Chương 2
MÁY BAY TIÊM KÍCH
Hồi thứ nhất
NÚI DÃ NHÂN
Sau khi nghe xong mấy lời của Hạ Cần, Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều cảm thấy vô cùng khó hiểu, lờ mờ nhận thấy sự việc này không phải chuyện tầm thường, nhưng bọn họ thực lòng không thể nghĩ là một cô bé chưa đầy mười sáu tuổi như cô nàng thì làm gì có nổi tin tức đáng để hai người họ phải kinh ngạc cơ chứ. Thế là hai cậu liên tục hỏi dồn cho đến khi cô nàng chịu nói ra mới thôi.
Hạ Cần cẩn thận nhìn quanh bốn phía đều không có người mới ngập ngừng tiết lộ: “Anh họ tớ… từ vùng nông thôn... vừa mới trốn về nhà.” Tư Mã Khôi và La Đại Hải gần như không dám tin những lời cô bạn vừa thốt ra là sự thật, còn cho rằng tai mình có vấn đề nên nghe nhầm.
Thì ra anh họ của Hạ Cần tên là Hạ Thiết Đông, thân hình cao tới một mét tám mươi sáu, trên sống mũi luôn găn một cặp kính cận, nhưng nhìn anh không hề yếu ớt kiểu thư sinh trói gà không chặt, mà ngược lại trông rất trí thức, uyên bác. Anh ấy thích đánh bóng rổ, khi Cách mạng văn hóa bắt đầu, anh ấy đang học đại học ở Bắc Kinh, từng đọc rất nhiều tiểu thuyết phương Tây, tư tưởng khá cấp tiến, tài ăn nói hùng biện rất xuất sắc, thích tham gia mọi hoạt động thể thao và là một trong những thành viên cốt cán gia nhập phong trào Hồng vệ binh sớm nhất.
Vì Hạ Thiết Đông là người hào phóng quảng đại, tính tình trung thực, trọng chữ tín, dám làm dám chịu, thêm vào đó văn võ song toàn, lúc nào cũng hừng hực sức sống, tầm hiểu biết lại rất rộng, nên bất kể chuyện quốc gia đại sự hay tình hình thế giới, chẳng lĩnh vực nào anh ấy không thông tỏ. Hơn thế nữa, anh ấy lại rất coi trọng nghĩa khí, đọc làu làu các tác phẩm của Các Mác, Lê nin, Mao Trạch Đông cùng các tác giả nổi tiếng trong và ngoài nước khác, ví dụ như thơ của Puskin, bất kể nói đến đoạn nào anh ấy đều có thể đọc thuộc lòng như cháo chảy. Không chỉ vậy, anh ấy còn sở hữu khí chất đặc biệt của kẻ lãnh đạo được đám đông, bởi thế xung quanh luôn có rất nhiều anh em muốn đi theo.
Năm Tư Mã Khôi và La Đại Hải mười ba tuổi, hai cậu từng theo anh Thiết Đông, lúc đó mới từ Hồ Nam trở về tham gia phong trào Hồng vệ binh do sinh viên tổ chức, từng đi dọc con đường trường chinh, lại lên núi Cảnh Cương. Trong quãng thời gian hơn nửa năm đó, họ đã được mở rộng tầm mắt, trưởng thành lên và trải nghiệm thêm rất nhiều điều. Hai cậu thường nghe vị đại ca lớn tuổi này giảng giải không ít về “Chân lý cách mạng”. Khi đó, Hạ Thiết Đông nói với bọn họ: “Chỉ kẻ nào dám đương đầu với mạo hiểm và vất vả thì kẻ đó mới mong thành đại sự.” Hai người Tư Mã Khôi và La Đại Hải chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng của Hạ Thiết Đông, đến nỗi bất kể những gì anh nói, họ đều tin là điều tất nhiên. Tự đáy lòng, hai đứa trẻ sùng bái anh chẳng khác nào thần tượng.
Sau này, chủ tịch Chu Ân Lai ra chỉ thị mới, phong trào Hồng vệ binh cuối cùng cũng phải hạ màn trên phạm vi toàn quốc. Hạ Thiết Đông trở về Bắc Kinh, còn Tư Mã Khôi và La Đại Hải lại phiêu dạt nơi đầu đường xó chợ trên dải đất Trường Sa, và hai bên kể từ đó đứt liên lạc với nhau, chỉ nghe phong thanh Hạ Thiết Đông, vì nguyên nhân nào đã đó đã bị cuốn vào một sự vụ chính trị rất nghiêm trọng. Tuy rằng chưa đến nỗi bị kết án, nhưng tiền đồ xán lạn của anh ấy coi như đã hoàn toàn tiêu tan thành mây khói. Năm ngoái, anh lại bị đẩy xuống một vùng quê nghèo khó ở tỉnh Thiểm Tây.
Nhưng hai ngày trước, Hạ Thiết Đông cùng hai thanh niên trí thức khác, một nam một nữ, chạy trốn về quê nhà. Anh không dám lộ mặt ra phố nên đành nhờ Hạ Cần giúp mình tìm lại những bạn bè bằng hữu khi xưa rồi triệu tập họ lại, nói rằng anh muốn gặp mặt mọi người, sau đó dự định sẽ vượt biên giới rời khỏi Trung Quốc, cả đời này không chừng chẳng còn cơ hội sống sót mà quay trở về cố hương.
Hạ Cần biết mối giao tình giữa Hạ Thiết Đông và hội Tư Mã Khôi rất tốt, vì thế cô nàng lo rằng với hạng người có tính cách vô thiên vô pháp như cậu thì không những chẳng thể khuyên nhủ anh Thiết Đông đi theo lẽ phải, mà ngược lại, còn đâm đầu đi theo anh ấy trốn ra nước ngoài cũng nên, bởi vậy cô nàng cứ do dự mãi không quyết, cuối cùng chẳng thể giấu được thêm mới đành thổ lộ mọi chuyện.
Tư Mã Khôi nghe xong câu chuyện liền quả quyết với Hạ Cần: “Tiểu Hạ! Cậu đa nghi quá đấy thôi. Anh họ cậu là người thế nào, bọn tớ rõ hơn ai hết, anh ấy tuyệt đối không thể là kẻ hàng giặc phản quốc. Cậu cứ nghe tên của anh ấy là biết, Hạ Thiết Đông, Thiết là sắt đá, Đông có nghĩa Mao Trạch Đông, ý nói anh ấy một lòng sắt đá đi theo tư tưởng của Mao Trạch Đông. Người như vậy làm sao có thể trốn ra nước ngoài đầu hàng kẻ địch? Cho dù bị cậu chặt đầu, bọn tớ cũng cóc tin.”
