Chương 9: Trí giả ở Đạt Ngoã Nô Thố
Người điên nhảy múa đi về căn nhà bẩn thỉu của mình, bọn Trác Mộc Cường Ba ba người có vẻ đã nắm được thông tin cần biết, cũng không cản y lại.
Kỳ thực, trong lòng Trác Mộc Cường Ba còn rất nhiều nghi vấn, nhưng gã biết, có hỏi thêm cũng không thể biết được nhiều hơn từ miệng người điên này nữa, dõi theo bóng lưng y đi xa dần, gã thở dài: ‘Hà, chúng ta đi thôi.’
Trương Lập nhìn sắc trời bảo: ‘Muộn quá rồi, chi bằng ở luôn đây nghỉ một đêm, ngày mai mới đi?’
Trác Mộc Cường Ba đáp: ‘Không, đêm nay phải trở về gấp.’ Phương Tân gật gật đầu, ra hiệu cho Trương Lập lái xe.
Phương Tân đọc được trong ánh mắt gã sự kính sợ. Trác Mộc Cường Ba sợ cha. Đức Nhân lão gia không cao bằng Trác Mộc Cường Ba, tuổi tác đã cao, cả thể chất lẫn tinh thần đều không bì được với Cường Ba, nhưng gã rất kính sợ. Trước mặt cha, Trác Mộc Cường Ba hệt như đứa trẻ đã sai quấy chuyện gì đó, làm cái gì cũng cẩn thận từng li từng tí, lỡ làm không đúng một chuyện nhỏ, chưa cần Đức Nhân lão gia mắng mỏ, chính gã đã sợ đến nỗi tim đập thình thịch. Thậm chí nghe tiếng ho của cha, gã cũng cảm thấy tim đập nhanh hơn, lông tóc dựng đứng. Bởi vì Đức Nhân lão gia là bậc đại trí giả của phương Nam, nhà họ rất nhiều quy củ, cực kỳ nghiêm khắc, Trác Mộc Cường Ba là con trai duy nhất, đối với những quy củ trong nhà, gã cảm thấy rất sợ hãi nhưng cũng không thể làm gì được.
Mỗi lần về nhà, Trác Mộc Cường Ba đều hy vọng cha đã ra ngoài, chỉ khi ở cùng mẹ, gã mới có cảm giác an toàn. Đặc biệt là những năm gần đây, chuyện Trác Mộc Cường Ba làm, cha gã không ủng hộ, trong mắt Đức Nhân lão gia, chó là bạn của con người, được thần linh trên trời đưa xuống phàm trần để cứu giúp nhân loại, địa vị của chúng so với con người thậm chí còn cao hơn một bậc, cần đặt tượng thần chó lên bàn thờ mà kính phụng. Còn Trác Mộc Cường Ba thì đang làm gì chứ, gã bắt hết cả chó lại, nhốt trong lồng, đem đi bán lấy tiền, chỉ riêng một điểm này, mỗi lần gã về đều bị cha trách mắng. Theo quy củ trong nhà, khi chay dạy bảo, Trác Mộc Cường Ba phải quỳ dưới đất, cúi đầu xuống, cha không cho mở miệng thì gã không được mở miệng biện bạch. Nhưng lần này thì khác, lần này giáo sư Phương Tân đến. Đức Nhân lão gia rất có cảm tình với giáo sư Phương Tân, hai người tuổi tác tương đương, tính cách tương hợp, người này kính trọng kiến thức của người kia, từ thuở gặp mặt lần đầu đã trò chuyện như bạn cũ mười năm. Giáo sư Phương Tân nghiên cứu học thuật rất chuyên nghiệp về Phật giáo ở Tây Tạng, thành thực đất Tạng và lịch sử Tây Tạng, đây cũng là kinh nghiệm ông tích luỹ được khi nghiên cứu Tạng ngao, hơn nữa, tuyệt đại đa số đều bắt nguồn từ Đức Nhân lão gia cả.
