năm, do tiên sinh tự tay ủ, hãy bảo tiểu đồng xin cho một hũ. Còn gì nữa nhỉ? Phải rồi, củi! Đốt lửa thì phải có củi, việc bổ củi giao cho Bàng Quyên đi, không thể để hắn ngồi mát ăn không được!”
Hai người đang bàn bạc thì Tôn Tân, Bàng Quyên bước tới. Bàng Quyên nghe thấy, từ xa đã nói chõ lại: “Tại hạ ăn không cái gì?”
Tô Tần cười nói: “Bàng huynh, Tôn huynh, hai người đến thật đúng lúc! Tiên sinh nói tối mai đất mẹ nuốt trăng, là hiện tượng thiên nhiên hiếm có. Thật trùng hợp, ngày mai cũng là sinh nhật thứ mười sáu của sư tỷ, chúng ta hãy cùng bàn bạc, chuẩn bị bày tiệc dưới ánh lửa, vừa để ngắm trăng, vừa để chúc mừng sư tỷ, ý hai vị thế nào?”
Bàng Quyên lập tức tán thành: “Được được được! Tổ chức sinh nhật cho sư tỷ, muốn Bàng Quyên làm gì cũng được! Trương huynh, lúc nãy huynh bảo Bàng Quyên làm việc gì nhỉ?”
“Bổ củi!”
Bàng Quyên cười sảng khoái: “Bổ củi thì bổ củi!”
Mấy người cùng bàn bạc một lúc, sau đó chia nhau ra chuẩn bị.
Hôm sau, Trương Nghi, Tô Tần, Tôn Tân và tiểu đồng đều trải qua một ngày bận rộn, chuẩn bị được hai giỏ đầy thức ăn, gồm có cá, thỏ, gà rừng, hoa quả, hạt khô, rau dại… Đến chiều, Trương Nghi đứng trên bãi cỏ, nhìn hai giỏ lớn đựng đầy đồ ăn đặt trên bàn đá, vừa phe phẩy cánh quạt, vừa hài lòng ngắm nghía thành quả của mình.
Trương Nghi nhìn ngắm một lát, hai hàng lông mày khẽ chau lại, lẩm bẩm một mình: “Hình như còn thiếu thứ gì thì phải? Đúng thế, chắc chắn là còn thiếu thứ gì đó!” Rồi đột nhiên vỗ trán đánh bốp. “Đúng, hôm nay là ngày đặc biệt, tuyệt đối không được bỏ lỡ cơ hội, ta phải chuẩn bị cho sư tỷ một món quà đặc biệt mới được!”
Trương Nghi đặt chiếc quạt lên bàn đá, ngẫm nghĩ một hồi, rồi lại đưa tay vỗ trán: “Có rồi!”
Trương Nghi nghĩ là làm, lập tức lao thẳng lên núi.
Trương Nghi vừa đi, Bàng Quyên liền vác một bó củi lớn trở về, đặt trên bãi cỏ. Thấy bên cạnh có một thùng nước, liền múc lấy một gáo, đưa lên miệng uống ừng ực, chép miệng mấy cái, rồi đi tới trước bàn đá, nhìn hai giỏ đầy ắp thức ăn, gật đầu hài lòng: “Ừ, thằng cha này cũng nhanh tay lẹ chân thực, chuẩn bị thịnh soạn gớm!” Nhìn chiếc quạt đặt ở trên bàn, bèn đưa tay với lấy, quạt liên mấy cái. “Chà chà, mà thằng cha này nấu nướng cũng khéo tay chẳng vừa!”
Bàng Quyên ngồi nghỉ một lát, ngẩng mặt nhìn trời, thấy vẫn còn sớm, liền trở về phòng, lấy ra một bộ quần áo sạch sẽ, đi thẳng ra bờ suối, đi vài bước lại đưa quạt phe phẩy một cái, thú vị như nghịch đồ chơi.
Bàng Quyên đi tới bờ suối, đang định cởi quần áo lội xuống nước, bỗng khựng lại, lẩm bẩm một mình: “Giờ vẫn còn sớm, chỗ này cách thảo đường quá gần, nếu chẳng may để sư tỷ nhìn thấy thì thật bất nhã. Thôi cứ đến hẳn đầm nước tắm rửa cho thoải mái.”
Bàng Quyên trở lên bờ, rồi đi thẳng vào rừng sâu.
Đầm nước nằm ở trên thượng lưu dòng suối, cách đó chừng hai dặm. Khi Bàng Quyên đến nơi, vầng dương vẫn chưa xuống núi, sắc trời còn khá sáng sủa. Bàng Quyên rẽ vào con đường nhỏ, đang định bước xuống đầm thì đột nhiên nghe thấy dưới nước có tiếng người. Bàng Quyên vừa ngẩng lên nhìn, đã hồn bay phách lạc.
Người ở dưới nước chẳng phải ai khác, chính là Ngọc Thiền không một mảnh vải che thân!
Máu nóng trong người Bàng Quyên bỗng chốc bốc lên bừng bừng, hắn vội khom người xuống theo phản xạ, núp nhanh vào một bụi cây phía sau, nhắm chặt hai mắt lại.
Ngọc Thiền không hề phát giác ra, vẫn hồn nhiên vừa vốc nước tắm gội, vừa khe khẽ ngân nga một khúc hát. Hôm nay là sinh nhật thứ mười sáu của Ngọc Thiền, cũng là ngày nàng thấy vui vẻ nhất trong suốt một năm nay.
Bàng Quyên hai mắt vẫn nhắm chặt, tim đập thình thịch như trống dồn. Bàng Quyên biết nếu tiếp tục nhìn nữa, hậu quả sẽ ra sao, nên chỉ biết liên tục nhủ thầm: “Bàng Quyên, đây chính là thời khắc thử thách ý chí của ngươi! Bàng Quyên, nếu ngươi muốn thành anh hùng, nếu ngươi muốn làm nên đại sự, ngươi tuyệt đối không được mở mắt, tuyệt đối không được nhìn trộm sư tỷ! Đó là sư tỷ! Sư tỷ! Sư tỷ!”
Bàng Quyên cứ liên tục tự nhủ hết lần này đến lần khác. Thân hình mỹ miều của Ngọc Thiền cứ thoắt ẩn thoắt hiện, vờn qua vờn lại trong tâm trí Bàng Quyên. Bàng Quyên hai mắt nhắm nghiền, nhịp thở hổn hển, toàn thân run lên bần bật, hai hàm răng nghiến cứng, toàn lực chống chọi với sự mê hoặc kề sát bên mình!
Cuối cùng, Bàng Quyên cũng bắt đầu từ từ thả lỏng, cơ thể không còn run rẩy nữa, hai hàm răng cũng không còn phải nghiến chặt, hai mắt không còn phải nhắm nghiền, hơi thở cũng dần dần hoà hoãn.
Bàng Quyên thở hắt ra một hơi dài. Đúng vậy, Bàng Quyên đã chiến thắng được bản thân. Hắn lùi lại mấy bước, sau đó quay người đi thẳng. Đi được mấy bước, Bàng Quyên mới kéo tay áo lên lau khuôn mặt đã đầm đìa mồ hôi vì căng thẳng, tay cũng vô thức phe phẩy cây quạt của Trương Nghi.
Đột nhiên, ánh mắt của Bàng Quyên dừng lại trên cánh quạt lông nhạn. Nhìn chăm chú một hồi lâu, rồi hai con ngươi Bàng Quyên đảo tròn mấy cái, khoé miệng lộ ra một nụ cười nham hiểm: “Tên tiểu tử này đã nhiều lần giở trò với ta, hôm nay cũng phải cho ngươi một bài học, xem ngươi có sống nổi không?”
Bàng Quyên bèn quay trở lại, vứt chiếc quạt vào trong bụi cây, sau đó lay các cành cây tạo nên tiếng sột soạt.
Tiếng động khiến Ngọc Thiền giật mình kinh hãi.
Ngọc Thiền lập tức đưa tay che ngực, trầm mình xuống nước, run giọng quát lên: “Ai?”
Từ sau bụi cây vọng đến tiếng chân bước vội vã, sau đó tất cả lại lặng yên phăng phắc.
Ngọc Thiền mặt thoắt đỏ bừng, người ngây ra như khúc gỗ, hồi lâu sau mới trấn tĩnh lại được, rồi bình thản bước lên bờ, mặc lại quần áo, đi về phía bụi cây vừa phát ra tiếng động, vừa nhìn đã thấy ngay chiếc quạt rơi trên đất.
Ngọc Thiền cúi xuống nhặt lấy chiếc quạt, lệ bắt đầu rưng rưng trong mắt.
Ngọc Thiền lại đứng ngây ra thêm một lúc nữa, rồi nâng tay áo lên thấm nước mắt, cất chiếc quạt của Trương Nghi vào trong tay áo rồi quay về sơn cốc. Lúc này, mặt trời đã xuống núi. Ngọc Thiền vừa đi đến cửa sơn cốc, thì gặp ngay Trương Nghi tay cầm một vòng hoa rừng, mặt mày hớn hở miệng hát nghêu ngao, vừa đi vừa chạy theo đường mòn trở về.
Từ xa, nhìn thấy Ngọc Thiền tóc vẫn còn ướt đẫm, Trương Nghi liền giơ vòng hoa lên thật cao, cất tiếng gọi lớn: “Sư tỷ, hãy nhìn xem, cái gì đây?”
Ngọc Thiền sắc mặt tái mét, không thèm đáp lấy một lời, nhưng cũng dừng bước để đợi Trương Nghi đến gần.
Trương Nghi vừa cười vừa hỏi: “Sư tỷ làm sao thế? Đây, sư tỷ thử đội lên xem, đây là lần đầu tiên sư đệ kết vòng hoa, xin được tặng cho sư tỷ làm quà sinh nhật, sư tỷ thử đội lên đầu xem có vừa không?” Nói đoạn liền đặt luôn vòng hoa lên đầu Ngọc Thiền.
Ngọc Thiền thình lình đưa tay giật phắt lấy vòng hoa, ném thẳng xuống đất, rồi giơ chân giẫm thẳng lên: “Làm sao? Làm sao ư? Ta cho ngươi thấy ta làm sao?” Mắng xong, hai tay ôm mặt, nức nở chạy đi.
Trương Nghi chết lặng, đứng đờ ra nhìn theo Ngọc Thiền. Rất lâu sau, mới cúi xuống nhặt lấy vòng hoa đã bị Ngọc Thiền giày xéo tơi tả, đầu óc hoang mang.
Tô Tần, Tôn Tân, Bàng Quyên đang bận rộn chuẩn bị cho buổi tiệc đêm trên bãi cỏ, bỗng từ xa nhìn thấy Ngọc Thiền nức nở chạy về, lao thẳng vào gian thảo đường của Quỷ Cốc Tử, “rầm” một tiếng đóng sập cửa lại.
Tô Tần thấy lạ, liền hỏi nhỏ: “Sư tỷ làm sao thế?”
Tôn Tân cũng ngẩn ra không hiểu chuyện gì: “Đúng thế! Bữa tiệc đã sắp bắt đầu, sao sư tỷ lại…”
Tô Tần ngẫm nghĩ một lát, rồi nói với Tôn Tân: “Tôn huynh, để tại hạ chuẩn bị, huynh hãy vào hỏi xem có chuyện gì?”
Tôn Tân gật đầu, sau đó đi tới trước thảo đường, gõ cửa gọi: “Sư tỷ, hãy mở cửa ra, là đệ, Tôn Tân!”
Một lúc sau, Ngọc Thiền mới từ từ mở cửa, vòng tay vái mà nói: “Tôn sĩ tử, mời vào!”
Tôn Tân nhìn Ngọc Thiền: “Sư tỷ, lúc nãy có chuyện gì vậy, làm chúng đệ sợ chết khiếp!”
Ngọc Thiền đã bình tĩnh trở lại, chậm rãi lấy chiếc quạt trong tay áo ra, khẽ khàng nói: “Không có gì! Tôn sĩ tử, hãy trả lại vật này cho Trương sĩ tử!”
Lời vừa nói dứt, Ngọc Thiền bèn quay đầu đi thẳng vào trong động. Đi tới cửa động thì gặp tiểu đồng ôm một hũ rượu đi ra.
Tiểu đồng hớn hở nói: “Chị Thiền Nhi đã về rồi đấy ư? Nhanh lên nhé, đám Trương sư đệ đã chuẩn bị rất nhiều món ngon!”
Ngọc Thiền lạnh nhạt đáp: “Ra trước đi!”
Tiểu đồng đáp một tiếng, rồi đi ra ngoài, nhìn thấy Trương Nghi tay cầm một vòng hoa nát bét, cúi đầu ủ rũ từ xa bước lại, bèn cao giọng gọi lớn: “Trương sư đệ, rượu ngon đây rồi!”
Nhưng Trương Nghi chẳng hề để tâm, sắc mặt vẫn ủ rũ, lê từng bước nặng nề về tới bãi cỏ, bộ dạng vô cùng hoang mang chán chường.
Tô Tần nhìn thấy, vội hỏi: “Sư đệ, có chuyện gì thế?”
Trương Nghi lắc đầu: “Quỷ mới biết có chuyện gì!”
Tô Tần ngẩn ra một thoáng: “Ồ, Thiền Nhi thì buồn bã trong nhà, đệ thì mặt mũi bí xị ở đây, rốt cuộc hai người đang diễn trò gì thế!”
Trương Nghi than thở: “Than ôi, nếu biết là diễn trò gì, thì đệ đã…”
Thấy Tôn Tân từ thảo đường đi ra, Tô Tần vội hỏi: “Tôn huynh, đã hỏi sư tỷ chưa?”
Tôn Tân gật đầu, rồi đi lại gần, đặt chiếc quạt lên bàn đá, nói với Trương Nghi: “Sư tỷ bảo tại hạ trả lại chiếc quạt này cho Trương huynh! Trương huynh, rốt cuộc là có chuyện gì?”
Trương Nghi vội cầm lấy chiếc quạt, lật lên lật xuống một hồi, càng nhìn càng ngơ ngác: “Quái lạ, chiếc quạt của ta sao lại ở trong tay sư tỷ? Là chuyện gì thế nhỉ?” Rồi ngẩng đầu nhìn tiểu đồng. “Sư huynh, tại sao quạt của đệ lại ở trong tay sư tỷ?”
Tiểu đồng hỏi vặn lại: “Hừ, chuyện này phải hỏi đệ mới đúng, sao lại hỏi ta?”
Trương Nghi đang hết sức băn khoăn, thì Bàng Quyên nãy giờ vẫn nằm dài trên bãi cỏ cách đó mười mấy bước chân đột nhiên bật dậy, dẩu miệng huýt sáo, lững thững bước lại gần, đưa mắt liếc xéo Trương Nghi, cười rinh rích mà nói: “Chuyện gì à? Cứ theo tại hạ, nhìn sư tỷ đau buồn như vậy, đến tám phần là đã bị người ta ức hiếp!”
Trương Nghi liền đứng vụt dậy, chỉ tay vào Bàng Quyên: “Bàng Quyên, ngươi…”
Bàng Quyên lừ mắt: “Tại hạ chỉ nói thực tình, đâu có nói là do Trương huynh làm, huynh kích động cái gì?”
Trương Nghi giận dữ nói không thành tiếng: “Ngươi…” Rồi quay sang phía Tôn Tân, Tô Tần: “Tôn huynh, Tô huynh, Trương Nghi xin thề với trời cao, nếu có bất cứ hành vi vô liêm sỉ nào với sư tỷ, Trương Nghi sẽ… sẽ bị thiên lôi đánh chết!”
Tôn Tân liền khuyên: “Trương huynh, bọn ta tin huynh không phải người vô liêm sỉ!”
Bàng Quyên cười âm hiểm, nói: “Có vô liêm sỉ hay không, lẽ nào lại viết rõ lên mặt? Con người mà, biết người biết mặt nhưng không biết lòng, bề ngoài thì quân tử, nhưng bên trong thì khó nói lắm!”
Trương Nghi hét lớn: “Bàng Quyên, ngươi… ngươi ngậm máu phun người!”
Bàng Quyên cười vang mà nói: “Ngậm máu phun người? Không làm việc hổ thẹn với lương tâm thì chẳng sợ ma quỷ gõ cửa. Trương huynh không làm chuyện gì vô sỉ, tại hạ chẳng qua là nói câu thực tình, tại sao Trương huynh lại nhẫn nhịn không nổi?”
Trương Nghi gầm lên một tiếng, rồi cắm đầu lao thẳng vào Bàng Quyên: “Tên tiểu nhân gian trá này, ta liều mạng với ngươi!”
Bàng Quyên không kịp đề phòng, bị Trương Nghi xô ngã lăn xuống đất. Hai người vật lộn trên bãi cỏ, đánh đấm túi bụi. Tô Tần, Tôn Tân vội vàng chạy tới can ngăn, nhưng không thể kéo được hai người ra.
Tiểu đồng sợ hãi, co cẳng chạy như bay vào trong thảo đường, vừa tới cửa thì thấy Ngọc Thiền khoác trên người một tấm sa mỏng, khoan thai đi ra.
Tiểu đồng kêu lên: “Chị Thiền Nhi, nhìn họ kìa…”
Ngọc Thiền không nói năng gì, bước từng bước về phía bãi cỏ.
Tiểu đồng gọi lớn: “Trương sĩ tử, Bàng sĩ tử, chị Thiền Nhi đến rồi!”
Hai người đang vật lộn, nghe thấy tiếng kêu của tiểu đồng, lập tức buông nhau ra.
Ngọc Thiền đưa ánh mắt lạnh lùng nhìn thẳng vào họ: “Đánh đi, tại sao không đánh nữa?”
Trương Nghi, Bàng Quyên cùng lồm cồm bò dậy, cúi gằm mặt, nem nép đứng sang một bên.
Ngọc Thiền lại bước lên một quãng, đứng cách họ hơn chục bước chân, rồi chậm rãi buông mảnh sa trắng muốt khoác trên người xuống, phơi trần cơ thể trên thảm cỏ xanh. Ánh trăng lành lạnh hắt xuống, chảy tràn trên cơ thể trinh nguyên vừa độ trăng tròn, càng tôn thêm vẻ thuần khiết kiều mỵ, hệt như tiên nữ giáng trần.
Bốn người đều thất kinh, vội vàng quay mặt đi.
Ngọc Thiền cười nhạt: “Nhìn đi! Chẳng phải trong số các ngươi có kẻ muốn nhìn thấy thân thể của Thiền Nhi hay sao? Nhìn đi, tại sao lại phải quay mặt? Nếu có ai nhìn chưa rõ, hãy bước lại gần hơn mà nhìn! Nếu vẫn không nhìn rõ, có thể châm đuốc lên!”
Không gian lặng phắc như tờ.
Ngọc Thiền điềm tĩnh nói tiếp: “Tại sao các ngươi lại quay mặt đi? Đây là chuyện quang minh chính đại, Thiền Nhi để các ngươi nhìn, tại sao các ngươi không nhìn?”
Bốn người càng cúi gằm mặt hơn nữa, hoàn toàn khiếp sợ trước khẩu khí lấn lướt của Ngọc Thiền.
Ngọc Thiền nói rành rọt từng chữ: “Các vị sĩ tử, chẳng phải các người tự coi mình là anh hùng đương thế ư? Chẳng phải các người coi thường thiên hạ ư? Chẳng phải các người vẫn thao thao về chí lớn an bang trị quốc ư? Này các vị đại anh hùng, tại sao ngay cả cơ thể của một cô gái cũng không ai dám nhìn?”
Lại một khoảng lặng kéo dài hơn nữa.
Tiểu đồng nhặt lấy tấm sa trắng dưới đất lên, vội vã bước tới, khoác lên người cho Ngọc Thiền.
Một dòng lệ ứa ra bên khoé mắt Ngọc Thiền, giọng nàng nấc nghẹn: “Các vị sĩ tử, từ khi đặt chân tới sơn cốc này, từ khi theo tiên sinh bước lên con đường cầu đạo, cái tâm của Thiền Nhi đã giao cho đại đạo, không còn thuộc về Thiền Nhi nữa! Thứ thuộc về Thiền Nhi, chỉ còn là cái xác thân này. Nếu vị sĩ tử nào mê đắm với xác thân này, Thiền Nhi tình nguyện dâng hiến. Các vị sĩ tử, Thiền Nhi đang nói thực tâm. Nếu các vị thực sự có thể trở thành anh hùng, nếu các vị thực sự có thể cứu được đời loạn, nếu các vị thực sự có thể cứu giúp bách tính thoát khỏi lầm than, nếu các vị thực sự có thể vì thế mà ngộ đạo, cho dù có nuốt chửng cả tấm thân của Thiền Nhi, Thiền Nhi cũng chẳng có gì nuối tiếc!”
Bầu không khí dường như đã đông cứng.
Ngọc Thiền lại đứng thêm một lúc nữa, sau đó chậm rãi quay người, thong thả đi vào trong thảo đường.
Khuất dưới bóng cây cách đó không xa, Quỷ Cốc Tử khẽ thở dài một tiếng nặng nề, rồi quay người bước đi.
Trương Nghi bỗng sực hiểu đã xảy ra chuyện gì, liền rú lên một tiếng “trời ơi”, sau đó cắm đầu chạy vụt đi như phát cuồng.
Tô Tần sợ hắn làm gì dại dột, lập tức đuổi theo.
Trương Nghi chạy một mạch đến bờ suối, tới trước một gốc cây lớn, đập đầu chan chát vào thân cây, nức nở: “Sư tỷ, ta không làm gì có lỗi với sư tỷ, ta không làm gì có lỗi với sư tỷ, thực sự ta không làm! Sư tỷ…”
Dường như Tô Tần cũng đã hiểu ra mọi chuyện, bèn chậm rãi bước lại gần, khẽ nói: “Hiền đệ, có lỗi cũng được, không có lỗi cũng không sao, tất cả đều không còn quan trọng nữa! Những lời của sư tỷ không phải chỉ nói cho một mình đệ nghe, mà nói cho tất cả mọi người cùng nghe! Không giấu hiền đệ, lúc nãy tại hạ giống như bị người ta bóc đi từng lớp da mặt! Trong tâm của một nữ nhi yếu đuối lại tâm niệm đến cứu vớt loạn thế, đến nỗi khổ của muôn dân, vậy mà ta… Hiền đệ ơi, đệ có biết chăng, chính vào hôm qua, ở trên đỉnh Hùng Kê, ta… ta… ta đường đường là một đấng nam nhi, vậy mà chỉ biết nói về công danh phú quý với sư tỷ! Than ôi, công danh phú quý… Trước mặt một kỳ nữ lòng ôm thiên hạ, Tô Tần ta lại thao thao bất tuyệt không biết hổ thẹn, coi công danh phú quý là chí hướng kiếp này. Ta thật đáng thương! Thật đáng thương…”
Tô Tần nói đoạn, hai tay ôm mặt, đau đớn quỳ sụp xuống đất, nấc nghẹn.
Đúng vào lúc này, trên bãi cỏ đằng xa bỗng có ánh lửa nổi lên, tiếp đó là tiếng đàn du dương vẳng lại.
Tô Tần dỏng tai lắng nghe một lúc, sau đó đứng dậy, nói: “Hiền đệ, đệ nghe xem, là khúc ‘Lưu thuỷ’, sư tỷ đang gảy, là muốn gọi chúng ta về!”
Trương Nghi lắc đầu: “Tô huynh, huynh về đi, đệ không còn mặt mũi nào gặp sư tỷ nữa!”
“Nếu hiền đệ không về, mới là không có mặt mũi nào gặp sư tỷ! ‘Lưu thuỷ’ không thể không có ‘Cao sơn’, ‘Cao sơn’ cũng không thể thiếu được ‘Lưu thuỷ’. Hiền đệ, lẽ nào đệ không muốn chúc mừng sinh nhật sư tỷ hay sao?”
Trương Nghi từ từ ngẩng đầu lên, do dự nhìn về phía đống lửa.
Tô Tần kéo tay áo Trương Nghi: “Hiền đệ, trong mấy người chúng ta, chỉ có đệ đánh đàn hay nhất, hãy gảy tặng sư tỷ khúc ‘Cao sơn’. Nếu là tiếng lòng của đệ, sư tỷ chắc chắn sẽ hiểu!”
Trương Nghi chần chừ một lát, sau đó theo Tô Tần chậm chạp đi về phía ánh lửa.
Trên bãi cỏ, lửa cháy rừng rực. Trong ánh lửa, Ngọc Thiền áo trắng giản dị, ngồi ngay ngắn trước đàn, hai bàn tay nuột nà nhịp nhàng lên xuống, tiếng đàn tựa như dòng nước chảy, lúc êm đềm dìu dặt, lúc cuồn cuộn dạt dào.
Quỷ Cốc Tử, tiểu đồng, Tôn Tân, Bàng Quyên đang ngồi trên đất, khép mắt lắng nghe.
Tô Tần, Trương Nghi chầm chậm đi tới.
Ngọc Thiền hai tay quét ngang, dạo lên âm tiết cuối cùng của khúc ‘Lưu thuỷ’. Một bầu tĩnh lặng, sau đó là tiếng vỗ tay, tiếng khen ngợi. Ngọc Thiền vái sâu một lễ về phía mọi người. Thấy Trương Nghi đi đến, Ngọc Thiền liền đưa mắt nhìn hắn.
Ánh mắt của mọi người đều đổ dồn vào Trương Nghi.
Trương Nghi đi tới trước cây đàn, ngồi xuống, hai mắt khép hờ, chậm rãi buông hai bàn tay xuống, bắt đầu gảy khúc “Cao sơn”.
Đây là lần gảy đàn hay nhất của Trương Nghi. Tất cả mọi niềm xúc động, chân thành, uất ức, và cả lời chúc phúc của Trương Nghi, đều được gửi trọn vào những sợi dây đàn. Tô Tần nghe mà cảm động, bèn rút cây sáo trúc ra, dìu dặt hợp tấu. Bàng Quyên cũng không cầm lòng được, đưa tay gõ phách, Tôn Tân và tiểu đồng cùng khẽ vỗ tay theo nhịp.
Ngọc Thiền cảm động nhìn mọi người, hai hàng nước mắt lại dài lăn trên má.
Quỷ Cốc Tử khoan thai đứng lên, ôn tồn nói: “Thiền Nhi, mang kiếm ra, lão hủ sẽ múa tặng con một bài!”
Ngọc Thiền bèn mang tới thanh bảo kiếm, Quỷ Cốc Tử nhận lấy, rồi bắt đầu múa theo điệu nhạc.
Tất cả mọi người, kể cả tiểu đồng, đều chưa bao giờ nhìn thấy Quỷ Cốc Tử múa kiếm, nhất thời đều xúc động khôn xiết. Trương Nghi nước mắt ròng ròng. Đến Bàng Quyên cũng lặng người, hai mắt nhìn chằm chằm vào Quỷ Cốc Tử, trong lòng thấp thỏm, không muốn bỏ sót một chiêu một thức.
Quỷ Cốc Tử múa kiếm không nhanh, vậy mà chốc lát sau, mọi người chỉ còn nhìn thấy kiếm quang, không thấy bóng người đâu nữa, trong khi từng chiêu từng thức, thậm chí là kiếm đến từ hướng nào, chém về hướng nào, vẫn rõ mồn một trước mắt.
Tất cả đều xem đến ngẩn người.
Hai tay Trương Nghi đã gảy đến âm điệu cuối cùng, Quỷ Cốc Tử cũng thu thế, vẫn khí trầm thần định.
Không có ai reo hò khen ngợi, vì lúc này, lời khen ngợi không đủ sức biểu đạt mối cảm xúc trong tâm.
Ngọc Thiền chậm rãi bước tới trước mặt Quỷ Cốc Tử, vòng tay vái một vái thật sâu rồi nói: “Thiền Nhi đa tạ tiên sinh!”
Rồi Ngọc Thiền quay lại, thong thả đi tới trước mặt Trương Nghi, cúi người thật thấp: “‘Cao sơn’ là khúc nhạc Thiền Nhi yêu thích nhất. Trong đêm vui này, Thiền Nhi được nghe Trương sĩ tử gảy đàn, trong lòng vô cùng vui vẻ! Thiền Nhi đa tạ Trương sĩ tử!” Sau đó, nhặt lấy vòng hoa mà Trương Nghi kết tặng đang đặt bên cạnh. “Và còn vòng hoa của Trương sĩ tử nữa, Thiền Nhi sẽ nhận. Thiền Nhi đa tạ sĩ tử lần nữa!”
Ngọc Thiền đội vòng hoa đã bị chính nàng giẫm tơi tả lên đầu, đưa đôi mắt trong suốt nhìn Trương Nghi. Trương Nghi nhìn sững vào vòng hoa trên mái tóc Ngọc Thiền, nước mắt từ từ ứa ra.
Tôn Tân, Bàng Quyên, Tô Tần cùng bước đến gần, vòng tay vái Ngọc Thiền, đồng thanh nói: “Chúc mừng sinh nhật sư tỷ!”
Ngọc Thiền quay mình, cúi người đáp lễ: “Đa tạ chư vị sĩ tử, xin đa tạ! Hôm nay Ngọc Thiền rất vui!”
Đúng vào lúc đó, bầu trời đột nhiên tối sầm. Tiểu đồng nhanh mắt, vội kêu lên: “Tiên sinh, chị Thiền Nhi, các vị sĩ tử, mau nhìn xem, đất mẹ sắp nuốt mặt trăng rồi!”
Mọi người cùng ngẩng đầu nhìn lên bầu trời.
Quả nhiên, không biết tự bao giờ, vầng trăng tròn treo trên đỉnh núi đã khuyết mất một nửa, vẻ sáng giảm đi rõ rệt. Thì ra lúc nãy họ chỉ mải thưởng thức bài vũ kiếm của Quỷ Cốc Tử, nên đã quên bẵng mất tượng lạ.
Quỷ Cốc Tử nhìn một lúc, rồi chậm rãi nói: “Nước Tần sắp xảy ra chuyện lớn!”
Mọi người đều thất kinh.
Bàng Quyên vội hỏi: “Tại sao tiên sinh lại biết?”
Quỷ Cốc Tử chỉ vào đám khí đen mờ mờ trên trời: “Có nhìn thấy đám khí đen kia không? Đất mẹ nuốt trăng, tất sinh sát khí. Hôm nay khí này xông thẳng tới phân dã(1) nước Tần, lão hủ nhìn vào đó mà đoán nước Tần sắp xảy ra chuyện lớn!”
Mọi người cùng nhìn theo hướng chỉ của Quỷ Cốc Tử, quả nhiên thấy một đám khí đen toả ra từ một nửa vầng mặt trăng đang bị xâm thực, vạch qua bầu trời đêm, chạy thẳng đến vùng trời phía tây. Trương Nghi nhìn Quỷ Cốc Tử, kinh ngạc xen lẫn hồ nghi: “Tiên sinh, việc lớn này là hung hay cát?”
“Sát khí đã hiện, tự có điềm hung!”
Nghe thấy nước Tần có đại hung, Trương Nghi lại tỏ ra phấn khởi, vội hỏi: “Dám hỏi tiên sinh là chuyện hung gì?”
“Đây là thiên cơ!”
Mọi người đều biết thiên cơ không thể tiết lộ, vì vậy không ai dám hỏi thêm nữa, tất cả cùng ngẩng đầu quan sát đám khí đen vừa vạch ngang trời, trông hệt như một lưỡi kiếm đoạt mạng.


