Chương 10:
Chim vẫn vô tư hót ríu ran trong rừng và nắng chan hòa trên đồi cỏ. Vùng đất hoang sơ, nơi từ ngàn xưa đến nay chưa từng có dấu chân người, vẫn thanh bình êm ả như không hề đếm xỉa gì đến việc bàn tay tử thần của chiến tranh vừa vươn tới, mà dấu vết của nó còn hằn rõ trên những hố đạn cày đất nham nhở.
Tôi tìm những hòn đá rải rác trên bãi cỏ vác về xếp thành hình tháp trên mộ. Nếu bọn giặc tới chúng sẽ biết có người còn sống, người chết không thể tự đắp mộ cho mình. Nhưng có sao đâu! Phải có dấu tích ghi nhớ nơi các anh ngã xuống. Kẻ thù tàn nhẫn muốn các anh tan thành tro bụi, nhưng tại đây cái chết gắn liền với sự bất tử.
Tôi đang gắng bình tâm trở lại. Sáng nay ra ngồi bên mộ từ lúc trời mới rạng, tôi nghĩ tới những lời cuối cùng của hai anh: "...Phải sống mà trở về Hải ạ!... Đừng lo gì cho bọn mình..." Lời anh Đằng như dỗ dành, giọng anh Hùng bình thản. Không! Không thể để cho sự hy sinh của các anh trở nên vô ích! Câu anh Đằng nói như một lời thề sau cái chết của anh Sơn tôi còn nhớ mãi! Những đau đớn xót xa cùng hoàn cảnh hiện tại rất dễ đẩy tôi chìm trong bi quan tuyệt vọng. Phải nghĩ đến công việc, phải làm bằng được những gì mà các anh ấy tin cậy.
Tôi khoác súng đứng hồi lâu bên mộ. Mặt trời lên cao, nắng hun nóng dần lưng áo. Trên thân cây thủy tùng chỗ quả rốc két bắn trúng, đứng từ đây cũng nhìn rõ những thớ gỗ toác ra xơ trắng, nhưng cây vẫn vươn cao sừng sừng và tán lá xanh mướt đang rì rào gọi gió. Những vết thương trên mình không ngăn nổi sức sống mãnh liệt của loài cây đã bám rễ vững chắc trong đất.
Ngày tháng trôi đi, mưa gió sẽ lấp đầy những hố đạn cho cỏ mọc lên, cây thủy tùng sẽ ứa nhựa để liền sẹo những vết thương trên mình nó. Còn tôi, tôi biết rằng ký ức về những ngày vừa qua sẽ không bao giờ phai... Hai anh đã giành lấy cái chết về mình để cho tôi được sống. Chẳng bao giờ các anh còn trở lại với những cánh đồng lúa mênh mông, với thác ghềnh con sông Đà hùng vĩ, với xóm nhỏ bên ga xép, nơi mà tiếng còi tàu đêm đêm vẫn luôn là nỗi nhớ khôn nguôi trong lòng người đi xa... Hai người lính can trường và nhân hậu đã từng gắn bó những năm tháng đẹp nhất của đời mình với núi rừng, giừ đây các anh mãi mãi nằm lại giữa lòng rừng già.
Không thể nấn ná mãi được. Trực thăng có thể xồ tới bất cứ lúc nào, mà tôi đang cần phải sống hơn bao giờ hết. Tôi cúi nhặt một mảnh đạn đặt lên mộ rồi lặng lẽ bước đi. Trên cao, ngọn thủy tùng vẫn vi vút trong gió, tựa như cây bút lông khổng lồ đang viết lên trời xanh những dòng sử bi thương và hùng tráng.
Tôi tỉnh dậy, người nóng hầm hập, mồ hôi toát ra đầm đìa. Thì ra một giấc mơ. Bàn tay lạnh giá của cô bạn gái trong giấc mơ lúc này chỉ là mảnh võng ướt đẫm sương đêm dính bết vào trán. Tôi đang sốt. Hồi chiều, lúc định leo lên cây để quan sát khu đồi cỏ, tôi đã thấy người nóng ran, chân tay rã rời. Tôi vội mắc võng trên một thân cây có tán lá rậm rồi thả người nằm xuống và thiếp đi mê man...
Không biết bây giờ là mấy giờ? Chắc khuya lắm rồi vì trăng đã xế. Ánh trăng rọi loang lổ trên võng. Người tôi vẫn nóng hâm hấp, đầu nhức buốt. Mong sao không phải sốt rét. Mùa này ít bị sốt rét và lâu nay tôi uống thuốc phòng đều đặn. Chắc chỉ là cảm sốt hoặc do cơ thể phản ứng với những mệt nhọc căng thẳng quá mức chịu đựng. Chúng tôi không mang theo thuốc cảm. Khi có anh Hùng thì đó chỉ là chuyện vặt Còn bây giờ... Mà giấc mơ vừa rồi lạ lùng quá, nó làm tôi nhớ tới bạn bè. Chẳng ai ngờ được giờ này tôi đang nằm một mình giữa rừng hoang... Những ý nghĩ cứ lộn xộn trong đầu một lúc nữa, rồi tôi lại thiếp đi.
