Cứ như vậy mất hết ba tháng trời, Dư Tắc Thành mới được tự do, trở về tu luyện tiếp tục. Dư Tắc Thành chọn tu luyện đạo nguyên lực thứ hai là Tử Phủ Kim Đan khí, trước khi luyện khí này, Dư Tắc Thành đã cân nhắc rất lâu, sau đó tỏ ra vô cùng kiên quyết. Nếu không phá thì làm sao xây lại được, đột ngột hắn chấn mạnh một cái, sử dụng Huyết Cương Thần Quyết phá hủy hoàn toàn Tử Phủ Kim Đan khí mà mình đã khổ công tu luyện bấy lâu.
Lực chấn động khiến cho mũi miệng Dư Tắc Thành xuất huyết, thân thể mềm nhũn, bị thương không nhẹ, thậm chí gần như không thể hành động, nhưng hắn lại không thèm quan tâm, chỉ lặng lẽ ngồi tĩnh tọa trên đài đá.
Dư Tắc Thành đang chờ vầng dương mọc vào buổi sớm. Tới sáng sớm, vầng mây trên không bắt đầu hiện đủ các màu sắc tím xanh lục lam... thái dương dần dần ló dạng. Dư Tắc Thành chưa từng thấy mặt trời mới mọc đỏ tươi rực rỡ như vậy, chỉ trong thoáng chốc ráng màu thấp thoáng, quang ảnh dường như thiên biến vạn hóa, trên trời dường như bắn xuống trăm đạo quang trụ.
Lập tức tia nắng ban mai đầu tiên chiếu lên người Dư Tắc Thành, thói quen từ nhỏ hấp thu tia nắng đầu tiên, tới giờ phút này đã biến thành công pháp chân chính. Tử Khí Đông Lai, triều khí bừng bừng, chính khí hùng hồn, khí phách hiên ngang, khí thế vô biên.
Nguồn: http://truyen360.comNháy mắt Tử Phủ Kim Đan khí còn sót lại trong cơ thể Dư Tắc Thành dung hợp cùng ánh mặt trời, bị mặt trời vừa lên thu hút, bắt đầu tự động vận chuyển. Nó vận chuyển trong khắp kinh mạch Dư Tắc Thành với đường lối và quy luật hết sức kỳ dị, rất nhanh đã đạt tới cảnh giới Kim Đan kỳ đỉnh phong, là cực hạn lớn nhất mà thân thể Dư Tắc Thành có thể chịu được.
Chân nguyên này không phải là Tử Phủ Kim Đan khí nữa, nói chính xác hẳn phải là khí Tử Nhật. Bất quá Dư Tắc Thành vẫn gọi nó là Tử Phủ Kim Đan khí, không thay đổi tên môn pháp quyết này.
Biến hóa của hai đạo nguyên lực này hoàn toàn khác với trước kia, mạnh hơn trước gấp trăm ngàn lần, bởi vì đây là chân nguyên thích hợp nhất với Dư Tắc Thành. Hơn nữa hai đạo nguyên lực này dường như có được nguyên thần của riêng nó. Đây là Luyện Khí Hóa Thần! Chính là chân nghĩa của Luyện Khí Hóa Thần, dùng chân nguyên lực của mình luyện ra nguyên thần của mình.
Mỗi một đạo nguyên khí giống như có sinh mạng vậy, có được nguyên thần của riêng mình, mục đích tồn tại của chúng chính là phục vụ cho Dư Tắc Thành. Nguyên thần này có thể nhỏ có thể lớn, có thể hợp thành một thể, lại có thể phân chia. Phân tán thì có thể ẩn chứa trong một mạch, chia thành hàng ngàn vạn phần, mỗi phần to bằng hạt gạo. Tụ lại thì hàng ngàn vạn phần kia hợp lại thành một, trở thành nguyên thần bất hủ của Dư Tắc Thành.
Sau khi luyện xong đạo nguyên lực thứ hai. Dư Tắc Thành chú ý tới đạo nguyên lực thứ ba là Luyện Khí thuật của Xuất Khiếu tông. Hắn bắt đầu trầm tư suy nghĩ, nghiên cứu chừng hai tháng, rốt cục nghĩ ra một biện pháp, sau đó bắt đầu tu luyện.
