Chương 21: Sáo xương
Bác sĩ Ba Căn từ bên ngoài trở vào, nói: ‘Đội trưởng, hai anh chàng kia cũng bị phản ứng cao nguyên rồi, uống thuốc hình như không hiệu quả gì.’
Đội trưởng Hồ Dương đanh mặt, nghĩ ngợi giây lát: ‘Được, cứ vậy đi, lập tức phái một xe đưa ba người bọn họ đến trạm cứu hộ. Tiểu Lưu ở lại đây là được rồi, anh đưa ba người bọn họ về, đi đường cẩn thận đấy.’
Tiểu Lưu là nhân viên tình nguyện của đội khảo sát khoa học, nghiên cứu sinh Đai học Y, dọc đường luôn theo sát bác sĩ Ba Căn tìm hiểu phương pháp cứu hộ trên cao nguyên, Ba Căn đi rồi thì chỉ còn lại mình anh ta là nhân viên y vụ ở đây. Ba Căn nói: ‘Được thôi, để tôi dặn dò Tiểu Lưu một chút đã.’
Trác Mộc Cường Ba nói: ‘Tôi cũng muốn đi.’
Hồ Dương ngoác miệng ta mắng: ‘Anh không bị bệnh chẳng bị thương, thân thể cường tráng như bò mộng ấy, anh đi hả! Đi làm cái khỉ gì! Một xe của chúng tôi chỉ chở được bốn người, cộng thêm lái xe nữa là đã quá lắm rồi, trên xe chỉ còn phải chất thực phẩm và xăng dự trữ nữa. Anh đi thì ngồi chỗ nào? Nóc xe hả! Hai người các anh, ngoan ngoãn đợi ở đây cho tôi!’
Trác Mộc Cường Ba không cam tâm: ‘Tôi… tôi có thể lái xe mà.’
Hồ Dương trợn tròn mắt lên, hỏi: ‘Anh biết đường hử?’ Anh ta lườm Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập đang lúng túng chẳng biết làm sao, rồi lại nói: ‘Đợi một thời gian nữa, đội xe tiếp tế về thì các anh đi theo luôn.’
Hồ Dương vừa đi, Trương Lập đã uất ức nói: ‘Kiểu gì vậy chứ, đối xử với chúng ta như với bọn săn trộm à! Không phải tôi đã đưa giấy tờ cho họ xem từ đầu rồi sao!’
‘Hừm…’ một thanh niên cao gầy từ bên ngoài bước vào, anh ta là người vừa giúp họ khiêng Đường Mẫn lên xe: ‘Đừng lớn tiếng như thế, đội trưởng của bọn tôi là vậy đấy, hung hăng lắm, ở đây ai cũng bị anh ấy mắng cho rồi. Ở chỗ này, anh nghìn vạn lần chớ nên làm sai chuyện gì.
Trác Mộc Cường Ba nghe tiếng xe khởi động, bước ra khỏi căn lều bạt, đứng nhìn theo chiếc xe việt dã nhỏ dần nhỏ dần, lẩm bẩm một mình: ‘Họ đi rồi.’
Anh chàng gầy gò kia an ủi: ‘Yên tâm đi, tôi đến trạm cứu hộ rồi, thiết bị y tế ở đó rất đầy đủ. Con gái anh sẽ không sao đâu.’
‘Ừm’, Trương Lập cố nhịn để không bật cười. Trác Mộc Cường Ba thì thấy vành tai đã hơi nong nóng. Anh chàng kia trợn tròn mắt lên hỏi: ‘Sao hả? Tôi nói gì sai à?’
Trương Lập lắc đầu: ‘Không có gì, không có gì. Phải rồi, anh là…’
‘À, tôi tên Lưu Quảng, chữ Lưu trong Người bay Lưu Tường, chữ Quảng trong Quảng Châu, cứ gọi tôi là Tiểu Lưu được rồi. Sau này sức khỏe các anh là do tôi phụ trách.’ Lưu Quảng cao khoảng một mét bảy, gương mặt còn hơi trẻ con bị cái rét làm cho hồng tía lên.
Trác Mộc Cường Ba nói: ‘Tiểu Lưu, ở gần đây có đội tuần tra ‘núi nào của Khả Khả Tây Lý không?