Sáng dậy, cơn sốt đã dứt nhưng đầu nặng trịch. Để nguyên võng và ba lô trên cây, tôi gắng gượng khoác súng ôm thân cây tuột xuống. Lần được tới khe, tôi vốc nước rửa mặt. Nước khe ban mai lạnh buốt làm người tỉnh táo hơn. Thấy đỡ chóng mặt, tôi đứng dậy nhặt một ôm cành khô và nhằm hướng ngôi mộ đá đi tới.
Mặt trời đã lên nhưng bãi cỏ vẫn mờ trong sương, vắng lặng đến rợn người. Tôi đến bên mộ xếp củi đốt đống lửa nhỏ rồi bó gối ngồi lặng lẽ, mắt đăm đăm nhìn những hạt sương đọng trên đá chảy thành dòng như nước mắt.
Khi nắng xua hết sương, tôi đi lên sườn đồi nơi hôm trước bắn nhau với trực thăng tìm nhặt những băng đạn nằm rải rác trên cỏ, mong kiếm được vài viên sót lại khi thay băng vội giữa hai loạt bắn. Nhưng tôi đã thất vọng. Hơn chục hộp băng tìm thấy đều rỗng khỏng. Tôi tần ngần xếp chúng lên trên mộ, lòng nặng trĩu lo âu. Hôm qua kiểm tra lại súng thấy chỉ còn mười hai viên đạn, mà tôi cứ ngỡ băng đạn còn gần đầy vì mới bắn có hai viên vào thằng Mỹ đen. Mãi sau mới nhớ đây là băng đạn đã bắn hôm anh Hùng bị trăn quấn, lại còn dùng mấy lần khi đi săn. Một mình với mười hai viên đạn giữa rừng núi hoang sơ này? Có thể gặp địch? Có thể gặp thú dữ? Lấy gì săn bắn kiếm ăn? Nỗi lo lắng làm tôi bải hoải cả người...
Tôi chất thêm củi cho lửa cháy tiếp rồi đi vào rừng. Khi ngang qua gốc thủy tùng, chợt trông thấy vật gì sáng lấp lóa dưới đống cành lá héo rũ, tôi gạt nhánh cây ra, nhặt lên được chiếc ống nhòm. Mừng cuống quít, tôi hồi hả bươi đống lá, tìm thêm được cây dao rừng. Cầm cả hai thứ trên tay, tôi rưng rưng nước mắt. Những vật này từng gần gũi với chúng tôi suốt chặng đường dài, lúc này lại càng quý giá hơn.
Về đến chỗ mắc võng, tôi đem hành lý ra sắp xếp lại. Tay tôi run run khi lần mở hai chiếc ba lô quen thuộc. Đồ đạc của các anh cũng giống như tôi: võng, màn, tăng, túi phao bồi, quần áo, bộ quai dép... Trong ba lô anh Đằng có một chiếc lọ thủy tinh nhỏ đựng chừng vài chục viên đá lửa, hai cuộn chỉ, mấy cây kim. Còn trong ba lô anh Hùng có mấy lưỡi câu cùng cuộn dây cước. Tôi mừng rơn khi tìm thấy dưới đáy ba lô bao muối hầm loại một kí còn nguyên chưa bóc. Những tài sản các anh để lại thật vô giá, là nguồn sống giúp tôi bước đầu tự lập nơi hoang dã. Tôi nhẩm tính thấy mình có tất cả bốn bao gạo sấy, mười phong lương khô, hai bi đông mật ong và hơn hai kí muối. Chừng đó thứ đủ để sống nhiều ngày trong rừng.
Nhìn qua ống nhòm, vùng đồi cỏ hiện ra rõ mồn một. Chiếc lá màu vàng trên bức không ảnh hôm nào, giờ là những nếp đồi thoai thoải lượn sóng chạy dài khoảng năm cây số, nơi rộng nhất chừng ba cây. Bao quanh vùng đồi là rừng. Phía đông và phía nam không nhìn thấy ngọn núi nào nhô lên, chứng tỏ thềm đất này cao vượt hẳn so với vùng núi non bên dưới. Phía tây có những đỉnh núi nhấp nhô, ngọn núi gần nhất cũng cách chừng bảy cây số. Còn phía tây bắc và phía bắc có một dãy núi không cao lắm uốn hình vòng cung ôm lấy dải rừng rộng khoảng bốn cây số giáp với vùng đồi cỏ. Như vậy vùng này không phải có dạng thung lũng như nhận định của các chuyên viên.