Hồi Thứ 16

Chúa cũ băng hà, cựu đảng trỗi dậy
Vua mới tức vị, Thương Ưởng tuẫn thân


Dự đoán của Quỷ Cốc Tử vô cùng chuẩn xác.
Cũng tối hôm đó, vào giờ Nhân định, trong điện Di Tình ở cung Tần tại Hàm Dương, Tần Hiếu Công đang ngồi trước án, không biết tại sao, chợt thấy tinh thần mệt mỏi, sắc mặt vàng bệch, toàn thân rời rã không còn sức lực. Nội thần khẽ nói: “Khuya rồi, chúa thượng hãy nghỉ sớm!”
Tần Hiếu Công nhắm mắt lại, ngồi thêm lúc nữa, sau đó mở mắt ra than thở: “Than ôi, hẳn là quả nhân đã già rồi, nên đầu đau như búa bổ, chốc chốc lại chóng mặt. Hễ chóng mặt là thấy mắt hoa đầu váng!”
“Chúa thượng vất vả lo toan quốc sự suốt ngày đêm, hẳn đã mệt mỏi. Hay là để lão nô truyền thái y tới xem sao?”
Tần Hiếu Công cười gượng, xua tay nói: “Mệt không phải là bệnh, triệu thái y làm gì?” Rồi bỗng sực nhớ ra, bèn hỏi. “Mấy ngày nay Tứ Nhi đi đâu?”
Nội thần ngần ngừ một lát: “Lão nô không biết!”
Hiếu Công biết nội thần không dám nói thật, liền truy hỏi: “Ngươi thực sự không biết?”
Nội thần đành quỳ xuống: “Lão… lão nô nghe nói, điện hạ chơi chọi dế với mấy vị công tử…”
“Mấy vị công tử?” Đôi mày Tần Hiếu Công từ từ chau lại. “Là những ai?”
“Là công tử Hoa, công tử Ly và công tử Văn!”
Công tử Hoa là con thứ của công thúc Kiên, công tử Ly, công tử Văn là con cháu của mấy vị công thất khác, Tần Hiếu Công biết mấy người đó, liền thở phào, rồi hỏi tiếp: “Chọi như thế nào?”
Nội thần cũng trấn tĩnh trở lại: “Lão nô nghe nói, mỗi một vị công tử sẽ chọn cho mình một con dế, sau đó chia đội để đấu!”
“Con dế của Tứ Nhi tên gì?”
“Tên là Hắc Điêu, nghe nói rất khoẻ, đã cắn chết rất nhiều đối thủ!”
Tần Hiếu Công không hỏi thêm gì nữa, chỉ ngồi trầm ngâm, sau đó khẽ thở dài: “Than ôi, Tứ Nhi từ sáng đến tối chỉ biết chơi bời với mấy đứa trẻ ranh, đến khi nào mới biết chăm lo quốc sự đây?”
Nội thần khuyên nhủ: “Chúa thượng xin đừng lo lắng, lão nô cho rằng điện hạ là một thiên tài, chỉ cần đặt trọng trách lên vai, điện hạ chắc chắn sẽ đảm đương được!”
Tần Hiếu Công trầm ngâm một lát, rồi ngoái đầu hỏi: “Việc đó, ngươi đã làm xong chưa?”
“Những việc chúa thượng dặn dò, tất cả đều đã hoàn tất!”
“Đã làm xong rồi, vậy hãy truyền Tứ Nhi đến đây!”
Nội thần vâng lệnh, đứng dậy lui ra.
Trong cung thái tử, Doanh Tứ đang chơi đùa với đám công tử Hoa, công tử Ly.
Trên đài đấu, con Tiểu Hắc Điêu của Doanh Tứ và con Đại Hoàng Hùng của công tử Ly đang giao chiến kịch liệt, Doanh Tứ nhảy cẫng lên hò hét: “Cắn, Tiểu Hắc Điêu, cắn đi, cắn chết con dế đần độn kia đi, mau cắn đi!”
Đang lúc ồn ào, thì thái phó Doanh Kiền mặt hầm hầm bước vào. Công tử Hoa thấy phụ thân đến, vội chạy dạt đi. Công tử Ly huých khuỷu tay vào thái tử, nói nhỏ: “Điện hạ, công thúc đến kìa!”
Doanh Tứ ngoái nhìn, rồi vòng tay thi lễ với Doanh Kiền: “Tứ Nhi xin chào công thúc.”
Doanh Kiền liếc xéo công tử Hoa, giận dữ quát: “Mấy đứa các ngươi ra ngoài hết, ta muốn nói chuyện với điện hạ!”
Công tử Hoa lè lưỡi, rồi cùng công tử Ly lỉnh ra khỏi cửa cung.
Doanh Kiền liếc nhìn con dế trong giỏ, chậm rãi hỏi: “Điện hạ, tại sao điện hạ từ sáng đến tối chỉ biết có ham mê chọi dế?”
Doanh Tứ cười hề hề mà nói: “Chơi chọi dế thú vị vô cùng! Không giấu công thúc, những cái khác không nói, chỉ nhìn con Tiểu Hắc Điêu này thôi, mặc dù nhỏ bé, nhưng khi xung trận, thật không phải tầm thường. Hôm qua nó vừa cắn chết một con dế rất to xác! Tứ Nhi còn định xây cho nó một đài Hắc Điêu, rồi nuôi một bầy dế giống như con Tiểu Hắc Điêu này. Đến lúc đó, không phải nói khoác, chắc chắn Tứ Nhi sẽ vô địch liệt quốc!”
“Than ôi!” Doanh Kiền thở dài một tiếng, lắc đầu. “Điện hạ, người nên chăm lo việc chính mới phải!”
“Việc chính?” Doanh Tứ xua tay. “Quốc sự đã có công phụ và Công Tôn Ưởng lo, gia sự đã có công thúc lo, đâu cần Tứ Nhi phải bận tâm?”
Doanh Kiền lại thở dài: “Nếu điện hạ cứ nghĩ như vậy, giang sơn Đại Tần e rằng sớm muộn sẽ rơi vào tay người khác họ!”
Doanh Tứ cười nhạt: “Chỉ cần công phụ thích, cứ để cho kẻ đó lấy đi!”
Doanh Kiền sững người, vội nói: “Điện hạ, người…”
“Công thúc đến tìm Tứ Nhi, có còn việc gì khác chăng?”
Doanh Kiền biết Doanh Tứ có ý tiễn khách, đành thở dài: “Điện hạ, mấy ngày nay chúa thượng khí sắc không tốt, điện hạ cũng nên bớt chút thời gian đến hỏi thăm mới phải.”
“Ồ?” Doanh Tứ thoáng giật mình, rồi nói. “Ta biết rồi!”
Lời vừa dứt, tiếng một cung nhân bỗng ngân nga bên cửa: “Chúa thượng có chỉ, truyền điện hạ đến điện Di Tình.”
Doanh Tứ ngạc nhiên, quay sang nhìn Doanh Kiền, thấy ông ta cũng bất ngờ, liền ngẩng cao đầu đi ra khỏi cửa.

