Chương 22: Ngoại truyện: LỜI HỨA CỦA MA QUỶ
Người ta vẫn bảo với nhau rằng, lời hứa của những người còn sống đều rất dễ bị lãng quên. Có người hứa với nhau sẽ bên nhau mãi mãi, nhưng cuối cùng vẫn rời xa nhau. Thế nhưng, nếu ma quỷ đã hứa, chắc chắn chúng sẽ giữ lời.
Giữa trời nắng chang chang, một đứa bé gái mặc áo tấc màu xanh nhạt thơ thẩn chơi một mình ở cánh đồng lau trắng muốt. Đứa bé chừng chín, mười tuổi, làn da trắng muốt, gò má ửng hồng, mái tóc đen được túm gọn lại thành một búi nho nhỏ. Nó mải mê nhặt những viên sỏi rồi giấu vào vạt áo, trong lòng thầm quyết định sẽ không để cho ai biết tới kho báu bí mật của mình.
Cánh đồng cỏ lau lúc này vắng tanh vắng ngắt, mùi máu tanh từ đầu thoảng lại trong làn gió nhẹ hiu hiu. Con bé khụt khịt cái mũi một chút rồi khẽ nhăn mặt. Thứ mùi này nó vốn dĩ quá quen thuộc. Mỗi lần người trong nhà kéo nhau đi đâu đó, khi trở về toàn thân ai cũng toàn máu là máu, lại còn đem theo rất nhiều tiền bạc. Mấy đứa nhỏ trong nhà ban đầu cũng sợ lắm, không dám ôm lấy cha mình khi trên người họ vương những thứ chất lỏng đỏ sậm ấy, nhưng rồi ngửi mãi cũng thành quen, mà khi đã quen thì hết sợ. Con bé cũng không ngoại lệ.
Nó lững thững đi tìm mấy viên sỏi lớn hơn. Mặc dù nhớ rõ lời mẹ dặn không được chạy đi chơi lung tung, nhưng cái ước muốn tìm được viên sỏi cứ sáng lấp lánh trong đầu nó, khiến con bé gạt đi lời dặn của mẹ mà mon men tới đường lớn. Con đường này nằm vắt ngang qua cánh đồng, nhìn từ trên cao trông xuống hệt như một con rắn khổng lồ ngoằn ngoèo bò giữa bạt ngàn cỏ lau. Càng đến gần, mùi tanh càng bốc lên nồng nặc. Con bé kinh hoàng phát hiện ra đất cát trên đường dường như đã bị nhuộm đỏ bởi máu. Chỉ có điều, máu đã hòa quyện cùng với đất tạo thành những mảng màu đen thẫm.
Gương mặt con bé thảng thốt, đôi mắt mở to đầy sợ hãi; nó nhìn thấy những bóng người đi lang thang vất vưởng trên đường. Người bị cụt đầu, người bị chém mất một cánh tay, còn có cả người bò dưới mặt đất. Dễ cũng phải tới hơn trăm người. Tiếng rên la vang lên tứ phía. Trong làn gió thổi nhè nhẹ, con bé nghe thấy rõ mồn một tiếng khóc ai oán:
“Cướp sạch rồi. Giết sạch rồi. Cha mẹ ơi, làm sao về nhà được đây?”
Khung cảnh kinh hoàng đến nỗi con bé ôm hai tay vào đầu rồi hét lên một tiếng khiếp đảm. Mọi thứ xung quanh như nhòe đi rồi tối sầm lại. Con bé không còn biết gì nữa.
Khi nó tỉnh dậy thì thấy mình nằm trên giường từ lúc nào. Xung quanh vang lên tiếng nói chuyện oang oang, tiếng mài gươm dao cùng với tiếng khấn vái rì rầm. Nó khó nhọc ngồi dậy, cảm thấy cổ họng khô khốc, khẽ gọi mẹ nhưng không thấy ai trả lời. Nó biết rằng giờ này mẹ đang bận bịu cúng tế đống hình nhân thế mạng trước sân. Ban đầu con bé tưởng rằng mỗi một hình nhân ấy là đại diện cho một người trong nhà, nhưng có lần mẹ nó cúng ít, có lần lại cúng nhiều hình nhân. Lâu dần nó hiểu ra, số lượng hình nhân ấy là cúng cho người khác, không phải cúng cho gia đình mình. Chả trách có lần nó tìm mãi mà chẳng thấy hình nhân nào giống mình cả, gương mặt của chúng cứ như nhìn đăm đăm vào nó rồi mỉm cười vô hồn.
