Chương 9:
Chúng tôi leo lên tới đỉnh núi lúc trời đã tối mịt. Lát sau thì trăng lên.
Đêm ấy trăng rất sáng, trăng sáng đến nỗi màn sương dày đặc mọi hôm nay như mỏng và trong hơn, và ánh lửa cũng nhạt màu.
Không hiểu sao lúc đi ngủ tôi lại bắt gặp cảm giác lo âu thấp thỏm như đêm nào ở bên bờ vực, chỉ khác hôm nay không có tiếng nước réo ì ầm vọng lên từ đáy vực sâu. Tâm trạng bồn chồn cứ ám ảnh mãi trong đầu, ngay cả lúc tôi đã thiếp đi trong giấc ngủ nặng nhọc. Suốt đêm tôi toàn nằm mơ thấy ác mộng, nhưng sáng ra chẳng nhớ được gì, chỉ thấy người mệt nhừ.
… Mãi nhiều năm về sau tôi vẫn nghĩ, phải chăng đã có lúc linh tính báo cho tôi biết trước hiểm họa? Đấy có phải cái mà người ta thường gọi là giác quan thứ sáu, hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa trạng thái tâm lý với sự việc xây ra sau đó? Chịu! Không thể cắt nghĩa được! Nhưng nếu đoán chắc sắp có nguy hiểm thì nó đến khi nào? Từ đâu? Và diễn ra như thế nào? Quả thực trong tôi lúc đó chỉ có cảm giác lo lắng mơ hồ mà chẳng hiểu được vì sao...
Chúng tôi thức giấc từ khì nghe chim hót những tiếng đầu tiên. Bên ngoài sương mù đặc quánh tưởng như có thể xắn ra được từng tảng. Trăng đã lặn. Trời đang tối lại trước khi hửng sáng nên ba chúng tôi vẫn nằm trong lều khe khẽ nói chuyện với nhau, dù rất nôn nóng muốn nhìn rõ miền đất mới.
Lúc mặt trời lên, anh Hùng leo lên cây quan sát và báo trong tầm nhìn là một vùng rừng khá rộng. Chưa thấy được gì hơn vì trời mới sáng, trên rừng còn nhiều sương. Chúng tôi bàn bạc và quyết định cứ đi tiếp về hướng tây. Trước mắt, vẫn phải tìm kiếm trong khu vực có bán kính trên dưới hai mươi cây số, tính từ chỗ vượt ở bờ vực.
Rừng ở đây khá thưa và khô ráo, có lẽ từ nhiều tháng nay chưa có mưa. Những cơn mưa chúng tôi gặp ở miệt rừng phía dưới không đổ xuống nơi này. Chừng giữa buổi, anh Đằng bảo tôi leo lên cây xem tình hình thế nào. Tôi chọn một cây cao mọc ở đầu dốc, leo tuốt lên đến ngọn. Từ đây có thể nhìn thấy cả một vùng rừng rộng, nhấp nhô như những ngọn đồi. Xa hơn về phía tây có những ngọn núi chập chùng hút tầm mắt. Hướng tây bắc núi thấp dần rồi hòa lẫn vào với rừng. Miền đất này có vẻ như là một vùng sơn nguyên, không rộng lắm nhưng tương đối bằng phẳng.
Chợt có cái gì đó khang khác khiến tôi dừng mắt lại, hình như một tán cây cao vượt lên trên cánh rừng. Tôi vội đưa ống nhòm lên: đúng là một ngọn cây, trông xa như cái tháp nhọn có màu xanh đậm hơn so với màu rừng xung quanh. Tôi run lên, trong người rần rần như có luồng điện chừng vài chục vôn chạy qua. Hình dạng và màu sắc khác lạ của ngọn cây làm tôi nghĩ rằng đó là cây thủy tùng mà chúng tôi đang mỏi mắt tìm kiếm. Đang định kêu to mừng rỡ, tôi kịp kìm lại. Biết đâu chỉ là một sự nhầm lẫn...
Tôi tuột nhanh xuống đất, cố nén hồi hộp kể lại những điều vừa trông thấy...