Có Trác Mộc Cường Ba chỉ đường, Trương Lập lái xe gần hai tiếng đồng hồ, cuối cùng cũng đến được Đạt Ngõa Nô Thố vào lúc trời đã tối đen như mực. Xe dừng, ba người đi vào nhà Trác Mộc Cường Ba, một nội viện Tây Tạng điển hình. Vừa đi qua cổng, đã thấy một ông già người Tạng đang quét dọn trong vườn, xung quanh đốt nến. Trác Mộc Cường Ba thân thiết gọi: ‘La Ba a khố!’
Ông già người Tạng ngẩng đầu lên, ngước đôi mắt đã mờ đục nhìn Trác Mộc Cường Ba, xúc động nói: ‘Thiếu gia? Cường Ba thiếu gia? Cậu trở về rồi. La Ba nhớ cậu muốn chết, mau vào gặp a ma của cậu đi, bà ấy cũng nhớ cậu lắm đấy. Để tôi đi báo cho lão gia.’ Nói xong, ông lão bỏ luôn cây chổi xuống, chạy vào Phật đường.
Trác Mộc Cường Ba hơi biến sắc mặt, lộ ra vẻ cam chịu, lẩm bẩm nói: ‘A ba cũng ở nhà à? Thầy giáo, đội trưởng Trương, hai người ở đây đợi tôi, tôi vào thăm a ma một chút.’
Trương Lập nhìn xuống đất, lại nhìn những ngọn đèn quanh sân, ngạc nhiên hỏi: ‘Sao trời tối như vậy mới quét dọn?’
Phương Tân giải thích: ‘Ban ngày cái sân nhỏ này lúc nào cũng chặt cứng người tới nghe trí giả truyền giáo. Đoàn trưởng của các anh cũng từng được ban phúc ở đây đấy.’
Trương Lập thấy hướng đi của Trác Mộc Cường Ba và hướng đi của ông già La Ba kia khác nhau, lại ngạc nhiên hỏi tiếp: ‘Cha mẹ của Cường Ba thiếu gia không ở cùng nhau sao?’
Phương Tân đáp: ‘Đây là quy củ trong gia tộc bọn họ, cho dù là thân cận như vợ, con, muốn gặp Đức Nhân lão gia, cũn phải thông báo trước, Đức Nhân lão gia đồng ý gặp thì mới được vào.’
‘A!’ Trương Lập kinh ngạc thốt lên, ‘Đây là quy củ gì vậy?’
Phương Tân lại giải thích: ‘Đây là quy củ địa vị của bậc trí giả phải cao hơn người khác. Vì vậy ở phương Nam này, Đức Nhân lão giao, giống như một nửa Phật Sống vậy.’
Trương Lập nói: ‘Tôi thấy Cường Ba thiếu gia hình như hơi sợ cha mình thì phải.’
Phương Tân cười ha hả, nói: ‘Không phải hơi sợ, mà là rất sợ, từ nhỏ đã bị quy củ nghiêm khắc như vậy gò bó, với tính cách của Trác Mộc Cường Ba, khẳng định là có phạm lỗi, phạm lỗi rồi thì không tránh khỏi bị trừng phạt nghiêm khắc, cho dù vết thương đã lành cả rồi, nhưng trong lòng vẫn sẽ để lại chướng ngại tâm lý.’
Trương Lập ‘ồ’ một tiếng, nói: ‘Lẽ nào Đức Nhân lão gia còn lợi hại hơn cả Cường Ba thiếu gia?’ Anh ta nghĩ đến hình thể của Trác Mộc Cường Ba, thầm mường tượng ra Đức Nhân lão gia.
Phương Tân nói: ‘Không, thực ra Đức Nhân lão gia, không cao lớn như Trác Mộc Cường Ba, ông ấy cũng giống như tôi, chỉ là một ông già mà thôi.’
‘Vậy mà Cường Ba thiếu gia vẫn sợ thế ư?’ Trương Lập vẫn không hiểu.
Phương Tân nói: ‘Đó là uy nghiêm, một sự uy nghiêm tràn đầy trí tuệ, rất khó hình dung bằng ngôn ngữ, nếu có cơ hội, anh được gặp Đức Nhân lão gia, tự nhiên anh sẽ hiểu thôi.’