Lưu Quảng lắc đầu đáp ‘Ở đây thì không, bọn họ không đi sâu vào trung tâm Khả Khả Tây Lý thế này đâu, môi trường khác nghiệt quá. Họ hoạt động ờ vùng xung quanh trạm kiểm lâm thôi, hàng năm chỉ có mùa sinh sản của linh dương Tây Tạng thì họ mới mạo hiểm tiến vào mấy khu tập trung sinh sản nổi tiếng của bọn linh dương. Vì vậy thông thường khoảng thời gian này, những người đội khảo sát khoa học chúng tôi gặp phải đa phần đều là bọn săn trộm, không ngờ các anh lại lỗ mãng xông vào đây như thế. Đúng rồi, nghe các anh kể các anh đã gặp gấu ngựa, thật không đấy
Trương Lập liền thuật lại một lượt những truyện họ gặp phải sau khi xe bị phá hủy, nói đến đoạn quan trọng, hai mắt anh chàng Tiểu Lưu liền sáng rực lên, còn hưng phấn hơn Trương Lập gấp bội, không ngừng hỏi han nọ kia. Nghe xong, Tiểu Lưu lấy làm thất vọng nói: ‘Chúng tôi đi từ hồ Kusai tới đây, đã năm sáu ngày rồi, ngoài mấy con bò Yak và xương người chết ra thì chẳng gặp được cái gì cả. Đám động vật ấy thấy cả đội xe lớn đi qua đều bỏ chạy từ xa rồi.’
Trương Lập an ủi anh ta: ‘Sau này sẽ thấy thôi. Á!’ Anh thân thiện vỗ vỗ lên vai Tiểu Lưu, đột nhiên lòng bàn tay thấy đau đau, liền khẽ kêu lên một tiếng.
Tiểu Lưu chộp bàn tay đeo găng của Trương Lập, nói: ‘Đợi chút.’ Anh ta nhẹ nhàng tháo găng ra, không ngờ lại không rút ra được, liền nhìn qua kẽ hở, đoạn nói: ‘Bên trong toàn là máu đông này, nhanh, tôi phải xử lý một chút.’
Găng tay của Trương Lập bị cắt ra, giờ mới phát hiện hai tay anh đều đã bị mài rách, máu thấm ra rồi đông cứng lại, bàn tay và găng dính chặt vào nhau. Trương Lập nhớ lại, chắc có lẽ là bị mài rách lúc đua với chiếc Hummer kia, không ngờ mãi mà không nhận ra.
Tay Trương Lập được băng bó qua loa, giờ cơm tối, các thành viên đội khảo sát ở xung quanh đều trở về đại bản doanh, họ chia làm ba đội, lần lượt tiến hành khảo sát sông băng Mã Lan Sơn, hồ Ẩm Mã và xa nhất là hồ Mặt Trăng, nghiên cứu sự biến đổi của địa hình và môi trường sinh thái, mỗi tổ có khoảng mười người, tổng cộng mười ba chiếc xe, trong đó ba chiếc là xe tải lớn chở đồ đạc vật dụng, một chiếc là xe phát tín hiệu, nâng phạm vi có thể sử dụng bộ đàm liên lạc của các thành viên đội khảo sát lên tới 20 cây số. Buổi tối mọi người tụ tập ăn uống, coi như để chúc mừng Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập đại nạn thoát chết, lúc ấy, Trác Mộc Cường Ba mới nhận ra anh chàng đội trưởng râu rậm tên Hồ Dương kia, tuy chửi bới người ta thì ác miệng, nhưng tính tình cũng khá tốt, liên tiếp gắp đồ ăn cho mọi người, còn nói môi trường ở đây không tốt, không ăn nhiều đồ dinh dưỡng một chút, thể lực sẽ không trụ được. Trác Mộc Cường Ba và Trương Lập lại đem chuyện mình gặp nạn kể lại một lần nữa, chỉ có điều đã giấu đi chi tiết bị xe Hummer truy sát. Nghe đoạn về đại kim điêu, nét mặt không ít thành viên đều lộ vẻ háo hức mong đợi, chỉ riêng một người tương đối lớn tuổi, tên là Tiêu Cốc Khởi, mọi người đều gọi là Lão Tiêu, thì khẳng định chắc chắn: ‘Không nhìn thấy đại kim điêu nữa đâu. Bọn chúng một ngày bay được nghìn dặm, bị đại bại một trận như vậy, tuyệt đối không dừng lại nơi này nữa, chắc là sẽ theo hướng Nam bay về phía Tây Tạng rồi.’