Chúng tôi nhằm hướng ngọn cây lạ, hăm hở cắt rừng băng tới. Nắng đổ lửa. Mọi con vật đều chui vào bụi rậm tìm chỗ mát. Những bóng cây cũng thu nhỏ lại như muốn tránh nắng. Rừng trở nên vắng vẻ lạ thường. Trong không khí oi bức của ngày hè, chỉ còn nghe tiếng lá khô giòn vỡ rào rạo dưới chân và tiếng ve sầu rền rĩ đều đều ru vạn vật vào giấc ngủ trưa nồng. Thỉnh thoảng mới có ngọn gió từ hướng tây nam thổi tới, nhưng chỉ đủ lay động mấy cành lá trên cao.
Đi trong rừng mới biết nó không bằng phẳng như khi nhìn từ trên cao xuống. Mồ hôi trên người tôi vã ra như tắm nhưng ngay lập tức biến thành lớp muối rin rít. Cái nóng ngấm vào từng thớ thịt làm người cứ hừng hực lên.
Khoảng hai giờ chiều thì rừng thưa dần. Chen vào giữa những gốc cây là mấy vạt đất trống phủ lớp cỏ héo rũ. Phía trước đã thấy nền trời xanh thấp thoáng sau các thân cây Mọi người hối hả bước nhanh.
Ra đến bìa rừng, cả ba chúng tôi cùng đứng sững lại. Trước mắt là một cây cổ thụ khổng lồ mọc giữa bãi trống, tán lá xanh thẫm đang đung đưa trên nền trời. Chỉ nhìn phần ngọn chót vót của cái cây này cũng đủ biết nó có sức sống mãnh liệt đến nhường nào. Từ bìa rừng ra tới gốc cây là một khoảng đất rộng chừng bốn trăm mét, thưa thớt dăm bụi cây cằn cỗi mọc lúp xúp trên nền đất sỏi. Phía sau gốc cây có một triền đồi thoai thoải lơ thơ những ngọn cỏ xác xơ.
Mấy phút sau như sực tỉnh, chúng tôi rảo bước đi về phía cái cây đó. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là cây thủy tùng cần tìm. Cây mọc hơi nghiêng về hướng đông bắc, gốc to cỡ ba chúng tôi nối tay nhau cũng chưa ôm hết nửa vòng. Trên lớp vỏ màu nâu đen nứt rạn có những đám địa y bám trắng xóa. Từ lưng chừng thân cây, những nhánh cây to tướng đâm ngang vươn cành lá rườm rà che mát cả một vùng rộng. Mặt đất quanh gốc cây không mọc một ngọn cỏ nào, chỉ có vô số những chiếc lá hình kim rụng xuống lâu ngày làm thành một lớp dày êm như nệm tỏa mùi thơm hăng hắc, thứ mùi chi có ở loài tùng bách.
Anh Hùng đi quanh gốc cây, tay rờ rẫm lớp vỏ sần sùi, miệng tấm tắc: - Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái cây nào đẹp như thế này. Đúng là ở rừng cả đời cũng chẳng ai dám nói đã biết hết về rừng.
Còn anh Đằng thì ngửa mặt nhìn những cành lá đang rì rào trên cao, hồ hởi nói:
- Thế là yên tâm đồi, các cậu ạt Chúng ta đã đến được nơi cần đến. Chà, Sơn nó mừng phải biết... - Anh rơm rớm nước mắt.
Tôi bồi hồi lắng nghe tiếng lá reo vi vu trong gió, mắt ngóng lên đồi cỏ nhuốm nắng hoe vàng mà thấy lòng lâng lâng, người như nhẹ bổng hẳn ra. Mọi vất vả nhọc nhằn, mọi thấp thỏm lo âu biến đâu hết, chỉ còn lại niềm vui phơi phới...
Anh Đằng tuyên bố.
- Tối nay ta ngủ lại đây? Còn bây giờ phải lên trên kia xem thế nào. - Anh khoát tay, chỉ lên hướng đồi cỏ trước mặt.
Chúng tôi trút ba lô lại dưới gốc cây, xách súng háo hức đi nhanh như chạy. Từ chỗ cây thủy tùng lên tới đỉnh đồi chùng nứa cây số. Sườn đồi thoai thoải, những búi cỏ mọc lưa thưa trên nền đất mưa xói lâu ngày còn trơ lớp sỏi màu gan gà.