Lúc này, Trác Mộc Cường Ba đã đi ra, bên cạnh gã còn có một người đàn bà Tạng trung niên, giống như tất cả những phụ nữ lao động dân tộc Tạng khác, bà đội khăn đầu, mặc áo Tạng, khuôn mặt đã hơi nhăn nheo, nhưng rất tươi tắn, dựa vào Trác Mộc Cường Ba cao hơn mình cả cái đầu. Khoảng khắc đó khiến Trương Lập trong lòng chấn động, cái gì là hạnh phúc, anh ta có thể đọc được trên gương mặt của người phụ nữ Tạng này.
Trác Mộc Cường Ba kéo tay người phụ nữ, chỉ vào Phương Tân đứng xa xa nói: ‘A ma, đô na!’
Người phụ nữ mừng rỡ nói: ‘A, phương hành trát tây, trát tây đức lặc!’
Phương Tân đáp: ‘Trát tây đức lặc, Mai Đoá mạc bố, thiết nhượng giới ví gia bố cùng.’
Ba người dùng tiếng Tạng nói chuyện, Trương Lập đứng đó, chẳng hiểu câu nào, Trác Mộc Cường Ba thấy anh ta lúng túng, bèn giải thích: ‘A ma của tôi không biết tiếng Hán.’ Về sau nghe người phụ nữ tên là Mai Đoá đó nói: ‘Á phụng hứa điếm gia.’ Trác Mộc Cường Ba mới bảo: ‘A ma mời hai người vào trong ngồi.’
Ba người vào một gian sảnh bên, ngồi xếp bằng, bà Mai Đoá lấy trà bánh ra tiếp khách, Phương Tân đưa hai tay đón lấy, Trương Lập cũng học theo, hai tay đón lấy bát trà.
Ba người Trác, Phương, Mai vui vẻ trò chuyện. Trương Lập đảo mắt nhìn xung quanh, căn phòng nhỏ này vẫn theo lối cũ của dân Tạng, kết cấu rất đơn giản, nhưng trang trí rất hoa lệ. Bức tường kim loại màu vàng được ánh đèn chiếu sáng ngời, bên trên lò sưởi vẽ hình bát bảo cát tường, những bức tường còn lại đều là tranh Phật tổ, Bồ Tát, trên trần nhà cũng là tranh Bồ Tát, tất cả tường trong căn phòng này, có thể nói là vách vàng rực rỡ cũng không sai. Một số gia cụ dát vàng được chạm trổ hết sức phức tạp, chiếc tủ kiểu Tạng dựa sát tường, khán thờ nhỏ, bên trên khắc chìm những câu kinh bằng chữ Khoa đẩu, và chiếc kỷ thấp ở giữa, không thứ nào là không tỏ rõ sự hào hoa của chủ nhân. Dưới đất dùng nệm trải lên thảm kiểu Tạng, trên thảm cũng thêu một số bức tranh giảng kinh thuyết đạo của Phật giáo. Nhưng căn phòng này khác với những căn phòng kiểu Tạng mà Trương Lập đã thấy, nó không có sofa, cũng không có ti vi hay những đồ điện gia dụng hiện đại gì hết.
Phương Tân thấy Trương Lập cứ ngoảnh đi ngoảnh lại, nhìn quanh bốn phía, liền thấp giọng nhắc nhở: ‘Đừng nhìn lung tung, thế là rất bất lịch sự.’
Một lát sau, ông lão người Tạng tên La Ba kia đi vào, dùng tiếng Tạng chào hỏi bà Mai Đoá xong, nói với Trác Mộc Cường Ba: ‘Cường Ba thiếu gia, lão gia gọi cậu!’
Cường Ba thiếu gia lè lưỡi với mẹ, làm mặt quỷ, rõ ràng là muốn nói: ‘Lại ăn mắng rồi.’ A ma gã nói mấy câu hình như an ủi, rồi Cường Ba rón rén đi ra.