Tôi ngồi trầm ngâm suy nghĩ, chưa biết nên làm gì. Đúng ra phải đi tìm ngay một nơi thuận lợi để ở lại nhiều ngày, nhưng những chiếc trực thăng cứ ám ảnh trong đầu tôi. Cuộc đọ súng hôm trước có phải là sự sắp đặt tính toán trước của kẻ địch? Không chắc! Ngay cả chúng tôi cũng không biết mình sẽ đặt chân đến đây lúc nào. Vậy không phải một ổ phục kích mà chỉ là cuộc chạm trán ngẫu nhiên. Nhưng đâu là nguyên nhân của sự ngẫu nhiên ấy? Trực thăng bay tới vùng đất này để làm gì? Có phải chúng cùng mục đích như chúng tôi, một tình huống mà lúc giao nhiệm vụ, anh Hai Nguyên đã nói tới? Còn chiếc thứ hai chỉ kịp đến sau mấy phút? Nó đang bay gần đó được đồng bọn gọi tới chứ không phải xuất phát từ căn cứ. Liệu chúng còn trở lại? Có thể như vậy? Hay chúng đã đổ xuống một toán thám báo? Cũng không loại trừ. Cần phải cảnh giác hơn bao giờ hết... Suy nghĩ mãi rồi tôi cũng quyết định: mấy ngày tới sẽ lùng sục trong khu rừng phía bắc, nơi có tọa độ tìm kiếm. Trước hết là xem xét địa hình và tìm xem có dấu vết gì của một cuộc đổ bộ, rồi mới tính tới chuyện khác. Còn làm như thế nào để tìm ra vỉa quặng, sau hẵng hay...
Ba ngày sau, tôi lần tới góc tây bắc vùng đồi cỏ lúc gần tắt nắng. Đứng ở đây có thể nhìn rõ cây thủy tùng bằng mắt thường, còn qua ống nhòm thấy được cả những hòn đá xếp trên mộ. Tôi bùi ngùi nhìn ngôi mộ cô đơn đang sẫm lại trong hoàng hôn, cảm thấy sự lạnh lẽo nơi lòng đất dưới mộ thấm vào cả lòng mình.
Sắp tối rồi, phải tìm nơi nghỉ lại Ngoài bãi trống cách bìa rừng gần trăm mét, có một cây cổ thụ trông giống cây đa đầu làng thường thấy ở những vùng quê dưới xuôi. Chắc vì mọc ở chỗ trống trải nên cây không cao lắm nhưng tán lá xòe rất rộng, có dễ đủ cho cả đại đội ngồi nghỉ dưới bóng râm của nó. Cái dáng cây gần gũi gợi nhớ đến nỗi tôi quyết định đi ra đó tìln chỗ mạc võng.
Băng qua bãi đất trơ trọi, tôi đến bên gốc cây. Không dễ gì leo lên được vì thân cây to quá. Nhưng ngay bên cạnh chỉ cách năm mét, có một cây khác to chưa đầy vòng ôm mọc thẳng tắp cao vọt lên khỏi tán cây cổ thụ, thân nó đầy những mấu cành gãy rất dễ leo. Cây này đã chết khô, phần ngọn cụt bong vỏ trắng mốc. Chắc nó bị sét đánh vì tôi thấy vết gãy nạm đen. Tôi ôm thân cây khô leo lên dễ dàng, rồi chuyền sang cành cây cổ thụ để mắc võng. Mới sẩm tối mà sương đã mờ mờ trên vòm lá. Đêm nay sẽ lạnh lắm đây! Từ hôm còn lại một mình, tôi chưa dám đốt lửa lần nào ở nơi nghỉ. Đống lửa giữa rừng có thể xua đuổi thú dữ, chống lại cái lạnh buốt da thịt lúc nửa đêm về sáng, nhưng dễ bị bọn thám báo phát hiện nếu chúng đang có mặt ở vùng này.
Gần ba ngày qua tôi lần mò trong khu rừng phía bắc, vào đến tận chân núi. Những gì trông thấy đều khẳng định tôi là người đầu tiên đặt chân đến đây. Đang mùa nắng nóng, lại ở trên độ cao này nên rừng ở đây khô ráo và có vẻ thưa hơn các nơi khác. Những lùm cây bụi, cây dây leo đều rũ lá, còn cỏ và dương xỉ thì úa đi bởi hơi nóng từ đất bốc lên. Nền rừng phủ đầy lá khô, đôi nơi có vài tảng đá nhô lên, đều là loại đá bazan trắng xám và rất cứng mà thời gian và mưa gió đã làm chúng gần như nhẵn nhụi. Tất nhiên tôi chẳng nhìn thấy mạch vàng nào. Đi qua một vùng rừng rậm dài bốn cây số và rộng cũng gần chừng ấy trong chưa đầy ba ngày, thì còn hơn cả "cưỡi ngựa xem hoa”.
Điều băn khoăn lớn nhất bây giờ vẫn là: kẻ địch hiện đang có mặt ở đây hay không? Phải trả lời được câu hỏi đó mới có thể làm những việc khác. Không thể chỉ ăn mãi lương khô, mà cũng đâu còn nhiều! và mưa nắng cùng cái lạnh buốt ban đêm của núi rừng ở độ cao gần hai ngàn mét sẽ nhanh chóng làm tôi kiệt sức. Mùa mưa không còn xa nữa, cần phải có một mái che, một bếp nửa, phải tìm kiếm thức ăn trong rừng... Những ý nghĩ rối bời làm tôi thao thức mãi. Đêm cô độc giữa rừng dài như vô tận.
