Chương 1.4: Viêm não
Tòa thành Nhện Vàng còn lưu giữ một vong linh ngàn năm lởn vởn trong mật thất, nói chính xác hơn thì nó là một đoạn văn bản mật, một đoạn sóng điện cần sử dụng loại thiết bị cảm ứng đặc biệt mới có thể thu nhận được. Nấm mồ xanh đã chuẩn bị kế hoạch suốt mấy chục năm, cũng chỉ vì muốn đoạt được đoạn sóng điện u hồn bị vùi sâu dưới lòng đất đó.
Tư Mã Khôi không phải không hiểu chỉ cần đoạt được sóng điện u hồn trong mật thất, thì nhất định có thể giải mã được mọi bí mật của kẻ cầm đầu tổ chức Nấm mồ xanh. Nhưng việc này quả thật quá gai góc, chẳng khác gì hổ con vồ nhím chúa, bắt được mà không biết há miệng đớp vào chỗ nào. Gương mặt thật sự của Nấm mồ xanh cũng như cách hắn lẩn trốn trước mặt đội thám hiểm, đều bị che đậy kín bưng như trong thùng tôn; vả lại thành cổ vương triều Chăm Pa giờ đã chìm nghỉm xuống đầm lầy, hiện tại chẳng còn bất kỳ manh mối nào mà lần dấu vết.
Tư Mã Khôi cân nhắc nặng nhẹ, thấy rằng trước tiên vẫn nên trở về tổ quốc, hoàn thành nghĩa vụ với những đồng đội đã bỏ mình nơi chiến trận. Đối với anh, giờ đây không việc gì cấp thiết hơn trách nhiệm này.
Còn Ngọc Phi Yến, tất cả thuộc hạ của cô trong Sơn lâm đội thiếu lão đoàn đều mất mạng trong núi Dã Nhân, hiện tại cô chẳng biết phải đi đâu, nhưng do sự ảnh hưởng của cục diện chính trị, nên cô cũng không thể theo hội Tư Mã Khôi cùng vượt biên trốn về Trung Quốc được.
Tư Mã Khôi gợi ý cho Ngọc Phi Yến, mấy ngày nay, anh cùng toán quân bang Wa có nghe ngóng được một số tin tức trong nước, được biết vài năm gần đây những chiến hữu từ đội quân Cộng sản Miến Điện trốn về nước, đầu tiên đều bị nhốt cách ly chờ thẩm tra, mục đích chủ yếu là để đề phòng người được huấn luyện nghiệp vụ mật thám ở nước ngoài điều về nước làm nội gián, sau đó do số người phải điều tra quá nhiều, nên các quy trình cũng dần nới lỏng đáng kể. Có điều, trước khi vấn đề được điều tra rõ ràng thì không ai được phép trở về đất nước, mà phải tập trung xuống vùng nông thôn chịu quản thúc, hậu quả cũng không đến mức nghiêm trọng như ban đầu mọi người vẫn tưởng.
Tư Mã Khôi còn nhớ: trước đây trong đội quân Cộng sản Miến Điện có một nữ chiến sĩ, trông hao hao giống Tuyệt, cũng xấp xỉ tuổi Ngọc Phi Yến, dung mạo khá tương đồng, lí lịch của cô ấy giống với hội Tư Mã Khôi, đều là con em thành phần hữu khuynh chạy trốn ra nước ngoài, song thân sớm đã không còn, trong nước cũng chẳng có ai thân thích. Năm ngoái, cô ấy cùng bộ đội hành quân trong rừng rậm. Đầm lầy ở khe núi là nơi cư ngụ của lũ ve hút máu, chỉ cần gặp người sống là chúng ùa đến “nhiệt liệt đón chào”, chúng chui vào da thịt nhanh như cắt, rồi luồn vào não hút máu, loại ve này tuy không đáng sợ bằng đỉa Campuchia ăn thịt người, nhưng trên mình chúng lại mang mầm bệnh “viêm màng não mủ”, xác suất truyền nhiễm sang người là một phần trăm, người nào bị lây truyền đều vô phương cứu chữa, chỉ còn cách chờ chết. Khi đó, cô ấy không may bị ve hút máu truyền bệnh, không có cách gì chữa trị được, cuối cùng đã chết, chính tay Tuyệt còn đào đất chôn cất cô ấy.