Con bé tìm được một bình nước ngay bên cạnh giường ngủ, nó tu ừng ực cho đã khát. Uống xong, nó nhìn thấy đĩa xôi, thế là cái bụng nó sôi lên sùng sục. Con bé vừa ăn xôi, rồi lại uống nước, cứ như thế một lúc sau bụng nó đã no căng. Nó nhớ lại hình ảnh đoàn người thương tích đi trên con đường lớn hôm qua. Nó biết rằng đoàn người ấy là vong hồn vừa mới chết không lâu. Chỉ có điều, không biết vì sao mà họ vừa đi vừa khóc than ai oán như thế.
Lại nói đến vong, ngay từ ngày còn nhỏ, con bé đã có thể nhìn thấy vong. Vong nhiều lắm, vong ở khắp mọi nơi, vong hình như còn nhiều hơn cả người sống. Nghe mẹ nó kể lại, lúc nó lên một tuổi, nó vẫn thường chơi một mình rồi nghiêng mặt nhìn vào góc tường như thể có ai đó. Sau này, người lớn dời nhà đi, lúc đào góc tường lên mới biết ở dưới có bộ xương nho nhỏ của trẻ con. Đến khi lớn hơn thì nó hay thấy những người ngồi vắt vẻo trên cây, chỉ cần nó đi qua, họ sẽ gọi tên nó rồi rú lên cười khành khạch. Trong ý thức của nó, ma và người nhiều khi cũng thực giống nhau.
Mọi người trong nhà nó lúc này đang tập hợp trước một bàn thờ dựng tạm ngoài sân. Ngồi đầu là một bà thầy bói gương mặt còn khá trẻ, ngồi phía sau bà ta là một người đàn ông chừng ngoài năm mươi. Bà thầy bói tên là Âm, vốn là mẹ đẻ của con bé, còn người đàn ông kia là người có quyền hành nhất trong nhà, bọn trẻ con phải gọi là ông Đại, xưng là con. Người trong nhà ai cũng sợ ông ấy.
Con bé hít một hơi thật sâu, rón rén bước ra ngoài nhà, trốn đằng sau một đống củi chất cao rồi quan sát đám cúng. Chờ cho không ai để ý, nó len lén trốn ra bên ngoài hàng rào để đi chơi. Con bé muốn đi đến con đường lớn để xem xét kĩ một lần nữa, nhưng trong lòng nó dấy lên một dự cảm không lành. Những vong hồn hôm qua nó nhìn thấy, dường như đã bị chém giết rất dã man. Người trong nhà hôm nay lại cúng tế lớn như vậy, mười phần thì đến chín phần là có liên quan. Có khi nào cái chết của những người ấy là do người trong nhà gây nên? Nghĩ tới đó, con bé khẽ rùng mình, toàn thân nổi đầy gai ốc.
Con bé đi tới đi lui trước một bụi rậm. Nơi này vốn cách không xa nhà nó là bao, ngày bình thường đám trẻ con trong nhà vẫn hay lui tới. Mải mê suy nghĩ về đám vong hồn tơi tả hôm qua, con bé không nhận ra một người phụ nữ trắng toát đứng đằng sau bụi cây đang nhìn nó. Một tiếng quạ từ đâu bỗng réo lên khiến nó giật mình. Nó khẽ thốt lên một tiếng rồi quay ngoắt ra đằng sau. Nó trông thấy một cô gái mặc áo màu xanh nhạt, gương mặt của cô xinh đẹp nhưng làn da phát ra thứ ánh sáng nhờ nhờ, ngay cả lúc giữa ban ngày ban mặt như thế vẫn cảm thấy quái lạ. Con bé chưa kịp phản ứng thì đã nghe cô gái ấy nói:
“Em là ai? Em ở đây làm gì?”
Con bé không muốn trả lời, nhưng chẳng hiểu sao lại buột miệng:
“Không không làm gì cả!”
Nó ngập ngừng một lúc rồi hơi nhíu mày.
“Chị… chị là ai?”
Người con gái kia hơi mỉm cười.