Hải ngọng cũng hoàn toàn tán thành quan điểm của Tư Mã Khôi: “Bản lĩnh của Lâm Xung lớn đến cỡ nào, thế mà muốn đến Lương Sơn Thủy Bạc làm anh hùng thảo khấu vẫn phải giết một mạng người cắt đầu về nạp cho Tống Giang làm khế ước sinh tử; chứ anh Thiết Đông bây giờ chẳng qua chỉ là một thanh niên trí thức lên rừng núi, xuống nông thôn, lại chẳng biết gì về chuyện cơ mật quốc gia, nên cho dù anh ấy có toan tính hàng giặc phản quốc thật đi chăng nữa, có lẽ người ta cũng chẳng buồn cho anh ấy chơi cùng.” Hai người nghĩ vậy liền lập tức quyết định, phải nhanh chóng đến gặp anh Thiết Đông một chuyến.
Chạng vạng hôm đó, Tư Mã Khôi dẫn theo mấy người ngày trước cùng tham gia phong trào Hồng vệ binh cùng với Hạ Thiết Đông, qua sông vào thành phố. Trong một ngôi nhà đơn sơ gần nghĩa trang liệt sĩ, bọn họ đã gặp lại anh cả Hạ Thiết Đông - người anh đã xa từ nhiều năm trước.
Hạ Thiết Đông đen hơn trước rất nhiều, người cũng gầy đi trông thấy, vẻ mặt ưu tư, nhưng những ngày lao động nặng nhọc dưới ánh nắng chói chang của mùa hè ở vùng nông thôn Thiểm Tây, đã khiến cơ thể anh trở nên vô cùng rắn rỏi. Nhìn những chú nhóc ngày nào còn lẽo đẽo bám theo chân mình, giờ đã trưởng thành, trong lòng anh cảm thấy rất đỗi vui mừng. Hạ Thiết Đông giơ tay bắt chặt lấy tay của Tư Mã Khôi và La Đại Hải, theo cách giao thiệp giữa người trưởng thành với nhau. Niềm vui ngày gặp mặt khó lòng cưỡng lại đã khiến khóe mắt của cả ba người đều hoe đỏ và nhòe nước. Họ nhìn nhau một hồi lâu mà chẳng thốt nên lời.
Tiếp sau đó có rất nhiều thanh niên khác lũ lượt kéo nhau đến, khiến gian nhà vốn dĩ không rộng rãi cho lắm giờ trở nên chật cứng. Bọn họ đều là bạn học hoặc đồng chí tốt của anh Thiết Đông. Mọi người tụ hợp nhau lại chẳng khác nào giờ họp của đội sản xuất nhà máy; họ ngồi quây quần rôm rả hàn huyên đủ thứ chuyện. Hội Tư Mã Khôi nhỏ hơn bạn bè của Hạ Thiết Đông vài tuổi, nên khi lọt thỏm giữa bọn họ, mấy cậu trông chẳng khác nào lũ đàn em ngồi chầu rìa.
Hạ Thiết Đông gặp lại bạn cũ năm xưa, tâm trạng càng trở nên kích động mãnh liệt. Sau một hồi xúc động, anh liền kể cho mọi người nghe ngọn nguồn câu chuyện. Năm 1968, anh bị đẩy đến Diêm Vương Câu ở vùng phía Bắc Thiểm Tây. Lúc đầu anh còn cảm thấy mình xuống nông thôn để rèn luyện bản thân, nên chấp nhận việc tái giáo dục từ thành phần bần nông; nhưng sau khi đến đấy, anh mới dần dần phát hiện ra, nơi đó căn bản không hề chào đón các anh. Bởi vì đất đai vùng ấy nghèo nàn, nên dù có tăng cường lực lượng lao động cho đội sản xuất thêm bao nhiêu chăng nữa, thì sản lượng thu hoạch một năm cũng vẫn chỉ có ngần đó. Đa số thời gian của mọi người ở đây cũng chỉ dùng vào việc ngồi trông chờ vào sự ban ân của trời đất. Điều này khác xa với lý tưởng nhân sinh của Thiết Đông, bởi thế chẳng đầy một năm, anh đã cảm thấy không thể nào tiếp tục kéo dài kiếp sống mòn mỏi ở nơi này. Hơn nữa, chỉ cần nghĩ cả đời phải bám rễ ở nơi hoang vắng thê lương “chó ăn đá, gà ăn sỏi” này là anh không thể nào chấp nhận nổi hiện thực tàn khốc.
Tuy Hạ Thiết Đông là người tài hoa xuất chúng, nhưng người như anh cũng có một nhược điểm rất rõ rệt, đó là trạng thái chủ nghĩa lý tưởng quá trầm trọng. Anh cũng giống như đa số thanh niên đương thời, lúc nào cũng tràn đầy khí thế và nhiệt huyết với cách mạng thế giới, đồng thời cảm thấy việc khai hoang trồng trọt trong nước khó lòng giúp họ làm nên trò trống gì, bởi vậy liền hạ quyết tâm cùng hai đồng chí chạy trốn về quê nhà. Anh tâm sự với mọi người kế hoạch mai sau của mình: “Nơi này không trọng ta thì có chỗ khác trọng ta, nếu chẳng nơi nào trọng, thì ta sẽ đầu quân cho Bát Lộ, thay vì ngồi nhà chơi lông bông, liên lụy đến mẹ cha. Nhân lúc này chi bằng hòa mình vào dòng hồng thủy của cách mạng thế giới.”
Đám người La Đại Hại đều mong ngóng được tận tay sờ vào súng thật đạn thật từ lâu, nhưng bọn họ lại chẳng hiểu chút ý tứ gì trong lời hiệu triệu của Hạ Thiết Đông, nên đứng bên cạnh thắc mắc: “Lũ quỷ Nhật Bản ác ôn đã sớm đầu hàng tận năm nào rồi, bây giờ làm gì còn nơi nào tồn tại Bát Lộ quân nữa hả anh?”
Hạ Thiết Đông giải thích: “Tuy rằng về cơ bản chủ nghĩa phát xít đã bị sụp đổ, nhưng dân chúng lao khổ chiếm hai phần ba tổng dân số trên toàn thế giới thì vẫn còn đó, họ vẫn bị nồi da nấu thịt trong cảnh nước sôi lửa bỏng của cuộc sống cũ. Chừng nào chủ nghĩa đế quốc chưa hoàn toàn bị diệt vong, thì chừng đó nhân dân toàn thế giới vẫn không thể hưởng thụ cuộc sống tươi đẹp.”
Đa số mọi người có mặt tại hiện trường khi nghe mấy lời ấy đều cảm thấy không vững tin cho lắm: “Nước Mỹ người ta là một siêu cường quốc, nếu chỉ dựa vào mấy người lẻ tẻ bọn ta qua đó, thì sợ rằng chẳng thể giải phóng nổi giới cần lao. Hơn nữa, cứ cho là bọn ta có đủ quyết tâm đấu tranh đi nữa thì cũng chẳng tìm đâu ra thuyền và vũ khí. Đừng nói đến tên lửa, đại bác, máy bay ném bom, ngay cả một con dao thái rau bây giờ bọn ta cũng chẳng kiếm nổi. Chắc anh không định tính chúng ta mỗi người giắt lưng vài ba quả lựu đạn, rồi trèo lên chiếc thuyền đánh cá vượt Thái Bình Dương đi đánh Mỹ chứ?”