Tư Mã Khôi bảo Ngọc Phi Yến giả mạo người nữ chiến sĩ đó, dù sao sau khi về Trung Quốc cũng bị đẩy xuống một vùng nông thôn hoang vắng nào đó, chỉ cần nhớ kỹ thân phận mới của mình, cố gắng học thuộc “ba bài ca” của Mao Chủ tịch(1), cán bộ ủy ban Cách mạng phụ trách quản giáo ở địa phương toàn là nông dân, trong mắt họ, con em thành phần hữu khuynh từ mặt khí chất cho đến dung mạo đều chẳng khác thanh niên trí thức là mấy. Làm gì có ai nhận ra cô? Cách này được gọi là “mưu cầu sinh tồn trước hiểm nguy” tuy không phải cách gì hay ho lắm, nhưng cũng không hẳn không phải một con đường sống.
Ngọc Phi Yến nghĩ đến cảnh ngộ đường cùng của mình, chỉ còn biết nghiến răng nuốt hận: “Đi thì đi, chỉ có điều lão quỷ nhà anh hãy nhớ cho kỹ: nếu chẳng may tôi gặp phải chuyện gì bất trắc, thì việc đầu tiên tôi làm là khai ra anh chính là kẻ chủ mưu đấy!”
Tuyệt cũng thấy kế hoạch này không khả thi, cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, làm sao che giấu mãi được, huống hồ nếu cứ làm theo cái cách hồ đồ này của anh Khôi thì chắc không qua nổi cửa thẩm tra đầu tiên, vạn nhất người ta lôi hồ sơ trong thành phố ra so sánh, thì sẽ lộ chân tướng ngay, lúc ấy có mồm năm miệng mười giải thích cũng không ai tin, mà đâu chỉ một mình Phi Yến phải chịu tội, có khi cả anh Khôi cũng không tránh khỏi liên lụy ấy chứ.
Sau khi bàn bạc, Ngọc Phi Yến đành quyết định cao chạy xa bay đến Luân Đôn, cô dặn Tư Mã Khôi: “Ở Trung Quốc, tôi có một người chú họ chưa từng gặp mặt bao giờ, tên chú ấy là Thắng Thiên Viễn. Tuy cũng được học nghệ, nhưng con đường chú ấy lựa chọn không hề giống với bố tôi, chú ấv không hành nghề hối tử, mà đi du học ở Anh và Pháp, từng là viện sĩ trẻ tuổi nhất từ trước đến giờ ở Học viện khảo cố bảo tàng Pháp, đảm nhiệm chức vụ đội trưởng đội khảo cổ của Pháp – thường trú tại Ấn Độ, quanh năm lăn lộn ở những vùng có nhiều di tích lịch sử và giàu giá trị khảo cổ như Miến Điện, Campuchia, Việt Nam… Nghe bố tôi nói, khoảng đầu những năm năm mươi, chú ấy từng bị tổ chức Nấm mồ xanh lợi dụng, đã giải mã được một phần bí mật văn vật cổ đại, nhưng sau khi biết được âm mưu thực sự của tổ chức, chú ấy liền tìm cách trốn về Trung Quốc dưới danh nghĩa Hoa kiều, đồng thời đảm nhiệm một chức vụ quan trọng nào đó ở Bắc Kinh, từ đó đến nay chúng tôi hoàn toàn mất liên lạc. Chuyến này các anh trở về Trung Quốc hãy tìm cách đi gặp chú tôi, nếu chú ấy còn sống, có lẽ sẽ biết được chân tướng chôn vùi dưới tòa thành Nhện Vàng của vương triều Chăm Pa. Có điều các anh phải tuyệt đối cẩn trọng, chúng ta sống thêm được ngày nào hay ngày đó, đừng có mang tính mạng của mình ra làm trò đùa nữa.”