“Người ta gọi chị là Thập nương. Còn em tên gì?”
Con bé run run, trong giọng đã có đôi phần e sợ:
“Mẹ em nói… không được tùy tiện nói tên cho người lạ.”
“Nhưng chị muốn làm bạn với em. Có được không?” cô gái khẽ mỉm cười.
Chẳng hiểu sao trong nụ cười của cô gái ánh lên sự ma mị khiến con bé không thể nào rời mắt. Nó nghe chính nó trả lời:
“Em… em tên là Phong. Mẹ em bảo người nhà thường xuyên phải đi từ vùng này qua vùng khác nên gọi em là Phong. Mặc dù em là con gái, nhưng vẫn lấy tên của con trai.”
Cô gái kia dường như ngân nga: “Cái tên đẹp quá. Cảm giác như một cơn gió vậy.”
Con bé Phong nghe thấy thế bỗng mỉm cười.
“Em cũng rất thích gió. Chỉ tiếc là không thể bay như gió được thôi.”
Ánh mắt của Thập nương bỗng xao động, rồi nói một câu không đầu không cuối:
“Muốn bay như gió cũng dễ, chỉ có điều…”
Con bé Phong nghe đến đó thì hai tai bỗng ù đi, bầu trời trong xanh ở trên cao bỗng dưng tối sầm. Cô gái ghé sát vào mặt nó, đồng tử của cô ta có một vạch thẳng đứng hệt như mắt rắn. Nó ngã lăn ra đất không còn biết gì nữa. Cảm giác lạ lẫm đến rợn người hôm qua chợt quay lại. Điều cuối cùng trước khi ngất đi mà nó kịp nhìn thấy là Thập nương tiến sát vào mình, gương mặt xinh đẹp của cô ta lúc này toàn là máu. Tai nó văng vẳng giọng nói của Thập nương:
“Cho tao mượn thân thể mày một lát.”
Chiều hôm ấy, trên cánh đồng lau diễn ra một cảnh tượng hết sức lạ lùng. Con bé Phong mới mười tuổi quỳ dưới cánh đồng ôm xác một đứa trẻ tím tái, khóc nức nở. Nó khóc lâu lắm, dễ phải đến mấy canh giờ. Khóc đến nỗi cổ họng nó khản đặc, đầu óc ong ong thì mới thất thểu đi về nhà.
Bà Âm mẹ nó hành nghề thầy cúng đã lâu, thoạt nhìn đã nghĩ ngay đến chuyện con bị ma trêu quỷ ám. Bà tức tốc bày biện một mâm lễ thật lớn rồi cúng bái ở đó suốt đêm. Nhiều cặp vợ chồng khác trong nhà thấy thế cũng đem con đến, những mong vong hồn kẻ bị cướp không đến quấy rầy trẻ nhỏ.
Vụ này khiến lão Đại cũng lo lắng, lão hạ lệnh dù có thế nào cũng phải giữ an toàn cho lũ trẻ. Việc chém giết người sống lão am hiểu bao nhiêu thì việc đối phó với quỷ sự lão lại e ngại bấy nhiêu. Ít ai biết được rằng, ngày thường lão giết người là thế, nhưng đêm xuống lúc nào lão cũng phải ngủ cạnh vợ và cậu con trai của mình. Lão cho rằng dương khí của trẻ con mạnh, khiến ma quỷ chạy xa không dám quấy rầy. Từ ngày cướp được hết số tơ lụa của gia tộc thương nhân đi ngang qua truông nhà Hồ, không hôm nào lão được ngon giấc. Hễ cứ nhắm mắt lại là lão nhìn thấy ánh mắt sắc lạnh của người đàn bà bụng chửa. Ả đã chạy đi đâu? Bụng to như thế làm sao mà chạy xa được? Có lần lão chợt bắt gặp con bé Phong nhà bà Âm đang lủi thủi chơi một mình. Con bé vừa nhìn đã khiến lão Đại giật mình rồi nghĩ thầm trong bụng:
“Ánh mắt của con bé này sao mà giống…”
Lão lúng túng quay đi, tự nhủ rằng nhất định phải để ý tới đứa nhỏ này. Thế nhưng, cuộc đời vốn chẳng ai biết trước được chữ ngờ, lão còn chưa kịp thực hiện ý định ấy thì ít lâu sau, quan quân triều đình ập tới. Lúc đó, toán cướp nhà lão Đại đang ăn uống linh đình mừng đám cưới của một đôi phu thê trẻ tuổi. Vì uống rượu đã ngà ngà say nên cả đám không còn mấy ai cảnh giác. Cả toán bị đánh úp bất ngờ, những người có con nhỏ vội vàng chạy trốn khắp nơi. Có kẻ trốn vào hầm, có kẻ nhảy xuống giếng, cũng có kẻ lén mở đường máu thoát thân nhưng không thành. Riêng gia đình con bé Phong thì may mắn còn sống cả.