Không lâu sau, liền nghe thấy một giọng già nua, người còn ở ngoài cửa, đã nói bằng tiếng Hán lưu loát: ‘Giáo sư Phương Tân, thằng nhãi Cường Ba này thật không lễ độ, lại không bảo trước cho tôi, làm anh phải đợi ở đây lâu như vậy.’
Giáo sư Phương Tân đứng dậy, ra cửa đáp: ‘Đức Nhân a la, lâu rồi không gặp tôi vẫn luôn rất nhớ ông.’
Trương Lập thầm nhủ, Đức Nhân lão gia đến rồi, liền quay đầu lại nhìn, một ông già thân hình hơi mập, tinh thần quắc thước đang đứng ngoài cửa. Đức Nhân lão gia không để râu, nhìn tướng mạo, Trác Mộc Cường Ba giống ông nhu khuôn đúc, nhưng khuôn mặt ông rộng hơn một chút, ánh mắt hiền hoà, trong lúc nói chuyện, tự nhiên toát lên vẻ uy nghiêm, khiến người ta có cảm giác vừa thân thiết lại vừa kính trọng.
Đức Nhân lão gia ôm chặt giáo sư Phương Tân, sau đó ngồi chỗ đầu tiên bên trái lò sưởi, giáo sư ngồi sát cạnh ông, bên cạnh là Trác Mộc Cường Ba, Trương Lập ngồi sau cùng, bà Mai Đoá ngồi chỗ đầu tiên bên phải, lão La Ba đứng cạnh một bên.
Đức Nhân lão gia nói giọng rất bình thản, điềm đạm, nhưng toát lên sức mạnh áp chế lạ lùng: ‘Người điên mà mọi người tìm thấy ta cũng biết. Có lẽ, đây chính là ý trời, bộ tộc Qua Ba sớm muộn gì cũng bị thần linh trừng phạt, điều này đã được quyết định từ mấy nghìn năm trước rồi.’
Giáo sư Phương Tân nói: ‘Ồ, lẽ nào Đức Nhân a la sớm đã đoán trước được số mệnh của bộ tộc Qua Ba?’ Câu này hỏi nghe hết sức thành khẩn, không hề có ẩn ý châm chọc, bởi vì Phương Tân biết, đối với bậc trí giả mà nói, rất nhiều chuyện vượt qua sức tưởng tượng của con người.
Đức Nhân lão gia đáp: ‘Những lời người điên đó lảm nhảm, Cường Ba đại khái cũng nhớ được một ít, đã nói lại cho tôi rồi. Đó là một điển trong kinh Phật. ‘Bất động minh vương chú giáng yêu trừ ma! ’’
‘A!’ Phương Tân cũng đã nghĩ những câu thổ ngữ nghe như hát kia có thể là văn khấn của một buổi tế lễ nào đó, nhưng không ngờ lại chính là ‘Bất động minh vương chú’, Phật kinh có tam đại mật chú để giáng ma: ‘Bất động minh vương chú’, ‘Đại bi chú’, ‘Lục đạo luân hồi chú’, đều là những điển tịch cao nhất trong kinh Phật, phải là cao tăng đắc đạo giữ được lòng sáng mới được truyền dạy; đó là tượng trưng của tín ngưỡng và thân phận địa vị, tuyệt đối không phải là kinh văn mà một người điên như vậy có thể học được. Nhưng người điên đó làm sao biết được? Phương Tân nghi hoặc trong lòng, lộ ra cả nét mặt.
Đức Nhân lão ra nhận ra mối nghi hoặc trong lòng giáo sư Phương Tân, liền giải thích: ‘Theo Bồ Đề tổ tâm kinh của chúng tôi, bộ tộc Qua Ba gần mực thì đen, trở thành nô bộc của đại ác ma Tán ma, bị Cát Tường Thiên Mẫu trừng phạt, phải ở trong thành Ác Ma. Tuy đó chỉ là truyền thuyết huyễn hoặc, mục đích là để điểm hoá người đời, nhưng thân phận thực sự của người Qua Ba chính là người canh gác Tứ Phương miếu, canh gác toà miếu cuối cùng ở cực Nam, Nghi thức tế bái trong làng được truyền từ đời này qua đời khác, bọn họ là bộ tộc duy nhất biết lối vào của thánh miếu phương Nam, nhưng giáo quy cực kỳ nghiêm khắc, căn bản không cho bất cứ người nào trong làng được lại gần Cực Nam thánh miếu. Còn ‘Bất động minh vương chú’ đó, chính là được khắc trên mình thần thú hộ vệ trước miếu.’