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ
Tư Mã Khôi gật đầu đồng ý: “Chú cô đã là chuyên gia trong lĩnh vực khảo cổ học, hơn nữa lại chức cao vọng trọng, sau khi về nước chắc hẳn không thể nào từ bỏ sự nghiệp dở dang được, có điều từ sau khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu, phần tử trí thức của các đơn vị đa số đều bị đẩy xuống vùng nông thôn. Ở Bắc Kinh, tôi cũng có một vài mối quan hệ, sau khi trở về sẽ nhờ người giúp dò hỏi xem sao, biết đâu lại tìm ra tung tích chú ấy”. Thế là Tư Mã Khôi bắt đầu thu xếp hành lý, thực ra ngoài hai bàn tay trắng ra thì anh cũng không còn gì nhiều mà sắp xếp, sau khi chuẩn bị qua loa, anh định khởi hành một mình.
Ai dè Hải ngọng biết được việc này, tuy vết thương vẫn chưa khỏi hẳn, nhưng anh không chịu ở lại dưỡng thương, một mực đòi theo Tư Mã Khôi về nước. Anh bảo đã chán ngấy cái đất Miến Điện này rồi, vả lại cũng rất nhớ ông bố La Vạn Sơn đang ngồi nhà đá của mình, nên một ngày anh cũng không thể ở lại thêm được nữa.
Tư Mã Khôi thấy Hải ngọng đã xuống đất đi lại được, thì quay sang hỏi ý kiến của Tuyệt. Nhận được câu trả lời khẳng định từ cô, anh bèn đồng ý dẫn theo Hải ngọng về nước.
Ở ngã tư con đường số mệnh, mỗi người đều có lựa chọn riêng cho mình, nhưng mỗi ngả đường đều chứa đầy biến cố và vô tri, giống như bị ngọn núi tuyết Gao Li Gong sừng sững đứng chặn trước mặt vậy. Bốn người rốt cục đã cùng nhau trải qua những giờ khắc sinh tử hoạn nạn, lại biết rõ con đường phía trước của mình tràn đầy biến động và hiểm nguy, nói không chừng, lần chia tay này sẽ là lần chia tay vĩnh viễn, trong lúc sắp biệt ly, ai nấy đều nặng trĩu tâm sự, mọi người im lặng, chẳng ai nói với ai câu gì, hoàn cảnh hiện tại thật đúng với câu nói của người xưa “Điều duy nhất khiến ta lặng lẽ, thẫn thờ, chỉ có chia ly mà thôi”.
Tư Mã Khôi không muốn thấy mọi người thối chí, cảm nhận được bầu không khí nặng nề, anh bèn lay lay vai mọi người: “Thôi, các cậu đừng ủ rũ như gà mắc mưa thế nữa, chẳng phải chúng ta vẫn còn sống đây sao? Mai sau thiếu gì cơ hội gặp lại, nghĩ thế sẽ thấy tâm trạng vui vẻ hơn đấy”. Nói xong liền vẫy tay gọi Hải ngọng lên đường, rời khỏi bang Wa, cắm đầu đi một mạch về hướng biên giới Miến Trung.