Hạ Thiết Đông vẫn kiên trì giải thích: “Siêu cường quốc chẳng qua chỉ là con hổ giấy, chẳng có gì đáng sợ, quân Mỹ tàn bạo nhưng nhu nhược, tất cả chỉ rặt lũ lính con nhà giàu. Hơn nữa, không phải toàn bộ người Mỹ đều là dân tư bản, 99% trong số họ cũng là giai cấp lao động bị bóc lột, chúng ta có thể dùng tư tưởng của Mao Trạch Đông võ trang cho anh em công nông binh và giai cấp vô sản ngay trong lòng địch, kích động bọn họ giơ cao ngọn cờ ‘Tạo phản nội bộ’. Chỉ cần làm được công tác trong ứng ngoài hợp, cộng với việc Fidel Castro ở ‘sân sau’ của Mỹ cùng chúng ta kẻ trước người sau khép chặt gọng kìm, thì chẳng có gì phải lo không đánh đổ được đế quốc Mỹ. Có điều... trước mắt lực lượng của chúng ta quả thật vẫn còn rất yếu mỏng, nếu trực tiếp vượt Thái Bình Dương xâm nhập vào lãnh thổ nước Mỹ thì e không thực tế cho lắm. Thế nhưng chẳng phải đế quốc Mỹ đang xâm lược Việt Nam láng giềng đó sao? Tôi thấy chi bằng chúng ta đi chi viện cho nhân dân Việt Nam, đến vùng rừng rậm nhiệt đới tham gia đánh du kích, cùng quân Mỹ tỉ thí một chuyến xem sao? Đợi đến ngày thắng lợi khải hoàn, vinh quang thái lai, chúng ta có thể khiến người trong nước phải nhìn mình bằng con mắt khác, xem chúng ta rốt cục là nhà cách mạng chân chính hay cách mạng giả dối.”
Những thanh niên này tuy rằng trong lồng ngực tràn đầy nhiệt huyết và hùng tâm tráng chí, nhưng lại chẳng thèm biết trời cao đất dày gì cả. Hạ Thiết Đông vừa dứt lời lập tức có vài người đồng thanh hưởng ứng: “Những nhà cách mạng vô sản tiền bối đã dùng thời gian 28 năm để tạo ra một Trung Quốc mới thì hà cớ gì chúng ta không thể dùng 28 năm tiếp theo để giải phóng toàn nhân loại?”
La Đại Hải lại càng là hạng người chỉ lo thiên hạ bất loạn, có đám náo nhiệt thế này thì làm gì có chuyện cậu ta chịu ngồi yên trong nhà. Hơn nữa, khu Hắc Ốc cũng sắp bị giải tỏa đến nơi, nếu bọn họ ở lại thành phố, thì trước cuối năm nay kiểu gì cũng bị tống xuống vùng nông thôn cải tạo lao động.
Tuy nói rằng làm cách mạng không phân biệt sang hèn cao thấp, hàng triệu quân giải phóng chỉ cần rời khỏi sự trợ giúp tích cực của anh em nông dân là lại quay về con đường cũ, nhưng trên thực tế chẳng ai tình nguyện sống cuộc sống bán mặt cho đất bán lưng cho trời như vậy cả đời. Trong tâm trí của hàng ngũ thanh niên trí thức thời bấy giờ thì chỉ có trở thành quân nhân mới là sự nghiệp thần thánh vinh quang nhất. Đã không thể làm lính trong nước thì sang Việt Nam đánh trận cũng là một con đường thoát thân, bởi dù sao thì người cầm súng vẫn mạnh hơn kẻ cầm cuốc. Bọn họ lại suy ngẫm, anh em mình từ ngàn dặm xa vất vả đến Việt Nam chi viện cho sự nghiệp giải phóng của nhân dân nước láng giềng, thì cho dù chẳng có công lao cũng có khổ lao. Hơn nữa nếu luận về kinh nghiệm chiến thuật và lý luận chiến lược thì người Trung Quốc chúng ta chính là bậc thầy của họ, từ cổ chí kim hai bên từng đánh nhau hàng ngàn năm, xét về thứ bậc đương nhiên chúng ta là anh cả, giờ sang Việt Nam, kiểu gì họ chẳng bố trí cho chúng ta chức vụ đại loại như sư đoàn trưởng hay chí ít cũng là trung đoàn trưởng.
Tuy rằng Tư Mã Khôi từng sống ở Bắc Kinh mười mấy năm, ngày ngày cũng đến trường đi học, nhưng từ nhỏ đã được “Văn Võ tiên sinh” thu nạp truyền nghệ, lại chịu ảnh hưởng rất sâu từ hoàn cảnh gia đình, nên kết cấu tư duy của cậu không phải là kết cấu tư duy được hình thành dưới mô thức giáo dục đơn nhất, bởi vậy cậu không hoàn toàn tán đồng với kế hoạch mà Hạ Thiết Đông vừa nói hôm nay. Có điều Tư Mã Khôi là người vô cùng coi trọng hai chữ “nghĩa khí”, nên khi hội La Đại Hải đều đã quyết định theo chân Hạ Thiết Đông đến Việt Nam tham chiến thì cậu cũng không thể để mình tụt hậu lại phía sau. Hơn nữa, rời khỏi Hắc Ốc, cậu cũng chẳng còn chốn dung thân. Thế là Tư Mã Khôi liền quyết định theo mọi người cùng đến Việt Nam.
Những người lựa chọn đến Việt Nam đa số đều là con em có cha mẹ mắc tội hữu khuynh, không nhà không cửa, tương lai mờ mịt, trừ một vài người cá biệt không dám đi ra, thì mọi người đều tự viết một bức huyết thư thể hiện lòng quyết tâm cao độ, sau đó đập nồi niêu bán sắt vụn, gom tiền vào làm lộ phí, cùng nhau bỏ nhà cất bước sang xứ người.
Hạ Cần thấy Tư Mã Khôi và La Đại Hải cũng đi theo mọi người thì trong lòng không tránh khỏi cảm giác hối hận, dù muộn màng. Trong lúc tiễn biệt, cô vẫn muốn khuyên nhủ bọn họ hồi tâm chuyển ý, nhưng Tư Mã Khôi đâu chịu nghe người khác khuyên bảo. Cậu biết Hạ Cần là người rất kín miệng, không bao giờ tiết lộ với người ngoài kế hoạch bí mật của cả nhóm, nên cũng chẳng cần thiết phải dặn dò thêm điều gì. Tư Mã Khôi lại nghĩ đến việc giờ đây phải rời xa cố hương, sang nước người đánh nhau với quân Mỹ trong làn mưa rơi lửa đạn thì cũng đâu phải chuyện đùa; súng đạn vô tình, lành ít dữ nhiều, ngộ nhỡ trở thành thây ma chốn sa trường thì cả đời này chẳng về nổi tổ quốc cũng nên. Người ta ai cũng khó lòng rời bỏ quê mẹ, nên cậu đương nhiên không tránh khỏi cảm giác bùi ngùi lưu luyến, trong lúc thần trí trở nên bấn loạn, tâm sự trĩu nặng, những lời định nói ra đều quên khuấy mất.