Trong điện Di Tình, Hiếu Công vẫn mải miết đọc tấu chương, thấy nội tể đi vào, liền ngẩng lên hỏi: “Tứ Nhi đâu?”
“Lão nô đã cho người đi truyền, hẳn sẽ đến ngay thôi!”
Hiếu Công gật đầu, lại cúi xuống đọc. Đây là tấu chương do Công Tôn Ưởng gửi đến từ Thương Quận - đất phong của Công Tôn Ưởng, Tần Hiếu Công đã đọc qua không biết bao nhiêu lần, nhưng vẫn thấy chưa đủ, lại đọc lại lần nữa, vừa đọc vừa tấm tắc khen ngợi: “Trận này của Thương Quân thật tuyệt vời, chỉ với vỏn vẹn ba vạn binh mà đánh lui được năm vạn quân Sở, giết hơn hai vạn quân địch, đã quét sạch người Sở ra khỏi vùng sơn cốc Thương Ư!”
Nội thần cười nói: “Là nhờ chúa thượng mưu lược cao minh!”
“Ồ, Thương Quân thắng trận, quả nhân nào có công gì?”
“Chúa thượng tặng sáu trăm dặm đất cho đại lương tạo, còn phong ông ta làm Thương Quân. Trận này là đại lương tạo đánh cho chính mình, có thể không thắng hay sao?”
“Ha ha ha!” Tần Hiếu Công cười lớn. “Ngươi chỉ biết một mà không biết hai!”
“Ồ?” Nội thần hai mắt mở to nhìn Tần Hiếu Công. “Đất phong này là do đại lương tạo tự xin lấy!”
Nội thần càng thêm kinh ngạc: “Đại lương tạo… ông ta tự đòi phần thưởng ư?”
“Phải!” Tần Hiếu Công gật đầu. “Trận chiến Hà Tây, Công Tôn ái khanh khổ cực lập đại công, quả nhân muốn thưởng cho bảy trăm dặm Hà Tây, phong làm Thiếu Lương Quân, nhưng ông ta kiên quyết từ chối. Quả nhân khăng khăng phong thưởng, Công Tôn Ưởng không biết làm thế nào, nên đã xin quả nhân sơn cốc đó!”
Nội thần lúc này mới hiểu ra: “Đại lương tạo muốn tự mình đánh chiếm lấy địa bàn!”
“Đúng vậy!” Tần Hiếu Công mỉm cười mà nói. “Người này quả thực tinh minh. Phàm là thứ gì hắn muốn, chắc chắn sẽ đạt cho bằng được. Tuy nhiên, có trận chiến này của Thương Quân, quả nhân cũng không còn mối lo phía nam nữa!”
Tần Hiếu Công chậm rãi đứng lên, đi tới trước bản đồ liệt quốc được vẽ trên một tấm gỗ.
Nội thần vội ra lệnh: “Thắp đèn!”
Hai cung nữ đứng hầu mỗi người mang tới một cây đèn, đi tới trước tấm bản đồ, đứng hầu hai bên. Hiếu Công tiến lại gần, cầm bút chấm mực son, khoanh lấy sáu trăm dặm Thương Ư, viết một chữ “Tần” vào giữa vòng tròn đó.
Tần Hiếu Công viết xong, gật đầu hài lòng, ánh mắt dịch chuyển lên trên, từ từ dừng tại Hà Tây, lại đưa bút vạch một đường từ bắc xuống nam dọc theo Hà Thuỷ, kéo thẳng tới gần Âm Tấn, và cũng viết lên một chữ “Tần”.
Tần Hiếu Công lùi lại mấy bước, hai mắt nhìn chằm chằm vào vạch đỏ vừa vẽ.
Đây là ranh giới lãnh thổ hiện tại của Tần và Ngụy.
Từ phía xa vọng lại tiếng mõ cầm canh. Tần Hiếu Công dỏng tai lắng nghe, nội thần bèn khẽ giọng bẩm báo: “Đã canh hai rồi, chúa thượng!”
Tần Hiếu Công gật đầu, đi tới sát tấm bản đồ, hai mắt nhìn chăm chú vào con đường thông tới Hàm Cốc.
Sắc mặt Hiếu Công mỗi lúc một nặng nề, trán bắt đầu vã mồ hôi, bàn tay cầm bút hơi run rẩy. Đột nhiên, chân trái Hiếu Công loạng choạng, khiến cơ thể khẽ chao đảo.
Nội thần vội vã chạy lại đỡ, lo lắng hỏi: “Chúa thượng?”
Tần Hiếu Công gắng gượng đứng vững, sau đó lại hạ bút xuống Âm Tấn, vạch theo con đường thông đến Hàm Cốc ở bờ nam Hà Thuỷ, thẳng tới ải Hàm Cốc, ải Hào Quan, rồi đưa bút son khuyên thành hình tròn thật đậm tại hai ải Hàm Cốc, Hào Quan.
Nhưng Tần Hiếu Công còn chưa kịp vẽ xong, đột nhiên trước mắt tối sầm, hai chân mềm nhũn, cơ thể loạng choạng. Nội thần bất ngờ chưa kịp đỡ, Tần Hiếu Công đã ngã nhào xuống đất.
Nội thần vội vàng vực Hiếu Công dậy, hét lớn: “Chúa thượng! Chúa thượng…”
Doanh Tứ đang theo cung nhân đi đến trước cửa, nghe thấy tiếng hét, lập tức chạy vội vào: “Công phụ…”
Tần Hiếu Công hai hàm răng nghiến chặt, mép rỉ máu đen, hai mắt nhắm nghiền, đã bất tỉnh nhân sự. Nội thần và cung nữ đều kinh hoàng thất sắc, sững sờ không biết phải làm sao.
Doanh Tứ chạy vụt vào, đưa tay đỡ lấy Hiếu Công, hét gọi: “Công phụ! Công phụ…” Rồi quay sang quát nội thần. “Mau truyền thái y!”
Lúc này nội thần mới sực tỉnh, lập tức ba chân bốn cẳng chạy đi.
***
Tại thành Niết Dương nước Sở, trống trận vang rền, quân Tần phá vỡ cổng thành, quân Sở giữ thành chạy tán loạn như ong vỡ tổ. Hai tên lính Tần lao lên tường thành, giật phăng lá cờ chữ “Sở” xuống, thay bằng lá cờ chữ mang chữ “Tần”.
Trong vòng hộ tống của quân sĩ, Công Tôn Ưởng, Sư Lý Tật từ từ tiến vào thành Niết Dương. Thành Niết Dương kỳ thực đã nằm ngoài ranh giới Thương Ư, đi tiếp về phía đông sẽ là Nam Dương, trọng địa luyện kim của nước Sở. Tính cho đến nay, chỉ sau trận chiến Hà Tây đúng một năm, Công Tôn Ưởng nhân lúc nước Sở cử đại binh phạt Tống, không còn rảnh rỗi chú ý đến việc khác, đã một mạch chiếm liền sáu trăm dặm đất Thương Ư.
Công Tôn Ưởng vừa vào trong phủ ngồi xuống, thì mấy kỵ binh đã hoả tốc lao đến, xuống ngựa ngay trước cửa phủ, một người vội vã chạy thẳng vào trong. Công Tôn Ưởng nhận ra đó chính là ngự sử Địch Thanh, thuộc hạ của thượng đại phu Cảnh Giám.
Địch Thanh hối hả chạy vào trong sảnh, quỳ sụp xuống đất: “Hạ quan Địch Thanh khấu kiến Thương Quân!”
Công Tôn Ưởng thấy hắn mặt mũi hoảng hốt, không kịp đáp lễ đã hỏi dồn: “Địch Thanh, có chuyện gì mà gấp gáp làm vậy?”
Địch Thanh hạ giọng bẩm báo: “Chúa thượng đột nhiên trúng gió, hôn mê bất tỉnh. Thượng đại phu lệnh cho hạ quan đến mời Thương Quân trở về Hàm Dương nghị sự!”
Công Tôn Ưởng vừa nghe đã giật bắn mình, suy nghĩ một lát rồi dặn dò Sư Lý Tật: “Việc ở đây giao cả cho ngươi, hãy xây thành cao hơn, bảo vệ nghiêm ngặt, đề phòng quân Sở tiến chiếm lại. Đồng thời bố cáo với thần dân, nói rằng chúa thượng có chỉ, miễn cho bách tính một năm sưu thuế, không quan lại nào được sách nhiễu nhân dân, kẻ nào vi phạm, sẽ xử tội theo luật pháp nước Tần!”
Sư Lý Tật vòng tay nói: “Hạ quan tuân mệnh!”
Công Tôn Ưởng gọi người chuẩn bị xe ngựa, chỉ mang theo mấy chục kỵ sỹ, sau đó cùng Địch Thanh tiến thẳng về Hàm Dương.
Công Tôn Ưởng đi suốt ngày đêm, liên tục thay ngựa, chỉ trưa hôm sau đã đến được vùng núi Chung Nam. Công Tôn Ưởng ghìm cương, xuống ngựa, viết một bức thư đưa cho Địch Thanh: “Ngươi hãy hoả tốc tới Hàn Tuyền, đưa thư này cho Hàn Tuyền tiên sinh!”
Địch Thanh nhận lệnh, lập tức quay đầu ngựa, phóng như bay về phía Hàn Tuyền.
Công Tôn Ưởng lại đi tiếp một ngày, đến trưa ngày thứ ba thì tới được Hàm Dương. Vừa vào cổng phủ, đã thấy thượng đại phu Cảnh Giám đứng đợi sẵn.
Công Tôn Ưởng vội nói: “Cảnh huynh, mau cùng ta vào cung!”
Cảnh Giám lắc đầu. Công Tôn Ưởng ngạc nhiên. “Sao lại không được?”
“Điện hạ truyền khẩu dụ, toàn thể quan viên tạm thời không lên triều, không có chỉ ý của điện hạ, bất kỳ người nào cũng không được vào cung!”
Công Tôn Ương kinh ngạc, nhưng cũng nhanh chóng bình tĩnh trở lại: “Chúa thượng giờ thế nào rồi?”
“Hạ quan không biết! Nhưng có người trong cung nói với hạ quan, theo thái y nói, bệnh của chúa thượng không hề nhẹ! Đã bảy ngày rồi mà vẫn bất tỉnh nhân sự!”
Công Tôn Ưởng trầm tư một lúc, khẽ thở dài: “Than ôi, chúa thượng… Hiện giờ, việc cấp bách nhất chính là trị bệnh. Ta đã phái Địch Thanh tới Hàn Tuyền, nếu Hàn Tuyền tiên sinh xuống núi, may ra chúa thượng còn có cơ cứu được.”
Cảnh Giám vội hỏi: “Khi nào tiên sinh mới đến?”
“Ít nhất cũng phải ba canh giờ nữa!”
“Hạ quan sẽ đích thân ra cổng thành nghênh tiếp!”
Công Tôn Ưởng gật đầu nói. “Được! Tại hạ tạm quay về giải quyết vài việc trong phủ, đợi khi tiên sinh đến, chúng ta sẽ cùng vào cung yết kiến!”
Cảnh Giám vội vàng ra khỏi cửa, đi thẳng về phía cổng thành.
Ba canh giờ sau, quả nhiên Cảnh Giám, Địch Thanh đã trở về, cùng đi thẳng tới phủ Thương Quân, cũng chính là phủ đại lương tạo trước đây. Công Tôn Ưởng nghe thấy tiếng, vội vàng chạy ra, nhưng chỉ nhìn thấy nữ đệ tử Lâm tiên cô của Hàn Tuyền Tử, thì sững lại một thoáng, sau đó tiến lên vái chào: “Tiên sinh có khoẻ không?”
Lâm tiên cô vòng tay đáp lễ, nói: “Tiên sinh rất khoẻ. Tiên sinh nhận được thư của Thương Quân, lập tức sai tiểu nữ đi cùng với Địch tướng quân!”
“Đã khiến tiên cô phải vất vả!” Công Tôn Ưởng không kịp nói nhiều, vội dẫn Lâm tiên cô vào cung.

Trong hậu cung, lão thái hậu, Tần Công phu nhân, cung phi, công chúa, tất cả cùng quỳ trong sân, đang cầu khấn trời xanh phù hộ cho Hiếu Công.
Trong điện Di Tình, ngoài nội thần, ngự y, không có bất kỳ quan lại nào khác. Ngoài cửa tẩm cung, thái phó Doanh Kiền, điện hạ và mấy chục vị công tử của Tần Công cùng quỳ dưới đất, tất cả đều đang cầu khấn cho Tần Công.
Mấy viên thái y túc trực bên cạnh Hiếu Công, trên đầu, trên đùi của Hiếu Công cắm chi chít kim châm cứu. Hiếu Công vẫn bất tỉnh nhân sự, hơi thở vô cùng hư nhược.
Nội thần đi tới trước mặt Doanh Tứ, ghé tai nói nhỏ mấy câu. Doanh Tứ khép mắt im lặng một hồi, mới gật đầu nói: “Ồ, Thương Quân đến rồi ư, mau mời vào!”
Nội thần đi ra ngoài điện, một lát sau đã dẫn Công Tôn Ưởng vào tới nơi.
Công Tôn Ưởng quỳ xuống phía sau Doanh Tứ, Doanh Tứ nhìn thấy, vội vàng lùi lại một bước, quỳ xuống bên cạnh Công Tôn Ương, khóc mà gọi: “Thương Quân…”
Công Tôn Ưởng dập đầu nói: “Vi thần khấu kiến điện hạ!”
Doanh Tứ lạy đáp lễ: “Lần này Thương Quân đến, Doanh Tứ không thể ra nghênh đón, mong Thương Quân lượng thứ!”
“Điện hạ!” Công Tôn Ưởng cũng rơi lệ mà nói. “Xin đừng nói vậy, long thể của chúa thượng đã khá hơn chút nào chưa?”
Doanh Tứ lắc đầu.
“Vi thần đã mời được một vị tiên cô từ núi Chung Nam đến, y thuật cực cao thâm. Vi thần mong điện hạ cho phép tiên cô chẩn trị bệnh cho chúa thượng!”
Doanh Tứ suy nghĩ một thoáng, rồi gật đầu nói: “Mau mời thần y!”
Công Tôn Ương bèn vỗ tay, một lát sau, Cảnh Giám dẫn theo Lâm tiên cô vào điện. Nội thần bước ra, dẫn tiên cô tới trước giường của Hiếu Công. Mấy viên thái y đều lui xuống một bước, đứng hầu ở hai bên.
Lâm tiên cô đứng bên cạnh Hiếu Công, cách Hiếu Công chừng một bước, sau đó phát công. Một lúc sau, Lâm tiên cô từ từ lui ra. Công Tôn Ưởng thấy Lâm tiên cô sắc mặt ảm đạm, thì trong lòng nặng trĩu, bèn ra hiệu cho nội thần dẫn Lâm tiên cô sang phòng bên cạnh, sau đó gật đầu với Doanh Tứ.
Doanh Tứ hiểu ý, nên cùng Công Tôn Ưởng sang phòng bên.
Thấy không còn người khác nữa, Doanh Tứ bèn hỏi: “Xin hỏi thần y, công phụ mắc bệnh gì?”
“Chúa thượng nguyên âm hư cực, khí huyết xung tâm!”
“Có thể cứu được chăng?”
Lâm tiên cô khẽ lắc đầu: “Chúa thượng đã như cây đèn cạn dầu, bệnh đã nhập vào xương tuỷ!”
Công Tôn Ưởng sắc mặt tái mét, một lúc sau mới nói nên lời: “Mong tiên cô hãy phát thần công, chỉ cần cứu được chúa thượng, nước Tần không tiếc bất cứ thứ gì!”
Lâm tiên cô lại lắc đầu: “Bệnh của chúa thượng, đừng nói là tiểu nữ, cho dù tiên sinh có đến, cũng không thể làm gì hơn!”
Nghe thấy vậy, Doanh Tứ bật khóc thất thanh. Công Tôn Ưởng ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi: “Vậy, tiên cô có thể khiến chúa thượng tỉnh lại hay chăng?”
“Tiểu nữ sẽ thử xem!”
Lâm tiên cô lại tiến vào cung, bảo mọi người ra ngoài, sau đó rút tất cả kim châm cứu trên người Hiếu Công ra, ngồi ngay ngắn trước mặt Hiếu Công, hai mắt nhắm hờ, vận thần phát công. Một lát sau, Lâm tiên cô đã trán rịn mồ hôi, toàn thân nhiệt khí bốc lên nghi ngút. Lại nhìn Hiếu Công, thấy sắc mặt dần dần hồng hào, hơi thở bắt đầu đều đặn. Thêm một lát nữa, thấy lông mày và mí mắt của Tần Hiếu Công khẽ động.
Lâm tiên cô bèn thu công, lấy từ trong tay áo ra một hoàn thuốc, đưa cho nội thần: “Hãy cho chúa thượng uống đan dược này!”
Nội thần đưa cho thái y, thái y bón cho Hiếu Công uống.
Lâm tiên cô chậm rãi lui ra. Doanh Tứ vội hỏi: “Công phụ thế nào rồi?”
Lâm tiên cô nói: “Nửa canh giờ sau, chúa thượng sẽ tỉnh lại. Nhưng… hoàn thuốc đó, nhiều nhất cũng chỉ có thể giúp chúa thượng cầm cự được ba ngày, còn chuyện sau đó, tiểu nữ…”
Doanh Tứ vòng tay vái một vái thật sâu: “Doanh Tứ đa tạ thần y!”
Cảnh Giám bước tới, dẫn Lâm tiên cô sang phòng bên nghỉ ngơi.
Quả như lời tiên cô, nửa canh giờ sau, Tần Hiếu Công từ từ hồi tỉnh, hai mắt khẽ chớp, sau đó lại nhắm nghiền, đầu khẽ nhúc nhắc. Thái y thấy vậy thì mừng rỡ, lập tức chạy ra ngoài thông báo.
Doanh Tứ đang cùng Công Tôn Ưởng dập đầu ngoài cửa, nhìn thấy thái y, vội hỏi: “Thái y, công phụ thế nào rồi?”
“Khởi bẩm điện hạ, chúa thượng đã tỉnh lại rồi!”
Doanh Tứ thở phào một tiếng, tiếp tục cầu khấn. Một lát sau, nội thần đi ra, đứng trước cửa hô: “Chúa thượng có chỉ, truyền Thương Quân vào!”
Hiếu Công tỉnh lại, người đầu tiên muốn gặp lại là Thương Quân, khiến Doanh Tứ không khỏi kinh ngạc.
Công Tôn Ưởng chần chừ một lát, sau đó chậm rãi đứng dậy, đi vào cung, quỳ ở trước giường, khóc mà gọi: “Chúa thượng…”
Hiếu Công từ từ giơ tay lên, Công Tôn Ưởng thấy vậy cũng vội đưa tay lại. Quân thần hai người nắm chặt lấy tay nhau, Hiếu Công từ từ ứa hai hàng lệ, giọng run rẩy: “Có thể gặp được ái khanh, quả nhân đã mãn nguyện rồi!”
Công Tôn Ưởng khóc mà nói: “Chúa thượng còn rất khoẻ mạnh, sao lại nói lời này?”
Hiếu Công cười buồn bã, than thở: “Than ôi, có khoẻ hay không, quả nhân tự biết. Công Tôn ái khanh, quả nhân vốn định cùng khanh làm một việc lớn nữa, chẳng dè trời xanh không thương, đã gọi quả nhân đi gấp!”
“Dám hỏi chúa thượng, là việc lớn gì?”
“Ta đã đông chiếm Hà Thuỷ, nam đoạt Vũ Quan, chỉ cần có thêm Hàm Cốc, Hào Quan, sẽ trở thành nước tứ bề phong kín, hùng cứ Quan Trung, tiến có thể công, lui có thể thủ, lấy đó mà lập cơ nghiệp muôn đời. Đáng tiếc, quả nhân hận mình không còn thời gian nữa!”
“Lời của chúa thượng cũng chính là tâm tư bấy lâu nay của vi thần. Chúa thượng yên tâm, vi thần nhất định dốc hết tâm lực, quyết đoạt được Hàm Cốc!”
Hiếu Công cười gượng một tiếng: “Trong tình thế hiện nay, Hàm Cốc chỉ là việc nhỏ. Quả nhân gọi khanh đến, là có việc lớn cần giao phó!”
Công Tôn Ưởng khóc mà nói: “Chúa thượng có gì căn dặn, dù phải nhảy vào dầu sôi lửa bỏng, thần cũng quyết chẳng từ nan!”
“Quả nhân kiếp này may mắn mới gặp được Thương Quân. Nước Tần vì có Thương Quân nên mới có tân pháp; vì có tân pháp nên mới được thịnh vượng như hôm nay. Sau khi quả nhân chết đi, cho dù xảy ra chuyện gì, mong Thương Quân hãy nhẫn nhục gánh vách trọng trách, tuyệt đối không được để tân pháp chết yểu giữa đường!”
“Vi thần ghi nhớ!”
Hiếu Công hai mắt nhìn chăm chăm vào Công Tôn Ưởng, một hồi lâu mới chậm rãi nói: “Quả nhân còn có lời tâm phúc khác muốn giao phó!”
“Vi thần xin nghe!”
“Thái tử Doanh Tứ nhu nhược kém cỏi, dễ bị đám cựu đảng lợi dụng. Những kẻ đó đều là quyền quý trước đây, vốn dĩ bất mãn với tân pháp. Hôm nay còn quả nhân, họ không dám làm càn, sau khi quả nhân ra đi, chắc chắn họ sẽ gây khó dễ cho quân chủ mới, cản trở tân pháp!”
“Nếu như vậy, vi thần phải ứng phó thế nào?”
Hiếu Công quả quyết: “Công Tôn ái khanh, tất cả phải lấy tân pháp làm trọng. Nếu như quân chủ mới không phế bỏ tân pháp, Thương Quân hãy phò tá. Nếu quân chủ mới không theo tân pháp, Thương Quân hãy phế chúa lên thay!”
Công Tôn Ưởng toát mồ hôi lạnh, quỳ sụp xuống đất, khóc mà nói: “Chúa thượng, Công Tôn Ưởng xuất thân hàn sinh, may được chúa thượng ban ân nên mới có ngày hôm nay. Công Tôn Ưởng cho dù gan óc lầy đất, cũng tuyệt đối không làm chuyện phản nghịch. Chúa thượng!”
Công Tôn Ưởng liên tục dập đầu bình bịch xuống đất.
“Than ôi,” Tần Hiếu Công gật đầu nói. “Tấm lòng của ái khanh, lẽ nào quả nhân không biết?” Rồi chỉ vào bên giường. “Lại đây, Công Tôn ái khanh, hãy ngồi xuống đây!”
Công Tôn Ưởng dè dặt ngồi xuống bên cạnh Hiếu Công. Hiếu Công cất giọng run rẩy: “Người đâu!”
Nội thần vội vã đi vào.
“Truyền thái tử!”
Doanh Tứ rảo bước vào, quỳ ở trước giường, khấu đầu nói: “Nhi thần khấu kiến công phụ!
Hiếu Công nắm chặt tay Công Tôn Ưởng: “Doanh Tứ nghe chỉ! Bắt đầu từ hôm nay, con phải thờ Thương Quân theo lễ quốc phụ, không được lơ là!”
Doanh Tứ dập đầu: “Nhi thần tuân chỉ!”
“Tứ Nhi, hãy khấu kiến quốc phụ!”
Doanh Tứ chần chừ một lát, rồi quay sang dập đầu trước Công Tôn Ưởng: “Quốc phụ ở trên, xin hãy nhận của Doanh Tứ một lạy!”
Công Tôn Ưởng vội vàng xuống giường, phủ phục trước mặt Doanh Tứ: “Điện hạ, muôn lần xin đừng!”
Công Tôn Ưởng quay người, khấu lạy Hiếu Công: “Chúa thượng, sau khi chúa thượng băng hà, điện hạ sẽ là quân chủ mới của Đại Tần, Công Tôn Ưởng thân thế thấp kém, sao dám dùng địa vị quốc phụ để yết kiến quân chủ mới? Chúa thượng, lễ quân thần không thể phá vỡ, vi thần to gan mong chúa thượng hãy thu hồi mệnh lệnh!”
Hiếu Công xua tay nói: “Có ái khanh phò tá bên cạnh Tứ Nhi, quả nhân dưới cửu tuyền cũng cảm thấy an lòng. Hai ngươi lui ra đi, quả nhân mệt rồi!” Nói đoạn, từ từ khép mắt lại.
Công Tôn Ưởng lại bái lạy, khóc mà nói: “Chúa thượng bảo trọng, vi thần cáo lui!”
Doanh Tứ khấu bái: “Nhi thần cáo lui!”
Thấy Công Tôn Ưởng và thái tử đã đi xa, Hiếu Công mới từ từ mở mắt, nói gấp với nội thần: “Truyền thái phó!”
Doanh Kiền đang đợi ở ngoài vội vã đi vào, quỳ xuống khóc: “Quân huynh…”
Nhìn người em ruột của mình, Hiếu Công ứa nước mắt, xoa tay Doanh Kiền mà nói: “Quả nhân đi trước một bước, việc nhà việc nước, tất cả phải thoái thác lại cho tam đệ!”
Doanh Kiền khóc: “Quân huynh…”
Hiếu Công chỉ vào cạnh giường, Doanh Kiền bèn ngồi xuống.
Hiếu Công giơ tay, sờ lên chiếc mũi giả trên mặt Doanh Kiền: “Tam đệ ơi, đời này của quả nhân, nếu có điều gì phải hối tiếc nhất, thì đó chính là năm xưa đã cắt mũi của tam đệ. Than ôi, quả nhân… quả nhân không nên như vậy!”
Nghe Hiếu Công nhắc lại chuyện cũ, Doanh Kiền cũng đau đớn trong lòng, nghẹn ngào nói: “Quân huynh, là thần đệ có tội, thần đệ đáng bị trừng phạt!”
“Tam đệ,” Hiếu Công khẽ lắc đầu, “không phải đệ đáng bị trừng phạt, mà là quả nhân buộc phải phạt đệ, nước Tần buộc phải phạt đệ. Tam đệ, lúc đó không phải đệ chịu phạt thay cho Tứ Nhi, mà chịu phạt thay cho quả nhân, chịu phạt thay cho nước Tần!”
Doanh Kiền khóc không thành tiếng: “Quân huynh, thần đệ biết, thần đệ biết rồi!”
“Đệ biết rồi thì tốt!” Hiếu Công nhìn Doanh Kiền với ánh mắt hiền từ. “Việc này không thể trách Công Tôn Ưởng, mà ngược lại, khi quả nhân muốn dùng hình với đệ, Công Tôn Ưởng đã nhiều lần khẩn cầu, nói rằng muốn chịu hình thay đệ. Nhưng đệ thử nghĩ xem, quả nhân làm sao có thể để Công Tôn Ưởng chịu hình thay đệ được? Quả nhân phạt đệ, cũng đồng nghĩa với phạt thái tử, cũng đồng nghĩa với quả nhân tự phạt mình. Nếu quả nhân không phạt đệ, làm sao có thể thực thi tân pháp ở Đại Tần? Không có tân pháp, nước Tần sao được thịnh vượng như hôm nay?”
Doanh Kiền bắt đầu hiểu ra nỗi oan khuất của mình năm đó, liên tiếp gật đầu: “Quân huynh, thần đệ hiểu rồi!”
“Đệ đã hiểu, quả nhân cũng yên tâm rồi. Tam đệ, nước Tần khó khăn lắm mới có được chút vị thế, tuyệt đối không được đứt gánh giữa đường! Quả nhân sắp phải đi rồi, nhưng quả nhân không thể yên tâm. Điều khiến quả nhân không thể yên tâm, chính là Tứ Nhi. Than ôi, đứa con này, cũng đã đến tuổi ba mươi, nhưng vẫn chưa biết lo toan quốc sự!”
“Quân huynh, theo thần đệ thấy, điện hạ chưa chắc đã không biết lo toan quốc sự. Điện hạ hành sự độc đáo, cho dù là nghịch ngợm, cũng khác hẳn những kẻ tầm thường. Mặc dù đôi lúc điện hạ có phần ấu trĩ, nhưng ngẫm kỹ, lời nói việc làm của điện hạ không có chỗ nào sơ suất. Thần đệ nghĩ, điện hạ là người có chủ kiến, có thể làm nên đại sự!”
“Tam đệ nói vậy, quả nhân cũng thấy yên tâm ít nhiều. Có tam đệ và Thương Quân phò tá, Tứ Nhi trong buổi ban đầu hẳn cũng sẽ thuận lợi hơn. Những việc sau này, đều phải trông chờ vào bản thân Tứ Nhi. Nhân tiện hỏi một câu, lão thái sư có khoẻ không?”
Doanh Kiền ngẩn người: “Quân huynh muốn nói đến Cam Long?”
Hiếu Công khẽ thở dài: “Than ôi, con chim sắp chết, tiếng hót đau thương; con người sắp chết, nói lời thật tâm. Quả nhân cả đời cố chấp bảo vệ tân pháp, đã đắc tội với không ít người, đặc biệt là với lão thái sư. Quả nhân không còn nhiều thời gian nữa, không thể tới phủ tạ lỗi với lão thái sư, phiền tam đệ hãy truyền lại ý chỉ giúp quả nhân!”
Doanh Kiên ngần ngừ: “Thái sư luôn chống đối tân pháp, quân huynh làm vậy là…”
“Đi đi! Bất kể thế nào, thái sư cũng là cựu thần của tiên quân, đã đánh mấy chục trận lớn nhỏ cho nước Tần, đến nỗi đầy mình thương tích, không còn phần da nào lành lặn. Quả nhân còn nhớ, năm đó đại chiến với Ngụy, tiên quân chẳng may trúng tên, thái sư đã xông pha vào giữa trận quân Ngụy, liều mạng cứu thoát tiên quân. Tam đệ, đệ hãy nói với thái sư rằng, quả nhân không bao giờ quên công lao của thái sư. Bắt đầu từ hôm nay, quả nhân khôi phục chức thái sư, ban thưởng năm trăm lượng vàng!”
“Thần đệ tuân lệnh!”