Tôi treo ba lô lên cây rồi xách súng đi vào rừng để khảo sát khu vực quanh đây tìm chỗ thuận lợi dựng lều, đồng thời kiếm ít thức ăn. Loanh quanh đến nửa buổi vẫn không tìm được nơi nào vừa ý, trước hết là do không có nguồn nước. Tôi cũng kiếm được mấy dây củ mài và dùng dao để đào. Gặp mùa khô nóng đất cứng như đá, đào đến bong da tay mà chỉ moi được một hố nhỏ. Còn cái giống củ rừng quý báu có thể nuôi sống người thì như đã chui xuống tầng đất sâu để tránh nắng. Thất vọng, tôi đành tay không trở về.
Đứng dưới gốc cây, tôi do dự hồi lâu, nửa muốn đi tìm chỗ trú, nửa định đi quanh vùng đồi cỏ xem có dấu vết của bọn thám báo hay không.
Lúc này đã gần trưa. Nắng bắt đầu đốt nóng lớp đất sỏi làm những lá cỏ vốn đã héo úa nay càng quắt lại. Trước mặt tôi hơn trăm mét về hướng đồi cỏ có một quả đồi chắn ngang tầm nhìn, sườn đồi lác đác những tảng đá đen sạm trông như đàn lợn rừng nằm phơi nắng. Dưới chân đồi là cái khe cạn, lòng khe trơ toàn đá sỏi, nhưng khúc phía dưới hình như vẫn còn nước vì cây hai bên bờ xanh um. Tôi cầm túi phao bơi băng qua bãi trông đi xuống, hy vọng sẽ kiếm được nước ở đó. Sáng nay toàn gặp những điều không may! Đúng là đoạn khe đó có vũng nước nhưng nó vừa cạn, chỉ còn lại lớp bùn sền sệt bên dưới mấy tảng đá.
Tôi chán nản quay lên. Mới đi được mươi bước thì đột ngột, tiếng động cơ phành phạch rộ lên ngay phía sau. Tôi kinh hoàng ngoái lại, thấy một chiếc HU. 1A lừng lững vọt qua đỉnh đồi, bóng nó lướt vùn vụt trên những tảng đá nơi sườn dốc. Không kíp nghĩ ngợi gì nữa, tôi co chân chạy như tên bắn. Chiếc trực thăng vụt qua. Và chừng như phát hiện ra, nó chững lại rồi lượn nửa vòng, đắc thắng bay về phía tôi. Bên hông máy bay, nòng đại liên nhăm nhăm chúc xuống.
Tôi vừa ngoắt người chạy sang phải thì tiếng súng đã nổ toang toác, loạt đạn chụp xuống phía sau. Chỉ cần chậm một tích tắc là đạn găm trúng người. Vừa lao nhanh vùn vụt tôi vừa quay người đảo hướng liên tục. Luồng đạn lúc đuổi theo bén gót, lúc cày tung bụi bên phải, bên trái. "Trúng này... trúng...", tôi căng người đón cảm giác nhói đau khi bị đạn găm, trong lúc chân vẫn guồng nhanh như máy. Chưa bao giờ tôi chạy nhanh được đến thế. Như một con nai lúc bị con cọp đuổi theo, nỗi kinh hãi đến tột độ đã huy động tất cả sức lực tất cả lý trí tất cả giác quan, giúp tôi phản xạ chính xác lúc luồng đạn đuổi tới. Đích là gốc cây cổ thụ, nơi gần nhất và duy nhất có thể nấp tránh đạn. Tiếng động cơ rú như điên dại ngay trên đầu, cái bóng trực thăng đen ngòm lướt đè qua người tôi. Đại liên vẫn ré dằng dặc, đạn cắm tóe bụi thành đường ngoằn ngoèo trên đất sỏi, nghe có cả tiếng chiu chíu bên tai. Thoáng trước mắt vệt bóng râm của cây. Sắp thoát rồi! Đang chạy, tôi đảo người lao thẳng đến gốc cây. Luồng đạn đuổi theo chém rào rào trên vòm lá. Chiếc trực thăng sạt qua thốc gió cuộn cành lá nghiêng ngả. Tôi nép vào gốc cây há mồm thở dồn dập, chân khuy xuống lẩy bẩy, phần vì mệt, phần vì mừng rỡ.
Con quái vật đã quành lại. Nó vè vè lượn quanh, bắt đầu bắn xuống từng loạt ngắn như muốn thúc con mồi chạy ra. Cái khối xanh xám lừ lừ lướt qua kẽ lá. Nó sẽ không bỏ cuộc. Nó đang tức điên lên vì vuột mất con mồi tưởng đã mười mươi trong tay. Tôi cố gắng điều hòa hơi thở, mắt không rời khỏi vòng lượn của nó, chân tự động men quanh gốc cây tránh đạn. Không như cây thủy tùng, cây này thấp và tán rộng, che kín hơn.