Ngày hôm sau, lúc bọn Trác Mộc Cường Ba thức giấc, các thành viên đội khảo sát sớm đã dậy từ lâu, có người thậm chí còn đã xuất phát. Trác Mộc Cường Ba một mình đi bộ khỏi bản doanh, đến bờ hồ Khả Khả Tây Lý, nhìn mặt nước bị gió thổi dấy lên những cơn sóng, từng đợt hoa nước bán tung tóe, trong long cũng trống trải như hồ nước kia, vốn định tìm đội tuần tra núi lấy tập nhật ký kia xong là có thể trở về luôn, giờ lại chôn chân ở chỗ đội khảo sát khoa học này. Đường Mẫn thì không biết giờ thế nào, cũng không biết bao giờ mới có thể đi tìm đội tuần tra núi được. Gã lại nhớ đến ba anh em nhà sói xám, bọn chúng cũng từng giống như gã, phải khó khăn cầu sinh trên vùng băng nguyên rộng lớn, không biết bây giờ chúng ra sao. Nghĩ mãi nghĩ mãi, gã rút khúc xương trong túi ngực ra, quà của sói xám, Trác Mộc Cường Ba cười thầm trong bụng: ‘E là chỉ có mấy anh bạn sói chúng mày mới tặng thứ này mà thôi.’
‘Dậy rồi à?’
‘Ừm, đội trưởng.’ Trác Mộc Cường Ba không cần quay đầu lại cũng biết đối phương là ai.
‘Còn nhớ cô bé kia phải không?’
Trác Mộc Cường Ba không trả lời. Đội trưởng Hồ Dương vỗ mạnh lên lưng gã, nói: ‘Anh còn giả bộ với tôi làm gì, đều là người từng trải cả rồi.’
Trác Mộc Cường Ba cười cười. Hồ Dương đến trước mặt gã, ngước mắt nhìn mặt hồ Khả Khả Tây Lý, hồi lâu sau mới nói: ‘So với lần trước tôi đến đấy, mặt hồ lại rộng thêm không ít rồi.’
‘Ủa’, Trác Mộc Cường Ba nhìn Hồ Dương, ánh mắt anh ta dường như chứa đựng một nỗi u uất vô hạn.
Hồ Dương nói: ‘Đây đều là hậu quả của hiệu ứng nhà kính, từ lâu đã rất rõ rệt. Sông băng núi Mã Lan đang tan chảy với tốc độ nhanh chưa từng thấy, còn hồ Khả Khả Tây Lý, cũng càng lúc càng rộng thêm.’
‘A!’ Trác Mộc Cường Ba chẳng hứng thú lắm với những chuyện này. Gã thầm nghĩ: ‘Nếu giáo sư Phương Tân, chắc chắn sẽ rất hợp chuyện với thằng cha đội trưởng này. Giáo sư vẫn là giáo sư, cái gì cũng biết.’
Hồ Dương quay đầu lại, nhìn thấy khúc xương trong tay Trác Mộc Cường Ba. ‘Ủa?’ Anh ta tò mò lại gần nhìn thử, hỏi, ‘Có thể cho tôi xem không?’ Anh ta cầm trên tay, cẩn thận quan sát một lúc, rồi đột nhiên hỏi, ‘Cái này, ai cho anh vậy?’
Trác Mộc Cường Ba không ngờ lại có người thấy hứng thú với khúc xương này, gã không muốn giải thích quá nhiều, chỉ hờ hững đáp: ‘Một người bạn tặng tôi.’
Hồ Dương tán thưởng: ‘Đồ tốt đấy.’ Anh ta lấy bộ đàm ra, lớn tiếng gọi: ‘Lão Tiêu, mau ra đây, cho anh xem cái này hay lắm. Tôi ở bờ hồ, nhanh nhanh một chút.’
Trác Mộc Cường Ba trở nên hồ đồ, định lấy về: ‘Cái này không phải là xương bình thường hả?’
Ai đoán được, không ngờ Hồ Dương lại chẳng nỡ trả cho gã, anh giơ tay lên chặn tay Trác Mộc Cường Ba, xoay sang phía khác: ‘Anh hiểu cái khỉ gì chứ.’
Lão Tiêu hói trán mặc áo lông dày cồm cộp, trông như con quay, ‘hồng hộc hồng hộc’ chạy tới. Hồ Dương vừa thấy lão từ xa đã bước lên, vẫy vẫy khúc xương trong tay nói: ‘Anh xem, cái gì đây.’
Lão Tiêu đón lấy, hai người thì thà thì thầm, bốn con mắt sáng ngời, giống như hai gã thẩn giữ của trông thấy gạch vàng từ trên trời rơi xuống vậy.
Trác Mộc Cường Ba bước tới, chỉ nghe lão Tiêu nói: ‘Không lầm được đâu. Chính là thứ này, bảo tang Tây Tạng cũng có một cái hệt như thế.’
Trác Mộc Cường Ba nghi ngờ tai mình đã nghe lầm. Đúng lúc ấy, lão Tiêu hỏi: ‘Bạn anh… làm nghề gì vậy?’