Doanh Kiền hô dừng xe trước phủ lão thái sư Cam Long chừng hai chục bước.
Doanh Kiền bước xuống xe, đuổi bọn thuộc hạ đi, một mình tiến lại gần phủ thái sư.
Hai cánh cửa đen trùi trũi đóng im ỉm, trông cũ nát thảm hại, đừng nói là người khác, ngay cả Doanh Kiền cũng có thể một chân đạp tung. Doanh Kiền nhớ rõ, mười mấy năm trước, phủ thái sư huy hoàng biết chừng nào, trước cửa từ sáng tới tối ngựa xe nườm nượp, đừng nói là người bình thường, ngay cả quan viên nếu chưa tới chức trung đại phu cũng không dám lộ diện ở đây!
Vậy mà, quan trường mưa gió, nói biến là biến. Mười mấy năm trước, Công Tôn Ưởng biến pháp, Doanh Kiền và Cam Long đều là cựu đảng, kịch liệt phản đối, bị quân chủ thẳng tay trấn áp. Trong cựu đảng, Doanh Kiền bị xẻo mũi; Công Tôn Giả bị đánh năm mươi trượng, thích chữ lên mặt; Cam Long may nhờ có công lao hiển hách nên được miễn hình phạt, nhưng cũng bị bãi quan, ở nhà đóng cửa sám hối tội lỗi, an dưỡng tuổi già. Ai ngờ, chớp mắt đã mười mấy năm, thành viên của cựu đảng, hoặc bị giết, hoặc bị sung quân, vài người còn lại vì sợ tân pháp nên không ai dám bén mảng đến phủ thái sư.
Đến nay, trước phủ thái sư hoang tàn lạnh lẽo, phía trước cổng chính chỉ chừng một bước chân, cỏ mọc um tùm, cao lút đầu người, không ai cắt dọn. Nhìn khung cảnh này, thái sư Cam Long chắc hẳn đã lòng tựa tro tàn, không còn mơ mộng tái khởi.
Doanh Kiền khẽ thở dài, đi đến trước cổng, gõ nhẹ.
Không ai trả lời.
Doanh Kiền gõ mạnh vào cánh cổng, gọi lớn: “Lão thái sư, có trong phủ không?”
Một lát sau, trong viện có tiếng bước chân vọng lại, một người trạc năm chục tuổi bước ra mở cổng. Doanh Kiền vừa nhìn, liền nhận ra là lão quản gia trong phủ thái sư.
Lão quản gia thấy Doanh Kiền đến, nhất thời kinh ngạc sững sờ, một lúc sau mới định thần lại được, quỳ sụp xuống đất: “Lão nô khấu kiến thái phó!”
“Lão thái sư có trong phủ không?”
“Chúa công đang ở trong, xin thái phó chờ một lát, lão nô sẽ vào bẩm báo!”
Lão quản gia vội vã chạy vào trong phủ. Một lát sau, Cam Tuyền râu tóc bạc phơ được hai người con trai dìu đỡ, khó nhọc cất từng bước chân run rẩy đi ra khỏi phòng. Nhìn thấy Doanh Kiền, lão thái sư bỗng vùng mạnh hai tay, đi thẳng về phía trước. Doanh Kiền cũng chạy lại gần.
Hai người tiến đến cách nhau chừng chục bước chân, rồi cùng dừng lại.
Doanh Kiền nhìn lão thái sư, hô lớn: “Lão thái sư Cam Long tiếp chỉ!”
Nghe thấy có chỉ ý của Tần Công, Cam Long giật mình kinh hãi, cứ ngỡ là chiếu chỉ đến lấy mạng mình, lập tức sắc mặt trắng bệch, run rẩy quỳ xuống, khấu đầu sát đất. Doanh Kiền lấy chiếu thư từ trong tay áo ra, đứng giữa sân tuyên đọc, rồi phái người khiêng năm trăm lượng vàng vào.
Cam Long tuyệt đối không thể ngờ được lại là tin vui, nước mắt thành dòng, dập đầu bình bịch xuống đất: “Lão thần khấu tạ thiên ân!” Rồi hai tay tiếp chỉ, lại khấu bái rồi mới đứng dậy, khom lưng vái Doanh Kiền. “Thái phó đại nhân, xin hãy vào trong phủ trò chuyện!”
Vì không rõ Tần Hiếu Công có dụng ý gì, Doanh Kiền không tiện nán lại lâu, bèn vái đáp lễ mà nói: “Lão thái sư bảo trọng, Doanh Kiền còn có việc gấp phải đi, xin cáo từ tại đây!”
Cam Long ngẩn người, rồi đáp lễ: “Thái phó xin dừng bước, lão hủ còn có chút chuyện, muốn thỉnh giáo thái phó!”
“Lão thái sư có chuyện gì, xin cứ căn dặn!”
“Nghe nói chúa thượng long thể bất an, hiện giờ thế nào rồi?
Doanh Kiền ý tại ngôn ngoại: “Chúa thượng đã không có gì đáng ngại. Thái sư cũng nên chú ý bảo trọng quý thể!”
“Bảo trọng, bảo trọng!” Cam Tuyền gật đầu liên hồi. “Cái mạng già này là do chúa thượng ban cho, đâu dám không bảo trọng! Lão hủ cung tiễn thái phó đại nhân!”
Doanh Kiền và mọi người ra khỏi cửa, lên xe đi luôn.
Cam Long đứng nhìn theo đoàn người ngựa đến khi khuất hẳn, rồi mới trở vào trong phủ, quỳ xuống trước đống vàng, tay cầm chiếu thư, khóc hu hu thành tiếng: “Trời xanh ơi, cuối cùng trời xanh cũng có mắt!” Khóc lóc một chặp, bèn quay đầu gọi. “Người đâu!”
Lão quản gia vội bước tới: “Chúa công có gì căn dặn?”
“Mau mời Công Tôn đại nhân, Đỗ đại nhân, Bạch đại nhân, cùng tất cả những người cũ trước đây của ta, mời họ đến phủ!”
“Lão nô tuân mệnh!”
Mấy canh giờ sau, trước phủ thái sư, cảnh tượng đã hoàn toàn khác hẳn, cỏ dại trước cửa được dọn quang, sân cũng được hai người con trai cho gia nhân quét tước sạch sẽ. Từng cỗ xe kiệu lần lượt đỗ lại trước phủ, Công Tôn Giả và những người từng phản đối tân pháp, hoặc những người từng bị tân pháp trừng phạt lũ lượt kéo đến, phủ thái sư sau mười mấy năm lạnh lẽo hoang vắng, nay bỗng náo nhiệt khác thường.
Lão thái sư Cam Tuyền mặc trang phục mới tinh, đứng trước sảnh, lần lượt vái chào từng người: “Các vị đại nhân, mời!”
Lão quốc uý Đỗ Chí không giấu nổi niềm phấn khởi trong lòng, vội bước lên một bước, vòng tay nói: “ Lão thái sư, nghe nói chúa thượng…”
Cam Long hai mắt ứa lệ: “Ta mời các vị đại nhân đến đây, chính là muốn các vị đại nhân cầu khấn trời xanh, xin cho chúa thượng vượt qua được kiếp nạn này! Nào, chúng ta hãy bắt đầu!”
Nghe nói cầu khấn cho Hiếu Công, mọi người thảy đều kinh ngạc.
Công Tôn Giả sờ tay lên dòng chữ thích trên mặt, hậm hực nói: “Cái gì? Lão thái sư muốn chúng tôi cầu khấn cho ông ta? Hạ quan còn hận vì không để hôn quân chết sớm từ mười năm trước!”
Đỗ Chí cũng nói: “Đúng thế, lão thái sư, mười mấy năm nay, hôn quân đã bị Công Tôn Ưởng lừa bịp, mưu sát công thần, hại chúng ta người không ra người, ma chẳng ra ma, không nguyền rủa hôn quân chết sớm là đã may lắm, thái sư tại sao lại muốn chúng tôi cầu khấn cho hắn?”
Cam Long chậm rãi bước tới trước bàn dài đặt giữa chính sảnh: “Các vị đại nhân, hãy nhìn xem!”
Cam Long giật tấm vải đen ra, phía trên là chiếu thư và năm trăm lượng vàng vừa được ban tặng.
Trong những tiếng xuýt xoa, Cam Long từ tốn nói: “Chỉ mấy canh giờ trước, thái phó đại nhân đã đích thân tới phủ của lão hủ, tuyên đọc chiếu thư của chúa thượng, nói bắt đầu từ hôm nay sẽ khôi phục chức vị thái sư, thăng tước một cấp, thưởng cho năm trăm lượng vàng!”
Công Tôn Giả hết sức ngờ vực: “Lão thái sư, chúa thượng đang giở bài gì vậy?”
Cam Long mỉm cười: “Các vị đại nhân, cho dù chúa thượng giở bài gì đi nữa, thì cũng đã đến ngày chúng ta trỗi dậy rồi!”
“Xin thái sư hãy nói rõ!”
“Lão hủ đoán, ý chỉ này không phải xuất phát từ chúa thượng, mà xuất phát từ điện hạ!”
Mọi người thảy đều kinh ngạc: “Điện hạ?”
Cam Long gật đầu: “Đúng thế, Công Tôn Ưởng một mực khuyên chúa thượng thi hành tân pháp, sát hại trung lương, người phản đối đầu tiên là điện hạ, người dẫn đầu chống đối cũng là điện hạ. Hiện giờ chúa thượng trúng gió, chắc chắn là trời xanh báo ứng. Điện hạ là con có hiếu, đã thay mặt chúa thượng rửa nỗi oan khiên cho chúng ta, thay chúa thượng chuộc tội với trời cao!”
Mọi người theo nhau gật đầu.
“Điện hạ đã khôi phục chức tước cho lão hủ, chắc chắn sẽ không thể lãng quên các vị. Bây giờ, lão hủ sẽ dâng tấu, xin điện hạ sử dụng lại các cựu thần. Trong số các vị, những ai có tước không chức sẽ được trao chức vị, những ai chỉ có hư chức sẽ được nhận lại chức vị thực, những ai bị bãi chức sẽ được phục hồi chức cũ!”
Mọi người vui mừng quá đỗi, nhất tề quỳ xuống bái lạy: “Tạ ơn thái sư!”
“Lão hủ mong các vị đại nhân hãy vì điện hạ mà cầu khấn cho chúa thượng!” Rồi Cam Long dẫn đầu quỳ xuống.
Mọi người cũng lần lượt quỳ xuống.

Trong phủ Thương Quân, Công Tôn Ưởng ngồi giữa chính đường, đôi mày chau tít.
Xa Anh, Cảnh Giám ngồi ở hai bên, sắc mặt đầy lo âu.
Xa Anh khẽ ngẩng đầu: “Thương Quân, lúc này chúa thượng lại cất nhắc thái sư, như vậy là có ý gì?”
“Chắc chắn không phải là ý chỉ của chúa thượng!” Cảnh Giám tiếp lời. “Hạ quan cho rằng, hành động lần này hẳn do Doanh Kiền thao túng, là ý chỉ của điện hạ. Thái phó, thái sư, Công Tôn Giả đều là cựu đảng, đều là thầy của điện hạ, lại đều đã từng thay điện hạ chịu tội, điện hạ và họ vốn cùng một phe. Hiện giờ chúa thượng bệnh nặng, điện hạ đương chính, để báo ân cũ, tự nhiên sẽ kết bè kết phái với những người này.”
Xa Anh lo lắng nhìn Công Tôn Ưởng: “Thương Quân, tân pháp đã thi hành được nhiều năm, ăn sâu vào lòng dân, chúng ta tuyệt đối không được để họ khôi phục cựu chế, uổng phí mọi công sức trước đây.”
Cảnh Giám tiếp lời: “Một khi chúa thượng băng hà, điện hạ sẽ lên kế vị. Nếu tân quân muốn khôi phục cựu chế, chúng ta làm sao có thể ngăn cản?”
Xa Anh chau mày, một lúc, siết chặt hai tay: “Thương Quân, theo ý hạ quan, trước tiên hãy khống chế tất cả cựu đảng. Nếu họ dám to gan làm phản, chúng ta hãy ra tay trước, giết sạch bọn họ để thị chúng.”
“Cảnh huynh, Xa huynh!” Công Tôn Ưởng đưa mắt nhìn hai người, chậm rãi nói. “Việc này đến đây là kết thúc, hai vị không được hành động tuỳ tiện, đẩy Ưởng vào chỗ bất trung bất nghĩa!”
Xa Anh, Cảnh Giám đều sững sờ.
Công Tôn Ưởng thở dài: “Than ôi, hai vị có điều không biết, đại hạn của chúa thượng chính là mấy ngày này, tâm tư của chúa thượng, chúng ta vẫn chưa thể hiểu. Ta nghĩ, điện hạ không phải là kẻ ngốc, biến pháp là xấu hay tốt, chắc chắn điện hạ cũng tự hiểu rõ. Nếu như cựu đảng có hành động, ta nghĩ điện hạ sẽ có cách xử trí, các người bất kể là ai cũng không được ăn nói tuỳ tiện, làm điện hạ bấn loạn!”
Thấy Công Tôn Ưởng khẳng định chắc nịch, Xa Anh, Cảnh Giám không dám nói thêm gì nữa, gật đầu lui ra.
Thấy hai người đã đi khuất, Công Tôn Ưởng thở dài: “Than ôi, hai vị nhân huynh, hai vị đã từng nghĩ đến chưa? Nước Tần được như ngày hôm nay thực không dễ dàng, tuyệt đối không thể tự gây nội loạn!”