Hạ Thiết Đông dẫn theo hai mươi mấy bằng hữu tiễn biệt người ở nhà trong dòng nước mắt chia ly. Cả đoàn lặng lẽ lên đường, vượt ngàn dặm Nam tiến. Trên đường đi, mọi người gặp phải biết bao sóng gió gập ghềnh, khó khăn không thể diễn tả hết bằng lời. Có điều, vất vả lắm mọi người mới đến được biên giới Việt Trung, rồi lẻn qua cửa khẩu Hữu Nghị, đặt chân lên lãnh thổ Việt Nam và được nhìn thấy cảnh tượng khói lửa ngụt trời, máy bay ném bom của không quân Mỹ gầm rít ầm ầm khắp vòm trời miền Bắc Việt Nam. Điều này đã khiến cả đoàn mãn nhãn đúng như mong đợi, trong lòng ai nấy đều dấy lên ý chí muốn quyết sống mái một phen với quân thù. Thế nhưng vừa định xông ra tiền tuyến tham gia chiến đấu, có ngờ đâu tráng chí vẫn chưa được báo đáp, chẳng ai kịp nhìn tận mắt đại binh nước Mỹ trong truyền thuyết mặt mũi trông thế nào, thì lại gặp ngay phải mấy đồng chí công an Bắc Việt. Mấy đồng chí ấy thấy cả đoàn đều mặc trang phục quân nhân, nhưng lại chẳng đeo hàm hiệu gì cả, liền cho rằng họ là quân giải phóng đào ngũ đang chạy nhầm hướng, nên lập tức bắt tất cả đem nhốt lại mà chẳng cần hỏi han ngọn nguồn đen trắng gì sất. Do hai bên bất đồng ngôn ngữ, giải thích thế nào các đồng chí ấy cũng lắc đầu không hiểu. Thế là cả đoàn bị nhốt trọn một đêm trong song sắt. Ngày hôm sau, họ trói gô tất cả mọi người lại, rồi đem áp giải trở về Trung Quốc.
Đám người trẻ tuổi ấy sau khi bị trả về nước, trước tiên bị đem ra thẩm vấn một chập, sau đó được điều động đến nông trường Vân Nam để cải tạo lao động. Khi đến nông trường lao động, họ nghe được một thông tin, nói là Miến Điện[13] cũng đang đánh nhau, hơn nữa trận chiến diễn ra vô cùng ác liệt, đầu người đều bị mang ra đánh như đầu chó. Ở Vân Nam đã có rất nhiều thanh niên trí thức từng chạy đến đó gia nhập hàng ngũ quân đội cách mạng Miến Điện. Miến Điện luôn nồng nhiệt chào đón người Trung Quốc, bất luận họ thuộc thành phần gì chăng nữa, và cũng chẳng ai hỏi thân phận cao thấp sang hèn, mà lập tức phát ngay cho súng thật, muốn chọn súng ngắn hay súng trường tùy sở thích, xưởng thuốc súng cũng mở toang ai muốn dùng bao nhiêu thì dùng. Tuy rằng ở đó không có máy bay ném bom, nhưng tên lửa chống tăng AT4, pháo cao xạ, súng máy hạng nặng thì muốn bao nhiêu cũng có. Bọn họ đã thành lập “doanh trại đặc vụ thanh niên trí thức”, đó là một nhóm bộ đội lập được rất nhiều công trạng lớn lao, khiến bọn địch sợ vỡ mật.
Hội Hạ Thiết Đông vẫn chưa được tham gia chiến đấu ở Việt Nam, nên trong lòng ai nấy đều cảm thấy không cam tâm. Khi vừa nghe nói tình hình chiến sự ở Miến Điện như vậy, mọi người đều vô cùng ngứa ngáy chân tay. Cả nhóm chụm đầu bàn mưu tính kế, thấy rằng nông trường được bảo vệ rất lỏng lẻo, nên đều quyết định sẽ lẻn trốn ra ngoài một lần nữa. Thế là, họ từ Vân Nam âm thầm xuất cảnh, vượt dòng Nộ Giang tham gia quân cách mạng Miến Điện.
Từ khi đến Miến Điện, Hạ Thiết Đông tham gia tất cả hàng trăm trận chiến lớn nhỏ, tuy rằng anh chỉ mới hai mươi mấy tuổi đầu nhưng do trình độ văn hóa tương đối cao, lại được “tôi luyện” nhiều năm từ các bộ phim nội chiến trong nước, vì thế tầng kiến thức và lý luận về chiến thuật chiến lược của anh có thể nói là không thầy mà tự hiểu. Anh tác chiến vô cùng anh dũng, nên đương nhiên là được sự trọng dụng của quân đội Miến Điện. Những chiến hữu này đều ca tụng và gọi anh là Che Guevara của Trung Quốc.
Tư Mã Khôi và La Đại Hải luôn sát cánh bên cạnh Hạ Thiết Đông. Trong suốt cuộc chiến tranh tanh mùi máu kéo dài suốt bao nhiêu năm, họ đã trải qua vô số lễ rửa tội của máu và lửa, từ cuộc hành quân trinh sát hiểm nguy mai phục tứ phía, đến cuộc đấu tranh sinh tồn vô cùng gian khổ nơi hoang dã, từ việc đối diện với màn mưa rơi lửa đạn trên chiến trường, đến những áp lực tinh thần khó lòng chịu đựng sau khi sống sót. Tất cả nỗi khiếp sợ, hoảng loạn trong chiến tranh dường như đều giáng xuống đầu họ, giúp họ sớm rèn luyện được phẩm chất độc lập đương đầu với thực tế, kiên gan trước cục diện tàn khốc sau này.
Trong hậu kỳ cuộc chiến tranh, quân giải phóng Miến Điện liên tiếp bại trận, nội bộ quân đội nhân dân xảy ra mâu thuẫn gay gắt, liên đới lẫn nhau, phạm vi kiểm soát càng ngày càng bị thu hẹp, tình hình trở nên vô cùng khó khăn. Cuối cùng, tiểu đội của Tư Mã Khôi cũng bị đội quân chính phủ vây bắt và dồn vào ven rìa khu rừng rậm bí ẩn của núi Dã Nhân nằm ở phía bắc Miến Điện.