Chiếc trực thăng lảng ra xa: nó sắp phóng rốc két. Cảnh giác buôn buốt rợn lên chạy dọc cột sống, tôi co cứng người nép mình vào gốc cây chờ tiếng đạn rít, y như hôm trước bên gốc thủy tùng.
"Như hôm trước?", người tôi vụt nóng rực, trong đầu ngùn ngụt lửa giận.
"Oang... oang”, hai phát rốc két nổ chát chúa làm bùng lên hai cột khói lửa cùng cát bụi và mảnh đạn. Tôi nghe và nhìn thấy tất cả, nhưng không mảy may bận tâm. Đầu óc bừng bừng mà tôi tỉnh táo hơn bao giờ hết. Những tiếng rào rào vừa dứt, tôi nhỏm dậy khoác chéo súng sau lưng, nhảy ba bước tới bám thân cây khô thoăn thoắt trèo lên. Chiếc trực thăng lướt qua ngọn cây, động cơ rồ đinh tai. Lúc gần chui ra khỏi vòm lá, tôi ngồi lại bình tĩnh hít một hơi dài, tuột súng cầm ở tay. Đưa mắt dõi theo đối thủ, tôi biết nó sẽ lượn tới để xem kết quả loạt rốc két. Nhánh cây khô ngay trên đầu, chỉ một cú nhún là tôi bật người lên đó không mấy khó khăn, nhưng phải tính vòng lượn của nó thật chính xác.
Tiếng phành phạch lại dội tới, cành lá xung quanh vật vã tơi bời. Đã đến lúc! Hoặc bây giờ, hoặc không bao giờ cả! Tôi bật dậy, trong chớp mắt đã đứng vững hai chân trên nhánh cây khô, lưng dựa vào đoạn thân cây tróc vỏ cụt ngọn. Luồng gió cánh quạt thốc tới ép người tôi vào thân cây nên càng vững. Chiếc trực thăng đang nghiêng sườn về phía tôi, gần như đối diện qua vòm lá. Tôi lạnh lùng nâng súng lên, cùng lúc tên phi công ngoảnh sang và nhìn thấy. Mặt nó nghệt ra, vì kinh ngạc chứ không phải hoảng sợ, nó chưa kịp sợ. Không ngờ tới việc đối thủ dám leo lên cao để đối mặt, nó đã quá chủ quan khi sà xuống thấp và bây giờ phải trả giá, không phải cho sự chủ quan mà cho tất cả những gì nó và đồng bọn đã gây ra cho tôi, cho đồng đội tôi. Qua đường ngắm, tôi thấy tên phi công quờ tay định làm động tác gì đó, nhưng muộn rồi! Tôi nhẹ nhàng siết cò, xả hết tất cả những viên đạn còn lại vào nó, vào bóng người phía sau nó, và biết chắc chắn trúng đích. Khi dồn hết tinh lực vào đường đạn, người xạ thủ cảm nhận được viên đạn trúng đích ngay lúc bóp cò.
Mọi việc còn lại diễn ra như trong một đoạn phim hoạt họa: tên phi công ngất đầu trên ghế lái; chiếc trực thăng theo đà bay tới, chòng chành chao đảo, nhưng lần này không phải trổ tài tránh đạn mà là để chúc đầu lao thẳng xuống mé rừng. Nó va vào hết cây này đến cây khác rồi đâm sầm xuống đất, cánh quạt chém lá bay tơi tả, một vạt cây rừng rung chuyển dữ dội, động cơ còn gắng lạch phạch vài tiếng nữa rồi mới câm hẳn.
Tôi nín thở chờ một ánh lửa bùng lên kèm theo tiếng nổ, nhưng... Không có gì cả! Cây cối trở lại yên tĩnh như không hề biết đến một cuộc đọ súng quyết liệt vừa xây ra, không hề có những tiếng nổ, tiếng gẩm rú phát ra từ những sản phẩm của nền văn minh cơ khí vốn xa lạ với bản chất hoang dã của rừng.
Chợt thấy toàn thân bủn rủn, tôi phải vòng tay ôm cứng lấy thân cây khô mới khỏi ngã. Mệt nhọc và căng thẳng của trận quyết đấu đã vắt kiệt những giọt năng lượng cuối cùng trong người. Chật vật mãi tôi mới xuống được mặt đất.
Nằm vật bên gốc cây, tôi mở nắp bi đông đưa lên liệng uống một ngụm mật ong. Không thể uống nhiều được, lúc này mà say đứ đừ ra đây là chết.
Lát sau thấy người đỡ run, tôi nhỏm dậy tay súng tay ba lô xách chạy vào rừng.