Trong điện Di Tình, trước giường Hiếu Công, Doanh Tứ quỳ lặng phắc trên đất. Nhìn dáng vẻ, hẳn đã quỳ rất lâu rồi.
Cuối cùng, Hiếu Công cũng khẽ cựa mình, hai mắt từ từ hé mở, khẽ gọi: “Tứ Nhi đấy ư?”
Doanh Tứ bật khóc: “Công phụ, là Tứ Nhi đây!”
Hiếu Công lần tìm tay Doanh Tứ, cố gắng gượng dậy. Nội thần thấy vậy, vội chạy tới đỡ lấy Hiếu Công, lót tấm chăn bông vào sau lưng Hiếu Công. Hiếu Công xua tay, nội thần hiểu ý, liền cùng đám cung nhân lui cả ra ngoài, tiện tay đóng cửa lại.
Thấy trong cung chỉ còn Doanh Tứ, Hiếu Công mỉm cười, sau đó chậm rãi nói: “Tứ Nhi, lúc nãy quả nhân vừa ngủ một giấc thật dài, mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ!”
“Công phụ có thể kể cho nhi thần nghe chăng?”
Hiếu Công gật đầu: “Quả nhân đã mơ thấy liệt tổ liệt tông. Quả nhân hãy còn rất trẻ, giống như thuở nhỏ, còn nhỏ hơn con bây giờ. Liệt tổ liệt tông ngồi yên vị ở một nơi nào đó, không nhìn rõ nơi nào. Họ ngồi thành một hàng, người thì gật đầu, người thì mỉm cười với quả nhân. Sau đó lão thuỷ tổ ngồi ở chính giữa ra hiệu, tiên quân đứng dậy, không nói một lời, lập tức nắm tay quả nhân, dẫn quả nhân tới một nơi. Tất cả liệt tổ liệt tông đều đứng dậy, lẳng lặng đi theo sau.”
Doanh Tứ ngạc nhiên hỏi: “Một nơi? Là nơi nào vậy?”
Hiếu Công lắc đầu: “Quả nhân không biết, hình như cứ thế đi về phía tây, không phải đi, mà là bay. Chúng ta bay thẳng ra ngoài thành Hàm Dương. Bay được mấy chục dặm thì nhìn thấy một ngã ba, bên cạnh có một cây lớn, dưới gốc cây có một cái giếng.”
Doanh Tứ hai mắt mở tròn: “Giếng?”
“Đúng thế. Tiên quân dẫn quả nhân tới bên giếng. Liệt tổ liệt tông đều đứng vây quanh, sau đó bắt đầu di chuyển vòng tròn. Họ cứ thế xoay vòng mãi, quả nhân không nhớ rõ đã được bao nhiêu vòng. Sau đó, liệt tổ liệt tông chợt dừng lại, ngồi xuống xung quanh giếng. Đúng lúc đó, tiên quân lên tiếng.”
Doanh Tứ lúc này tim nảy lên tận họng, sốt sắng hỏi: “Tiên quân đã nói gì?”
“Tiên quân chỉ vào giếng mà nói: Doanh Cừ Lương, tiền đồ của nước Tần ở trong này, còn không lấy lên? Lời vừa dứt, tiên quân thình lình đẩy mạnh quả nhân một cái, quả nhân không kịp đề phòng, liền ngã nhào xuống giếng.”
Doanh Tứ kinh ngạc hỏi: “Công phụ rơi xuống giếng, có nhìn thấy gì không?”
Hiếu Công thở dài: “Chẳng nhìn thấy gì! Quả nhân giật mình rồi choàng tỉnh!”
Doanh Tứ trầm ngâm một lúc: “Công phụ, nhi thần lập tức đi ngay, nhất định sẽ tìm được giếng báu!”
“Tứ Nhi!” Hiếu Công trịnh trọng nói. “Trước đây quả nhân chưa bao giờ mơ thấy giấc mơ tương tự, quả nhân nghĩ, việc này hẳn không phải giả, nếu đã liên quan tới liệt tổ liệt tông, trong giếng chắc chắn có điều huyền diệu. Song việc này có liên quan tới tiền đồ nước Tần, con nhất định phải âm thầm tìm kiếm, không được để người ngoài biết!”
Doanh Tứ gật đầu, rồi từ từ lui ra, suy nghĩ một lát, sau đó gọi tới một vệ sĩ thân tín, mỗi người cưỡi một con ngựa, tiến thẳng ra cổng thành, theo đường cái đi về phía tây.
Ra khỏi thành ba mươi dặm, Doanh Tứ gặp một ngã ba, bên cạnh có một gốc cây lớn. Bên trái gốc cây, quả nhiên có một giếng cổ đã bỏ hoang.
Doanh Tứ cả mừng, liền chạy đến qùy xuống trước giếng, lạy liền mấy cái. Lạy xong, Doanh Tứ nhìn xuống giếng, nhưng không thấy bóng nước. Suy nghĩ một lát, liền nhặt viên đá ném xuống, chốc lát sau nghe thấy tiếng động khô khốc vọng lên, mới biết dưới giếng không hề có nước.
Doanh Tứ suy tính một lát, sau đó bảo thị vệ lấy sợi dây thừng, một đầu buộc quanh thắt lưng, một đầu buộc lên cành cây, rồi nói với hắn: “Tối qua bản cung nằm mơ thấy dưới giếng có báu vật, ngươi hãy xuống đó, lấy lên đây cho bản cung!”
Thị vệ không chút đắn đo, lập tức bám lấy sợi thừng leo xuống giếng. Thị vệ lần mò dưới đáy giếng một hồi, rồi mừng rỡ ngửa đầu lên nói lớn: “Điện hạ, tiểu nhân tìm thấy rồi, là một hộp đá, nằm sâu dưới bùn.”
Doanh Tứ phấn khởi nói: “Mau, bỏ vào trong túi, buộc vào dây thừng để ta kéo lên!”
Lát sau, Doanh Tứ đã kéo lên được một hộp đá. Doanh Tứ kiểm tra chiếc hộp, biết chắc chắn chính là vật này, thì đảo mắt nhìn quanh, thấy có một tảng đá lớn bằng cối xay, liền khuân lại gần, nhắm chặt mắt lại, rồi thẳng tay ném xuống giếng. Dưới giếng vọng lên một tiếng rú thảm thiết, sau đó không còn động tĩnh gì nữa. Doanh Tứ lại tìm thêm vài tảng đá nữa ném xuống, chôn vùi thị vệ dưới đáy giếng, sau đó treo túi lên lưng ngựa, quay về thành Hàm Dương.
Doanh Tứ mang theo chiếc túi, đi thẳng tới điện Di Tình.
Trước giường của Hiếu Công, không biết từ lúc nào đã treo một lồng chim, trong lồng có ba chú chim vàng anh ríu rít nhảy qua nhảy lại. Doanh Tứ lập tức dâng hộp đá tới trước mặt Hiếu Công, dập đầu mà nói: “Nhi thần làm theo lời cặn dặn của công phụ, đã tìm được hộp đá này ở dưới giếng báu!”
“Ồ?” Hiếu Công mở mắt, sắc mặt đầy vẻ ngạc nhiên. “Mau, mau mở ra xem!”
Doanh Tứ hết sức thận trọng đưa mũi kiếm bẩy hộp đá ra: “Công phụ, bên trong chẳng có gì cả, không có… Mà không, nhi thân nhìn thấy rồi, có một phiến đá nhỏ!”
Doanh Tứ lấy phiến đá ra, xem xét tỉ mỉ rồi kinh ngạc nói: “Công phụ, trên phiến đá có khắc chữ!”
Hiếu Công sốt sắng: “Chữ? Là chữ gì?”
Doanh Tứ bèn đọc: “Số Chu tám trăm, đỏ tận đen xuất; xưng đế thiên hạ, bốn biển đều phục. Lão Đam.”
Hiếu Công nhắm mắt suy nghĩ: “Lão Đam? Con hãy đọc lại lần nữa!”
“Số Chu tám trăm, đỏ tận đen xuất; xưng đế thiên hạ, bốn biển đều phục. Lão Đam.”
“Tứ Nhi, mau, dâng hương lên Lão Đam!”
Doanh Tứ bèn đặt phiến đá lên án, thắp nến châm hương.
“Bái lạy Lão Đam!”
Doanh Tứ liền dập đầu bái lạy.
“Tứ Nhi!” Hiếu Công giọng nói nặng trĩu tâm tư. “Đến hôm nay quả nhân mới biết, tại sao ngày trước Lão Đam bỏ Chu mà đi về phía tây, đến địa giới nước Tần chúng ta. Thì ra, từ lâu người đã hiểu rõ thiên cơ!”
Doanh Tứ mở trừng hai mắt: “Thiên cơ?”
Tần Công gật đầu: “Tứ Nhi có biết lời này của Lão Đam có thâm ý gì chăng?”
“Mong được công phụ chỉ giáo!”
“Số Chu tám trăm, nghĩa là vận khí của Chu thất chỉ có tám trăm năm. Đỏ tận đen xuất, ý nói vận khí của Chu thất đã tận, Đại Tần sẽ hưng!”
Doanh Tứ có vẻ chưa thực hiểu: “Nhi thần ngu muội, mong quân phụ nói rõ!”
“Tứ Nhi có biết tại sao Đại Tần ta lại lấy màu đen là quốc sắc hay không?”
“Tần là đức Thuỷ, Thuỷ có màu đen, vì vậy tiên tổ mới lấy màu đen làm quốc sắc.”
“Đúng vậy!” Hiếu Công gật đầu. “Nhà Thương là đức Mộc, quốc sắc là màu xanh. Nhà Chu là đức Hoả, quốc sắc là màu đỏ. Tần là đức Thuỷ, quốc sắc là màu đen. Trời cao tạo vật, khiến ngũ hành tương khắc. Khắc Mộc là Hoả, khắc Hỏa là Thuỷ, tức là Chu thay thế Thương, cuối cùng Tần sẽ thay thế Chu. Đó gọi là đỏ tận đen xuất. Vận số tám trăm năm của nhà Chu, đến nay đã được hơn bảy trăm năm. Nói cách khác, không quá trăm năm nữa, vận số nhà Chu sẽ tận! Liệt quốc trong thiên hạ, duy chỉ nước Tần ta có thể thay thế nhà Chu. Đây không phải ý ta, mà là ý trời!”
Doanh Tứ hít ngược một hơi khí lạnh, lặng đi một hồi lâu mới nói: “Công phụ…”
“Tứ Nhi, vương nghiệp này, đáng tiếc quả nhân đã bất lực, chỉ còn biết trông đợi vào con! Liệt tổ liệt tông cũng chỉ có thể trông đợi vào con!”
Doanh Tứ xúc động: “Công phụ, nhi thần nhất định không phụ thiên mệnh, chấn hưng Đại Tần, thống trị thiên hạ!”
Hiếu Công thở hắt ra một hơi dài, khẽ gật đầu: “Tứ Nhi, đây là thiên cơ, tuyệt đối không được để lộ cho ai biết. Nếu để các nước biết được, chắc chắn sẽ hợp sức phạt ta, đại hoạ ắt đến!”
“Nhi thần đã hiểu!”
“Băng dày ba thước, đâu phải do lạnh một ngày. Vương nghiệp cũng vậy, đâu phải một sớm một chiều mà thành tựu. Tứ Nhi, con hãy cất giữ hộp này, thờ cúng cẩn thận, chỉ được truyền lại cho thái tử kế vị.”
“Nhi thần xin nghe theo lời công phụ!”
“Tứ Nhi, thống trị thiên hạ, nhất thống lục hợp là sứ mệnh mà trời cao giao cho Đại Tần ta, là mệnh trời! Làm trái mệnh trời, trời không dung tha! Mong con luôn tự mình răn đe, không được một ngày xao nhãng!”
“Nhi thần xin ghi nhớ!”
Hiếu Công từ từ khép mắt lại, tựa như muốn ngủ. Doanh Tứ thu lấy hộp đá, thận trọng cất vào mật thất trong điện Di Tình. Thấy Hiếu Công muốn ngủ, Doanh Tứ đang định rời đi, thì Hiếu Công bỗng lại lên tiếng gọi khẽ: “Tứ Nhi!”
“Công phụ, có nhi thần!”
“Tân pháp là cái gốc hưng Tần, tuyệt đối không được phế bỏ!”
Doanh Tứ trịnh trọng gật đầu: “Nhi thần xin ghi tạc trong tim!”
“Tân pháp đã không thể phế, Tứ Nhi chắc đã biết phải đối đãi với Thương Quân thế nào?”
Doanh Tứ trầm tư hồi lâu: “Công phụ, không có Thương Quân sẽ không có tân pháp. Nhi thần nếu đã lấy tân pháp làm cái gốc hưng Tần, ắt phải dùng lễ quốc phụ để đối đãi với Thương Quân!”
Hiếu Công im lặng một hồi lâu, rồi chậm rãi hỏi: “Tứ Nhi, con có hiểu Thương Quân chăng?”
Doanh Tứ lắc đầu: “Nhi thần không hiểu!”
Hiếu Công hỏi: “Thương Quân dâng tấu, con có dám không nghe?”
“Nhi thần không dám!”
“Thương Quân miễn nhiệm quan viên, hưng binh chinh phạt, con có dám không nghe?”
Doanh Tứ không nói lời nào, một lúc sau mới lắc đầu.
Hiếu Công không hỏi nữa, từ từ khép mắt lại. Một lát sau, lại mở mắt ra, ngoảnh nhìn lồng chim treo bên cạnh, chăm chú nhìn ba con chim vàng anh nhảy nhót bên trong.
Doanh Tứ cũng nhìn theo, nhưng không hiểu ý.
Hiếu Công lại từ từ khép mắt lại, miệng ngâm:
Vàng anh bay qua lại,
Sà đậu xuống cành gai.
Theo Mục Công là ai?
Chàng Tử Xa Yêm Tức.
Mà đây chàng Yêm Tức,
Trội hơn cả trăm người.
Huyệt mộ vừa tới nơi,
Đã rụng rời kinh hãi.
Này cao xanh kia hỡi,
Nỡ giết người hiền lương?
Nếu như chuộc được chàng,
Đổi trăm thân chẳng tiếc!

Ngâm đến đoạn này, khoé mắt Hiếu Công ứa hai hàng lệ.
Đây là một bài thơ thuộc “Tần phong” trong “Thi”, Doanh Tứ từ nhỏ đã thuộc lòng, liền nối giọng ngâm tiếp:
Vàng anh bay qua lại,
Sà đậu xuống cành dâu.
Theo Mục Công ai đâu?
Chàng Tử Xa Trọng Hàng.
Mà chàng Trọng Hàng đấy,
Sức chống nổi trăm người.
Huyệt mộ vừa tới nơi,
Đã rụng rời kinh hãi.
Này cao xanh kia hỡi,
Nỡ giết người hiền lương?
Nếu như chuộc được chàng,
Đổi trăm thân chẳng tiếc!
Vàng anh bay qua lại,
Đậu xuống bụi gai rừng.
Ai theo với Mục Công?
Chàng Tử Xa Kiềm Hổ.
Mà đây chàng Kiềm Hổ,
Sức địch nổi trăm người.
Huyệt mộ vừa tới nơi,
Đã rụng rời kinh hãi.
Này cao xanh kia hỡi!
Sao giết người hiền lương.
Nếu như chuộc được chàng,
Đổi trăm thân chẳng tiếc.(1)

Giọng Hiếu Công càng thêm chậm chạp: “Tứ Nhi, ba con chim kia tuy tốt đẹp, nhưng lại là vật của quả nhân. Chúng hiểu quả nhân, quả nhân cũng hiểu chúng. Không có quả nhân, con sẽ không thể nuôi được. Quả nhân sắp phải ra đi, con lại không thể nuôi được, vậy hãy để chúng đi theo quả nhân!”
Doanh Tứ khóc mà gọi: “Công phụ…”
“Tứ Nhi, nghe nói con đang nuôi Tiểu Hắc Điêu, có chuyện này chăng?”
Doanh Tứ gật đầu.
“Phải nuôi cho thật tốt! Chỉ có chính tay con nuôi, con mới hiểu được chúng, chúng cũng mới hiểu được con. Hai bên hiểu nhau, mới có thể mưu việc lớn!” Hiếu Công nói xong, hai mắt từ từ khép lại.

Mặt trời đã lặn về tây, Tần cung dần chìm vào bóng tối.
Vào giờ Nhân định, trong cung vang vọng tiếng chuông tang. Lát sau, nhạc tang tấu lên, tiếng khóc than rền rĩ.
Vào giờ Thìn hôm sau, Doanh Kiền, thái phó đương triều của nước Tần, một trong tam công của Tần, cũng chính là em ruột của Tần Hiếu Công tuyên bố chiếu thư Hiếu Công truyền vị, thái tử nước Tần là Doanh Tứ kế vị, sử gọi là Huệ Văn Công.
Trong ngày Huệ Văn Công kế vị, ngay trong buổi chầu đầu tiên đã hạ liên tiếp hai đạo chiếu thư, một là bái Công Tôn Ưởng làm quốc phụ, hai là tuyên bố khôi phục chức tước cho mười ba thành viên cựu đảng gồm Công Tôn Giả, Đỗ Chí…
Hai chiếu thư được phát đi cùng lúc, khiến liệt quốc một phen chấn động.
Tại An Ấp nước Ngụy, thượng đại phu Trần Chẩn nhận được cấp báo, vội vào cung Ngụy, khấu kiến Ngụy Huệ Vương, kể lại toàn bộ sự biến trong cung Tần.
Ngụy Huệ Vương dường như không dám tin vào tai mình: “Ái khanh nói, Doanh Cừ Lương đã… đã chết rồi?”
Trần Chẩn khẽ bẩm: “Hồi bẩm bệ hạ, đúng vậy! Vi thần nhận được mật báo, Tần Công vừa băng hà vào tối qua, thụy hiệu Hiếu Công. Thái tử Doanh Tứ giờ Thìn hôm qua đã lên kế vị!”
“Doanh Tứ?” Ngụy Huệ Vương lặp lại, trầm ngâm một lúc, rồi ngẩng đầu nói. “Quả nhân nghe nói kẻ này không có chí tiến thủ, có chuyện đó chăng?”
“Lời bệ hạ chính phải!” Trần Chẩn đáp. “Theo vi thần được biết, Doanh Tứ trước khi kế vị, suốt ngày chỉ lêu lổng chơi bời với đám công tử, nào đi săn, nào chọi gà chọi dế, rất ít khi ngó ngàng đến chính sự, chỉ là phường giá áo túi cơm.”
“Than ôi!” Ngụy Huệ Vương thở dài. “Doanh Cừ Lương cả đời háo cường, không ngờ lại sinh ra một đứa con như vậy, ông trời cũng thật công bằng! Xem ra Hà Tây của quả nhân phải lấy lại từ trong tay kẻ này! Công Tôn Ưởng hiện giờ thế nào?”
“Khi Doanh Tứ kế vị, đã bái Công Tôn Ưởng làm quốc phụ ngay trên điện, chính sự nhất nhất nghe theo hắn!”
Ngụy Huệ Vương khẽ gật đầu: “Ừm, tên này miệng còn hơi sữa, làm thế cũng là khó tránh! Có điều… còn Công Tôn Ưởng, quả nhân muốn lấy lại Hà Tây cũng chẳng phải dễ dàng!”
“Bệ hạ, Doanh Tứ còn cùng lúc hạ chiếu thư, khôi phục chức tước cho bọn Công Tôn Giả, Đỗ Chí, hiện giờ nước Tần cả tân đảng và cựu đảng đều có mặt trong triều, không còn như trước đây, một mình Công Tôn Ưởng thao túng!”
“Ồ?” Ngụy Huệ Vương tựa như vừa đánh hơi thấy điều gì, trầm tư hồi lâu, rồi ngẩng nhìn Trần Chẩn, giọng nói sang sảng, tinh thần phấn chấn. “Tần Công băng hà, tân quân kế vị, đây cũng được coi là việc lớn của liệt quốc, quả nhân không thể không lên tiếng. Quả nhân bận rộn quốc sự, không thể đích thân đi được, làm phiền ái khanh vất vả một phen, thay quả nhân đến phân ưu và chúc mừng, vẹn toàn lễ nghĩa!”
“Vi thần tuân chỉ!”
“Nên phân ưu thế nào, nên chúc mừng thế nào, hẳn ái khanh đã biết?”
“Khởi bẩm bệ hạ, vi thần đã có chủ ý!”
“Vậy thì tốt!” Ngụy Huệ Vương vô cùng phấn chấn. “Tân quân trọng dụng cựu đảng, triều Tần lần này quả là náo nhiệt. Ái khanh, đây chính là một màn kịch lớn, quả nhân có thể lấy lại Hà Tây hay không, đều dựa vào khanh!”
Trần Chẩn bái lạy: “Vi thần sẽ tận tâm tận lực, không phụ sứ mệnh!”

Điện Di Tình được Huệ Văn Công dùng làm linh đường của Hiếu Công, trong đường ánh nến sáng rực, linh cữu Hiếu Công đặt ở chính giữa.
Huệ Văn Công thân mặc hiếu phục, một mình quỳ trước linh đường, hầu bên cạnh là công tử Hoa.
Bên cạnh linh cữu treo một lồng chim, trong lồng là ba con chim vàng anh chuẩn bị mang tuỳ táng.
Hai mắt Huệ Văn Công nhìn chằm chằm vào lồng chim, miệng khẽ ngâm nga:
Vàng anh bay qua lại,
Sà đậu xuống cành gai.
Theo Mục Công là ai?
Chàng Tử Xa Yêm Tức.

Huệ Văn Công tuy ngoài miệng ngâm nga, nhưng đầu óc lại rối bời. Thay triều đổi đại, muôn việc bộn bề, nhưng việc nào lớn, việc nào nhỏ, việc nào gấp, việc nào thư, nhất định phải sắp đặt chu toàn.
Hiện tại, việc lớn nhất, gấp nhất, chính là ba con chim trong lồng kia. Tiên quân chỉ nói mang chúng theo, nhưng chúng là ai, mang theo bằng cách nào, tiên quân lại chẳng hé lộ nửa lời. Con chim thứ nhất, trong lòng Huệ Văn Công đã rõ. Còn hai còn nữa, lẽ nào là Xa Anh và Cảnh Giám? Nếu đúng là hai người họ, cũng đồng nghĩa với việc tuyên bố với toàn dân, biến pháp đã sai lầm, như vậy sẽ khiến biến pháp lung lay từ gốc, không hợp với ý nguyện của tiên quân. Hơn nữa, hai người đó có xứng được gọi là vàng anh chăng? Một người là thượng đại phu, một người là quốc uý, xét về cấp bậc, hai người họ chẳng qua chỉ là thuộc hạ của Thương Quân, không có Thương Quân, cũng không có họ. Nếu không phải họ, vậy hai con chim còn lại là ai?
Huệ Văn Công nhìn trân trân vào lồng chim, vắt óc suy nghĩ.
Đột nhiên, một tia sáng chớp loé qua trí não, khiến trước mắt như bừng tỏ, Huệ Văn Công bèn ngoảnh lại gọi: “Tiểu Hoa!”
Công tử Hoa lê gối lên trước một bước: “Chúa thượng, có thần đệ!”
“Việc Hắc Điêu đài, làm đến đâu rồi?”
“Khởi bẩm chúa thượng, thần đệ đang dốc toàn lực, hiện giờ đã có ba mươi sáu con Tiểu Điêu!”
“Tung ra toàn bộ, cơ hội luyện cánh đã đến rồi!”
“Thần đệ tuân chỉ!”
Huệ Văn Công trầm ngâm một lát: “Có biết tung đi đâu không?”
Công Tử Hoa gật đầu, đáp: “Biết! Thần đệ đã căn dặn, bảo chúng ngày đêm giám sát Công Tôn Ưởng, Xa Anh, Cảnh Giám!”
Huệ Văn Công lắc đầu.
“Chúa thượng, còn phải giám sát ai nữa?”
“Phía thái sư!”
Công Tử Hoa kinh ngạc: “Thái sư?”
“Còn nữa!” Huệ Văn Công giọng lạnh lẽo. “Số lượng Tiểu Điêu dường như vẫn hơi ít. Sớm mai, khanh hãy chọn lấy một đội từ trong thị vệ cung đình, khi nào có thời gian, lại chọn lấy một đội từ trong ba quân, nuôi khoảng dăm ba trăm con. Cũng không được chỉ có đàn ông, phải có cả đàn bà. Có thể vào trong dân gian, chọn một số kẻ tài sắc giỏi giang, nguyện hiến thân vì nước. Khanh phải nuôi dưỡng chúng thật tốt, huấn luyện chúng thành những Tiểu Hắc Điêu tai thính mắt tinh thiện chiến.” Rồi lấy ra một tấm kim bài. “Khanh hãy cầm tấm kim bài này đến quốc khố, cần bao nhiêu tiền bạc, hãy lĩnh bấy nhiêu!”
“Thần đệ lĩnh chỉ!”