Đi được hơn trăm mét, tôi bỗng trượt chân khuy xuống vì giẫm phải hòn đá tròn to hơn nắm tay. Không bị trẹo chân, nhưng chiếc dép bên trái tuột hai quai cùng một lúc. Tôi đặt súng xuống đất, loay hoay xỏ quai dép. Khi mang lại nó vào chân, ngẩng đầu lên thấy hai anh đã đi trước một quãng xa.
Đang định đứng dậy chợt nghe có tiếng ù ù là lạ. Tôi tưởng có con bọ cánh cứng nào bay gần đó nên đưa mắt nhìn quanh, nhưng không thấy. Cúi xuống nhặt súng để đi tiếp, lại nghe tiếng ù rõ hơn. Một ý nghĩ lóe trong đầu làm người lạnh toát, tôi vội nghiêng người áp một bên tai xuống đất: tiếng ù dội thành tiếng phành phạch. Chết rồi, trực thăng! Chắc nó nổ máy đỗ phía bên kia đồi hoặc bay thấp sát mặt đất nên tiếng động cơ mới dội lên như vậy. Hai anh đi trước nhưng không nghe được vì gió thổi bạt tiếng động theo triền đồi lên cao. Tôi vùng dậy gào thất thanh: "Máy bay anh Đằng ơi? Quay lại, trực thăng đấy..." Đang bước nhanh, nghe tiếng tôi gào, cả hai anh dừng lại quay đầu nhìn tôi ngạc nhiên. Tôi lại thét: “Trực thăng, chạy mau..." Chưa dứt lời, tiếng động cơ đã rộ lên rõ mồn một.
Hai anh tuột súng cầm tay, quay ngoắt người chạy xuống. "Chậm mất rồi...", tôi tuyệt vọng kêu thầm. Phía trên đỉnh đồi, chiếc cánh quạt quay tít đang nhô cao dần, hằn đậm nét trên nền trời xanh lơ lửng mấy cụm mây trắng. Chỉ loáng sau, cái đầu máy bay nhô khỏi đỉnh đồi và to lên rất nhanh: một chiếc HU.1A. Nó lao thẳng lại phía tôi, mặt kính buồng lái phản chiếu ánh nắng loang loáng.
Mặt đất trống trải, không một bụi cỏ, một tảng đá nào cao quá đầu gối. Cả ba chúng tôi lồ lộ trên sườn đồi, chàng nấp vào đâu được. Tôi quỳ một chân xuống đất, giương súng nghiến răng xiết cò, bắn xả cả băng đạn vào con quái vật màu xanh xám đang lao tới. Chiếc trực thăng lạng nhanh qua trái và bốc lên cao, sức gió cánh quạt cuộn tung những lá cỏ khô. Trượt rồi! Nó đã phát hiện ra tôi ngay từ những phát đạn đầu tiên.
Tôi bật dậy, quay ngoắt người vừa lao xuống đồi vừa thay băng đạn. Phía sau, các anh đang tách ra hai hướng chạy xuống.
Chiếc trực thăng bay về phía mặt trời rồi quành lại. Tên phi công định lợi dụng ánh nắng làm lóa mắt chúng tôi, đồng thời chặn luôn hướng chạy vào rừng. Nó lao tới gần. Tôi đứng thẳng người nâng súng lên, nhưng vừa bắn một loạt ngắn đã thấy những sợi khói phụt phụt tử bên cửa hông máy bay, rồi luồng đạn đại liên cắm phầm phập ngay trước mặt. Tôi ôm súng cuộn người lăn tròn. Luồng đạn cày qua chỗ tôi vừa đứng, những cụm bụi nhỏ tung liên tiếp thành một đường thẳng lướt nhanh như lằn chớp. Chiếc trực thăng vụt qua, cái mũ màu cỏ của tên phi công ngọ nguậy trong buồng lái. Hai bên thân máy bay có gắn hai thùng hình trụ lạ mắt giống như cái đõ ong.