Phương Tân lại hỏi: ‘Nhưng mà, có Tứ Phương miếu thật sao? Theo những tư liệu tôi có được, Tứ Phương miếu phân bố không hề đối xứng, mà thời gian xây dựng lại càng cách xa nhau hơn, hình như không có khả năng quy vào một mối thì phải.’
Đức Nhân lão gia cười cười, tay trái chỉ vào giữa hai chân mày, kế đó kết thành trước ngực, tỏ ý nói Phương Tân là người trí tuệ cao sâu, sau đó nói: ‘Tứ Phương miếu mà bây giờ vẫn gọi, là khái niệm mơ hồ mà người sau căn cứ theo Thi kinh, Sử kinh của người xưa để lại mà luận ra, chỉ có trong giáo lý của cổ giáo Ninh Mã vẫn lưu lại cách xưng hô này. Còn Bạch giáo, Hoa giáo về sau vì thuyết này không thể khảo sát, nên đã bỏ không gọi nữa. Còn nguồn gốc cách gọi Tứ Phương thánh miếu của Ninh Mã giáo, lại bắt nguồn từ Bản giáo Tạng truyền, vì vậy không được các giáo phái khác tiếp nhận. Sự thực, Tứ Phương miếu mà tổ tiên chúng tôi nhắc đến, là bốn toà miếu tự lúc Đại Pháp vương hắc đạo, mới ban bố giáo lý, để lại bốn mặt Thánh sơn. Bốn ngôi miếu này không nằm ở cực Đông, cực Tây, cực Nam, cực Bắc mà tuân theo giáo lý nhà Phật, nằm ở các góc của chữ Vạn, theo kinh văn Ninh Mã ghi chép, lần lượt gọi là Đang Nhã Cống Bố, Đức Cách Lạp Khang, Hoà Bản Lợi Tạng Tông, Sắc Quả Lạp Mẫu; còn theo ta suy đoán, bốn tên này có lẽ đại biểu cho chùa Giáng Chân Cách Kiệt ở phía Tây Bắc, chùa Cách Tát Lạp Khang ở Tây Nam, chùa Bồ Khúc ở Đông Bắc, Sắc Cát Lạp Khang ở phía Đông Nam. Thứ mà bộ tộc Qua Ba đời đời bảo vệ, chính là Tứ Phương miếu chính thống này.’
Phương Tân nghe xong, lại càng nghi hoặc, thầm nhủ: ‘Chùa Bố Khúc? Không phải chùa Tang Gia sao? Sắc Cát Lạp Khang là chùa nào? Ở đâu?’ Ông đưa mắt nhìn Trác Mộc Cường Ba, thấy gã cũng chau mày, hiển nhiên là đang lục tìm trong ký ức.