Công tử Hoa ra khỏi Tần cung, lẩn vào trong một khu nhà cực kỳ kín đáo, gặp một đám người áo đen, bố trí sắp xếp một lượt. Một lát sau, đám người áo đen chia làm mấy nhóm, tản đi khắp phía.
Hai kẻ mặc áo đen vòng vèo một hồi, chẳng mấy chốc đã đến trước cổng phủ thái sư, thấy ngoài cửa đỗ rất nhiều xe ngựa, trong sân đèn nến sáng trưng, người ra kẻ vào tấp nập. Hai người khẽ gật đầu với nhau, vụt một tiếng đã bật mình lên nóc nhà, chạy dọc theo sống nóc đến dãy cuối cùng, rồi nấp vào bóng tối. Đúng vào lúc này, hai người thấy trước mặt có một bóng đèn lồng di chuyển lại gần. Là một người hầu soi đường, theo sau là một ông lão, lẩy bẩy đi vào trong sân.
Hai người mở to mắt nhìn, chính là lão thái sư Cam Long.
Cam Long chậm chạp bước đến một gian mật thất, đã có người mở sẵn cửa phòng. Thái sư tiến vào, kẻ cầm đèn đi sang phòng khác, ngồi đợi ở đó.
Hai người áo đen đã nhìn thấy tất cả, liền bật lên nóc nhà, chạy tới trước cửa sổ mật thất, dùng mũi dao chọc thủng một góc trên song cửa bịt sa, ghé mắt nhìn vào, quả nhiên trong mật thất có mấy người đang ngồi, ở hàng đầu là Công Tôn Giả và Đỗ Chí. Lúc này, tất cả mọi người đều đứng dậy, khom lưng vòng tay vái chào Cam Long. Cam Long chầm chậm bước tới vị trí chủ, khoanh chân ngồi xuống. Mọi người thấy vậy, cũng lục tục ngồi xuống theo.
Đỗ Chí khom người bẩm báo: “Lão thái sư, lúc nãy chúng tôi đã bàn bạc, sự việc không nên chậm trễ, hãy nhân cơ hội đại tang để trừ gian tặc!”
“Nhất định phải trừ!” Cam Long gật đầu. “Nhưng đại quyền quân chính đều nằm cả trong tay người này, các vị định trừ bằng cách nào?”
“Hạ quan nghĩ ra một kế, có thể trừ được gian tặc!”
Ánh mắt của Cam Long từ từ dịch chuyển sang Đỗ Chí.
“Gần đây, hạ quan đã thu nạp được mấy chục kẻ sĩ cảm tử, ai nấy võ nghệ cao cường, chỉ cần thái sư ra lệnh, thuộc hạ đảm bảo gian tặc sẽ đầu rơi xuống đất!”
Cam Long lắc đầu quầy quậy: “Bên canh Công Tôn Ưởng có ba nghìn vệ sĩ, toàn là cao thủ, phủ đại lương tạo lại là nơi phòng thủ nghiêm ngặt, các vị sao có thể hành thích?”
Đỗ Chí cười nham hiểm: “Thái sư yên tâm, hổ cũng có lúc ngủ gật. Hiện giờ hắn ở chỗ sáng, chúng ta ở chỗ tối, muốn giết hắn, lo gì không tìm được cơ hội?”
Cam Long lại lắc đầu: “Ai ở chỗ sáng, ai ở chỗ tối, không phải do các người nói suông. Công Tôn Ưởng hành sự khó lường, chắc chắn đã có phòng bị với chúng ta, chưa biết chừng xung quanh đây đã giăng đầy tai mắt của hắn. Nếu manh động, chẳng những không giết được, mà còn làm hỏng đại sự!”
Thấy lão thái sư thái độ dứt khoát, mọi người chỉ biết quay mặt nhìn nhau, không biết phải nói thế nào.
Cam Long khẽ thở dài, rồi chậm rãi nói: “Trong đầu các vị chỉ biết chém giết, chẳng thể nghĩ ra cách nào khác ư?”
Công Tôn Giả chau mày: “Phải chăng lão thái sư đã có diệu kế?”
“Các vị!” Cam Long đưa mắt nhìn khắp lượt mọi người. “Chúa tể của quân chủ là trời cao, chúa tể của bề tôi là quân chủ. Công Tôn Ưởng có được ngày hôm nay, chẳng qua chỉ dựa vào một mình tiên quân. Nếu chúng ta muốn trừ người này, nhất định phải mượn sức của chúa thượng!”
Mọi người đổ dồn ánh mắt vào Cam Long.
Đỗ Chí thoáng do dự, rồi ngẩng đầu nói: “Từ khi kế vị đến nay, chúa thượng không những không gây khó dễ Công Tôn Ưởng, ngược lại còn bái hắn làm quốc phụ, chuyện gì cũng do dự không quyết, mọi việc đều theo ý gian tặc. Xin hỏi thái sư, chúa thượng nhu nhược như vậy, chúng ta phải mượn sức thế nào đây?”
Cam Long mỉm cười: “Ông chỉ nhìn thấy cái vỏ bề ngoài! Lão hủ nhìn thấy mới là chân tướng! Không giấu các vị, hôm nay ta phụng chỉ vào cung canh giữ bên linh cữu cho tiên quân, đột nhiên nhìn thấy trước linh cữu tiên quân treo một lồng chim, bên trong có ba con vàng anh đang nhảy nhót!”
Đỗ Chí nói xen vào: “Ba con chim thì có gì đặc biệt?”
“Hừm!” Công Tôn Giả xua tay ngăn lại. “Hãy nghe thái sư nói hết!”
Cam Long nói tiếp: “Ta nhất thời nổi hứng, nên đi thăm dò tả hữu, nội thần bèn cho ta biết, ba con chim đó là vật yêu quý của tiên quân, chúa thượng muốn dùng để tuẫn táng theo tiên quân! Các vị đại nhân, mọi người có hiểu được thâm ý trong đó chăng?”
Công Tôn Giả mở miệng ngâm liền: “Vàng anh bay qua lại, sà đậu xuống cành gai. Theo Mục Công là ai? Chàng Tử Xa Yêm Tức. Mà đây chàng Yêm Tức, trội hơn cả trăm người. Huyệt mộ vừa tới nơi, đã rụng rời kinh hãi. Này cao xanh kia hỡi, nỡ giết người hiền lương? Nếu như chuộc được chàng, đổi trăm thân chẳng tiếc!…”
Công Tôn Giả còn định ngâm tiếp, Đỗ Chí đã ngắt lời: “Đây chẳng phải bài ‘Hoàng điểu’ sao, có gì hay mà ngâm? Nước Tần trên dưới ai mà chẳng thuộc vanh vách!”
Cam Long gật đầu: “Đúng thế, đúng là ai cũng có thể đọc thuộc bài này, nhưng e rằng chẳng có mấy người hiểu được thâm ý bên trong. Công Tôn đại nhân có thể nói qua điển cố của bài thơ này chăng?”
Công Tôn Giả cao giọng nói: “Ngày trước Mục Công băng hà, có một trăm bảy mươi bảy người phải chôn sống để tuẫn táng, đứng ở hàng đầu là ba người con trai của họ Tử Xa. Ba người con trai họ Tử Xa đều chinh chiến vì Mục Công, lập được vô số công lao hiển hách. Họ có công mà phải chết, người Tần không ai không thương xót, nên đã viết ra bài thơ ‘Hoàng điểu’ để tưởng nhớ!”
Đỗ Chí bừng tỉnh: “Nói như vậy, ba con chim trước linh cữu của tiên quân, lẽ nào lại là…”
Công Tôn Giả lắc lư cái đầu: “Nếu tại hạ đoán không lầm, ba con chim đó chính là Công Tôn Ưởng, Cảnh Giám và Xa Anh!”
Cam Long nở một nụ cười âm trầm: “Hiểu được thì tốt. Chúa mới kế vị, cựu thần công cao mà không lui, đó là đại kỵ. Công Tôn Ương cả đời anh minh, nhưng vào thời khắc then chốt lại hồ đồ, thật là trời giúp ta!”
“Thế nhưng…” Đỗ Chí lại cắt ngang, “hiện nay đã không giống với thời Mục Công, nếu Công Tôn Ưởng không có hai lòng, chúa thượng cũng không thể vô cớ sát hại công thần được!”
“Lời của Đỗ đại nhân rất đúng!” Cam Long gật gù. “Sở dĩ lão hủ gọi các vị đến, cũng chính là để bàn chuyện này!” Đúng vào lúc này, lão quản gia gõ cửa bước vào, đi thẳng tới bên cạnh Cam Long, ghé sát tai thì thầm mấy câu. Cam Long sững người, lập tức đứng dậy nói: “Các vị đợi ở đây, ta sẽ quay lại ngay!”
Cam Long vội vàng cùng lão quản gia đi đến dãy nhà phía trước. Đây là chính đường trong phủ thái sư, khách lớn khách bé, tất cả đều được tiếp đón tại đây.
Trong chính đường có một người đang ngồi ngay ngắn, chính là Trần Chẩn.
Trần Chẩn nghe tiếng bước chân từ bên ngoài vọng vào, biết là thái sư đã đến, liền đứng dậy đi ra cửa, khom người đợi sẵn.
Lão quản gia chỉ vào Trần Chẩn: “Chúa công, chính là người này!”
Cam Long nhìn kỹ Trần Chẩn một lượt, nhưng không nhận ra là ai, liền băn khoăn hỏi: “Tiên sinh đây là…”
Trần Chẩn mỉm cười, vái sâu một vái: “Thượng đại phu nước Ngụy Trần Chẩn xin chào thái sư!”
Nghe thấy hai chữ “Trần Chẩn”, Cam Long vô cùng chấn động, đờ ra một thoáng mới vòng tay đáp lễ: “Lão hủ không biết thượng đại phu ghé thăm, không nghênh đón từ xa!” Rồi chỉ tay vào phòng khách. “Thượng đại phu, mời!”
Trần Chẩn đưa tay mời lại: “Thái sư, mời!”
Hai người vào phòng, chia ngôi chủ khách ngồi xuống.
Cam Long lại vòng tay: “Lão hủ chưa từng gặp thượng đại phu, nhưng đã nghe đại danh của thượng đại phu từ lâu. Hôm nay được gặp, quả thực hân hạnh!”
Trần Chẩn cười nói: “Trần Chẩn ngưỡng mộ uy danh của thái sư đã lâu, từ lâu đã mong được bái kiến, cuối cùng cũng có được cơ duyên. Lần này Trần Chẩn phụng chiếu đến Tần, nên mới có cơ hội đến thăm, mong được thái sư chỉ bảo!”
“Thượng đại phu không quản quý thể vất vả, nửa đêm hạ cố đến hàn xá, quả thực khiến lão hủ vô cùng áy náy!”
Lúc đó, tỳ nữ bưng khay vào, bày trà lên bàn. Cam Long đích thân rót một chén, hai tay bưng mời Trần Chẩn: “Thượng đại phu, mời dùng trà!”
Trần Chẩn hai tay nhận lấy, nhấp một ngụm, gật gù: “Trà của thái sư, quả nhiên khác hẳn trà của đại lương tạo!”
Cam Long thấy đối phương đã nói vào đề, bèn tiếp lời: “Nói vậy, chắc thượng đại phu đã uống qua trà của đại lương tạo?”
Trần Chẩn cười nói: “Cũng đã uống được mấy lần!”
“Ồ, mùi vị thế nào?”
Trần Chẩn tấm tắc: “Chua cay đắng mặn ngọt, năm vị đủ cả, mỗi lần uống đều khiến người ta sục sôi trong dạ!”
“Quả là trà ngon! Dám hỏi thượng đại phu, trà của lão hủ thế nào?”
“Trà của thái sư, thanh nhã mộc mạc, thật dễ uống, có điều mùi vị của trà… dường như hơi nhạt một chút!”
Cam Long trầm tư hồi lâu: “Lão hủ ngu muội, có lòng muốn khiến trà hội đủ năm vị, nhưng không biết phải làm thế nào, mong thượng đại phu chỉ giáo.”
“Theo thiển ý của Trần Chẩn, lão thái sư chỉ cần thêm vào một vị, thì có thể vượt qua trà của đại lương tạo.”
Cam Long ngẫm nghĩ một lát, rồi chậm rãi đứng dậy, vòng tay vái Trần Chẩn mà nói: “Xin thượng đại phu chỉ giáo!”
Trần Chẩn đứng dậy, đi tới cạnh Cam Long, ghé sát tai thì thầm một hồi, Cam Long gật đầu tới tấp, hết lời khen ngợi: “Vị mà thượng đại phu thêm vào, quả là cay hiểm. Nếu dâng trà này cho đại lương tạo, chắc chắn cũng khiến hắn ta sục sôi trong dạ!”
“Có điều… để ai dâng trà, lão thái sư đã có tính toán chưa?”
“Thượng đại phu yên tâm, dưới tay lão hủ đây không thiếu người dám chết.”
Trần Chẩn mỉm cười nói: “Thái sư quá lời! Để ai dâng trà, chỉ cần xem có thích hợp hay không, chứ không phải có dám chết hay không!”
Cam Long gật đầu khen ngợi: “Phải! Lời của thượng đại phu rất chí lý!”
“Nếu lão thái sư không chê, Trần Chẩn có một người rất thích hợp.”
“Người nào?”
“Môn khách của Công Tôn Ưởng!”
Cam Long kinh ngạc: “Chuyện này… sao có thể được?”
Trần Chẩn mỉm cười: “Lão thái sư, trong thiên hạ không có việc gì không làm được!” Rồi quay ra chỗ tối bên ngoài cửa, vỗ tay ba tiếng, thình lình một bóng người lao đánh vụt vào trong. Cam Long thất kinh, suýt nữa thì ngã ngửa ra đất.
Trần Chẩn vội đỡ Cam Long, quát mắng kẻ mới lao vào: “Chu đại hiệp, còn không bái kiến lão thái sư?”
Kẻ này vội dập đầu sát đất: “Chu Đà bái kiến thái sư!”

Cũng vào lúc này, công tử Hoa đích thân dẫn theo một người áo đen đột nhập vào phủ Thương Quân. Phủ Thương Quân canh gác nghiêm ngặt, nhưng vì hai người thông thạo đường lối nên chẳng mấy chốc đã lẻn vào được đến chính sảnh nơi Công Tôn Ưởng xử lý chính sự.
Công Tôn Ưởng, quốc úy Xa Anh, thượng đại phu Cảnh Giám thân mặc hiếu phục, ngồi yên lặng trước bàn, sắc mặt nghiêm trang.
Ngồi được một lúc, Công Tôn Ưởng đặng hắng một tiếng, rồi mở mắt nhìn Cảnh Giám: “Cảnh huynh, tiên quân nhập quan đã được một tuần, liệt quốc có phái sứ thần đến viếng chưa?”
Cảnh Giám ngẩng lên đáp: “Đã có mấy nước phái sứ thần đến. Sứ thần của các nước còn lại hẳn cũng đang trên đường.”
“Ồ, những người đã đến là ai?”
“Nghĩa Cừ Quân đích thân tới, nước Hàn, nước Triệu phái thái tử. Còn Tề, Sở, Yên, Vệ, Lỗ, Tống, và thêm hai nước Ba, Thục, do đường xa nên sứ thần đang trên đường. Còn về việc cử người nào đến, hạ quan vẫn chưa biết!”
“Ngụy Vương có phái sứ thần đến không?”
“Đến rồi, là thượng đại phu Trần Chẩn. Người này đến vào trước lúc hoàng hôn, hạ quan vẫn chưa nhận được danh thiếp của ông ta, nên vẫn chưa liệt kê vào!”
Công Tôn Ưởng quyết đoán: “Tiên quân băng hà, chúa thượng mới kế vị, lòng người trong nước hoang mang, nếu liệt quốc muốn đánh Tần, thời gian để tang chính là cơ hội tốt nhất. Chúng ta nhất thiết phải đề cao cảnh giác, thận trọng bang giao, không được hồ đồ, khiến chúa thượng thêm bấn loạn!”
Cảnh Giám gật đầu.
Công Tôn Ưởng quay sang Xa Anh: “Quốc uý đại nhân, hãy phái người tức tốc tới Hà Tây, Thương Ư, truyền lệnh cho quận thú Hà Tây Tư Mã Thác, quận thú Thương Ư Sư Lý Tật, căn dặn họ trong thời gian để tang, binh không cởi giáp, ngựa không tháo yên, cẩn thận đề phòng quân Ngụy, Sở!”
Xa Anh đáp lời: “Hạ quan tuân lệnh! Hạ quan còn có chuyện khác muốn bẩm báo!”
“Cứ nói!”
“Theo hạ quan được biết, mấy ngày nay, cựu đảng liên tục ra vào phủ thái sư, chắc chắn là có mưu đồ!”
Công Tôn Ưởng gật đầu: “Ta biết rồi!”
Cảnh Giám tiếp lời: “Thương Quân! Cựu đảng đối địch với tân pháp, hiện giờ đã hồi phục thế lực, chúng ta nên chuẩn bị mới đúng!”
Xa Anh cũng lên tiếng: “Hạ quan cho rằng, việc cấp bách hiện giờ là sự an toàn của Thương Quân. Đám người này tích hận quá sâu, hạ quan được biết, Đỗ Chí đã chiêu mộ được một đám người cảm tử, ngày đêm huấn luyện, hạ quan lo họ sẽ giở trò!”
Công Tôn Ưởng xua tay: “Hai người đã vất vả cả ngày, cũng nên về nghỉ sớm đi!”
Cảnh Giám, Xa Anh ngẩn ra, rồi khom lưng cáo từ.
Công Tôn Ưởng đưa mắt nhìn theo hai người ra khỏi cửa, rồi nhắm mắt lại, khẽ thở dài, tự nhủ thầm: “Than ôi, các người đâu có biết, thứ làm khuấy động sóng gió lúc này, phải đâu là vài con ếch?”
Công Tôn Ưởng ngồi thêm một lúc, mới đứng dậy đi vào thư phòng.
Công tử Hoa hiểu rõ thói quen của Công Tôn Ưởng, biết rằng ông ta đi xử lý công vụ, nên lập tức rút đi.

Sáng sớm hôm sau, trong điện Di Tình, ba con chim vàng anh vẫn nhảy nhót ríu rít trước linh cữu của Tần Hiếu Công. Công tử Hoa đi vào trong điện, đứng sau Huệ Văn Công, khẽ gọi: “Chúa thượng!”
Huệ Văn Công không nhúc nhích.
Công tử Hoa khựng lại một thoáng, rồi quỳ xuống dập đầu: “Chúa thượng, thần đệ Tiểu Hoa có việc quan trọng cần bẩm báo!”
Huệ Văn Công từ từ quay người lại.
“Đám cựu đảng gồm Công Tôn Giả, Đỗ Chí đã đến phủ thái sư bàn cách hãm hại Thương Quân. Thần đệ được biết, Đỗ Chí đã chiêu mộ được mấy chục tử sĩ, đang huấn luyện nghiêm mật trong cánh rừng già phía bắc thành Hàm Dương.”
Huệ Văn Công nói: “Biết rồi!”
“Còn nữa, tối qua vào giờ Nhân định, thượng đại phu nước Ngụy là Trần Chẩn đã ghé thăm phủ thái sư! Một canh giờ sau, lão thái sư đích thân tiễn ông ta ra về, mối quan hệ giữa hai người thực không phải bình thường.”
Huệ Văn Công cảm thấy hiếu kỳ: “Ồ, hắn đến làm gì?”
“Mới đầu nói dăm chuyện tầm phào, sau đó hai người thì thầm gì đó một lúc, rồi Trần Chẩn vỗ tay, một kẻ áo đen từ ngoài cửa lao vào, bái kiến thái sư.”
Huệ Văn Công ngẩng lên hỏi dồn: “Kẻ đó là ai?”
“Là môn khách trong phủ Thương Quân, tên gọi Chu Đà.”
Huệ Văn Công chìm vào suy tư, một lúc sau, dường như đã ngộ ra điều gì, bèn chậm rãi bật ra hai chữ: “Theo dõi!”
“Thần đệ tuân chỉ!”
“Phía phủ Thương Quân có động tĩnh gì không?”
“Trong phủ Thương Quân, tất cả đều bình thường, Thương Quân vẫn bận rộn quốc sự như thường ngày. Tối hôm qua, Xa Anh và Cảnh Giám biết được cựu đảng rục rịch, đến nhắc nhở Thương Quân cảnh giác, nhưng Thương Quân không có hành động gì.”
Huệ Văn Công thoáng kinh ngạc: “Ồ, ông ta đã biết, tại sao lại không hành động?”
“Thần đệ cũng lấy làm lạ. Tối qua, thần đệ tận tai nghe thấy Thương Quân giao việc Hà Tây, Thương Ư cho Xa Anh, vì lo Ngụy, Sở sẽ nhân lúc để tang mà tấn công ta!”
Huệ Văn Công gật đầu, chậm rãi nói: “Biết rồi!”
Công tử Hoa khấu lạy: “Thần đệ cáo lui!”
Công tử Hoa đứng dậy lui ra. Huệ Văn Công nhìn theo bóng công tử Hoa, sau đó quay sang nhìn lồng chim, thần sắc hoang mang.

Đêm hôm đó, trong phủ thái phó, Doanh Kiền đang ngồi đọc sách trước bàn, chợt nghe thấy ngoài cửa sổ có tiếng động lạ.
Doanh Kiền kinh sợ quát hỏi: “Ai?”
Lời chưa dứt, từ ngoài cửa sổ, một mũi phi tiêu phóng vụt vào trong. Doanh Kiền là người luyện võ, lập tức cúi đầu né tránh. Mũi phi tiêu bay vèo qua đỉnh đầu, cắm phập vào cột gỗ sơn son phía sau.
Doanh Kiền giật bắn mình, vội vàng lao người nằm phục xuống đất, ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy phía ngoài cửa sổ có một bóng người vụt qua, sau đó là tiếng bước chân bỏ chạy. Doanh Kiền không kịp nghĩ ngợi, vội vàng đứng dậy hô lớn: “Có thích khách!” Rồi nhảy bật tới bên tường, lấy bảo kiếm xuống, mở cửa chạy ra.
Gia đinh nghe thấy tiếng hô, ào ào chạy đến. Có vẻ như thích khách bị lạc đường, nên cứ chạy loanh quanh trong viện, nhanh chóng bị gia đinh vây kín. Thích khách thấy không còn đường thoát thân, đành bó tay chịu trói.
Doanh Kiền dẫn thích khách vào hình thất, chưa kịp dùng hình thì thích khách đã cung khai tuốt tuột. Doanh Kiền tỉ mỉ hỏi cung, thấy sự việc nghiêm trọng, nên vội vàng dẫn thích khách vào cung ngay trong đêm.
Huệ Văn Công đang canh bên linh cữu, thấy Doanh Kiền vội vàng đi vào, biết rằng có chuyện chẳng lành, bèn hỏi: “Công thúc? Muộn thế này rồi…”
“Có người muốn hành thích vi thần, nhưng đã bị vi thần bắt được!”
Huệ Văn Công kinh ngạc hỏi: “Ồ, kẻ nào mà to gan đến vậy, dám hành thích cả công thúc?”
“Vi thần đã điều tra rõ, thích khách tên gọi Chu Đà, là một kiếm khách, hiện là môn khách dưới trướng Công Tôn Ưởng, phụng mệnh Công Tôn Ưởng đến hành thích vi thần. Thần còn điều tra rõ, trong danh sách hành thích của Công Tôn Ưởng tổng cộng có mười bốn người, vi thần đứng đầu trong số đó. Đây là lời khai của Chu Đà, đây là danh sách của Công Tôn Ưởng, trong đó có thái sư Cam Long, Công Tôn Giả, Đỗ Chí… Tất cả đều là cựu đảng!”
Doanh Kiền nói đoạn, hai tay trình lên tờ danh sách viết trên da dê và một bản cung khai.
Huệ Văn Công nhớ lại chuyện Chu Đà mà công tử Hoa đã bẩm báo lúc sáng, trong bụng đã rõ mười mươi, nhưng không để lộ ra mặt, chỉ nhận lấy tờ danh sách, đọc kỹ một lượt rồi khẽ gật đầu: “Đây đều là thế tộc, hẳn đều là kẻ thù của Thương Quân. Nhưng sau này công thúc đã tán thành biến pháp, tại sao Thương Quân còn ra tay với công thúc?”
“Vi thần cũng không rõ. Có lẽ người này sợ vi thần sẽ báo mối hận xẻo mũi năm xưa, nên đã ra tay trước!”
Huệ Văn Công ngẫm nghĩ một chốc rồi hỏi: “Chu Đà có ở đây không?”
“Đưa hắn lên!”
Hai thị vệ bèn áp giải Chu Đà vào trong.
Huệ Văn Công quan sát một lượt, thấy hắn hai chân run rẩy, đã biết là hạng ham sống sợ chết, nên không thèm hỏi, lập tức ra lệnh: “Lôi ra, tống vào đại lao!”
Thị vệ kéo Chu Đà ra ngoài, nhốt vào đại lao.
Huệ Văn Công suy nghĩ một lúc, nói: “Công thúc, Thương Quân là công thần của nước Tần, lại được phó thác trọng trách, tiên đế trước lúc lâm chung đã dặn quả nhân bái Thương Quân làm quốc phụ. Hiện giờ quả nhân chân đứng chưa vững, việc này không được tiếp tục điều tra, đến đây là chấm dứt!”
Doanh Kiền vội nói: “Đúng là Công Tôn Ưởng có công với Tần, nhưng ông ta cậy công hống hách, mang kiếm lên triều, mấy năm gần đây lại nuôi hàng trăm môn khách, đi thì ba nghìn giáp sĩ bảo vệ, ở thì gọi bầy kéo lũ, trong triều lại không dung ý kiến khác mình, triều thần ai không hợp ý, đều bị gán tội chống đối tân pháp. Kẻ ngông cuồng ngang ngược đến vậy, làm sao có thể cam chịu đứng dưới người khác? Lúc tiên quân tại thế, kẻ này hoặc giả còn biết e dè. Nay tiên quân đã khuất, vi thần lo rằng kẻ này sẽ sinh hai lòng. Tục ngữ có câu, phòng hoả khi chưa bén lửa, xin chúa thượng hãy quyết đoán, nhân cơ hội này diệt trừ hậu hoạ!”
“Công thúc tạm thời hãy về nghỉ ngơi, sau khi quả nhân điều tra rõ việc này, sẽ bàn tiếp.”
Lời vừa dứt, trong cung đột nhiên có tiếng người khóc lóc ồn ào.
Nội thần vội chạy vào bẩm báo: “Chúa thượng! Lão thái sư, Đỗ đại nhân, Công Tôn đại nhân và những người khác cùng vào cung, kêu khóc huyên náo, nhất định đòi gặp mặt chúa thượng!”
Huệ Văn Công nói: “Truyền!”