Trác Mộc Cường Ba trả lời đúng sự thật: ‘Ừm, là một người làm việc ngoài trời.’
Lão Tiêu nói: ‘Chẳng trách, anh ta nhất định cũng không biết giá trị của thứ này rồi.’
Trác Mộc Cường Ba lấy làm khó hiểu, nói: ‘Đây chẳng phải là một khúc xương hay sao?’
Lão Tiêu cầm khúc xương, giơ lên vầng mặt trơi mới lên: ‘Anh xem xem chỗ này, rõ ràng là có dấu vết bị mài này, đã thấy chưa, chỗ này có một cái rãnh, cả đây nữa, đây là vết ố, chứng tỏ trước đây rất hay được sử dụng.’
Trác Mộc Cường Ba càng tò mò hơn, hỏi: ‘Rốt cuộc đây là cái gì thế?’
Hồ Dương cười khì khì nói: ‘Đây là cây sáo xương. Anh biết không? Tức là sáo làm bằng xương động vật ấy, có thể phát ra âm thanh the thé chói tai, khiến dã thú ở ngoài xa mấy cây số cũng dựng hết cả lông lên. Tất nhiên, con người cũng không ngoại lệ, không tin anh thổi thử mà xem.’
Lão Tiêu đưa cây sáo xương cho Trác Mộc Cường Ba, rồi cùng Hồ Dương nhìn gã chằm chằm. Trác Mộc Cường Ba bị hai người nhìn chòng chọc, bất đắc dĩ đành đưa cây sáo lên môi dưới, khẽ thổi một hơi, mới đầu thì không có âm thanh gì, sau khi đổi hai ba vị trí, khúc xương quả nhiên phát ra một tiếng ‘tuýt’.
Âm thanh đó không hề hãi hùng kinh hồn như Hồ Dương nói, mà kéo dài, ai oán, tựa hồ một con ưng cô độc trên cao nguyên bao la phát ra từng tiếng gào bi thảm, như nỗi nhớ thời viễn cổ vọng về, từng tiếng từng tiếng thấm qua khoang xương nhỏ xíu. Hồ Dương và lão Tiêu đưa mắt nhìn nhau, đều trông thấy vẻ bi thiết trên mặt nhau, âm thanh ấy không ngờ lại khiến người ta cảm thấy bi thương đến thế, tuy Trác Mộc Cường Ba chỉ có thể thổi ra được một âm điệu duy nhất, nhưng âm thanh đó hòa với sóng dập dềnh trên mặt hồ Khả Khả Tây Lý, cơ hồ khiến người ta nghe thấy được tiếng kêu u uất của nước hồ Khả Khả Tây Lý vậy.
Một lúc sau, Hồ Dương mới nói với lão Tiêu: ‘Xem ra, lời giới thiệu trong bảo tàng chưa chắc đã là sự thật, tôi dám cược là bọn họ cũng chưa từng thổi thử lần nào.’
‘Ơ, các anh chưa nghe âm thanh này bao giờ à.’ Trác Mộc Cường Ba cảm giác như mình bị mắc bẫy.
‘Anh nói đùa à?’ Lão Tiêu nói, ‘Thứ sáo xương này, ở bảo tàng Tây Tạng có mỗi một cây, chúng tôi có thể nhìn thấy là tốt lắm rồi, ai dám lấy ra thổi chứ. Đây là một thứ pháp khí của Tạng giáo cổ, giá trị văn hóa của nó phải ngang với đai ngọc, rồng ngọn của văn hóa Hồng Sơn, mặt nạ đồng xanh mắt lớn của văn hóa đồi Tam Tinh cổ đại. Vậy nên tôi bảo, cây sáo xương này, về sau anh nên giao cho bảo tàng quốc gia thì hôn, đối với người làm tác khảo cổ thì nó rất có giá trị nghiên cứu lịch sử đấy. Phải rồi, nhất định phải dò hỏi người bạn kia của anh cho kỹ, hỏi xem anh ta nhặt được thứ này ở đâu vậy.’ Hồ Dương còn bổ sung thêm: ‘Thứ sáo xương này, thông thường là dùng xương mác của con người để mài thành đấy.’ ‘Cái gì cơ!’ Trác Mộc Cường Ba giờ mới hiểu ra, chẳng trách lại để gã thổi, gã vừa nhổ nước bọt phì phì, nói: ‘Tạng giáo cổ à, là phái nào dùng thứ pháp khí này vậy?’
Hồ Dương nhếch môi cười cười đáp: ‘Anh đúng là uổng công làm người dân tộc Tạng rồi, cả chuyện này mà cũng không biết hả, đây chính là pháp khí của Mật giáo Tây Tạng cổ đại nhà các anh đấy!’