Giờ đến lúc phải kiểm tra lại chiếc máy bay vừa rơi. Tôi rút dao găm cũng là lưỡi lê AK cắm lên đầu súng, đi men mé rừng tới chỗ nó. Con quái vật đã từng săn đuổi tôi một cách hả hê nay nằm chết gục, câm lặng. Trước khi đâm xuống đất, nó còn để lại những vết thương toác ra trên những thân cây, chém gãy một loạt cành lá và đè nát đám dương xỉ. Đầu máy bay móp méo, mặt kính buồng lái nứt rạn, một đoạn cánh quạt văng xa đến hơn chục mét, đuôi đứt rời chỉ còn dính với thân bằng những thứ dây dơ bằng nhằng. Một bên càng của nó cong vênh lên và gãy làm mấy khúc. Nó không bốc cháy là chuyện lạ và cũng là may mắn cho rừng.
Tôi đứng lặng người bởi trạng thái xúc cảm đột ngột chuyển từ đối cực này sang đối cực khác. Sau những choáng ngợp vì căng thẳng, niềm vui chiến thắng bây giờ mới nở bừng. "Các anh ơi, em đã trả được mối thù..." Nước mắt tôi trào ra...
Trong máy bay có ba xác chết. Xác tên phi công còn ngồi trên ghế lái nhờ có dây an toàn giữ lại. Người nó lỗ chỗ vết đạn, máu đọng thành vũng bên dưới ghế lái, chiếc mũ phi công màu cỏ vẫn đội trên đầu. Bên cạnh, một tên khác chết gục xuống ghế, tay ôm khẩu ARI5. Chỉ nhìn qua, tôi biết hắn cũng dính đạn AK. Còn thằng bắn đại liên lưng đeo khẩu M.4 đang nằm vắt nửa người ngoài cửa máy bay, một dòng máu ứa ra bên mép chảy nhỏ giọt xuống cỏ. Trên người tên này không có dấu đạn, hắn chết do bị va đập. Bên cạnh hắn, khẩu đại liên chổng nòng lên trời, thùng đạn bắn dở còn gắn trên súng.
Tôi nâng xác tên bắn đại liên, gỡ khẩu M.4 ra khỏi người nó và gỡ luôn thắt lưng đạn đeo vào người. Kiểm tra lại súng thấy băng đạn còn đầy nguyên, tôi giật khóa nòng vài lần cho quen tay rồi lắp lại băng, khoác súng lên vai thở phào nhẹ nhõm. Giờ khỏi lo thiếu vũ khí. Loại súng này chẳng xa lạ gì với tôi, nó lại gọn nhẹ, rất thích hợp khi sử dụng trong rừng.
Tôi kéo cả ba cái xác xuống đặt ngay ngắn trên cỏ. Khẩu AR15 có kính ngắm làm tôi vô cùng thích thú, thứ kính ngắm này là ước mơ của mọi xạ thủ. Hai khẩu tiểu liên lại bắn cùng loại đạn, rất tiện. Khi mở xem băng đạn thấy đã vơi quá nửa, tôi ngửi nòng súng: có mùi khét. Thì ra nó là kẻ đã tạo ra tiếng "chiu chíu” bên tai khi tôi bị săn đuổi giữa bãi trống.
Dù đang phấn chấn với chiến thắng và nôn nóng muốn biết xem mình còn thu được những chiến lợi phẩm gì, nhưng tôi không quên rằng kẻ thù có thể ập tới bất cứ lúc nào. Bài học bên cây thủy tùng còn nóng hổi. Tôi gỡ bao súng ru lo của tên phi công đeo vào thắt lưng, bỏ mấy băng đạn vào ba lô, rồi ôm khẩu AK và khẩu AR15 đem đi giấu. Mọi việc đều sẵn sàng để nếu có động sẽ chạy luôn vào rừng.
Những thứ tìm thấy sau đó khiến tôi hết sức ngạc nhiên và mừng rỡ: trong khoang máy bay có hai thùng đạn đại liên còn đầy nguyên, và một thùng cỡ nhỏ hơn đựng những hộp đạn AR15 vàng chóe, loại hộp giấy cứng có ghi số lượng năm mươi viên bằng tiếng Anh. Lại một thùng hai mươi quả lựu đạn; hai thùng giấy đựng những gói khẩu phần ăn dã chiến; một thùng gỗ đựng vài chục hộp thịt loại nửa kí. Trong góc sàn máy bay có một bó quần áo rằn ri còn mới, khoảng chục đôi giày lính cao cổ đế cao su màu đen. Tôi còn tìm thấy một cuộn vải nhựa màu ngụy trang loang lổ dùng để căng lều và một bó pôngxô, thứ áo mưa rất tiện lợi của lính ngụy.