Cả lão bộc tên La Ba kia, cũng cảm thấy nghi hoặc với những tên chùa mà Đức Nhân lão gia vừa nói, rõ ràng Đức Nhân lão gia chưa nhắc đến bao giờ. Chỉ có Trương Lập không hề hứng thú với những chuyện này, anh ta đến Tây Tạng thời gian còn ngắn, chưa có hiểu biết gì về văn vật cổ tích của đất Tạng, từ đầu đến cuối chỉ chú ý đến bà Mai Đoá mẹ Trác Mộc Cường Ba. Người mẹ hiền hậu này, nãy giờ vẫn chăm chú ngắm đứa con cao lớn của mình, khuôn mặt lúc nào cũng nở nụ cười hoà nhã, một nụ cười thoả mãn, rất hiển nhiên, bà hết sức thoả mãn với cuộc sống trước mắt của mình. Không hiểu tại sao, Trương Lập luôn thấy bóng dáng mẹ mình trên gương mặt người phụ nữ Tạng chất phác này, mẹ anh ta ở quê, quanh năm làm việc vất vả, gương mặt từng trải phong sương cũng sớm in đầy những nếp nhăn. Nụ cười của mẹ cũng hạnh phúc và an lành như vậy. Đã hai năm không về nhà, cứ lặng lẽ ở vùng cao nguyên lạnh lẽo này, Trương Lập biết mẹ ở nơi xa xôi đang khắc cốt ghi tâm nhớ mong mình, cũng như mình đang nhớ mẹ vậy. Nhưng anh vẫn kiên quyết canh giữ nơi đây, không chỉ vì lý do lớn ‘tổ quốc yêu cầu’, mà quan trọng hơn là, khi hoàn thành nhiệm vụ trấn thủ biên giới Tây Tạng này, anh có thể một lần lĩnh hai trăm nghìn tiền trợ cấp đặc biệt, có món tiền này, sau khi chuyển ngành về nhà, anh có thể mua một chỗ ở trong thành phố, để mẹ và người nhà đều được sống trong thành phố, đây là tâm nguyện bức thiết nhất mà cũng lớn nhất của Trương Lập.
Lúc này, Phương Tân đã mang nghi vấn trong lòng nói ra, Đức Nhân lão gia chỉnh lại mép chiếc áo kiểu Tạng, làm nó càng gọn gàng chỉnh tề hơn, ông rủ rỉ nói: ‘Đây là một bí mật, nếu không phải từ nhỏ tôi đã có thể đọc thuộc lòng toàn bộ ‘Bồ Đề Tổ tâm kinh’, đồng thời hoàn toàn thông hiểu thì cũng không thể cho mọi người một đáp án.’ Phương Tân biết rõ, ‘Bồ Đề Tổ tâm kinh’ đó, chính là cổ kinh Ninh Mã được cất trong Bố Đạt La cung, là chí bảo gia truyền của nhà Trác Mộc Cường Ba.
Đức Nhân lão gia ngồi thẳng hơn nữa, toàn thân lại toát lên vẻ trang trọng, ai nấy đều chịu ảnh hưởng, không khí thành ra thêm phần nghiêm trang. Đức Nhân lão gia nói: ‘Chuyện này, liên quan đến đại tai kiếp của Phật giáo.’ Ba người Phương, Trác, La cùng lúc ‘ồ’ lên một tiếng, tuy vẻ mặt mỗi người khác nhau, nhưng xem ra đều đoán được một đôi phần. Quả nhiên, Đức Nhân lão gia nói: ‘Phật giáo Tạng truyền’, vốn được các đời Pháp vương tuyên truyền, hoằng dương Phật pháp, nhưng đến đời Tán Phổ thứ bốn mươi hai, lại làm ngược lại, ra sức diệt Phật. Sau khi Tạng Vương đời thứ bốn mươi hai Lãng Đạt Mã kế vị, đã ra sức diệt Phật, cấm dịch Phật điển, đốt đền huỷ chùa, phá hoạt tượng Phật, kinh điển, sát hại tăng lữ, Phật giáo Tây Tạng chìm vào thời kỳ đen tối. Lãng Đạt Mã diệt Phật có một duyên cớ. Chuyện kể rằng có ba anh em xây tháp ở Nepal, khi tháp hoàn thành, họ làm lễ ‘hồi hướng’, dựa vào nguyện lực của ba người, lần lượt chuyển thể thành Xích Tùng Đức Trinh, Liên Sư, Tịch Hộ. Nhưng bọn họ lại quên mất không làm lễ cho con bò cũng phải vất vả làm việc, con bò phẫn hận, thề sẽ phá hoại ngăn cản bọn họ hoằng dương Phật pháp. Vì thế đỉnh đầu Lãng Đạt Mã gồ lên như sừng bò, ‘Lãng’ có nghĩa là ‘bò’, ‘Đạt Mã’ là lưu chuyển, chính là muốn nói, Lãng Đạt Mã là con bò chuyển thế.’