‘Mật giáo?’ Trác Mộc Cường Ba lắc lắc đầu nói: Tôi xưa nay không có hứng thú gì với tôn giáo cả, nói gì đến Mật giáo chứ.’
Hồ Dương lại nói: ‘Chính là Phật giáo ấy mà. Tạng Mật, chính là Tạng truyền Phật giáo đó…’
Lão Tiêu nói: ‘Lão Hồ này, đừng ở đó mà khoe kiến thức của anh nữa, anh hiểu được bao nhiêu về Mật giáo chứ? Đủ để lòe mắt người không biết gì là cùng thôi.’
Đội trưởng Hồ Dương liền được thể lấn tới, lập tức nói: ‘Ừm, phải rồi, lão Tiêu anh chẳng phải rất hiểu biết về Mật giáo Tây Tạng hay sao, giảng cho Cường Ba một bài đi.’
Lão Tiêu nói: ‘Tôi sao dám nói là hiểu biết được chứ, chẳng qua chỉ biết sơ một chút. Mật giáo ban đầu là do Phật giáo Đại Thừa và Bà La Môn giáo ở Ấn Độ cộng thêm các loại tín ngưỡng của người dân địa phương hòa trộn lại mà thành, nó được gọi là Mật giáo chủ yếu là để phân biệt với Hiển giáo, Hiển giáo chính là Phật giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa, chính là Phật giáo mà các chùa miếu chúng ta thường thấy hàng ngày tuyên truyền thừa phụng. Khoảng thế kỷ thứ bảy sau Công nguyên, Mật giáo tách khỏi Hiển giáo, có hẳn một hệ thống tư tưởng khác biệt rõ ràng với Phật giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa. Giáo chủ của Hiển giáo là Thích Ca Mâu Ni, điều này thì chắc các anh cũng phải biết chứ, còn giáo chủ của Mật giáo thì càng nổi tiếng hơn, ông ta được gọi là Đại Phật Như Lai. Xét về hệ tư tưởng, Hiển giáo là do Thích Ca Mâu Ni thuyết giáo với đối tượng là các chúng sinh không cùng cội rễ, vì vậy nên nó công khai, dễ hiểu, tùy theo ý người. Còn Mật giáo là Đại Nhật Như Lai tự nói chân lý mà nội tâm ngộ ra, vì vậy nó bí mật, thâm ảo, tùy theo ý mình. Đặc biệt, Phật giáo lưu truyền ở vùng Tây Tạng, căn bản đều là Mật giáo hết, cái gọi là Tiền Hoằng Kỳ, Hậu Hoằng Kỳ, Ngũ đại giáo phái, thực ra đều chỉ Phật giáo mật truyền cả.’ Thấy Trác Mộc Cường Ba nghe mà nhíu chặt hai hàng lông mày, lão Tiêu nói: ‘Phải, pháp khí của Mật giáo cổ đại có không ít thứ mài bằng xương người, nghe thì hơi tàn nhẫn một chút, nhưng so với Bản giáo nguyên sinh mà Tạng Vương Lãng Đạt Mã dựa vào để hủy diệt Phật giáo thì còn tốt hơn nhiều.’
Trác Mộc Cường Ba vốn đã sắp ngáp dài đến nơi, đột nhiên nghe lão Tiêu nhắc đến Lãng Đạt Mã diệt Phật giáo, liền không nhìn nổi hỏi một câu: ‘Thầy giáo Tiêu cũng biết chuyện Tây Tạng diệt Phật à?’
‘Ừm, biết một chút thôi, thực ra lịch sử của Tây Tạng từ thời cổ xưa đã rất thần bí rồi, một là ở đây có rất nhiều nơi hẻo lánh, không qua lại với thế giới bên ngoài, hai là trải qua chiến tranh loạn lạc kéo dài, rất nhiều văn bản lịch sử quý giá đã bị mất mát, có thể nó bất kể Trung Quốc hay Phương Tây, đều phải đến thế kỷ 20 mới tiến hành những nghiên cứu về lịch sử Tây Tạng.’
Đội trưởng Hồ Dương đứng bên cạnh làm ra vẻ thần bí, nói: ‘Anh biết lão Tiêu đây hồi trước làm gì không? Anh ấy từng tham gia hoạt động giao lưu văn hóa Tây Tạng, tuyên truyền về Tây Tạng với người phương Tây đấy.’
Lão Tiêu nói: ‘Đủ rồi đấy nhé, đó chẳng qua chỉ là mào đầu cho hoạt động khảo sát sông băng ở Tây Tạng, chỉ đề cập tới một phương diện rất nhỏ của Tây Tạng, người ta mời tên râu rậm nhà anh đấy chứ, tôi chẳng qua chỉ là vai phụ thôi.’