Ngẩn người nhìn đống chiến lợi phẩm ngổn ngang, tôi lúng túng chưa biết phải làm gì. Đúng là của trên trời rơi xuống”, theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Có nằm mơ tôi cũng không dám mơ được như thế. Lát sau, tôi quyết định bỏ thêm vào ba lô mấy hộp thịt cùng một số túi khẩu phần ăn, vác thùng lựu đạn và thùng đạn tiểu liên đi giấu nơi khác. Những thứ còn lại... thôi thì cứ tạm để tại chỗ. Chiếc máy bay nằm khuất dưới tán cây, chỉ cần ngụy trang chút ít là ổn. Tôi kéo mấy nhánh cây gãy đem giấu trong bụi rậm. Đám cành lá này lúc héo dễ gây sự chú ý cho bọn trực thăng nếu chúng đi tìm. Cẩn thận hơn, tôi dùng dây rừng níu cành cây xung quanh xuống che trên xác máy bay. Giờ chỉ có đi dưới đất, mà phải tới gần, mới phát hiện ra.
Nắng đã xế. Những công việc trên làm mất khá nhiều thời gian. Chợt nhớ tới chiếc đồng hồ trên cổ tay viên phi công, tôi tới gỡ ra, thấy đã hai giờ. Ngần ngừ một lúc, tôi đeo luôn nó vào tay. Đồng hồ bây giờ rất cần. Chiếc "pônzốt” của tôi bị hỏng lúc ngồi trên xe đi từ Bãi Hà.
Đói đến muốn xỉu. Tôi xách súng và ba lô đi tránh sang nơi khác để khỏi nhìn thấy những xác chết, rồi mở một hộp thịt. Vừa ăn, tôi vừa nghĩ tới việc khó xử nhất: đó là mấy cái xác kia. Chôn hay không chôn? Nhớ lại cảnh hai chiếc trực thăng ngoi lên nhào xuống, những quả rốc két đỏ lừ, hai xác người tung lên, những chùm tiếng nổ... Cổ họng nghẹn lại, tôi bỏ hộp thịt ăn dở xuống đất, chợt lợm giọng như ngửi thấy mùi tanh của máu, mùi khét lẹt của thuốc súng... Đúng! Tôi có quyền không chôn mấy cái xác kia vì những gì chúng đã làm khi anh Đằng và anh Hùng ngã xuống. "Ừ, cứ cho rằng chúng là lính, đánh nhau thì phải có người chết, chiến tranh là thế! Nhưng hành hạ những người đã chết, bắn vào họ hàng chục quả đạn đến tan xương nát thịt, thử hỏi chúng có còn là con người nữa không?..."
Tôi uể oải chống súng đứng dậy, đi ra chỗ máy bay rơi. Ba cái xác nằm trên cỏ. Viên phi công trạc tuổi tôi, ve áo có hai bông mai, vết máu trên chiếc áo pilốt giờ đã đen sẫm lại. Kẻ bên cạnh trông già hơn, đeo hàm thượng sĩ, thằng này đã nhắm bắn tôi bằng khẩu AR15. Tên bắn đại liên là hạ sĩ, mặt còn non choẹt, ruồi nhặng đang bu đầy trên dòng máu rỉ ra bên mép. Lúc này chúng chỉ là ba cái xác không hồn. Không biết khi xả súng vào tôi, vào một con người nhỏ bé đang chạy cuống cuồng trên bãi trống, chúng có nghĩ gì không? Có phải đây là một trong hai chiếc đã tấn công chúng tôi hôm trước? Ở hai thùng rốc két mới có hai lỗ trống, nhưng cái đó không nói lên được điều gì? Trên khúc đuôi máy bay gãy rời có dấu đạn sượt qua. Dấu đạn chứ không phai vết va đập vì nó cày xước lớp vỏ đuyara của máy bay. Sáng nay tôi chỉ bắn vào buồng lái? Lại còn cái cách vòng lượn, săn đuổi của nó? Thế là rõ rồi!
Tôi bước tới lục trong người ba cái xác lấy ra một mớ giấy tờ và xem qua mấy tấm thẻ quân nhân. Viên phi công tên Trà, Nguyễn Tiến Trà, hai mươi lăm tuổi. Viên thượng sĩ tên Lộc, còn tên lính trẻ là Tình. Mỗi tên đều đeo trên cổ tấm lắc bằng inoc có ghi tên tuổi, số lính... Những cái tên cũng bình thường, vẫn gặp đâu đó trên đất nước này.
Nhìn lũ ruồi nhặng đang vo ve quanh mấy cái xác, tôi chợt chạnh lòng. Dù là kẻ thù, nhưng giờ đây khi đã chết, họ lại là những con người, những trai tráng cùng thế hệ với tôi, chỉ hơn kém nhau vài tuổi... Họ cũng có một gia đình ở đâu đó có một mái nhà nơi làng quê hay góc phố, có những người thân đang chờ họ. Chỉ đêm nay thôi, những con thú ăn thịt sẽ mò tới... Tôi sẽ như thế nào nếu sau này qua lại nơi này thấy những đốt xương người vương vãi?