Buổi tối hôm đó, đúng là hôm Cảnh Giám trực trong cung, biết được sự tình, liền vội vàng đến phủ Thương Quân, thấy Công Tôn Ưởng chưa ngủ, vẫn đang duyệt đọc công văn. Xa Anh cũng có mặt, trên danh nghĩa là bẩm báo việc quân, nhưng thực chất là lo lắng cho sự an nguy của Công Tôn Ưởng, nên kiếm cớ đến bảo vệ.
Thấy Cảnh Giám sắc mặt hoảng hốt, Công Tôn Ưởng ngạc nhiên hỏi: “Cảnh huynh, có chuyện gì mà kinh sợ làm vậy?”
Cảnh Giám thở phì phò: “Thái phó, thái sư tố cáo Thương Quân tội mưu phản, hiện đang gây náo loạn trong cung!”
Công Tôn Ưởng kinh ngạc: “Mưu phản?”
“Thái phó bắt được một tên thích khách, nói là môn nhân Chu Đà của Thương Quân. Thái phó tìm ra một bản danh sách trên người hắn, liệt kê toàn người cựu đảng. Chu Đà nói, danh sách là do Thương Quân đưa cho hắn. Cam Long và những kẻ trong cựu đảng biết tin, liền vào trong cung, khóc lóc ồn ào, nói là Thương Quân muốn diệt sạch những người chống đối, đuổi cùng giết tận bọn họ!”
Xa Anh nắm tay đấm mạnh xuống bàn: “Cái gì mà mưu phản? Bè lũ quý tộc rắp tâm vu oan giá hoạ, rõ ràng chính chúng mới định làm phản! Thương Quân, hãy mau xuống lệnh, Xa Anh sẽ đi bắt hết chúng lại, là thật là giả, thẩm vấn sẽ biết ngay!”
Công Tôn Ưởng đầu mày nhíu chặt, quay sang nhìn Cảnh Giám: “Chúa thượng nói thế nào?”
Cảnh Giám lắc đầu: “Khi hạ quan xuất cung, họ vẫn đang khóc lóc. Chúa thượng trước nay luôn đứng về phía bọn người này, lần này Thương Quân ắt gặp bất lợi. Theo ý hạ quan, Thương Quân hãy đi lánh nạn một thời gian, đợi sau khi chân tướng phơi bày, chúa thượng tất sẽ gọi về!”
Công Tôn Ưởng suy nghĩ một lúc, rồi hỏi: “Lánh đi đâu được?”
“Thương Ư! Đó là đất phong của Thương Quân, nơi đó núi cao đường hiểm, quận thú lại là Sư Lý Tật, tuyệt đối an toàn. Hạ quan cho rằng, Thương Quân hãy lấy danh nghĩa đi tuần sát quân vụ, khởi hành ngay trong đêm nay. Nếu chúa thượng có hỏi, cứ để hạ quan ứng phó!”
Công Tôn Ưởng suy nghĩ một hồi lâu, rồi khẽ lắc đầu: “Không cần đâu!”
Cảnh Giám vội nói: “Nếu không đi, e rằng muộn mất!”
“Kẻ thực sự muốn lấy mạng Công Tôn Ưởng, không phải đám quý tộc kia, mà là ông trời. Trời muốn ta chết, ta biết trốn đi đâu?”
Cảnh Giám kinh ngạc: “Ý Thương Quân là…”
Công Tôn Ưởng thần sắc ủ ê, lắc đầu ngao ngán: “Hơn nữa, nếu tại hạ không đi, vẫn còn được tiếng đường đường chính chính. Còn nếu bỏ đi, thì chẳng khác nào tự nhận mình mưu phản!”
Nghe Công Tôn Ưởng nói vậy, Cảnh Giám cũng cảm thấy sự việc nghiêm trọng, nhất thời không biết nói gì.

Trong phòng thẩm vấn ở đại lao, Huệ Văn Công sắc mặt âm trầm, ngồi ngay ngắn, công tử Hoa và mấy kẻ áo đen đứng ở hai bên. Một lát sau, hai kẻ áo đen lôi Chu Đà vào hình thất.
Công tử Hoa quát lớn: “Chu Đà, có biết ai thẩm vấn ngươi không?”
Chu Đà ngẩng nhìn, rồi dập đầu sát đất: “Chu Đà khấu kiến chúa thượng!”
Huệ Văn Công cười nhạt, hỏi: “Chu Đà, ngươi biết tội chưa?”
“Tiểu nhân biết tội!”
“Ngươi mắc tội gì?”
“Tiểu nhân không nên nghe theo lời nghịch tặc Công Tôn Ưởng, chắp cánh cho hổ, mưu hại trọng thần triều đình!”
Huệ Văn Công cười lạnh lẽo: “Ngươi đúng là sống lâu thấy nhàm rồi! Tiểu Hoa, dựa theo tân pháp, tội khi quân phải xử phạt ra sao?”
“Khởi bẩm chúa thượng, xử tội lăng trì, tru di cửu tộc!”
Huệ Văn Công nhìn sang Chu Đà: “Chu Đà, ngươi đã nghe rõ chưa? Mặc dù cửu tộc nhà ngươi không ở đây, nhưng chịu hình lăng trì cũng không hề dễ chịu! Theo tội của ngươi, sẽ bị lóc ba nghìn sáu trăm nhát dao!”
Chu Đà khiếp sợ đến toàn thân run rẩy, dập đầu bình bịch: “Chúa… chúa thượng, tiểu… tiểu nhân biết tội.”
“Nếu ngươi nói ra sự thực, lấy công chuộc tội, quả nhân có thể giảm tội cho ngươi. Nếu có điều gì dối trá, quả nhân sẽ khiến ngươi sống không ra sống, chết chẳng ra chết!”
Chu Đà dập đầu nói: “Tiểu nhân sẽ nói! Không phải Thương Quân phái tiểu nhân đi hành thích, mà là thái sư Cam Long. Thái sư bảo tiểu nhân giả làm thích khách hành thích thái phó đại nhân, đổ tội phản nghịch lên đầu Thương Quân. Thái sư đã nói, nếu việc thành công, sẽ bảo vệ tiểu nhân bình an vô sự, lại thưởng trăm lượng vàng. Tiểu nhân nhất thời hồ đồ mới lấy oán trả ơn, hãm hại Thương Quân!”
“Một kẻ tiểu nhân như ngươi, làm sao lại gặp được thái sư?”
Chu Đà do dự một lát: “Là thượng đại phu Trần Chẩn nước Ngụy tiến cử!”
“Trần Chẩn ở tận nước Ngụy xa xôi, sao lại biết ngươi?”
“Tiểu nhân và lão quản gia Thích Quang của Trần Chẩn có giao tình. Trước khi đến Tần, tiểu nhân có đến nhờ cậy Thích Quang, từng làm môn nhân trong phủ thượng đại phu, nên mới gặp được thượng đại phu.”
“Ngươi đã là người của nước Ngụy, tại sao còn đến nước Tần?”
“Tiểu nhân vốn không muốn đến, là thượng đại phu sắp đặt. Thượng đại phu muốn tiểu nhân trà trộn vào phủ Thương Quân. Tiểu nhân niệm ân tri ngộ của thượng đại phu, nên mới đến Tần.”
Huệ Văn Công hít ngược một hơi dài, rồi chau mày: “Thượng đại phu và Thương Quân không thù không oán, cớ sao lại muốn thái sư hãm hại Thương Quân?”
“Hồi bẩm chúa thượng, tiểu nhân cũng từng hỏi thượng đại phu. Thượng đại phu nói, Thương Quân muốn diệt trừ thái sư, thái phó, khống chế đại quyền nước Tần, thượng đại phu và thái sư có giao tình thân thiết, nên mới nghĩ ra mưu kế, giúp thái sư diệt trừ Thương Quân!”
“Nói như vậy, ngươi hành thích thái phó, đổ tội cho Thương Quân, tất cả là mưu của Trần Chẩn?”
“Thưa phải!”
Huệ Văn Công gật đầu nói: “Tốt lắm! Ngoài Trần Chẩn và thái sư, còn có ai biết chuyện này?”
“Công Tôn đại nhân và Đỗ đại nhân.”
Huệ Văn Công ra hiệu, công tử Hoa bèn đưa bản cung khai lại: “Chu Đà, mau điểm chỉ!”
“Tiểu nhân đã khai hết sự thực, chúa thượng… xin người hãy tha cho tiểu nhân một mạng!”
“Biết rồi!” Huệ Văn Công gật đầu. “Ngươi cứ điểm chỉ trước, đợi quả nhân kiểm chứng lời khai, rồi mới có thể luận tội!”
Chu Đà nghe nói cũng có lý, lập tức viết tên, điểm chỉ lên tờ khai. Huệ Văn Công nhận lấy tờ khai, đọc qua một lượt, bỏ vào tay áo, sau đó hạ lệnh nhốt Chu Đà vào tử lao.
Một canh giờ sau, có binh tốt mang cơm vào đại lao. Chu Đà ăn mấy miếng, cảm thấy bất thường, liền trợn mắt oẹ ra, nhưng đã không kịp nữa. Chưa đến nửa canh giờ sau, hắn hai tay ôm bụng, lăn lộn vật vã, vừa lăn vừa kêu gào: “Chúa thượng, chúa… chúa thượng…”

Chu Đà đã ngờ oan cho Huệ Văn Công, vì người hạ độc hắn không phải Huệ Văn Công, mà là Cam thái sư. Đỗ Chí sau khi nhận được tin về Chu Đà, đã vội vàng đến phủ thái sư.
Cam Long sốt ruột hỏi: “Việc có ổn không?”
Đỗ Chí gật đầu.
Cam Long vuốt râu, nói: “Ừm, Công Tôn Ưởng giết người diệt khẩu, tội tăng một bậc! Chúng ta hãy đi bẩm tấu!”
Ngày hôm sau, Cam Long, Đỗ Chí, Công Tôn Giả lại dâng liền mười mấy bản tấu, tố cáo Công Tôn Ưởng tội giết người diệt khẩu, đòi Huệ Văn Công xử tội.
Huệ Văn Công xem qua tấu chương, gọi Doanh Kiền, công tử Hoa đến, nhìn Doanh Kiền nói: “Công thúc! Lão thái sư và những người này tố cáo Công Tôn Ưởng tội phản nghịch, nhất định muốn quả nhân luận tội. Quả nhân nghĩ đi nghĩ lại, Công Tôn Ưởng vừa là trọng thần mà tiên quân uỷ thác, vừa là quốc phụ của quả nhân, việc này… bảo quả nhân phải xử lý thế nào đây?”
Doanh Kiền bước lên một bước: “Chúa thượng, theo pháp luật của tiên quân, vương tử phạm pháp, tội như thứ dân. Công Tôn Ưởng mưu đồ bất chính, chứng cứ rõ ràng, phải xử tội theo luật pháp nước Tần!”
Huệ Văn Công mím chặt môi, trầm tư một lúc, rồi nói: “Được, vậy hãy làm theo lời công thúc. Tiểu Hoa!”
“Có thần đệ!”
“Khanh hãy đến phủ quốc uý, truyền khẩu dụ của quả nhân, nói rằng có người tố cáo Công Tôn Ưởng muốn nhân lúc để tang tiên quân mà mưu phản tác loạn, mưu sát trọng thần triều đình, sau khi sự việc thất bại, lại giết người diệt khẩu, đã phạm vào pháp chế Đại Tần, lệnh cho Xa quốc uý bắt Công Tôn Ưởng, điều tra rõ thực hư.”
“Thần đệ tuân chỉ!”
Doanh Kiền vội nói: “Chúa thượng…”
Huệ Văn Công quay sang Doanh Kiền: “Công thúc, có gì không ổn ư?”
Doanh Kiền nói: “Dựa theo luật nước Tần, bách tính phạm pháp sẽ do phủ tư đồ xét xử; thượng đại phu phạm pháp sẽ do Thái miếu xét xử. Công Tôn Ưởng phản nghịch, chúa thượng lại để quốc uý xét xử, đã làm trái Tần pháp. Hơn nữa, Xa Anh là thuộc hạ của Công Tôn Ưởng, để hắn xét xử, khó tránh nối giáo cho giặc, vi thần cho rằng không công bằng!”
“Công thúc, không cần nói nữa! Tiểu Hoa, truyền chỉ!”

Xa Anh nhận được khẩu dụ của Huệ Văn Công, kinh hoàng thất sắc, khấu đầu lĩnh chỉ xong, lập tức chọn lấy năm trăm binh tốt, tiến thẳng tới phủ Thương Quân.
Xa Anh hạ lệnh bao vây ngoài cổng, rồi một mình hộc tốc chạy vào trong phủ.
Trong chính sảnh, Công Tôn Ưởng đã cởi bỏ quan phục, hai mắt khép hờ, đang ngồi ngay ngắn. Cảnh Giám ngồi đối diện, hai mắt ứa lệ.
Xa Anh quỳ sụp xuống, khóc gọi: “Thương Quân…”
Công Tôn Ưởng mở mắt ra, nhìn Xa Anh: “Xa đại nhân đến đây, hẳn là phụng chỉ bắt tại hạ!”
Xa Anh nghẹn ngào: “Thương Quân…”
Công Tôn Ưởng chậm rãi đứng dậy: “Đi thôi, tại hạ đã chuẩn bị sẵn sàng!”
Xa Anh vội nói: “Thương Quân… Thương Quân hãy mau chạy đi! Hãy theo lời Cảnh huynh, đi ra cổng sau!”
Cảnh Giám cũng thúc giục: “Thương Quân, xe ngựa đều đã chuẩn bị xong xuôi, hạ quan sẽ cùng đi với người!”
Công Tôn Ưởng khẽ thở dài: “Than ôi, hai người theo tại hạ đã nhiều năm, lẽ nào còn chưa hiểu tại hạ! Xa đại nhân, đi thôi!”
Nói đoạn, Công Tôn Ưởng tay không chậm rãi bước khỏi đại sảnh, tiến ra ngoài cổng.

Trong phủ thái sư, Công Tôn Giả vuốt râu, sắc mặt tràn đầy mãn nguyện: “Hừm, thật không ngờ Công Tôn Ưởng cũng có ngày hôm nay!”
Đỗ Chí nghiến răng nói: “Gian tặc ngày nào còn chưa chết, ngày đó chúng ta vẫn chưa được yên. Tại sao không nhân đà làm tới, cùng dâng tấu, ép hắn phải chết ngay?”
“Đúng!” Công Tôn Giả tiếp lời. “Chúng ta chia nhau ra phát động, tất cả cùng lên tiếng, chúa thượng không muốn giết cũng không được!”
Cam Long vuốt chòm râu dài, nói: “Chỉ dựa vào mấy người, e rằng không được. Chúng ta tốt nhất nên thuyết phục thái phó, để ông ta bẩm lên lão thái hậu. Một lời của lão thái hậu, nặng bằng mười mấy bản tấu chương của chúng ta!”
Mọi người đều gật gù.
Cam Long chậm rãi quay sang Công Tôn Giả: “Ông là Thái miếu lệnh, các trọng thần công tộc, từ đại phu trở lên đều do Thái miếu xét xử. Tân pháp là do Công Tôn Ưởng đặt ra, dựa theo tân pháp, tội mưu phản sẽ xử thế nào?”
“Hạ quan đã tra rõ, dựa theo tân pháp, gian tặc sẽ phải chịu hình năm xe xé xác!”
“Ừm!” Cam Long mỉm cười. “Hình phạt này rất thích hợp với Công Tôn Ưởng. Các vị đại nhân, các vị hãy ghi rõ hình phạt này lên tấu chương, cho hắn nếm mùi bị xe xé xác! Còn phía thái phó, hãy để ta đến thỉnh cầu.”