Những chiến hữu rời bỏ đất nước theo chân Hạ Thiết Đông sang Miến Điện năm đó, giờ đây người chết trận, kẻ thì mất tích trong khi chiến đấu, số người sống sót cũng chẳng còn bao nhiêu, vì thế tất cả đành phải rút lui vào núi đánh du kích. Trong một lần đi trinh sát, Hạ Thiết Đông bị thương nặng rồi bị địch bắt sống, sau đó anh bị chúng hành hình tàn khốc bắt đem đi chôn sống, đến nay ngay cả thi thể cũng không tìm thấy.
Tàn dư của đội du kích chỉ còn khoảng bốn mươi mấy người, cả ngày chạy tháo mạng mệt không kể xiết, cuối cùng phải lui về gần núi Dã Nhân. Bọn họ không chỉ thiếu thốn lương thực đạn dược, mà ngày nào cũng phải đối mặt với thương vong chết chóc. Cho dù bản lĩnh của hội Tư Mã Khôi có giỏi giang hơn nữa, thì giờ khắc này cũng khó lòng xoay chuyển được đại cục.
Quân chính phủ đã sớm coi nhóm người này là cái gai trong mắt, chúng treo giải thưởng lớn cho ai cắt được thủ cấp người cầm đầu. Tuy rằng bọn chúng không dám mạo hiểm vào sâu trong núi Dã Nhân phía bắc Miến Điện để truy bắt, nhưng lại điều động một lực lượng lớn binh sĩ phong tỏa khắp các cửa núi. Mục đích của họ là dồn tất cả các thành viên còn lại của đội du kích vào núi sâu rừng thẳm, cầm chân trong đó cho đến chết.
Núi Dã Nhân là một khu vực vô cùng nguy hiểm và thần bí đến khó lường. Dải địa hình của nó cực kỳ phức tạp, hệ thực vật trong rừng nguyên sinh um tùm, rậm rạp dị thường, quanh năm mây mù che phủ, không bao giờ nhìn thấy ánh mặt trời. Bởi vậy, nơi đây được mệnh danh là “địa ngục trần gian”. Thời tiết ở đây luôn luôn ẩm ướt, oi bức tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh dịch phát triển tràn lan, côn trùng độc sinh sôi nảy nở, muỗi vắt nhiều vô số, bất kể loài nào trong số chúng cũng đều có thể hút cạn máu người thành xác khô ngay trong phút chốc. Tương truyền, rừng rậm còn là nơi ẩn náu của yêu quái “Phi đầu man”[14]. Nó có thể nuốt chửng một con mãng xà dài mười mấy mét, còn biết phun sương tạo mây. Trên cạn đã vậy, dưới nước lại là nơi cư ngụ của từng đàn cá ăn thịt người, bởi thế chẳng ai vào núi mà lại dám cả gan đến gần ao hồ sông suối. Từ xưa đến nay, chưa một ai có thể sống sót trở về sau khi lạc bước đến chốn này. Hiện giờ, đội du kích rút chạy về đây thì đúng là rơi vào tuyệt lộ. Họ chịu sự kìm kẹp từ cả hai phía trong và ngoài, cho dù chọn cách phá vòng vây hay trốn vào núi sâu thì kết cục cuối cùng vẫn là khó lòng thoát khỏi bàn tay thần chết.
Hồi thứ hai
KARAWEIK
Trong lần đột phá vòng vây ác liệt sau cùng, vai trái của Tư Mã Khôi đã bị mảnh lựu đạn cầm tay găm vào trọng thương, mảnh đạn tuy không lớn lắm nhưng đâm sâu vào tận xương khiến máu không ngừng chảy ra. May mà La Đại Hải đã quên mình lao ra cõng bạn nên Tư Mã Khôi mới giữ được mạng sống. Có điều, trong rừng rậm núi sâu thế này lại thiếu thốn thuốc men nên không đủ điều kiện để làm phẫu thuật.
Trong đội du kích, Tuyệt là người duy nhất am hiểu về y thuật. Cô là người Hồ Nam, vóc dáng mảnh khảnh, tốt bụng, ưa sạch sẽ, nên cho dù lâm vào tình cảnh trốn vào rừng sâu núi thẳm tháo chạy khỏi tay bọn lính truy sát, cô vẫn cố gắng thu vén để bản thân trông gọn gàng ngăn nắp nhất có thể. Sau khi tốt nghiệp trung học, cô cũng lên rừng núi, xuống nông thôn như bao thanh niên trí thức khác, đồng thời cũng là một trong những thành viên theo chân anh Thiết Đông trốn chạy khỏi Vân Nam năm đó. Trong quá trình tham gia cải tạo lao động, cô từng làm thầy thuốc bấm huyệt chân, vì thế hiểu được đôi chút về cách điều chế thuốc, đặc biệt cô có tài nắn xương cho người khác.
Cố nội nhà cô tên là Tô Lão Nghĩa, cụ là một tín đồ theo đạo Thiên chúa, biết khá nhiều tiếng Tây. Thời Dân quốc, cụ còn học được mấy tuyệt chiêu thủ thân từ người Pháp. Ngoài nội khoa và ngoại khoa ra, cụ còn học được kỹ thuật nắn xương. Nếu có ai bị thương gãy xương, cụ Tô Lão Nghĩa chẳng cần phẫu thuật, mà chỉ cần dùng tay nắn nắn mấy cái là biết ngay mức độ vết thương nặng nhẹ ra sao, ví dụ như gãy mấy chiếc xương, mức độ gãy nghiêm trọng đến mức nào... Sau đó cụ nắn hai xương vào nhau cho thật khớp rồi đắp thuốc lên trên, lấy thanh gỗ hoặc nẹp tre nẹp chắc, rồi dùng băng vải cuốn chặt xung quanh; cuối cùng cụ cho bệnh nhân uống mấy viên thuốc. Kẻ bị thương sau khi được cụ chữa trị sẽ hồi phục nhanh chóng mà không để lại bất kỳ dấu hiệu tàn phế nào, mà ngay cả những hôm trái gió trở trời cũng chẳng hề bị đau nhức.
Tuyệt có thể coi là truyền nhân dòng họ Tô, cô được truyền thụ lại kỹ thuật nắn xương nổi tiếng của gia đình, nhưng trong thời gian diễn ra Cách mạng văn hóa, cô cũng bị liên lụy bởi cố nội, vì thế chưa kịp trở thành bác sĩ quân y, cô đã bị đẩy xuống vùng nông thôn khi chưa tròn mười sáu tuổi. Năm đó, anh Thiết Đông thấy cô còn ít tuổi, thân hình lại gầy gò, mảnh khảnh nên thường làm giúp những công việc nặng nhọc cần phải dùng nhiều sức lực. Sau đó, khi mọi người chạy trốn khỏi Vân Nam họ cũng dẫn cô theo cùng. Bắt đầu từ ấy, Tuyệt trở thành “bác sĩ quân y” kiêm “liên lạc viên” cho bộ đội cách mạng Miến Điện.