Lúc lính triều đình bao vây, hai vợ chồng đang chuẩn bị cỗ bàn dưới bếp. Cha của Phong không nói nhiều, vội vàng dẫn vợ con chui xuống giếng để trốn. Cái giếng này vốn có một ngách thông sang bên cạnh, ngày bình thường chẳng ai thèm quan tâm đến, chỉ có bố con bé Phong thường xuyên làm bếp nên biết được bí mật này, không ngờ nhờ thế mà có thể giữ được mạng.
Sau vụ phục kích ấy, đám cướp bị bắt gần hết, chỉ còn lại hơn chục người trốn thoát. Tàn dư của băng cướp bàn nhau trốn thật xa để tránh sự truy quét của triều đình. Thế là họ đưa nhau quay ngược trở lại mạn Thăng Long. Con bé Phong dù không muốn nhưng cũng phải đi theo. Từ ngày gặp cô gái tên Thập nương kia, người nó chẳng lúc nào được khỏe mạnh. Con bé hay đờ đẫn như người mất hồn, thỉnh thoảng khóc nức nở trong giấc mơ, đến khi tỉnh dậy thấy gương mặt mình toàn là nước mắt. Thậm chí có nhiều lúc nó còn không nhớ mình đã ở đâu, đã làm gì. Cứ như thể thân xác của nó có tới hai linh hồn cùng chung đụng.
Bà Âm vẫn bảo rằng con bé nhà bà bị mất hồn mất vía. Thế nhưng trong thâm tâm Phong hiểu rõ, nếu bị bắt mất hồn vía thì nó phải trở nên ngu đần mới đúng. Đằng này nó vẫn nhận thức được bản thân mình, trừ những lúc mất kiểm soát mà thôi. Nó nhớ mãi lần ấy, khi trên đường trở về Thăng Long, lúc ấy khoảng giờ Tý, nó đang nằm dưới đất ngắm bầu trời sao thì bỗng nhiên nhìn thấy một gương mặt quen thuộc. Nó lập tức nhổm dậy thì thấy Thập nương đang đứng từ xa nhìn nó mỉm cười. Rồi nó chẳng còn nhớ gì hết cả. Khi nó tỉnh táo lại lần nữa thì đã là sáng hôm sau. Nó kinh hoàng phát hiện ra tất cả mái tóc của mọi người đều đã bạc trắng. Tóc của nó, tóc của mẹ nó, tóc của cả đứa bé con nhỏ xíu đều trở nên bạc phơ như loài quỷ dữ. Đoàn người sợ quá òa khóc, bà Âm vội vàng thắp nhang nức nở cầu xin vong hồn của những người đã khuất buông tha cho mọi người, thế nhưng mọi thứ đều vô ích.
Để tránh việc bị người đời nhìn ngó, đoàn người phải chít khăn thật kín đáo, tránh để lộ mái tóc bạc khiến thiên hạ xua đuổi. Họ cũng không dám xuất hiện vào ban ngày nữa mà phải đợi đến đêm mới lầm lũi dắt nhau đi, không ai nói với ai lời nào.
Ngày tháng trôi qua, đoàn người cuối cùng cũng đến được Thăng Long. Thế nhưng vừa mới bước qua cổng thành, một cơn gió quái ác từ đâu làm thổi bay mấy chiếc khăn buộc đầu của họ. Ngay lập tức, mái tóc trắng xổ ra, khiến người đi đường kinh hồn bạt vía. Họ ra sức xua đuổi đoàn người vì nghĩ rằng chỉ có loài quỷ dữ mới có dị tướng như vậy. Đoàn người đành đi tiếp. Phải tới mấy tuần trăng sau, đoàn người mới đến được một rặng núi cao, quanh năm sương mù che phủ.