Tiếng AK rộ lên ở phía sau. Tôi nhỏm dậy nhìn: hai anh vừa chạy vừa bắn, chốc chốc lại lăn nhào tránh đạn. Tôi nâng súng đón chiếc máy bay đang vòng lại. Lần này nó bay cao hơn trăm mét, không dám sà xuống như trước. Tôi nhắm vào buồng lái siết từng loạt đạn dài. Biết là khó trúng nhưng không còn cách nào khác. Phải bắn rát buộc nó liên tục chao đảo tránh đạn, tạo cơ hội cho hai anh chạy. Cả ba chúng tôi cùng bắn, ba luồng đạn vụt lên vây lấy chiếc trực thăng. Nó hoảng hốt bốc lên cao và bay về hướng đỉnh đồi. Chúng tôi lợi dụng lúc ấy cùng bật dậy chạy. Chỉ cần đến được chỗ gốc cây là thoát. Tôi còn cách chừng năm chục mét, nhưng hai anh đang khá xa.
Tiếng động cơ lại rộ lên. Tôi quay người ghìm súng đợi nó đến gần hơn. Chiếc trực thăng lừ lừ bay đến, còn cao hơn cả lần trước. "À, mày sợ rồi phải không?..." Mới nghĩ thế, đã thấy hai luồng khói phụt ra từ hai chiếc "dõ ong”, rồi hai cục lửa đỏ lừ vụt tới. Chết rồi! Nó phóng rốc két. Loại này lạ, tôi mới nhìn thấy lần đầu. Tôi nhào xuống ép người sát đất, một cánh tay co lên đỡ trước ngực. “Oàng...oàng”, hai quả đạn nổ cách tôi vài chục mét, ánh chớp sáng lòa. Mặt đất rung lên, mảnh đạn và đá sỏi bay rào rào, khói cuộn mù mịt.
Đang lắc đầu rũ bớt đất cát thì nghe tiếng động cơ rồ tới rồi từng tràng đại liên tông tốc tóe khói xung quanh. “Thằng đểu! Nó bắn rốc két từ xa để thừa cơ áp sát..." Tôi lật người nằm ngửa trên đất, tỳ báng súng vào vai nhắm thẳng cái bóng xanh xám đang lướt tới trong làn khói, bắn từng loạt. Trong tiếng đại liên nổ chát chúa và tiếng động cơ rú đinh tai, vẫn nghe hai khẩu AK nổ giòn. Hai anh còn sống.
Tôi chỉ còn cách cây thủy tùng một đoạn ngắn, nhưng chiếc trực thăng vẫn quần riết trên đầu. Tên phi công quyết chặn không cho chúng tôi chạy tới gốc cây. Chúng tôi cũng không để nó yên. Những loạt đạn bắn rát buộc nó phải lạng lách, ngoi lên ngụp xuống liên tục, làm tên bắn đại liên không chỉnh được đường đạn. Nhiều lúc nó đang bắn, chiếc trực thăng chợt quay ngoắt làm luồng đạn vọt lên, cách xa cả trăm mét.
Lại thêm một loạt đạn cày tung đất tiến thẳng tới khiến tôi phải lăn tròn theo triền dốc. Khi tiếng động cơ vụt qua đầu, tôi bật dậy chạy thẳng tới cây thủy tùng. Một loạt đạn nữa xía ngược lại, nhưng tôi đã nép được vào gốc cây. "Mày không làm gì nổi tao đâu...", tôi nghĩ thầm, tay thay nhanh băng đạn mới.
Ngoài sườn đồi, hai anh vẫn vừa bắn vừa lăn, vừa vọt lên chạy từng đoạn ngắn. Chiếc trực thăng lại phóng thêm hai quả rốc két. Hai cột khói bụi cuộn lên như lốc xoáy. Kéo dài nữa là hai anh nguy mất! Nó có lợi thế hơn vì từ trên cao bắn xuống, hỏa lực mạnh, hai thùng rốc két mới bắn có bốn quả. Trong lúc đó tôi chỉ còn băng đạn cuối cùng. Phải dứt điểm chính xác mới mong đảo ngược được tình thế. Tôi nép vào gốc cây, rê súng theo chiếc trực thăng. Nó lại sà xuống, nghiêng sườn về phía tôi. Một tên Mỹ đen to lớn đang nhoài gần nửa người ra cửa máy bay, xoay nòng đại liên bắn như đổ đạn, lửa chớp liên tiếp đầu nòng súng. Tôi nheo mắt đưa nhanh tấm bia thật đen thui vào đường ngắm. "Chết mày này...", tôi bóp cò bình tĩnh như lúc bắn tập, chỉ điểm xạ hai viên. Tên Mỹ đen giật nảy người khuy xuống, kéo nòng đại liên chổng ngược bắn đạn lên trời. Cũng lúc đó chiếc trực thăng ngoặt lên hướng đỉnh đồi hất thằng Mỹ văng ra, xác nó lủng lẳng trên đầu dây bảo hiểm ngay bên cửa máy bay.