Sau khi xem xét tình trạng vết thương của Tư Mã Khôi, Tuyệt phát hiện: nếu không nhanh chóng phẫu thuật gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể thì sẽ dẫn đến việc mất quá nhiều máu mà nguy hiểm đến tính mạng. Thế là cô lập tức bắt tay chuẩn bị, đồng thời quay sang hỏi Tư Mã Khôi xem anh có chịu nổi đau đớn không?
Sau khi Hạ Thiết Đông mất đi, trong lòng Tư Mã Khôi không lúc nào ngớt đau buồn, cộng thêm vết thương trên vai máu chảy như tháo cống nên khuôn mặt anh trở nên tái nhợt, nhưng vì không muốn để mọi người lo lắng nên anh vẫn gắng gượng nói với Tuyệt một cách cứng rắn: “Cô đúng thật là! Muốn xử lý cái thân này thế nào thì cứ làm đi, nếu tôi mà có rên ‘hừ’ lên một tiếng thì cứ để người ta xông vào đánh cho sướng tay.”
La Đại Hải đứng bên cạnh lo lắng nói: “Tiên sư nhà cậu, chẳng biết sống chết gì sất, cậu tưởng mình là Quan Công chắc, cạo xương trị độc mà chẳng thèm nhăn mày lấy một cái. Đến lúc không thể chịu được nữa thì cậu cứ việc thoải mái gào thét, ở đây cũng chẳng có ai mà lo mất thể diện, hay là để tớ đi kiếm thanh gỗ cho cậu cắn mà mài răng nhé!”
Tư Mã Khôi nghiến chặt răng nói: “Thực ra chuyện Quan Vân Trường cạo xương trị thương cũng chẳng phải điều gì ghê gớm lắm, trong lịch sử còn có nhiều nhân vật hổ báo hơn ông ấy nhiều. Thời kỳ dấy lên khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc có rất nhiều tướng lĩnh bị quân địch bắt sống rồi phải chịu cực hình tùng xẻo, khổ hình này đúng là từng nhát từng nhát cắt dần từng miếng thịt trên cơ thể, nhưng làm gì có ai được bôi thuốc tê? Người ta còn ghi chép rõ ràng về hai vị tướng, một người tên Lâm Phụng Tường, còn người kia là Thạch Đạt Khai. Lâm Phụng Tường bị trói ở cổng chợ chịu hình. Trong quá trình chịu cực hình, mặc cho máu chảy ròng ròng đầm đìa khắp cơ thể, nhưng ánh mắt vẫn nhìn trừng trừng theo từng nhát dao của tên tùng xẻo đưa qua đưa lại trên người mình, ánh mắt chăm chú đến mức khiến tên kia phải cảm thấy ghê tay. Thạch Đạt Khai thì bị quân Thanh xử tùng xẻo ở Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên, đầu tiên ông bị cắt rời tứ chi sau đó cắt đứt cổ họng; nhưng từ đầu chí cuối, thần thái họ Thạch vẫn điềm nhiên, chẳng hề giống với kẻ đang bị chịu cực hình, mà ngược lại giống như đang được tắm gội trong bồn nước nóng dễ chịu. Quả đúng như xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, đó mới là khí khái của người anh hùng.”
La Đại Hải biết chẳng thể nào giận dữ được, liền lắc đầu bảo: “Cái thằng này đúng là đồ hồ ly gặm bình trà, nói xuôi cũng được nói ngược cũng xong. Miệng toàn chữ là chữ.”
Tuyệt cũng động viên Tư Mã Khôi: “Cậu cũng đừng cố gượng quá làm gì, khi nãy tôi cũng vừa tìm thấy mấy cọng cỏ râu ma ở gần đây, loại cỏ dại này có tác dụng giảm đau nhất định, nhưng vẫn rất đau đấy, cậu ráng chịu nhé!”
Tư Mã Khôi không nói thêm câu gì, cố gắng nén cơn đau để Tuyệt gắp mảnh đạn ra khỏi cơ thể. Trên trán đọng từng giọt mồ hôi to như hạt đỗ xanh nhưng anh vẫn kiên cường, từ đầu chí cuối không hề kêu rên một tiếng nào.
Tay nghề phẫu thuật của Tuyệt phải nói vô cùng cao siêu, từng động tác chính xác mà nhanh thoăn thoắt, nên chẳng đầy mấy phút đã gắp được mảnh đạn ra. Sau khi lấy tro cỏ khử trùng, cô liền xử lý băng bó vết thương. Đợi khi hoàn tất mọi việc, khóe mắt cô liền đỏ lên, ngân ngấn nước, rồi chẳng cầm lòng được thêm, nước mắt cứ thế thi nhau tuôn rơi.
Tư Mã Khôi nén đau hỏi: “Sao Tuyệt lại khóc?”
Tuyệt cúi đầu, dùng tay quệt ngang dòng nước mắt đầm đìa trên má: “Khi nãy tôi nhớ lại việc lúc chúng ta rời khỏi đất nước, cả đoàn hào hùng như thế, vậy mà giờ đây chỉ còn sót lại ba người bọn mình.”
Nhắc đến việc này, cả Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều chùng lòng xuống. Rất nhiều anh em bằng hữu đã phải bỏ mạng ở vùng đất Miến Điện xa xôi này, hơn nữa cái chết của họ không những chẳng hùng tráng, oanh liệt chút nào mà còn hoàn toàn vô nghĩa. Họ âm thầm nằm lại trên mảnh đất lạnh lẽo nơi xứ người, vĩnh viễn không thể trở về cố hương, còn người thân ở nhà từ nay cũng chẳng biết họ lưu lạc chốn nào mà tìm.
La Đại Hải trầm ngâm hồi lâu, mãi mới lắc đầu than thở: “Tớ nghĩ mãi vẫn không ra, lúc bắt đầu khởi binh, thanh thế của Miến Cộng đúng là mạnh như chẻ tre, dường như sắp đến ngày thắng lợi khải hoàn đến nơi, ấy thế mà sau này nói hỏng là hỏng hẳn, tốc độ tan rã còn rách nhanh hơn cả giấy dán diều.”
Tư Mã Khôi bất lực nói: “Đây vốn dĩ không phải đất làm cách mạng, vì thiên không thời, địa không lợi, nhân không hòa. Tớ thấy cho dù Guevara có tái thế mà bị quăng vào cái xó này thì cũng chẳng thể làm nên trò trống gì.”
Nhân một chốc nghỉ ngơi ngắn ngủi giữa cuộc chiến đấu, ba người liền ngồi phân tích cục diện đang phải đối đầu trước mắt. Quân đội nhân dân Miến Điện cho đến thời điểm này, thì thực tế chỉ còn mỗi hư danh mà thôi, đội du kích lẻ tẻ mấy người bọn họ khó mà làm nên kỳ tích gì. Hơn nữa, tàn dư của quân đội chính quy đều hợp nhất với quân đặc phái vũ trang của địa phương để trở thành quân đội quân phiệt, chiếm cứ mỗi người một phương, họ trồng anh túc, buôn bán vũ khí quân đội, chỉ coi trọng cái lợi của bản thân, không phân biệt tốt xấu gì cả, chẳng chuyện gì họ không dám nhúng tay vào.