Tôi đào đất bằng một chiếc xẻng tìm thấy trên máy bay. Loại xẻng này thường được trang bị cho lính thám báo, có thể gấp lại đeo ở thắt lưng, lúc dùng vặn ra thành xẻng hoặc cuốc. Đến bốn giờ chiều mới đào xong cái huyệt đủ sâu để sau khi chôn thú rừng không bới lên được. Mất khá nhiều thời gian và sức lực, vì chiếc xẻng tuy tiện nhưng nhỏ quá. Lần lượt đặt từng cái xác lên tấm pôngxô, tôi nắn người họ cho thẳng; cuốn lại cẩn thận rồi dùng sợi dây võng đưa xuống huyệt. Phải xếp nghiêng vì huyệt hơi hẹp, nhưng họ không đến nỗi chất chồng lên nhau.
Vun hết chỗ đất đào lên thành nấm mộ, tôi đặt một hòn đá đánh dấu hướng đầu và cắt mảnh nilon gói kỹ những giấy tờ tìm thấy chôn bên dưới hòn đá. Hy vọng có lúc nào đó họ được người thân đưa về, nhưng điều này hết sức xa vời. Dầu sao tôi cũng không muốn họ nằm mãi ở đây, không phải vì họ mà vì những người thân của họ. (Và tuy không có những suy nghĩ rõ nét, tôi vẫn thầm biết ơn những kẻ đã mang đến cho mình các thứ cần thiết đúng vào lúc gay go nhất, cho dù chúng chẳng hề có ý tốt đó).
Xong mọi việc, tôi vội vã leo lên cây dùng ống nhòm tìm xem nơi nào có thể có nước. Sắp tối rồi, không khéo đêm nay phải nhịn khát.
Sực nhớ tới cái khe cạn lúc sáng, tôi hướng ống nhòm về phía ấy. Nước trong khe phải đổ xuống một dòng chảy khác, một con suối chẳng hạn! Nếu nơi đó còn nước và nó nằm trong tầm ống nhòm, sẽ thấy cây ven bờ có màu xanh tươi hơn các nơi khác, nhất là lúc về chiều. Sau một hồi sục sạo, tôi bắt gặp vệt cây xanh ở phía tây vùng đồi: nơi tiếp giáp với rừng. Kiên nhẫn rà theo dải cây đó, tôi nhìn thấy điều mình cần: một khúc suối ẩn hiện sau rặng cây, mặt nước đang chói nắng chiều lấp loáng. Từ đây xuống đó chừng hai cây số.
Choàng ba lô lên vai, tôi xách súng khấp khởi nhằm hướng con suối đi tới. "Hôm nay quả là một ngày may mắn!", tôi tự nhủ, chợt nhớ ra mình vừa nghĩ ngược với điều suy nghĩ lúc sáng. Hăm hở rẽ nhánh cây lấy lối đi, cả người tôi lâng lâng trong tâm trạng khó tả. Mình đã làm được những điều kỳ diệu biết bao: thoát chết trong một hoàn cảnh mà sự sống chỉ còn ngàn cân treo sợi tóc. Việc bắn hạ chiếc trực thăng làm vợi nỗi đau của những ngày trước đó. Tôi cũng thấy thanh thản hơn khi chôn cất tử tế mấy xác chết. Hơn nữa giờ đây tôi lại có đủ súng đạn, có những vật dụng cần thiết vượt trên mọi mong ước, sau này có kể lại cũng ít ai tin. Nhưng... Choáng váng bởi một ý nghĩ vừa thoáng qua, tôi ngồi thụp xuống chĩa súng ra phía trước, căng mắt soi mói nhìn quanh. "Chẳng lẽ chiếc trực thăng chở từng ấy quân trang quân dụng chỉ để tới đây tìm bắn nhau với mình? Cuộc chạm súng rõ ràng bất ngờ và hoàn toàn tình cờ. Những thứ trên máy bay... Chừng ấy đạn dược, lương ăn, chục bộ quần áo, chục đôi giày... Số đó đủ trang bị bổ sung cho một tiểu đội? Chiếc trực thăng đang làm nhiệm vụ tiếp tế cho một toán thám báo đang chốt ở một nơi nào đó..." Kết quả suy luận lôgic làm tôi lạnh toát người.
Ở xung quanh, rừng vẫn êm ả trong bóng chiều tà. Đây đó thấp thoáng vài con chim bay tử chòm cây này sang chòm cây khác, chúng đang vội vã kiếm mồi trước khi về tổ. Nắng chiều nhạt dần, khí trời dịu xuống, trong không gian thoảng thơm mùi cỏ héo. Cảnh rừng tĩnh lặng làm dịu đi sự căng thẳng, nhịp tim đập bình thường trở lại. Không loại trừ trường hợp bọn thám báo đang có mặt ở vùng này, nhưng giờ đây tôi có đủ vũ khí, lại chỉ một mình dễ ẩn nấp, dễ lẩn tránh trong rừng. Kinh nghiệm chiến đấu và những thử thách vừa qua giúp tôi có đủ bản lĩnh để đối đầu với chúng. Khi cần thiết tôi sẽ đánh trả bằng sức mạnh của bốn người...
Tôi vững tâm đi về hướng con suối, biết rằng cuốn sách đời mình giờ đã lật sang trang mới.