Trong ngự thư phòng, trên bàn chồng chất tấu chương hoạch tội Công Tôn Ưởng, trên bản tấu nào cũng ghi rõ mấy chữ “năm xe xé xác nghịch tặc”.
Huệ Văn Công tiện tay lật xem, những dòng chữ đó cứ to đậm mãi lên.
Huệ Văn Công chau tít đôi mày, một nét cười lạnh lẽo hiện bên khoé miệng.
Trong đại lao, quan tư hình đích thân mang đồ ăn đến, bày trước mặt Công Tôn Ưởng. Sau đó, lại mang tới một vò rượu lâu năm, rót ra chén, cũng đặt trước mặt Công Tôn Ưởng, cung kính: “Thương Quân, mời dùng!”
Công Tôn Ưởng liếc nhìn rượu và thức ăn ngon bày trước mặt, chậm rãi hỏi: “Tư hình đại nhân, dựa theo tân pháp, những kẻ phạm tội như ta đều được ăn những thứ này ư?”
“Hồi bẩm Thương Quân, trong đại lao này, chỉ có Thương Quân được đãi ngộ như vậy.”
Công Tôn Ưởng đứng dậy: “Tư hình đại nhân, Công Tôn Ưởng thân mang trọng tội, thì phải đối xử cho giống với người phạm tội!”
Tư hình bèn quỳ xuống: “Hồi bẩm Thương Quân, cho hạ quan một trăm lá gan, hạ quan cũng không dám vi phạm tân pháp. Những thức này đều là do chúa thượng ban tặng. Có lệnh của chúa thượng, hạ quan mới bạo gan làm vậy, Thương Quân chẳng qua chỉ tạm ở đây để che mắt, sẽ không lưu lại lâu đâu!”
“Dựa theo tân pháp, vương tử phạm pháp, tội như thứ dân, huống hồ là Công Tôn Ưởng ta? Mong tư hình đại nhân hãy dẹp cơm rượu đi, Công Tôn Ưởng được phép ăn gì, ông hãy mang tới, nếu không, Công Tôn Ưởng khó mà nuốt trôi!”
“Hạ quan không dám. Nếu mang đồ ăn đi, hạ quan sẽ mang tội kháng chỉ!”
“Ta hỏi ngươi, là pháp lớn hơn, hay chỉ lớn hơn?”
“Hạ quan… pháp lớn, chỉ cũng lớn. Hai bên đều lớn, hạ quan không dám kháng lại bất cứ bên nào!”
Huệ Văn Công thình lình xuất hiện trước cửa: “Nói đúng lắm. Pháp lớn, chỉ cũng lớn!”
Tư hình ngoảnh đầu, nhìn thấy Huệ Văn Công, vội sụp xuống lạy: “Vi thần khấu kiến chúa thượng!”
Công Tôn Ưởng cũng quỳ xuống hô: “Tội thần Công Tôn Ưởng khấu kiến chúa thượng!”
Huệ Văn Công lệnh cho tư hình: “Lui ra!”
Tư hình lui đi, đóng cửa lại. Huệ Văn Công chìa tay nói: “Thương Quân, mời!”
Công Tôn Ưởng đáp: “Chúa thượng, mời!”
Cả hai cùng ngồi xuống.
Huệ Văn Công rót rượu, hai tay nâng chén đưa cho Công Tôn Ưởng, xong lại rót đầy chén của mình.
Huệ Văn Công hai mắt ứa lệ: “Thương Quân, Doanh Tứ kính người một chén!” Nói đoạn, một hơi uống cạn.
Công Tôn Ưởng thấy Huệ Văn Công nghẹn ngào, liền nâng chén mà nói: “Tội thần Công Tôn Ưởng tạ ơn chúa thượng ban rượu!” Rồi cũng một hơi uống cạn.
Huệ Văn Công rút khăn lụa ra lau nước mắt, nhìn Công Tôn Ưởng, cất giọng đau thương: “Thương Quân, Doanh Tứ nhốt ông vào đại lao, quả thực đã khiến ông phải chịu oan ức. Doanh Tứ biết ông không hề mưu phản, cũng sẽ không bao giờ mưu phản. Trong lòng Doanh Tứ, Thương Quân mãi mãi là quốc phụ. Có điều…” ngẫm nghĩ một lát, sắc mặt đầy vẻ bất lực, “giờ Doanh Tứ mới kế vị, rất nhiều việc không thể tự quyết. Huống hồ họ… Thương Quân hẳn cũng biết, đã có đủ nhân chứng, vật chứng, khí thế lấn lướt, lời lẽ bức bách. Họ đều là quý tộc thế phiệt, liền với huyết mạch công thất, ai nấy đều thúc ép Doanh Tứ. Có ân sư, công thúc của Doanh Tứ, có cậu, có cô của Doanh Tứ. Đến hôm nay, lại thêm thái hậu… Than ôi, Thương Quân, Doanh Tứ thực là non kém!” Nói đoạn, nước mắt chảy xuống ròng ròng.
Công Tôn Ưởng cứ nhìn Huệ Văn Công, một lúc sau, bèn rót đầy chén rượu, nâng chén mà nói: “Tội thần Công Tôn Ưởng kính chúa thượng một chén!”
Hai người cùng uống cạn.
Huệ Văn Công lại lau nước mắt, nhìn Công Tôn Ưởng: “Thương Quân, không phải ông không biết họ muốn hại ông, nhưng… Doanh Tứ không hiểu, tại sao Thương Quân lại không lánh đi?”
Công Tôn Ưởng mỉm cười: “Đi? Đi đâu? Đi thế nào?”
“Thương Quân có thể tạm thời tới Thương Ư lánh nạn, đó là vùng đất phong của ông. Ông muốn đi, trong nước Tần ai dám ngăn chặn?”
“Chúa thượng!” Công Tôn Ưởng mỉm cười. “Tội thần chưa kịp hành động, chúa thượng đã đoán trước được rồi, bảo tội thần làm sao dám hành động?”
Huệ Văn Công vội nói: “Quả nhân tuyệt đối không ngăn cản Thương Quân. Quả nhân phái quốc uý Xa Anh đến bắt ông, chính là để cho ông có cơ hội thoát thân. Thương Quân, chỉ cần ông đi khỏi đây, quả nhân cũng sẽ dễ ăn nói. Đợi khi sóng gió qua đi, quả nhân nhất định sẽ điều tra rõ vụ việc này, đến lúc đó, sẽ trả lại sự thanh bạch cho Thương Quân!”
Công Tôn Ưởng quỳ xuống, lại bái lạy: “Ân huệ của chúa thượng, Công Tôn Ưởng xin đa tạ! Xem ra, mặc dù chúa thượng vạn sự thánh minh, nhưng vẫn chưa hiểu được tội thần!”
Nghĩ đến lời dặn trước lúc lâm chung của Hiếu Công, Huệ Văn Công trong lòng chợt trầm ngay xuống: “Ồ, lời này có nghĩa gì?”
“Tội thần không đi, là bản thân tội thần không muốn sống nữa!”
Huệ Văn Công giật mình: “Con kiến còn biết chạy trốn, tại sao Thương Quân lại nói như vậy?”
“Con kiến sống tạm qua ngày, vì vậy mới là con kiến. Tội thần không muốn sống, vì vậy mới là tội thần. Tội thần từ lâu đã có ý chết, tội thần đã đợi ngày này mười mấy năm rồi!”
“Ý Thương Quân là, từ khi bắt đầu biến pháp, ông đã…”
Công Tôn Ưởng khẽ lắc đầu: “Không giấu chúa thượng, thời điểm mới thực hành biến pháp, tội thần rất sợ chết, ra vào lúc nào cũng phải mang theo ba nghìn hộ vệ, mọi việc đều thận trọng tuyệt đối, chỉ e gặp điều bất trắc. Nhưng nay thì không thế nữa. Nước Tần tân pháp đã vững, tội thần tâm nguyện đã thành, nếu còn sống tạm trên đời, hỏi còn ý nghĩa gì đây?”
Lời này của Công Tôn Ưởng, là đang bộc bạch nỗi lòng, một là ông không hề mưu phản, hai là ông sớm đã liệu được sẽ có ngày hôm nay, vì vậy không hề sợ hãi.
Huệ Văn Công thấy Công Tôn Ưởng lại nói vòng trở lại, trầm tư một lát, rồi chậm rãi nói: “Thương Quân tuyệt đối không được nghĩ như vậy. Không có Thương Quân, sẽ không có tân pháp; không có tân pháp, sẽ không có nước Tần thịnh vượng ngày nay, người trong cả nước ai nấy đều tai nghe mắt thấy. Thương Quân vì muốn sảng khoái cho mình mà dứt áo ra đi, chẳng phải sẽ đẩy Doanh Tứ vào chỗ bất nhân bất nghĩa hay sao? Thương Quân thử nghĩ xem, ông có đại công với nước, Doanh Tứ mới kế vị, vẫn chưa hỏi rõ trắng đen phải trái, trong lúc thi hài tiên quân còn chưa kịp lạnh đã giết công thần, quả thực…”
Công Tôn Ưởng dập đầu: “Ơn xá tội của chúa thượng, tội thần xin nhận. Tội thần có một lời, mong chúa thượng nghe cho!”
“Doanh Tứ xin rửa tai lắng nghe!”
“Tội thần vốn xuất thân hàn sinh, may mắn gặp tiên quân nên mới thực hiện được hoài bão một đời. Được tiên quân tận lực ủng hộ, tội thần đã thực thi biến pháp, giúp Tần đại trị. Nhưng sự có hai mặt, vật cực tất phản. Mặc dù nước Tần đã được đại trị, nhưng lòng người Tần lại bị tổn thương. Thường có câu, cứng quá sẽ gãy, mạnh quá sẽ yếu. Nay chúa thượng mới kế vị, chính là thời cơ trị thương tốt nhất, hãy dùng Ưởng làm vật trút giận, trị vết thương trong lòng người Tần!”
Lời Công Tôn Ưởng chí lý sâu xa, từ trước đến giờ Huệ Văn Công chưa từng nghĩ đến. Trầm tư một lúc, Huệ Văn Công bèn nói: “Thương Quân, việc này… sao có thể được?”
“Chúa thượng,” Công Tôn Ương đáp lời, “không có chuyện được hay không được. Có được ắt phải có bỏ. Chúa thượng muốn làm việc lớn, phải dám hy sinh. Không giấu chúa thượng, trí của tội thần đã kiệt; công của tội thần đã tận. Giờ tội thần giống như ngọn đèn cạn dầu, chẳng còn ích gì cho nước Tần nữa. Chưa nói đến tội ăn không ngồi rồi, mà hơn nữa, còn gây trở ngại cho chúa thượng thực hiện chí lớn. Nếu cái chết của tội thần có thể an ủi trái tim đã bị tổn thương của người Tần, thì tấm thân tàn của Công Tôn Ưởng cũng đâu cần phải tiếc?”
Những lời này của Công Tôn Ưởng, rõ ràng là muốn nói với Huệ Văn Công, người thực sự muốn giết ông ta không phải là bè đảng thái sư, mà chính là Huệ Văn Công. Huệ Văn Công càng nghe càng ớn lạnh, nhưng ngoài miệng vẫn nghẹn ngào: “Thương Quân…”
“Chúa thượng, Công Tôn Ưởng không chết, lòng dân không vững; lòng dân không vững, tâm chúa bất định; tâm chúa bất định, đại nghiệp của Tần sao có thể thực thi?”
Công Tôn Ưởng nói tới nước này, hiển nhiên đã thấu tỏ mọi sự. Huệ Văn Công bất giác rùng mình, trầm tư một hồi lâu, mới hạ quyết tâm, đứng dậy, quỳ xuống bái lạy mà nói: “Đại nghĩa của Thương Quân, Doanh Tứ xin khắc cốt ghi tâm. Thương Quân có điều gì căn dặn, Doanh Tứ nhất định sẽ làm theo!”
“Công Tôn Ưởng không có khẩn cầu nào khác, chỉ cầu chúa thượng đừng phế bỏ tân pháp!”
Huệ Văn Công lạy ba lạy trước trời mà thề rằng: “Trời xanh trên cao, Doanh Tứ xin thề, chỉ cần ngày nào còn tại vị, tuyệt đối không phế bỏ tân pháp!”
Công Tôn Ưởng cũng lạy liền mấy lạy: “Nghe được lời thề của chúa thượng, Công Tôn Ưởng đã có thể ngậm cười nơi chín suối!”
Huệ Văn Công chần chừ một lát, lại hỏi: “Sau Thương Quân, Doanh Tứ nên đi hướng nào?”
“Trong núi Chung Nam có cao nhân đắc đạo, hiệu Hàn Tuyền Tử, chúa thượng có thể đến cầu ông ta chỉ lối!”
Huệ Văn Công gật đầu nói: “Quả nhân cũng từng nghe nói đến người này!” Một lát sau lại hỏi. “Theo ý Thương Quân, trong số triều thần, người nào có thể tín nhiệm?”
“Văn có thể dùng Sư Lý Tật, võ có thể dùng Tư Mã Thác. Còn về người thay Ưởng, chúa thượng tự có huệ nhãn.”
“Công Tôn Diễn người Ngụy thế nào?”
“Trong trận chiến Hà Tây, người này tài trí không thua kém Ưởng!”
Huệ Văn Công vòng tay nói: “Đa tạ Thương Quân chỉ giáo!”
Công Tôn Ương nâng chén: “Vì nước Tần lại có minh quân, vì chúa thượng lại có nhân tài, xin hãy cạn chén này!”
Huệ Văn Công từ từ quỳ xuống, lạy liền ba lạy, nghẹn ngào nói: “Quốc phụ ở trên, xin nhận của Tứ Nhi một lạy!”

Sáng sớm hôm sau, Tần cung mở đại triều. Trong chính điện, hai ban triều thần cùng tề tựu đông đủ.
Huệ Văn Công đưa mắt nhìn khắp lượt quần thần, cất giọng sang sảng: “Các vị ái khanh, có tấu gì không?”
Cam Long bước lên trước: “Lão thần có tấu!”
“Ái khanh hãy nói!”
“Công Tôn Ưởng mượn danh nghĩa thực thi tân pháp, kết bè kết đảng, sát hại người khác ý, từ lâu đã có lòng phản nghịch. Nay lại nhân lúc tiên quân băng hà, phái thích khách mưu sát trọng thần triều đình, mưu phản soán vị. Để làm nghiêm pháp kỷ Đại Tần, lão thần tấu xin chúa thượng hãy trừng phạt nghiêm minh Công Tôn Ưởng, để an lòng dân!”
Công Tôn Giả cũng bước lên tấu: “Khởi tấu chúa thượng, điều lão thái sư vừa tấu, cũng chính là ý dân. Công Tôn Ưởng ỷ mình có công với nước, kiêu ngạo ngang ngược, lấy bạo lực ép người, thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết, khiến dân chúng Đại Tần hoang mang sợ hãi, ai nấy đều trách than!”
Xa Anh đứng lên bẩm tấu: “Khởi tấu chúa thượng, vi thần cho rằng, chuyện thích khách còn nhiều điểm đáng ngờ, nhất định là có kẻ muốn hãm hại Thương Quân, mưu đồ khôi phục cựu chế, mong chúa thượng minh xét!”
Huệ Văn Công không nhìn Xa Anh, mà quay sang Công Tôn Giả: “Công Tôn ái khanh!”
Công Tôn Giả bước ra khỏi hàng bái lạy: “Có vi thần!”
“Vụ án Công Tôn Ưởng, sự tình trọng đại, ái khanh chưởng quản Thái miếu, sẽ do ái khanh điều tra. Mong ái khanh lấy sự thực làm trọng, xử lý công bằng nghiêm minh!”
“Vi thần lĩnh chỉ!”
Cam Long, Đỗ Chí đều nhìn nhau cười thầm.
Xa Anh lo lắng, đang định tấu tiếp thì Cảnh Giám đã kéo tay áo ngăn lại.

Vào tối hôm đó, trong điện Di Tình, lồng chim vàng anh vẫn được treo trước linh cữu Tần Hiếu Công. Trong lồng vẫn là ba con chim, nhưng một trong ba con đã rơi xuống giá, nằm co quắp dưới đáy lồng.
Nội thần đi vào, trình bản tấu chương của Công Tôn Giả. Huệ Văn Công lật xem, thấy viết: “Theo vi thần điều tra, tội mưu phản của Công Tôn Ưởng, bằng chứng đã rõ ràng, theo luật phải xử hình năm xe xé xác, tấu thỉnh chúa thượng phê chuẩn!”
Huệ Văn Công cầm bút, chậm rãi viết lên hai chữ “chuẩn tấu”, đoạn quẳng bút xuống đất.
Nội thần thấy con chim trong lồng đã chết, khẽ bẩm: “Chúa thượng, một con chim đã chết rồi!”
Huệ Văn Công ngẩng đầu nhìn lồng chim: “Lấy ra, ướp đá, làm cho nó một cỗ quan tài!”
Nội thần lĩnh chỉ, đi tới cạnh lồng chim, cẩn thận nhặt cái xác chim ra.

Trên pháp trường bên bờ Vị Thuỷ, gió bấc thét gào, tuyết rơi trắng xoá.
Trên giám hình đài, những kẻ đối đầu với tân pháp gồm Công Tôn Giả, Cam Long, Đỗ Chí đã ngồi ngay ngắn, tinh thần phấn khởi lạ lùng. Trần Chẩn và sứ thần của liệt quốc ngồi hàng thứ hai.
Hồi trống đầu tiên kết thúc, quan tư hình Công Tôn Giả hô lớn: “Giải nghịch tặc Công Tôn Ưởng!”
Đao phủ áp tải Công Tôn Ưởng đến nơi thụ hình, buộc dây thừng vào tứ chi và đầu, sau đó buộc đầu còn lại vào năm cỗ chiến xa quay theo năm hướng khác nhau. Công Tôn Ưởng hai mắt khép hờ, rất mực điềm tĩnh.
Hồi trống thứ hai vang lên. Trần Chẩn mang đến một hũ rượu, rót đầy một chén, đứng dậy rời khỏi chỗ, thong thả bước tới trước mắt Công Tôn Ưởng, gọi lớn: “Công Tôn huynh!”
Công Tôn Ưởng mở mắt ra, thấy trước mặt là Trần Chẩn, thì cất giọng nhạt nhẽo: “Trần huynh!”
Trần Chẩn nâng chén rượu lên, lời đầy ẩn ý: “Công Tôn huynh, hẳn huynh không thể ngờ rằng, lần này Trần Chẩn đến nước Tần, chính là vì Công Tôn huynh!”
Giọng Công Tôn Ưởng vẫn lạnh tanh: “Công Tôn Ưởng đã biết từ lâu!”
Trần Chẩn giật mình: “Vậy… huynh có nghĩ tới, sở dĩ hôm nay huynh phải ở đây, cũng là vì tại hạ?”
Công Tôn Ưởng bật cười: “Thì ra, Trần huynh luôn tự đề cao mình như vậy đấy!”
Trần Chẩn sững người: “Nói vậy là có ý gì?”
“Hôm nay Công Tôn Ưởng ở đây, chính là vì Công Tôn Ưởng muốn vậy, chứ không liên quan gì đến Trần huynh. Lần này Trần huynh đến, chẳng qua chỉ để góp vui mà thôi!”
Trần Chẩn bật cười: “Nói như vậy, là Công Tôn huynh chán ghét trần thế, nên không muốn sống nữa?”
“Không phải không muốn sống nữa, mà là cuộc sống đã hết thú vị! Trần huynh có biết chuyện Bá Nha, Tử Kỳ chăng? Tử Kỳ không còn nữa, Bá Nha không thiết gảy đàn. Tiên quân đã không còn, nếu Công Tôn Ưởng sống tiếp, há chẳng phải vô vị?”
Trần Chẩn khẽ gật đầu: “Công Tôn huynh không tiếc mạng sống để báo ơn tri ngộ, Trần Chẩn kính phục. Nhưng chết cũng có rất nhiều kiểu, theo trí của Công Tôn huynh, hẳn sẽ không bao giờ lựa chọn cách chết này?”
Công Tôn Ưởng cười lớn mà nói: “Người ta sống ở trên đời, khó nhất là sống thế nào cho oanh liệt. Thử hỏi Trần huynh, cách chết nào mới có được sự thịnh vượng của ngày hôm nay?”
Trần Chẩn nâng chén: “Công Tôn huynh là bậc anh hùng, Trần Chẩn kính phục! Xin Công Tôn huynh hãy cạn chén này, coi như tại hạ tiễn Công Tôn huynh lên đường!”
Công Tôn Ưởng nhận rượu, rồi đổ toẹt xuống đất.
Trần Chẩn mặt hơi biến sắc: “Công Tôn huynh…”
“Người vốn là đất, lại quay về với đất. Công Tôn Ưởng hôm nay trở về nhà, xin mượn chén rượu của Trần huynh để cảm tạ đất!”
Trần Chẩn sững sờ, miễn cưỡng nặn ra một nụ cười, ôm quyền nói với Công Tôn Ưởng: “Công Tôn huynh, lên đường bảo trọng!” Sau đó hậm hực trở về chỗ ngồi.
Hồi trống thứ ba vang lên.
Đỗ Chí giục giã: “Công Tôn đại nhân, trống đã dứt, hành hình thôi!”
Công Tôn Giả đang định ném lệnh tiễn đi, thì thượng đại phu Cảnh Giám một mình một ngựa lao như bay tới, hét lớn: “Khoan!”
Công Tôn Giả cười nham hiểm: “Ồ, thượng đại phu cũng nhàn rỗi đến đây xem xử hình nghịch tặc ư?”
Cảnh Giám cười nhạt, nói: “Công Tôn đại nhân, Cảnh Giám phụng mệnh của chúa thượng, đến đây tiễn chân Thương Quân.”
Công Tôn Giả sững người: “Lệnh của chúa thượng?”
Cảnh Giám lấy ra kim bài lệnh tiễn và một hũ ngự tửu, nói: “Đây là kim bài lệnh tiễn của chúa thượng, còn đây là ngự tửu do chúa thượng đích thân ban tặng, mời đại nhân kiểm tra!”
Công Tôn Giả kiểm tra, rồi gật đầu nói: “Được, mời thượng đại phu tới tiễn nghịch tặc lên đường!”
Cảnh Giám bưng rượu, từng bước tiến tới trước mặt Công Tôn Ưởng, phục lạy xuống đất, nâng rượu quá đầu: “Thương Quân, hạ quan phụng mệnh chúa thượng, đến tiễn đại nhân lên đường!”
Công Tôn Ưởng gật đầu nói: “Cảnh huynh, xin hãy quay về bẩm tấu lên chúa thượng, tội thần thân đã mất tự do, không thể lạy tạ!”
“Hạ quan nhất định sẽ chuyển tấu!”
Công Tôn Ưởng nhận lấy ngự tửu, lại nói: “Còn nữa, xin huynh hãy chuyển tấu với chúa thượng, nói rằng tội thần Công Tôn Ưởng muốn tặng chúa thượng một câu: Lập uy tại quân, lập tín tại dân, muốn thành nghiệp lớn, gốc phải vững bền!”
Cảnh Giám khóc lạy: “Thương Quân…”
Công Tôn Ưởng thở dài một tiếng: “Than ôi, nghĩ lại Công Tôn Ưởng ta, cả đời cúc cung tận tuỵ, đổi về lại là cái xác chia năm xẻ bốn! Lão Đam nói, ‘công thành thân nát’! Tại hạ công thành danh toại, nhưng không biết tiến thoái, cũng đáng đời lắm! Cảnh huynh, hãy nói lại với Xa tướng quân, hai người nhất định phải lấy Ưởng làm gương, tự biết trân trọng!”
Cảnh Giám nghẹn ngào nói: “Hạ quan đã nghe rõ!”
“Cảnh huynh, sau khi Ưởng đi rồi, nếu chúa thượng muốn lật lại vụ án này, huynh hãy đẩy cho thái phó!”
Cảnh Giám gật đầu.
Công Tôn Ưởng hai tay bưng bát, một hơi uống cạn bát rượu, sau đó đập vỡ tan tành, mỉm cười khẽ ôm quyền với Cảnh Giám: “Tại hạ đi trước một bước, Cảnh huynh bảo trọng!”
Cảnh Giám lạy liền ba lạy, bật khóc thất thanh: “Thương Quân, lên đường bình an!”
Lời Cảnh Giám vừa dứt, Công Tôn Ưởng đã hai mắt tối sầm, lảo đảo mấy cái rồi ngã vật xuống đất, miệng trào máu đen.
Đao phủ vội vàng chạy đến, thì Công Tôn Ưởng đã ngã lăn dưới đất, vội đưa tay lên mũi, thấy không còn hơi thở nữa, bèn cuống quýt chạy lại chỗ Công Tôn Giả: “Bẩm đại nhân, trong rượu có độc, nghịch tặc Công Tôn Ưởng đã trúng độc chết rồi!”
Cam Long thất kinh: “Sao lại như thế được?”
Công Tôn Giả giận đến run người, quăng ngay lệnh tiễn xuống, gầm lên: “Mau! Hành hình!”




Truyện Cùng Thể Loại

Các Đại Năng Đã Để Lại Thần Thức


Lưu ý: Vui lòng tải app để có thể lưu lại thần thức trên truyện này
Tải app để đọc truyện sớm nhất