Lần đầu tiên nhìn thấy khung cảnh rợn ngợp và hoang vu hiện lên trước mắt, những người thuộc tàn dư của băng cướp đã biết rằng đây sẽ là chốn nương thân của họ. Núi non quanh đây không một bóng người, tiết trời lạnh lẽo nhưng cũng đủ khiến cho đoàn người vui mừng đến phát khóc. Họ cởi phăng cái khăn buộc trên đầu, để lộ ra mái tóc bạc trắng, rồi cùng nhau bàn bạc để dựng một ngôi làng nho nhỏ, sống lánh đời từ đó.
Người có tiếng nói nhất lúc này là bố mẹ của cô bé Phong, nên họ cùng được bầu làm trưởng làng. Bà Âm cho rằng, nơi hoang vu hẻo lánh như thế tất sinh nhiều âm khí cho nên cần phải trấn yểm cẩn thận. Những người thanh niên trong tàn dư của băng cướp dồn hết sức đi săn thú để xả thịt, lại ngâm những con dao sắc vào đống máu tanh tưởi suốt mấy đêm liền. Bà lầm rầm trì chú cả đêm bằng thứ tiếng rất lạ tai, sau đó cho người chôn những con dao vào vị trí được đánh dấu từ trước để trấn yểm. Người ta còn đem rải bột hùng hoàng ở khắp nơi để ngăn rắn rết bò tới cắn người. Lúc ấy, người trong đoàn còn phát hiện ra một con suối vắt ngang rừng, dưới đó cơ man những con cá chép đen bơi lặng lẽ. Ban đầu, đám thanh niên định bắt cá để ăn, nhưng bà Âm ngăn lại.
Đám cá này sống ở nơi rừng thiêng nước độc trong một thời gian dài, rất có thể đã thành tinh, nếu như ăn vào tất xảy ra quỷ sự. Mọi người nghe thấy thế thì sợ lắm, không dám lội xuống suối bắt cá nữa. Để đề phòng bất trắc, bà Âm dặn mọi người trong làng tuyệt đối không được để máu rơi xuống nước, càng không được giết mổ động vật rồi xả thịt xuống suối, tránh làm kinh động tới lũ cá chép thành tinh.
Dân làng vì sợ bị quan quân triều đình càn quét nên không dám rời làng. Họ chỉ đành cử một vài người đàn ông băng rừng vượt dốc để giao thương. Sản vật chính của người trong làng là vải dệt và thịt rừng, thứ họ cần nhất là thuốc men, sách vở để dạy chữ cho đám trẻ con. Vợ chồng bà Âm đảm nhận nhiệm vụ giao thương ấy. Không biết vì quá bận rộn hay không muốn nhắc nhiều tới những câu chuyện ma quái giữa vùng núi non hẻo lánh mà cả hai ông bà đều không có thời gian dành cho con bé Phong. Con bé cô đơn lắm, nó thường xuyên mơ đi mơ lại một giấc mơ quái dị. Trong mơ, nó nhìn thấy mình ôm ấp một đứa bé tím ngắt đã chết từ bao giờ. Một lúc sau, hình ảnh nhòe đi, nó lại thấy chính nó thả một con côn trùng lên tóc người trong đoàn, khiến tóc họ biến thành bạc trắng. Nó kể với cha mẹ nghe giấc mơ ấy, nhưng cả hai đều tần ngần không muốn nhắc lại, chỉ dặn nó không được phép ra khỏi làng mà thôi.
Một lần nọ, nhân lúc vợ chồng ông bà Âm xuống núi, con bé Phong lẻn ra ngoài chơi. Trước lối vào làng có mấy cây hồng rất nhiều quả, hễ vào mùa thu là lá rụng hết, chỉ còn trơ lại những quả hồng màu đỏ rực nhìn đến là thích mắt. Nó trèo lên cây hái quả, bất chợt trượt chân ngã xuống đất. Nó hét lên một tiếng thất thanh rồi bất giác nhận ra nó đã tiếp đất một cách nhẹ nhàng. Con bé cảm thấy kỳ lạ quá, mở mắt ra thì thấy mình đang nằm dưới mặt đất ẩm ướt; một cô gái đang nhìn nó mỉm cười.