Các thành viên trong đội du kích do Tư Mã Khôi lãnh đạo, ai chạy trốn được thì đã chạy mất tăm mất dạng, những người còn lại đều đang bị quân đội chính phủ phát lệnh truy nã đặc biệt, chỉ cần ló mặt ra là chắc chắn mất mạng, tuyệt đối chẳng có kết cục tốt đẹp nào đón đợi họ. Bởi vậy đừng nói đến việc ngồi xuống đàm phán thỏa thuận, mà ngay cả buông súng đầu hàng họ cũng chẳng mong đợi bọn chúng chừa cho một con đường sống. Nay cả đội lại bị nhốt ở núi Dã Nhân, trong không có lương thực, ngoài không có viện binh, nếu cố thủ tại chỗ chẳng khác nào ngồi đợi thần chết đến rước.
Đội du kích vẫn còn một lựa chọn là chạy sâu vào rừng rậm nguyên sinh trong lòng núi Dã Nhân, nhưng người Miến Điện cứ nhắc đến nơi ấy là “xanh mắt tái mặt”. Chốn rừng rậm sâu thăm thẳm này không có đường đi, địa hình lại nhấp nhô gồ ghề, môi trường phức tạp khó mà tưởng tượng, chưa kể đến những rừng cây um tùm rậm rạp và đầm lầy trải rộng quanh năm âm u không nhìn thấy mặt trời, còn độc xà ác thú lảng vảng khắp nơi, chẳng biết chúng thình lình xuất hiện lúc nào, chướng khí sương độc bao trùm cả không gian, đã vào thì đừng nghĩ đến chuyện thoát được ra. Mấy năm gần đây, những kẻ mất tích trong đó số lượng nhiều không kể xiết.
Nghe đồn, tính đến thời điểm này, lần mất tích lớn nhất là một sư đoàn tàn quân của Nhật. Chúng dễ còn đến hơn hai ngàn tên, bị quân Anh đánh cho không còn đường thoát thân, đành tháo chạy vào một đầm lầy lớn phía sườn nam của núi Dã Nhân. Kết quả là cả sư đoàn lạc đường, rồi đột nhiên bị vô số đàn cá sấu tấn công, hơn hai ngàn tên lính Nhật được vũ trang đến tận răng mà vẫn trở thành mồi nuôi cá sấu, chỉ có vài tên may mắn sống sót.
Bởi vậy, đội du kích Miến Cộng chắc chắn không thể sống sót mà thoát ra khỏi núi Dã Nhân. Cho dù lùi hàng vạn bước mà nói, thì cứ cho là họ may mắn thoát chết khỏi núi Dã Nhân, nhưng sau đó sẽ ra sao? Bắc Miến chắc không có chỗ cho họ dung thân, chỉ còn cách vượt biên sang Trung Quốc. Thế nhưng vài năm trước hội Tư Mã Khôi đã chạy trốn khỏi trại cải tạo lao động để đến đây, nếu bây giờ quay trở về, chẳng cần nghĩ cũng biết điều gì đang chờ đợi ở phía trước.
Cơ sự đã đến nước này, La Đại Hải cũng chẳng buồn màng đến sự sống chết, anh dùng mũi dao găm vạch một dấu X lên mặt đất bùn, thể hiện tình hình lúc này “lên trời vô lối, xuống đất vô môn”, sau đó quay sang hỏi Tư Mã Khôi và Tuyệt: “Mọi người rõ cả rồi chứ? Hiện giờ chúng ta rơi vào tình cảnh như vậy đấy!”
Tư Mã Khôi gật gật đầu, cười đau khổ: “Hiểu, ngay cả cơ hội chết rồi đầu thai sang kiếp sau chúng ta cũng chẳng có nữa là, dù sao thì cũng chết, chỉ còn xem rốt cục bị chết như thế nào mà thôi.”
Tuyệt cũng trầm mặc trong lòng, nhưng bây giờ đã biết rằng mình chắc chắn sẽ chết, không còn nghi ngờ gì nữa, thì tự nhiên lại cảm thấy điềm nhiên hơn nhiều. Cô nói: “Dù sao thì cũng khó tránh khỏi cái chết, tôi chẳng muốn bị bắt sống rồi để mặc cho chúng hành quyết, chúng ta có chết cũng không thể chết trong rừng sâu núi thẳm nơi đất khách quê người thế này được.”
Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng chung suy nghĩ đó. Ba người họ muốn cùng mạo hiểm đi xuyên qua núi Dã Nhân. Nếu mệnh ai lớn, có thể sống sót thoát ra ngoài, thì họ sẽ gắng sức nghĩ cách càng về gần Trung Quốc càng tốt, mọi chuyện sau này sẽ nghe theo sự an bài của số phận. Bất luận thế nào, về đến tổ quốc, cho dù bị bắt, xấu đẹp gì thì cũng rơi vào tay người nước mình, chí ít họ cũng phải qua bộ phận có liên quan thẩm vấn rồi sau đó mới đem đi xử bắn; nhưng so ra như thế vẫn tốt hơn để bọn quân phiệt Miến Điện tóm được. Lũ người này chẳng thèm hỏi đến câu thứ hai, lập tức kề súng vào sọ, nã đạn cho đến khi óc nở hoa mới thôi.
Ba người nguội lạnh hết cả ý chí, sau khi bàn bạc và xác định phương hướng rõ ràng, liền triệu tập tất cả thành viên còn sống sót, bao gồm cả những người bị thương trong đội du kích lại, nói rõ tình cảnh tuyệt vọng mà cả nhóm đang lâm vào rồi tuyên bố phải phân tán lực lượng để đột phá vòng vây. Cái gọi là “phân tán lực lượng đột phá vòng vây”, thực ra chỉ là cách nói khéo để người khác dễ lọt tai, kỳ thực muốn ám chỉ: kể từ giờ trở đi, đội ngũ của chúng ta không còn sự ràng buộc về kỷ luật và tổ chức gì nữa, cha chết mẹ đi lấy chồng, ai tự lo thân người nấy.
Thông tin vừa tuyên bố ra, chẳng hề có ý kiến phản đối, bởi vì cả nhóm đều biết việc này sớm muộn gì cũng xảy ra. Sau nghi thức chào tạm biệt trân trọng, mọi người lặng lẽ bước đi theo con đường riêng mà mình lựa chọn. Đa số thành viên thà bị quân đội chính phủ bắt được đem xử ngũ mã phanh thây, cũng còn hơn bước chân vào khu rừng rậm.