Giống với số phận của đa số những người rời khỏi Miến Điện trốn về nước, Tư Mã Khôi và Hải ngọng – ngoài việc bị kiểm tra sức khỏe, còn phải trải qua rất nhiều cuộc thẩm tra khác nữa, may mà vụ án Hạ Thiết Đông đã khép lại khá lâu, nên người ta không còn truy cứu nhiều về các vấn đề có liên quan. Nhưng tiếng tăm của Tư Mã Khôi và Hải ngọng khi còn vùng vẫy ở Miến Điện quả cũng không tầm thường, thậm chí ở trong nước người ta cũng phong thanh biết được, bởi vậy hai người họ không chỉ đơn giản bị đẩy xuống vùng nông thôn cải tạo lao động như dự liệu ban đầu, mà còn bị tống vào một xưởng sản xuất gạch ngói ở vùng ngoại ô heo hút thuộc Trường Sa để quản thúc. Ban ngày thì lao động chân tay, tối đến họ lại phải ngồi viết tường trình ở lóp học cải tạo, ghi chép tường tận, chân thực, nguyên văn tất tần tật mọi việc lớn nhỏ từng tham gia ở Miến Điện, còn về việc sau này sẽ tiếp tục bị nhốt hay được thả, đều phải do các ban ngành có liên quan thẩm tra chứng thực trước đã, đợi sau khi có kết luận mới định tội được.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ
Tư Mã Khôi không ngờ quá trình thẩm tra lại diễn ra nghiêm ngặt đến thế, thậm chí ngay cả viết thư cho gia đình cũng bị hạn chế, về cơ bản hoàn cảnh của hai người gần giống với trạng thái cách ly, hoàn toàn không được liên lạc với anh em bên ngoài, hiện tại người duy nhất dược phép đến thăm nom hai người chỉ có mỗi mình Hạ Cần – cô bạn học cùng lớp ngày xưa.
Mấy năm nay, bố của Hạ cần đã thăng quan làm tới chức phó tư lệnh. Sau khi cô gia nhập quân đội, thì được điều đến làm việc tại Viện y học tổng quân khu. Sau ngần ấy năm xa cách với Tư Mã Khôi và Hải ngọng, giờ đây tướng mạo ba người đều thay đổi rất nhiều, nhưng tình bạn ngày xưa thì vẫn vậy. Lúc này gặp mặt, ba người họ vừa vui mừng vừa ngạc nhiên, thật là trăm mối tơ lòng lẫn lộn.
Hạ Cần gạt nước mắt, trách cứ bạn: “Các cậu nổi tiếng quá rồi còn gì. Khi đó lấy đâu ra dũng khí mà gan to thế hả? Dám chạy đến Việt Nam, bị người ta bắt lại vẫn còn không chừa, tiếp tục trốn khỏi nông trường sang Miến Điện. Ra ngoài náo loạn bao nhiêu năm, bây giờ lại biết đường mà quay trở về cơ đấy?”
Giờ đây trở về Trung Quốc, đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản rầm rộ vẫn chưa kết thúc, Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng đành phải đổi giọng với cô nàng, không dám ba hoa khoác lác nữa, mà chỉ ngậm ngùi cảm thán: “Cậu đừng nhắc đến mấy việc đấy nữa, hồi đó tuổi trẻ nông nổi chưa hiểu chuyện ấy mà, nên mới phạm phải sai lầm chủ nghĩa manh động, gây ra tổn thất cho cách mạng thế giới, bây giờ bọn tớ thực sự có hối cũng không kịp nữa. May mà ngựa vẫn còn dừng được cương trước bờ vực, bọn tớ biết mình sai lầm trầm trọng rồi, bây giờ có nằm mơ cũng muốn được lao vào vòng tay ấm áp của nhân dân tổ quốc, vì thế cậu mau về nói với bố cậu, thử tìm xem có cách nào kéo bọn tớ ra khỏi chỗ này không nhé!”
Hạ Cần nói: “Các cậu ấy à, trước tiên cứ ngoan ngoãn chịu nhốt trong này cái đã. Nếu không thì cứ việc dỡ ngói mà chui ra”. Đoạn cô nàng nhắc đến ông bố phó tổng tư lệnh của mình cứ mãi canh cánh trong lòng về tin tức của anh Thiết Đông, định sẽ dò la chỗ Tư Mã Khôi và Hải ngọng. Năm đó, anh Thiết Đông bị người ta vu oan cho là muốn hành thích Thủ tướng Chu(2). Bây giờ mọi việc đã được minh oan, nhưng gia đình vẫn không thể nào liên lạc được với anh ấy.