Trác Mộc Cường Ba hỏi: ‘Đội trưởng Hồ Dương đã đi Thần Sơn ở Tây Tạng rồi sao?’
Đội trưởng Hồ Dương nói: ‘Ừm, hồi ấy chúng tôi tiến hành khảo sát khoa học ở sông băng, tài nguyên ở sông băng trong dãy Himalaya cực kỳ phong phú, chúng tôi có ở lại Tây Tạng một thời gian, còn có cả người bản địa đi theo đoàn nữa, thế nên chuyện gì ở Tây Tạng cũng đều biết được chút chút.’
Trác Mộc Cường Ba chợt nhớ đến nơi Ba Tang và lão La Ba từng nhắc tới, liền buột miệng hỏi: ‘Vậy thì, theo cảm giác của anh, trong rặng Thần Sơn ấy, đoạn nào là nguy hiểm nhất vậy?’
Đội trưởng Hồ Dương trầm ngâm đáp: ‘Chắc là đoạn tiếp giáp với hai nước Nepal và Ấn Độ rồi, núi non ở đó không cao lắm, độ cao bình quân chỉ khoảng 7.000 mét trên mực nước biển, nhưng điều kiện khí hậu thì có thể nói là khắc nghiệt nhất trong dãy Himalaya, người nào tới rồi đều phải nói là nơi ấy còn khắc nghiệt hơn cả đỉnh Chomolungma nữa, hơn nữa thế núi còn hiểm trở, trong đoạn núi non kéo dài hơn nghìn ki lô mét ấy, có tới mười mấy ngọn xưa nay chưa bao giờ bị con người chinh phục.’
Lão Tiêu bổ sung: ‘Nghe nói, từng có vô số nhà mạo hiểm trước sau tìm đường tới, hy vọng trở thành người đầu tiên chinh phục những đỉnh núi đó, nhưng không sao lên tới đỉnh núi, không hiếm người mới đến chân núi thì đã bỏ cuộc quay về, còn số đông thì đã vĩnh viễn mất tích trong dãy núi tuyết mênh mông đó rồi.’
Đội trưởng Hồ Dương vòng tay qua vai lão Tiêu nói: ‘Không sai, trước nay tôi vẫn luôn thấy lão Tiêu nhà anh hiểu Tây Tạng hơn tôi nhiều, có thể coi như một chuyên gia Tây Tạng nửa mùa được rồi đó, tôi nhớ xem nào, là… năm 1996 đúng không nhỉ, chuyên mục Khoa học và Tự nhiên còn đặc biệt mời lão Tiêu đi phỏng vấn nữa chứ, chủ đề có liên quan tới Tây Tạng mà, mà… chủ đề gì ấy nhỉ?’
Lão Tiêu cười hà hà nói: ‘Là ảnh hưởng tan chảy của sông băng trên cao nguyên đối với khí hậu toàn cầu, trong đó có đề cập tới một số vấn đề văn hóa địa lý Tây Tạng thôi.’
Trác Mộc Cường Ba không hứng thú với chủ đề này lắm, liền quay sang hỏi: ‘Vậy thầy giáo Tiêu có biết Tứ Phương miếu không?’
‘Tứ Phương miếu?’ lão Tiêu và đội trưởng Hồ Dương nhìn nhau ngờ vực, rõ ràng là mới lần đầu nghe thấy danh từ này.
Trác Mộc Cường Ba liền bổ sung: ‘Lúc công chúa Văn Thành vào đất Tạng làm dâu, ngoài Đại Chiêu tự, Tiểu Chiêu tự, còn có bốn tòa thần miếu được xây dựng tu sửa ở Tây Tạng. Đây chính là Tứ Phương miếu, hình như bị thiêu hủy từ thời diệt Phật rồi.’
Lão Tiêu lắc đầu nói: ‘Điều này thì chắc phải chuyên gia nghiên cứu lịch sử Tây Tạng mới biết được, những điều tôi biết toàn bộ chỉ là những thứ vặt vãnh bề ngoài, chẳng hạn như Mật giáo ngày nay thế nào, cả Bản giáo cổ đại ở Tây Tạng nữa…’
Lão Tiêu và đội trưởng Hồ Dương liền lôi chuyện Mật giáo với Bản giáo ra thảo luận một hồi, nhưng Trác Mộc Cường Ba không để ý lắng nghe nữa, chỉ nghĩ thầm: Tứ Phương miếu này tại sao không được nhắc trong chính sử, mà trong quyển cổ kinh Ninh Mã ở nhà mình lại ghi chép tường tận thế được? Nếu nói cây sáo xương này thuộc về Mật giáo, vậy tại sao nó xuất hiện ở Khả Khả Tây Lý được nhỉ?