Từ trong đám khói bụi đang lắng xuống, hai bóng người chạy thẳng về phía tôi. Tôi mừng rỡ thét to: "Nhanh lên, các anh ơi...". Hai anh nhào tới như ngọn gió, vừa thở dồn dập vừa nhìn tôi cười. Tôi ôm chầm cả hai, hỏi nhanh:
- Các anh có sao không?
- Không sao! - Anh Đằng trả lời, đập tay vào vai tôi - Cậu bắn giỏi lắm! Chơi cú ấy được đấy.
Chưa kịp đáp, tôi chợt nhìn thấy một vệt máu đang loang ra trên vai anh, bèn kêu lên:
- Anh bị thương rồi, đưa em xem nào...
Mọi việc sau đó ập tới nhanh như cơn lốc, tôi hoàn toàn bị cuốn vào nó không cách gì cưỡng lại được. Anh Hùng đang băng lại vết thương cho anh Đằng. Viên đạn sượt qua vai nhưng ở phần mềm và không trúng mạch máu, giữ khỏi nhiễm trùng là ổn.
Phía đỉnh đồi, chiếc trực thăng đang treo lơ lửng, bọn trên máy bay vừa kéo xác tên Mỹ vào trong. Giờ nó có quay lại cũng chẳng đáng sợ. Chỉ cần khéo léo di chuyển quanh gốc cây, ba tay súng chúng tôi dư sức bắn hạ nó. "Biết điều thì quay về cho sớm kẻo hết xăng. - Tôi nghĩ - Phải công nhận tên phi công là thằng giỏi. Giữa ba nòng AK bắn rát như thế mà nó vẫn tránh được..." Khi say chiến thắng người ta thường rộng rãi, ngay cả với địch thủ của mình.
Tôi mở ba lô để lấy túi nước uống, nhưng mới rút dây buộc thì nghe tiếng phành phạch rộ lên. "Sao nhanh thế nhỉ? Mình vừa nhìn thấy nó trên kia..." Chiếc trực thăng vũ trang ào tới Tôi liếc mắt lên đỉnh đồi, thấy chiếc lúc trước giờ mới bay lại. Thôi chết? Thêm một chiếc nữa. Chiếc này bay từ hướng khác tới, ngược gió nên đến gần chúng tôi mới biết. Chắc được đồng bọn báo trước nên không cần lượn quanh dòm ngó, nó bay về hướng mặt trời, lấy độ cao và quành lại. "Cẩn thận, nó phóng rốc két đấy?", anh Đằng thét, kéo tôi nấp sau gốc cây.
"Oang...oang”, phát rốc két vụt qua, nổ cách chúng tôi chừng ba chục mét. Một bưng khói đen dựng lên cùng ánh chớp. Chúng tôi nhào xuống đất, vừa kịp tránh mảnh đạn. Chiếc máy bay sạt qua, cành thủy tùng lay chuyển ào ào như trong cơn bão.
Vừa mới nhỏm dậy đã nghe tiếng đại liên nổ rền, chiếc trực thăng lúc nãy đang nhào tới. Chúng tôi vọt qua bên kia gốc cây, một loạt đạn đuổi theo bén gót. Tình thế bây giờ cực kì nguy hiểm. Chỉ cần hai chiếc kẹp hai bên bắn xuống là chẳng còn nấp vào đâu được.