Nó hấp háy môi khẽ gọi:
“Thập nương! Là chị phải không?”
Người con gái mỉm cười, gương mặt dần dần hiện rõ. Thập nương vẫn xinh đẹp như xưa, hệt như lần đầu tiên gặp gỡ. Không hiểu sao nhìn Thập nương, nỗi bất an xen lẫn cảm giác buồn chán trong lòng con bé dịu lại; nó tâm sự với cô gái những giấc mộng ma mị triền miên của mình. Nó rơm rớm nước mắt.
“Thập nương! Có phải chính em là người hại cả làng biến thành bộ dạng như vậy không? Em… em rất nhớ mái tóc đen tuyền của em.”
Cô gái kia mỉm cười buồn bã, an ủi nó rằng đó chỉ là do con bé tưởng tượng mà ra. Cả hai nói chuyện rất lâu.
Thập nương kể cho nó nghe những câu chuyện về ngôi làng dưới núi, những lễ hội mà cả làng ai cũng sắm sửa quần áo thật đẹp để tham gia. Con bé Phong thích lắm, nhưng nó buồn bã trả lời:
“Em… chắc em chẳng khi nào có thể biết được những điều ấy. Người lớn trong nhà bảo rằng, tất cả mọi người sẽ phải sống vĩnh viễn ở đây cho tới chết. Không được đi ra ngoài, không được hé răng với ai về làng.”
Thập nương im lặng hồi lâu rồi ngỏ lời: “Em có muốn chị mãi mãi ở bên em không?”
Con bé Phong hơi bất ngờ nhưng nói ngay:
“Muốn! Muốn! Em muốn lắm. Nhưng phải làm sao mới được?”
Thập nương nghiêng đầu nhìn vào một cành cây nhọn hoắt dưới chân rồi nói:
“Để chúng ta có thể ở bên nhau mãi mãi, em phải chịu đau một chút mới được. Em có sợ không?”
“Em không sợ!” Phong quả quyết trả lời.
“Vậy thì em hãy nhỏ một chút máu ở lòng bàn tay, rồi nắm lấy tay chị đi vào làng. Có như thế, chị mới có thể ở bên em được, em cũng không cần phải lẻn ra ngoài nữa. Có được không?”
Nghe thấy máu, con bé Phong hơi ngập ngừng một chút nhưng vẫn bằng lòng ngay. Nó cầm một cành cây có gai nhọn lên rồi rạch một đường nho nhỏ ở ngón tay cái. Sau đó nó đón lấy tay Thập nương rồi nín thở dẫn cô gái vào bên trong. Vừa bước chân qua khỏi lằn ranh giữa làng và thế giới bên ngoài, gương mặt nhợt nhạt của Thập nương lúc này lại càng hiện rõ hơn. Con bé Phong cảm thấy có chút gì đó lạ lùng nhưng niềm vui có thêm một người bạn mới khiến nó không mảy may bận tâm. Nó khẽ nói với Thập nương:
“Sau này, chị nhớ dẫn em xuống dưới núi để xem hội nhé. Cứ ở mãi nơi này, chắc em buồn đến chết mất.”
Thập nương mỉm cười dịu dàng. “Đương nhiên rồi. Chị hứa với em.”
Con bé Phong khẽ xịu mặt, nói với giọng trách móc:
“Đừng như thầy mẹ em. Thầy mẹ hứa với em sẽ cho em đi chơi nhưng chẳng lần nào thực hiện cả.”
Gương mặt của Thập nương thoáng buồn nhưng rồi cô nói nhanh:
“Em yên tâm! Người khác hứa có thể không đáng tin. Nhưng với những kẻ như chị thì chắc chắn sẽ giữ lời. Em và sau này là con cháu em nữa, nhất định sẽ xuống được dưới làng.”
“Những kẻ như chị là sao?” Phong tò mò hỏi lại.
Thập nương định nói gì đó nhưng dằn lại, cúi đầu buồn bã đáp:
“Sau này em sẽ hiểu.”
Con bé Phong không hỏi thêm gì nữa. Nó không hề biết rằng mình vừa có một lời hứa với ma quỷ. Càng không hề biết rằng, cái ngày mà chính nó dẫn Thập nương vào trong làng, số phận của tất cả mọi người đã thay đổi mãi mãi.