Trác Mộc Cường Ba còn định dò hỏi thêm chuyện về cây sáo xương, thì bộ đàm của Hồ Dương kêu lên, anh ta bật máy lên, chỉ nghe một người cuống quýt nói: ‘Đội trưởng! Chúng tôi phát hiện một đám săn trộm ở hồ Ẩm Mã, đám Kha Khắc đã lái xe đuổi theo rồi, bảo tôi ở lại báo cho các anh, các anh mau tới đi.’ Hồ Dương nói ngay: ‘Là thành viên trong đội tiên phong Lâm Húc Thanh. Mau lên, lão Tiêu, dẫn mấy người theo, nhớ cầm súng nữa. Trác Mộc Cường Ba, còn ngẩn ra đó làm gì nữa, cùng đi luôn, xem xem thế nào!’
Trác Mộc Cường Ba vốn định gọi Trương Lập cùng đi, nhưng nhớ ra vết thương ở tay họ Trương vẫn chưa lành hẳn, chuyện này lại đang gấp, liền một mình leo lên xe của Hồ Dương. Trên xe, gã mới hỏi: ‘Sao bọn họ không cùng lên xe đuổi theo, để một người lại canh gác làm gì?’
Hồ Dương nói: ‘Ngu thế. Vượt ra khỏi phạm vi tăng cường tín hiệu của xe phát tín hiệu thì không liên lạc bằng bộ đàm được nữa, còn bản thân phạm vi che phủ của tần số máy vô tuyến điện chỉ có năm trăm mét thôi. Giờ chúng ta chỉ có thể tới hồ Ẩm Mã trước, rồi bảo Lâm Húc Thanh chỉ đường.’ Ba chiếc xe việt dã xuất phát từ đại bản doanh, nhanh chóng nhưng thận trọng nhằm hướng hồ Ẩm Mã phóng tới.
Trác Mộc Cường Ba không ngờ cảnh trí dọc đường lại đẹp đến thế, gã trông thấy cả một cây cầu băng khổng lồ vất ngang qua không trung, giống như núi Vòi Voi ở Quế Lâm vậy, xe phóng qua bên dưới cầu băng, bên đường còn có vô số tảng đá chất đống thành một cái gò nhỏ, lão Tiêu nói, đó là gò Mã Ni, trên các phiến đá có khắc kinh văn của người Tạng, tảng đá ở dưới cùng có khi đã vài trăm năm lịch sử, kinh văn khắc trên đó đều mờ đi hết cả, điều này chứng tỏ rằng ở đây từng có người Tạng qua lại. Mà rất có thể đây là đoạn đường những người Tạng ở xa tít tận cực Bắc Thanh Hải hay xa hơn nữa phải đi qua khi hành hương. Trác Mộc Cường Ba nhắm mắt lại có thể tưởng tượng ra những người hành hương mặc Kinh bào, đi một bước lại quỳ lạy một lần…
Phía trước lại có một gò Mã Ni to hơn nữa, bên cạnh còn cắm một lá cờ, một cái đầu bò Tây Tạng đã bị phong hóa hoàn toàn được đặt ngay ngắn hướng về phía Đông Nam, đó chính là phương hướng của Bố Đạt La cung. Lại vòng qua một dốc núi nữa, hồ Ẩm Mã đã hiện ra trước mắt, nước hồ xanh lam, bờ hồ đóng băng, giữa hồ cũng có một lớp băng mỏng, nhưng vẫn phản chiếu sắc xanh của nền trời. Hồ Ẩm Mã hình dạng như cái đai, kéo dài mười mấy ki lô mét, xe của đội khảo sát đi dọc theo con đường ven hồ, triền núi bên bờ đối diện đều bị tuyết trắng che phủ, giữa hồ lại có vài chỗ núi nhô ra dạng bán đảo, nhìn xa xa như cảnh sắc vùng địa cực vậy. Xa hơn nữa là những đỉnh núi phủ tuyết, lão Tiêu chỉ vào mấy ngọn núi giới thiệu: ‘Phía Tây Nam là ngọn núi cao nhất Khả Khả Tây Lý, Cương Trát Nhật (KangzhagRi), nó phải cao tương đương với ngọn Bố Ca Đạt Bản, đều trên 6.800 mét cả. Đáng lẽ ra nhìn về phía Bắc là có thể thấy được núi Bố Ca Đạt Bản, nhưng bị sông băng Mã Lan che mất rồi, sông băng Mã Lan là sông băng lớn nhất ở Khả Khả Tây Lý đấy.’