Tiếng động cơ vẫn ầm ầm trên đầu. Chúng lượn quanh và bắn xối xả, đạn cắm phầm phập vào thân cây. Tôi không còn phân biệt được chiếc nào là chiếc tới trước, cũng không kịp bắn. Chúng tôi căng mắt theo dõi từng động tác của hai con quái vật trên cao và nhào hết góc này sang góc khác, khi vọt lên, khi lăn tròn trên đất tránh đạn.
Lúc này, một chiếc treo lơ lửng phía bên kia bắn xuống từng loạt ngắn, chiếc còn lại lảng ra xa và bay lên cao. Ba chúng tôi túm vào một chỗ nhìn lên. Nguy rồi! Thằng bắn đại liên đang cố dồn chúng tôi sang một phía để chiếc bên này bàn rốc két. Nó bay lên đến độ cao cần thiết rồi ngoặt lại, chúi đầu lao xuống. Một vệt lửa vút tới kéo theo làn khói thẳng băng. Chúng tôi ép người sát đất. "Oang... Oang”. Quả đạn nổ trúng nhánh cây trên cao, thân cây vụt rung dữ dội. Mảnh gỗ cùng mảnh đạn văng tóe trong đám khói. Một loạt cành cây gãy răng rắc rơi ào xuống. Anh Hùng chụp tay tôi kéo mạnh, một nhánh cây to hơn cột nhà đập xuống đúng chỗ tôi vừa nhỏm dậy.
Tình thế mỗi lúc một nguy ngập hơn. Cứ thế này, tính mạng ba chúng tôi chỉ còn tính trong từng giây, cùng lắm là từng phút. Cành lá rơi um tùm quanh gốc cây, không sao xoay trở nhanh được. Tiếng anh Đằng gấp gấp:
- Phải tính cách khác, chứ không thể chết chùm với nhau ở đây...
- Để em chạy ra, kéo chúng nó theo - Tôi nói trong hơi thở hổn hển.
- Không được Cậu phải ở lại! - Anh Hùng quát.
- Hai anh ở lại. Khi chúng đuổi theo em thì chạy vào rừng.
Tôi nói cương quyết và bật người dậy, nhưng anh Đằng đã chụp tay kéo giật lại và xô tôi ngã chúi trong đám lá:
- Một người chạy ra cũng không được gì đâu. Cậu phải sống. Nấp đi? - Mắt anh long lên, sáng quác như có lửa ở bên trong.
- Hải nấp nhanh! Nó quay lại đấy! - Anh Hùng thét, mắt vẫn dõi theo vòng lượn của hai chiếc trực thăng.
Anh Đằng đẩy tôi chúi sâu vào đám lá, nói nhanh: "Cứ nằm yên may ra đánh lừa được tụi nó. Cố sống mà trở về Hải ạ? Nhớ nhé?" Dứt lời, anh xách súng vọt ra, chạy về bìa rừng phía nam.
Anh Hùng quay sang, kéo nhanh một nhánh cây phủ thêm trên người tôi, nói như dặn dò: "Cố lên Hải, đừng lo gì cho bọn mình!" Nói xong, anh nhảy qua đống lá chạy theo anh Đằng. Từ lúc quả rốc két nổ trên nhánh cây cho tới lúc anh Hùng chạy đi, chỉ trong mấy chục giây. Nhưng điều đó mãi sau này tôi mới nghĩ tới khi hình dung lại sự việc, chứ lúc ấy đầu óc tôi như bị đông cứng, tôi sững sờ không đáp lại được lời nào.
Tiếng AK nổ giòn rồi tiếng đại liên ré dằng dặc. Tôi lật bật xoay người trườn một đoạn dưới những cành tùng, tay run run vạch lá nhìn ra. Ngoài kia anh Đằng đang lao nhanh vùn vụt và liên tục đảo người đổi hướng, bỏ lại những loạt đạn cày tung bụi phía sau lưng. Mé dưới cách chừng ba chục mét, anh Hùng cũng đang chạy. Nghe tiếng súng nổ trên cao, tôi biết mới chỉ có một chiếc trực thăng bám theo. "Còn chiếc nữa đâu, hay là..." Chợt anh Hùng quay ngoắt lại, cặp súng vào nách ngửa người bắn một loạt dài. Gần như cùng lúc, một chùm đạn cắm xuống phía sau anh. Anh Hùng lộn người lăn tròn, đạn đại liên chớp nhằng nhằng xung quanh.