Nghe đến chuyện này, Tư Mã Khôi và Hải ngọng chững người lại một hồi lâu, lòng như bị ai dùng dao cắt vậy, nhưng cũng không dám giấu giếm sự thực, đành phải nói thật với Hạ cần, duy việc anh Thiết Đông bị quân chính phủ chôn sống thì giấu nhẹm, mà nói chệch đi thành anh bị quân mai phục bắn chết, lúc tử trận rất đột ngột nên cũng không cảm thấy đau đớn gì. Khi mới hay tin, Hạ cần kinh ngạc tột độ, cô đau khổ khóc không thành tiếng.
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ
Tư Mã Khôi nhờ Hạ cần giúp đỡ hai người hai việc, thứ nhất là thông báo tin tức cho người nhà những chiến hữu đã ngã xuống nơi đất khách quê người, tiếp đó là đi tìm xem gia đình Tuyệt có còn ai nữa không, bây giờ họ sống thế nào.
Vốn dĩ Tư Mã Khôi và Hải ngọng cũng không ôm bao nhiêu hy vọng vào việc này. Sau khi Hạ cần đi, Hải ngọng lại biết ông La Vạn Sơn đã nhắm mắt xuôi tay hai năm trước vì mắc bệnh nặng, hai người lại càng thêm buồn rầu, nhưng cũng chẳng biết làm gì khác ngoài việc tiếp tục khổ sở chịu đựng những ngày tháng dài lê thê trong xưởng gạch ngói buồn tẻ này. Bản tường trình không biết đã viết mấy trăm ngàn chữ, hai người càng lúc càng sốt ruột, mà thực sự chẳng thể nghĩ ra nổi chiêu nào, đành quyết định không màng đến hậu quả, tìm thời cơ chạy trốn ra khỏi xưởng làm gạch.
Xưởng gạch ngói nằm ở nơi đất hoang người hiếm, phía trong chỉ có mấy căn phòng vừa nhỏ vừa thấp, dùng làm lớp học cải tạo và quản thúc, mái nhà lợp bằng vài tấm gỗ gá vào nhau, để thông hai đầu bắc nam, đủ rộng cho mấy chục người chung sống. Phần lớn những người này đều là thành phần bị quy là hữu khuynh và thành phần tư sản, đang tiếp nhận quá trình thẩm tra, nên phạm vi hoạt động của họ tương đối tự do, buổi tối không có cảnh vệ cai quản, chỉ có một vị ủy viên cách mạng là phó chủ nhiệm Mã thỉnh thoảng soi đèn pin loang loáng đi thị sát và đôn đốc mọi người học thuộc tài liệu tuyển tập của Mao Chủ tịch.
Cường độ lao động ban ngày ở xưởng gạch ngói rất cực nhọc, mỗi ngày phải dậy từ sáng sớm tinh mơ. Phạm nhân cải tạo lao động đều được xe tải đưa từ ngoài vào nông trường cạnh đó, rồi bị nhốt làm việc ở bên trong. Tư Mã Khôi phải cùng những người này tham gia lao động, anh quan sát thấy lúc đó có một vài chiến sĩ cầm súng tuần tra đứng xung quanh.
Hải ngọng vì đang bị thương, nên được phép nghỉ trong phòng ngồi viết tường trình, không cần đi lao động, nhimg mấy hôm trước, vết thương đã gỡ đến những mối chỉ cuối cùng, áng chừng chẳng bao lâu sau cũng không thể tiếp tục hưởng thụ đãi ngộ này nữa, bởi vậy anh không dằn lòng nổi, nếu quả thực phải sống cả đời trong cái nhà lao này, thì chẳng thà quay lại Miến Điện gia nhập quân đội bang Wa cho xong. Hải ngọng lầu bầu giục Tư Mã Khôi mau tìm cách trốn ra ngoài.