Hồ Dương không biết có phải tâm trạng không tốt hay không, dọc đường không nói lấy câu nào.
Đến nơi, mọi người xuống xe thì thấy Lâm Húc Thanh đang đứng bên bờ hồ, vẻ phẫn nộ hiện rõ trên gương mặt, không xa chỗ anh đứng, có ba mươi cái xác linh dương Tây Tạng xếp thẳng hàng, đã có năm con bị lột sạch da, lộ ra thân thể chỉ còn máu thịt bầy nhầy, đôi mắt trắng đen rõ ràng mở lớn lồi hẳn ra ngoài. Bàn tay Hồ Dương bóp chặt đến nỗi phát ra những tiếng ‘rắc rắc’, Trác Mộc Cường Ba cũng phẫn nộ, ngay bên bờ hồ thiêng liêng thánh khiết như tiên nữ này, máu tanh bẩn thỉu lại ở gần bọn họ đến như vậy, đám người tham lam, đám người bán linh hồn cho đồng tiền đó, đúng là đã không còn nhân tính gì nữa rồi.
Giờ Trác Mộc Cường Ba mới nhận ra, Trương Lập cũng theo chiếc xe thứ ba đi ngay sau lưng bọn họ, anh ta bước đến vỗ mạnh vào lưng gã: ‘Chuyện thế này mà lại không gọi tôi, anh… anh cũng quá…’
Trác Mộc Cường Ba nói: ‘Vết thương của anh còn chưa khỏi, tôi làm sao… hừ, để lên xe rồi nói đi.’
Hồ Dương đứng buồn bã trầm mặc mấy phút trước thi thể lũ linh dương, rồi nói: ‘Để lại một xe và ba người xử lý đống xác này. Những người còn lại, theo tôi.’
Trên xe, một thành viên đội khảo sát tên Trần Kiệt giận dữ nói: ‘Cũng may là chúng ta đặt bản doanh ở bên hồ Khả Khả Tây Lý, bằng không, bằng không, bọn vô nhân tính không biết còn làm ra những chuyện gì nữa.’
Thấy Trác Mộc Cường Ba hơi ngạc nhiên, lão Tiêu vỗ vỗ lên lưng gã, nói: ‘Hồ Khả Khả Tây Lý là một nơi dừng chân của linh dương Tây Tạng đi tránh rét, đàn linh dương ở đó lớn hơn nhiều, chúng tôi đặt đại bản doanh một mặt để tiện cho công tác khảo sát các hồ xung quanh và núi Bố Ca Đạt Bản, hai là cũng có thể bảo vệ đàn linh dương Tây Tạng tránh rét. Bọn săn trộm thường xuất hiện trong hai khoảng thời gian, một là mùa đông, lúc lông linh dương Tây Tạng dày nhất, có thể lột toàn bộ làm áo khoác; hai là mùa xuân, đợi chúng nó mọc lông măng mới, có thể vừa lấy lông. Bọn người này thông thuộc tập tính của linh dương Tây Tạng hơn chúng ta nữa, đàn linh dương này, xem ra năm nay mới tới đây kiếm cỏ và nước uống, mùa hè hàng năm, bọn chúng đều tới hồ Trác Nãi sinh con đẻ cái, hầu như là linh dương Tây Tạng ở khắp nơi đều về tham gia đại hội này, đàn xa nhất có khi phải vượt đến cả hơn nghìn cây số, lúc ấy cũng là thời gian hoành hành của bọn săn trộm. Đám người ấy, căn bản chẳng bao giờ đoái hoài đến sự sinh sôi nảy nở của lũ linh dương cả.’
Đi theo vệt bánh xe trên băng tiến về phía Bắc, lão Tiêu nói: ‘Bọn người này muốn chạy vào dãy Côn Luân chắc?’
Hồ Dương gật gật đầu: ‘Ừm, e là thế đấy, dãy Côn Luân địa hình đan chéo phức tạp, cực nhiều khe rãnh, vào đấy rồi thì rất dễ thoát khỏi truy đuổi. Có điều cũng phải mất vài ngày mới tới được, bọn chúng nhất định phải kiếm chỗ nào đó ẩn nấp trước, rất có khả năng là trong lúc hoảng hốt không kịp lựa đường, đã lánh vào sông băng rồi.’
‘Mã Lan Sơn!’ lão Tiêu thốt lên. Hồ Dương gật gật đầu, bọn họ cứ lần theo vết bánh xe, quả nhiên đã tới sông băng Mã Lan Sơn.