Tôi bật rên, chụp súng định chồm dậy, bỗng nghe anh Đằng thét lớn: "Hải nằm xuống... Phải có người sống..." Tôi cắn môi đến bật máu, cố ghìm người lại. Anh Đằng quỳ một chân trên bãi cỏ, chĩa súng bắn xả vào chiếc trực thăng vừa lao tới. Tiếng đại liên ngừng bặt, anh Hùng vùng dậy xách súng chạy tiếp. Cứ như thế, hai anh thay nhau bắn và chạy thêm được đoạn nửa, lúc này đã cách tôi khoảng trăm mét. Hai chiếc trực thăng vẫn bám theo như đỉa đói, đại liên nổ từng tràng không dứt. Vùng đồi cỏ như sôi lên trong tiếng động cơ, tiếng súng. Cát bụi, cỏ khô bay mù mịt. Tôi dõi theo hai bóng người nhỏ nhoi mờ mờ trong khói bụi, cố níu lấy một chút hy vọng dù biết là rất mong manh. Bìa rừng còn cách vài trăm mét, tài nghệ đến mấy cũng khó thoát khỏi hai khẩu đại liên bắn như phun lửa. Bọn trên máy bay đang tức giận đến điên cuồng.
Chợt tim tôi thắt lại: ngoài kia anh Đằng đang chạy bỗng đổ ập xuống, hình như một loạt đạn đã bắn trúng chân anh. Tôi run bắn người, hai tay bíu chặt xuống cỏ, cố nén những giọt nước mắt để nhìn ra. Anh Đằng vừa lật ngửa người nâng súng định bắn tiếp, nhưng những cụm khói vẫn phụt liên tiếp quanh anh. Ngay trước mắt tôi, anh giật nẩy người, khẩu súng rơi xuống ngực...
Thấy anh Đằng ngã, anh Hùng thét lên chạy nhào tới. Không được rồi! Anh chưa kịp đến nơi thì một loạt đạn găm trúng người. Khẩu súng rời khỏi tay, anh lảo đao chạy thêm mấy bước rồi gục xuống người anh Đằng... "Thế là hết..." Tôi nức nở dập đầu xuống đất, run lẩy bẩy...
Nỗi đau đớn bàng hoàng làm đầu. óc tê dại đi. Những sự việc sau đó diễn ra như một cơn ác mộng khủng khiếp. Tôi chỉ thấy trước mắt một ánh lửa chói lòa, hai thân người tung lên cùng cát bụi. Rồi những bưng khói bùng lên liên tiếp, hai chiếc trực thăng thay nhau phóng rốckét xuống chỗ hai anh vừa ngã. Người tôi nẩy theo từng chùm tiếng nổ dội đất. Khói đạn đen kịt, đất đá bay rào rào không ngớt, mùi thuốc súng nồng nặc nghẹt thở. Hai con ác thú vẫn lạnh lùng ngóc lên nhào xuống, tàn nhẫn phóng từng loạt rốc két hai quả, bốn quả… Những cục lửa đỏ lừ kéo chiếc đuôi khói trắng kèm tiếng rít sắc rợn vùn vụt lao xuống nổ cùng một chỗ.
Liên hồi những tiếng nổ lộng óc cùng sự đau đớn tột độ dìm tôi vào trạng thái gần như mê man, không còn biết những chiếc trực thăng đã bắn những quả đạn cuối cùng như thế nào, chỉ nhớ mang máng có một chiếc còn lượn vè vè quanh cây thủy tùng một vòng trước khi bay đi.
Lát sau, sự im ắng đột ngột trở lại làm tôi sực tỉnh. Tôi hất tung những cành lá trên người, chồm dậy quờ tay tìm súng rồi lao ra chỗ hai anh ngã xuống. Đến nơi, tôi khứng lại ngơ ngác nhìn quanh: tất cả chỉ còn là một bãi hố đạn nham nhở chồng chéo lên nhau, đất sỏi tơi vụn và nạm đen. Tôi rụng rời thả rơi khẩu súng, rồi như điên dại thụp xuống dùng tay cào bới lia ha hết mô đất này đến mô đất khác, đến lúc mấy đầu ngón tay tóe máu đau nhói mới sực nhớ rút dao găm đào tiếp. Mắt tôi nhòa đi từng lúc. Tất cả như mờ ảo, như không thực. Ngoài những mẩu đá, những hòn sỏi, những mảnh kim loại, trong đất không còn gì nữa...