Đúng lúc hai người đang bàn kế cho lần trinh sát ban đêm kế tiếp, trước tiên phải tường tận tình hình bố trí xung quanh, sau đó mới tính tiếp, thì phó chủ nhiệm Mã đột ngột đẩy cửa bước vào, ông ta lớn giọng phê bình: “Làm gì thầm thì như buôn bạc giả thế hả? Hôm nay hai anh viết bản tường trình đến đâu rồi?”
Tư Mã Khôi lập tức nhăn mặt kêu oan: “Chủ nhiệm ơi, em viết mòn mấy cái ngòi bút rồi đấy, không biết bao giờ tổ chức mới có kết luận về việc của bọn em thế? Bây giờ đang là thời khắc nước sôi lửa bỏng để giành lấy thăng lợi toàn diện của đại Cách mạng Văn hóa giai cấp vô sản, thế mà tổ chức cứ bắt bọn em lãng phí thời giờ quý báu vào mấy việc vô giá trị này, điều ấy có thể hiện được đầy đủ chính sách mở lối thoát của Đảng và nhân dân không ạ?”
Bạn đang đọc truyện tại blog Xú ngư, chúc bạn đọc truyện vui vẻ
Phó chủ nhiệm Mã nghe xong liền thấy lo thay cho hai thanh niên trẻ tuổi, tư tưởng ý thức của họ quả thực có vấn đề lớn, bởi vậy lần nào gặp cũng phải giáo huấn một tràng dài lê thê. Lần này cũng không ngoại lệ, ông nghiêm mặt lên giọng cấp trên chỉ dạy: “Anh Khôi này, anh đừng có suốt ngày phàn nàn thế, cũng không nên đế tinh thần sa sút, ruột anh trông thế nào, tôi đều rõ cả, khúc nào mà chẳng trơn nhuồi như bôi mỡ, viết tường trình mà sai lỗi chính tả chi chít, câu trước không ăn nhập gì với câu sau. Tôi thấy chẳng ai trong lớp cải tạo nhiều lời quỷ quái bằng anh. Tôi khuyên anh nên kiên nhẫn hơn nữa, tổ chức đã sớm bắt tay điều tra vụ việc của hai anh, nhưng việc này còn can hệ đến nhiều mặt khác, không thể hoàn thành trong một sớm một chiều được. Tuy rằng thành phần gia đình hai anh không được tốt lắm, vấn đề cũng tương đối phức tạp, nhưng Mao Chủ tịch đã chủ trương rõ ràng, xà chính không thẳng, xà phụ sẽ vênh, các anh không được để mình bị tiêm nhiễm những luận điệu của bọn phản động xấu xa. Cái này nói lên điều gì hả? Nói lên rằng Đảng và nhân dân không bao giờ bỏ rơi các anh cả, vì thế các anh hãy trung thực giải trình mọi việc, nghiêm khắc tự kiểm điểm tất cả lỗi lầm đã mắc phải, kiên quyết đứng về bên chiến tuyến cách mạng vĩ đại của Mao Chủ tịch, trân trọng lối thoát mà Đảng và nhân dân khoan hồng mở ra cho các anh, không nên phụ lòng Đảng và nhân dân đã ra tay cứu giúp…”
Phó chủ nhiệm Mã thấy hai người nghe một cách lơ đễnh, nên cụt cả hứng, bèn chốt hạ nốt câu cuối cùng: “Trong mấy ngày còn lại, các anh cố tranh thủ thời gian mà thu xếp cho xong xuôi, đến cuối tháng là phải lên đường rồi đấy!”
Hải ngọng nghe xong chết điếng cả người, nhảy dựng lên hỏi: “Cuối tháng là lên đường ạ? Bây giờ mới là tháng mấy? Chẳng phải bình thường đều qua mùa thu mới bắt đầu hành quyết sao?”