Những người quyết định lựa chọn con đường mạo hiểm này, ngoài hội ba người Tư Mã Khôi, không ngờ còn có thêm một thiếu niên người Miến Điện khoảng chừng mười sáu, mười bảy tuổi. Tên tiểu tử này là đứa trẻ mồ côi không nhà không cửa, cũng chẳng có lấy một cái tên hẳn hoi, người gầy như khỉ đói, khoác miếng xà rông[15] rách nát, đầu cạo trọc, vẻ mặt ngờ nghệch, cả ngày chỉ trình ra mỗi bộ dạng ngô ngố với nụ cười hềnh hệch thường trực trên môi. Các thành viên trong đội du kích gọi cậu ta là Karaweik hoặc Kara.
Karaweik là từ dùng để chỉ một loài chim trong truyền thuyết của người bản địa. Cách tính con giáp Miến Điện khác với cách tính con giáp Trung Quốc, là chỉ có tám con vật lần lượt tượng trưng cho các ngày trong tuần, thứ hai là con hổ, thứ ba là sư tử, thứ tư - hơi đặc biệt một chút - nếu sinh vào ban ngày là con voi hai ngà, nếu sinh vào ban đêm thì lại là con voi cụt ngà, thứ năm là con chuột, thứ sáu là chuột lang, thứ bảy là con rồng, chủ nhật là chim Diệu sí[16]. Từ đây có thể phán đoán có lẽ cậu bé được sinh vào ngày chủ nhật, bởi thế hội Tư Mã Khôi liền đặt cho cậu một cái tên Trung Quốc là Chủ Nhật.
Hai tháng trước, Karaweik còn là một cậu bé mồ côi được Hạ Thiết Đông cứu sống từ một làng quê ở phía bắc Miến Điện, cả nhà cậu đều chết hết trong chiến tranh loạn lạc, từ đó trở đi cậu một mực theo chân quân đội cách mạng đi khắp nơi, muốn tách cậu ra cũng chẳng tách nổi. Bây giờ Hạ Thiết Đông không còn nữa, Karaweik liền sống chết đòi bám theo Tư Mã Khôi.
Tư Mã Khôi thầm nghĩ: “Có lẽ cậu bé nghĩ nếu theo chân chúng ta tiến về phía trước sẽ phá được vòng vây mà sống sót, chẳng ngờ ba người bọn ta chỉ có một con đường chết đang chờ đợi”. Thế là anh bèn chỉ về hướng ngoài núi, đoạn nói: “Cậu hãy lên núi mà làm hòa thượng đi.”
Nhưng Karaweik nào chịu nghe lời, nếu theo cách nói của người Bắc Kinh thì cậu ta quá “lỳ”, quá cứng đầu, bất kể làm việc gì, chỉ cần bản thân cho rằng đúng thì sẽ nhất nhất làm đến cùng mới thôi. Không những thế, tuy rằng cậu có thể nghe hiểu được tiếng Hán nhưng lại chỉ biết bập bẹ vài câu tiếng Trung lơ lớ, mà ngay cả Tư Mã Khôi cũng chẳng hiểu cậu ta muốn nói gì. Thuyết phục không được, anh đành bất lực phải cho Karaweik theo nhóm mình cùng tiến vào núi.
Tư Mã Khôi cho rằng đã rơi vào tình cảnh này thì thêm một người hay bớt một người cũng chẳng hề gì. Hơn nữa, ở quê nhà Tuyệt cũng có một người em trai, nhưng giờ đây thân cô đang ở Miến Điện, hoàn toàn đoạn tuyệt mọi tin tức với trong nước, hai chị em đã nhiều không được gặp mặt, tính ra cậu nhóc đó cũng trạc tuổi Karaweik. Thế là cô liền chăm sóc cậu bé ân cần như chăm sóc chính em trai của mình vậy.
Tư Mã Khôi và Tuyệt còn dễ thuyết phục, duy chỉ có Hải ngọng thì chẳng muốn Karaweik gia nhập đoàn chút nào. Bởi vì người bản địa có tính lề mề chậm chạp, mặc cho người khác tha hồ thúc giục, họ cứ từ từ mà làm, ngay cả bước đi cũng lững tha lững thững. Karaweik cạo trọc đầu là vì người bản địa rất sùng bái đạo Phật. Theo tập tục này, đàn bà con gái đã vào am làm ni cô thì vĩnh viễn không được hoàn tục, ngược lại đàn ông có thể trở thành hòa thượng ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào, khi không muốn làm hòa thượng nữa thì nghiễm nhiên có thể hoàn tục. Lý do để người ta vào chùa làm hòa thượng cũng muôn hình vạn trạng, có người thì do tâm trạng không tốt muốn làm hòa thượng vài ba ngày cho vui, có người lại do dạo này hay gặp vận đen nên xuất gia làm tăng nhân mấy bữa để giải hạn.
Do sự ảnh hưởng của Phật pháp mà người bản địa cũng thay đổi họ tự lúc nào không biết. Họ dần trở nên tiêu dao, lười nhác, rất nhiều người là kẻ ba phải, phản ứng chậm chạp, chẳng bao giờ lo lắng nghĩ ngợi, sống thì sống, chết thì chết. Trong tư duy của họ, qua hết kiếp này sẽ có kiếp khác, chẳng việc gì phải dằn vặt về những chuyện trước mắt. Karaweik chính là một trong số đó. “Nhân sinh quan tiêu cực” của họ đã khiến La Đại Hải vô cùng khó chịu.
Sau một hồi than thở, Hải ngọng nhìn thấy những người còn lại đều tản ra bốn phía, anh liền đem mấy tập tài liệu còn sót lại mang ra đốt sạch. Nhìn sang thấy Tuyệt và Karaweik đang bày chiếc máy điện đàm quân dụng không dây ra đất, anh bèn thúc giục họ làm nhanh còn vào rừng, cố gắng vứt bớt đồ đạc để tiện đi lại, hơn nữa bây giờ cũng chẳng còn đồng đội nào nữa mà cần liên lạc, giữ bộ điện đàm này chỉ tổ mệt người, thà đập nát nó ra cho sớm chợ.
Tuy tiếng phát ra từ chiếc máy bộ đàm cũ kỹ toàn là tạp âm, những tiếng “xẹt xẹt” vang lên không ngớt, giọng người nói mơ hồ khó phân biệt nổi, nhưng lúc này Tuyệt đang chăm chú theo dõi, hoàn toàn không để ý xem Hải ngọng nói gì. Mấy năm gần đây, Tuyệt thường tìm cơ hội để học ngôn ngữ của người bản địa và gần như có thể trở thành phiên dịch. Cô bịt một bên tai, tập trung cao độ, cố gắng nghe tiếng phát ra từ bộ đàm, sắc mặt càng lúc càng xấu. Trong sóng điện lẫn tạp âm lẹt xẹt, chập chờn lúc được lúc mất, dường như cô đã nghe được tin tức gì đó vô cùng đáng sợ.