Tôi buông dao, ngã vật xuống một hố đạn ôm mặt khóc tức tưởi. Chẳng lẽ hai con người bằng xương bằng thịt mới đó mà đã tan thành tro bụi rồi ư? Chẳng lẽ không còn một chút xương thịt nào? Cố trấn tĩnh, tôi bò lên khỏi hố đạn. Trên bãi cỏ, lổn nhổn những tảng đất đen sạm nằm im lìm dưới nắng chiều đìu hiu...
Hai tay ôm cái gói nilon nhẹ tênh, tôi ngửa mặt nhìn trời uất ức. Trong gói là những gì tìm thấy trên bãi cỏ: mấy mảnh thịt nát bấy, bầm máu và đen kịt thuốc súng, nửa chiếc dép cao su cháy sủi, một đoạn nòng AK cong queo. Tôi muốn gào thét, muốn chụp súng bắn, muốn đập phá, muốn làm một việc gì đó cho uất hận vơi bớt đi, trào bớt đi... Nhưng bắn vào cái gì? Đập phá cái gì? Đầu óc quay cuồng như sắp nổ tung, cánh rừng trước mặt nghiêng ngả, những cụm mây trắng xoay tít quanh mảng trời xanh, muôn ánh chớp lóe lên biến thành những mũi kim đâm buốt nhói trong óc. Cái gói trên tay rung bần bật...
Một tia nhỏ lý trí len lỏi trong những ý nghĩ cuồng loạn báo cho tôi biết mình đang mấp mé bờ vực của trạng thái suy sụp tâm thần. Tôi cố hít những hơi thở sâu nhưng không khí chỉ lọt vào phổi từng ngụm sau mỗi tiếng nấc...
Mặt trời sắp lặn, bóng cây thủy tùng ngả dài trên bãi cỏ Tôi loạng choạng bước xuống hố đạn sâu nhất rút dao vào đào mãi, cho đến khi không dùng tay móc đất lên được mới thôi. Ôm cái gói gượng đặt nhẹ xuống đáy hố, nước mắt tôi rơi lã chã trên những mảnh thi thể của hai người anh, hai người đồng đội.
Hoàng hôn nhuộm bầu trời tím sẫm. Bóng tối lấp ló sau những gốc cây nơi bìa rừng. Ngọn gió từ hướng tây nam thổi nhẹ tới, xua bớt mùi thuốc súng trên bãi đất chết chóc. Tôi tựa súng vào vai ngồi im hai bên nấm mộ đơn sơ, không còn biết đêm xuống từ lúc nào, mãi đến khi sương thấm ướt lạnh cả người mới nhận ra ánh trăng đang soi bóng mình đổ dài qua hòn đá đặt trên mộ.
Đờ đẫn như người mất hồn, tôi chống súng đứng dậy thất thểu đi tới cây thủy tùng. Màn sương trắng đục làm ánh trăng mờ đi nhưng cũng đủ sáng để giúp tôi mò mẫm tìm mấy chiếc ba lô trong đám cành lá. Tôi vun một đứng lá khô rồi nằm xuống, kéo tấm võng đắp lên người, ôm vào lòng mấy chiếc ba lô còn vương mùi mồ hôi quen thuộc và lịm đi...
Đến gần sáng, chợt thức dậy vì thấy lạnh buốt, tôi quờ tay xung quanh nhưng chỉ sờ thấy những chiếc ba lô lúc này cũng lạnh giá. Ngơ ngác hồi lâu mới nhớ lại những sự việc xây ra trước đó, nỗi đau đớn lại ập tới cùng với sự trống vắng đến tàn nhẫn làm tôi nghẹn thở. Giờ chỉ còn lại mình tôi giữa rừng... Trăng đã lặn. Mọi vật chìm trong sương mờ mớ ảo ảo. Tôi quấn tấm võng ướt lên người, co ro ôm súng ngồi chờ trời sáng.