Tư Mã Khôi nghe tin cũng cảm thấy toàn bộ khí huyết như bị dồn ngược lên đỉnh đầu: “Hành quyết sau mùa thu là lịch vạn niên từ thời tiền Thanh, hơn nữa nhà nước xử tử kẻ phản đồ, từ trước đến nay có bao giờ câu nệ ngày giờ đâu, hai đứa bọn mình chắc chắn bị chụp mũ hàng địch phản quốc rồi”.
Phó chủ nhiệm Mã ngao ngán lắc đầu bảo: “Chỉ giỏi suy diễn linh tinh, ai bảo đem các anh ra xử bắn hả? Tôi thấy chắc cũng chỉ vài hôm nữa là có kết luận về vụ việc của các anh, đến lúc đấy còn muốn ở lì trong này không đi hả? Có điều trước khi đến lúc ấy, các anh cứ giám sát lẫn nhau đi đã, tích cực tự giác kiểm điểm, cố gắng đào thải hêt mọi chất độc chảy trong tư tưởng, tinh thần và trong huyết quản ra cho tôi”.
Tư Mã Khôi nghe ý của phó chủ nhiệm Mã dường như là hai người được thả, anh cảm thấy có chút bất ngờ, trong lòng thầm mắng lão già họ Mã, hai chữ “lên đường” mà dám mang ra sử dụng tùy tiện thế hả? Làm ông đây chết mất bao nhiêu tế bào não dùng để suy ngẫm cuộc đời.
Hai người lại dò hỏi tình hình cụ thể, thì ra việc hôm trước Tư Mã Khôi nhờ vả Hạ cần, đã được cô nàng thực hiện chu đáo, phó tổng tư lệnh Hạ đồng ý giúp đỡ. Hơn nữa, trước giải phóng, khi còn đánh nhau ở Quan ngoại, bố của Tư Mã Khôi và bố của Hải ngọng cùng phó tổng tư lệnh Hạ từng chung một đại đội, đôi bên cũng có ít nhiều mối giao tình. Đến bây giờ, sau bao nhiêu năm tháng, ninh lâu xương lợn còn phải nhừ, được người giúp đỡ thì nạn gì mà chẳng qua, vả lại kỳ thực vụ việc của hai người cũng không phải vấn đề gì to tát lắm, họ lại là con cháu của những người làm cách mạng, chỉ cần thủ trưởng nói thêm vào đôi câu, thì quá trình thẩm tra của Tư Mã Khôi và Hải ngọng liền mau chóng chấm dứt.
Quả nhiên, chẳng bao lâu sau, hai người không bị quản thúc nữa, nhưng sau khi ra khỏi trại cải tạo, trên người không còn một xu dính túi, chẳng thà cứ ở lại xưởng gạch ngói lao động khổ cực vẫn hơn, chí ít ở đó không cần lo lắng một ngày ba bữa. Lúc này, hai người phải nghĩ cách giải quyết vấn đề sinh tồn, nên đành gia nhập binh đoàn sản xuất xây dựng, đến vùng hoang vắng ở Hắc Long Giang cực kỳ thưa thớt dân cư để xây dựng tổ quốc.
(1) ‘‘Ba bài ca” của Mao Chủ tịch: là ba bài văn ngắn của Mao Trạch Đông, phát biêu trước khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập, lần lượt là “Vì nhân dân phục vụ”, ‘Tưởng niệm đồng chí Henry Norman Bethune” (Henry Norman Bethune 1890 -1939, bác sĩ người Canada, chiến sĩ hòa bình sang giúp Giải phóng quân Trung Quốc trong những năm 1938-1939) và “Ngu Công dời núi”, ba bài phát biểu này đều nhằm nhấn mạnh tư tưởng của đảng Cộng sản là vì nhân dân phục vụ, không màng lợi ích cá nhân và gian khổ phấn đấu.
(2) Thủ tướng Chu: Chu Ân Lai (1898 – 1976), là nhà lãnh đạo xuất chúng của Đảng Cộng sản Trung Quốc, thủ tướng đầu tiên Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.