Hắn sử dụng Ngũ Hành Thiên Nhân Tâm Đăng pháp, triệu tập Tam Muội Hỏa Cự Nhân, chế tạo Nhất Nguyên Thủy pháp thân, mỗi lần triệu tập một lượt hai thứ, Dư Tắc Thành dùng bí pháp đưa chúng vào huyệt đạo của mình, vốn trong cơ thể Dư Tắc Thành có ba mươi sáu huyệt đạo ẩn chứa Tam Muội Chân Hỏa, lấy đó làm nguồn, có thể đưa Tam Muội Hỏa Cự Nhân vào thuận lợi. Lập tức nó hợp nhất cùng Tam Muội Chân Hỏa trong huyệt đạo, hóa thành một đạo thần hồn chiếm cứ huyệt đạo.
Như vậy Tam Muội Hỏa Cự Nhân chiếm một huyệt đạo, Dư Tắc Thành bèn cho Nhất Nguyên Thủy pháp thân vào huyệt đạo đối ứng, vốn Thủy Hỏa Đồng Nguyên, tương xung tương khắc, rất dễ dàng chiếm lấy huyệt đạo.
Cứ như vậy Dư Tắc Thành bắt đầu nhất nhất chiếm cứ huyệt đạo của mình. Chỉ cần Tam Muội Hỏa Cự Nhân và Nhất Nguyên Thủy pháp thân chiếm cứ huyệt đạo sau ba ngày ba đêm, chúng sẽ tự động dẫn xuất nguyên thần, nhờ vậy có thể tiếp tục triệu tập, không giống như trước kia.
Dư Tắc Thành dùng Tam Muội Hỏa Cự Nhân và Nhất Nguyên Thủy pháp thân, mỗi thứ chiếm cứ bảy mươi hai huyệt đạo, sau đó đình chỉ chiếm cứ.
Bởi vì trong lòng Dư Tắc Thành mơ hồ có một mục tiêu, chính là thu đủ Ngũ Hành Tiên Thiên Linh Bảo, tạo thành thế giới Bàn Cổ hoàn mỹ của mình, khi đó mình có thể luyện Ngũ Hành Thiên Nhân Tâm Đăng pháp tới cảnh giới hoàn mỹ. Lúc ấy có thể tiếp tục chế tạo pháp thân ba hệ còn lại, chiếm cứ những huyệt đạo còn lại. Lúc ấy chiếm đủ ba trăm sáu mươi năm huyệt đạo, ắt sẽ có hiệu quả thần kỳ.
Cho nên Dư Tắc Thành dùng Tam Muội Hỏa Cự Nhân và Nhất Nguyên Thủy pháp thân, mỗi thứ chiếm cứ bảy mươi hai huyệt đạo, dần dần cảm ứng được biến hóa bên trong huyệt đạo. Sau khi mỗi một huyệt đạo được kích hoạt, chân nguyên trên người mình lập tức gia tăng thêm một phần. Hơn nữa bí pháp này mơ hồ tương hợp cùng Huyết Cương Thần Quyết, có cảm giác huyết khí phương cương.
Luyện Khí thuật của Xuất Khiếu tông dừng lại ở đây, coi như chỉ hoàn thành được hai phần năm nhưng đã có phương hướng rõ ràng. Đợi đến khi Dư Tắc Thành lấy được ba món Tiên Thiên Linh Bảo ba hệ còn lại, lúc ấy sẽ tự nhiên đạt tới đại thành.
Tiên Thiên Linh Bảo hệ Mộc, Dư Tắc Thành đã có phương hướng rõ ràng, những gì hắn đang làm hiện tại đều là vì khoảnh khắc đánh tới Tự Tại Thiên.
Tiên Thiên Linh Bảo hệ Thổ, hệ Kim không có chút tung tích nào cả, chỉ có thể dựa vào vận may.
Được rồi, hiện tại đã có thể tiến hành tu luyện nguyên lực tiếp theo, chọn ra một trong ba loại nguyên lực còn lại là Không Ma Kinh. Cực Nguyên chân nguyên lực và Tiên Tần Luyện Khí thuật.
Tiên Tần Luyện Khí thuật dựa theo kinh nghiệm tu luyện trước kia, bí pháp này sẽ thay đổi tùy theo pháp thuật mà mình tu luyện, xem ra chỉ có thể để nó lại tu luyện sau cùng.
Không Ma Kinh tu luyện được Không Ma chân nguyên lực, Dư Tắc Thành vất vả nghiên cứu, cuối cùng phát hiện rằng nguyên lực này không cần sửa chữa. Bởi vì pháp quyết này đã trải qua trui rèn trăm ngàn lần, đạt tới hiệu quả tốt nhất, cho dù mình có tu luyện lại cũng không thay đổi được điểm nào. Cho nên Dư Tắc Thành chỉ có thể dựa vào đường lối hành công cũ, khổ luyện ba tháng, nhờ vào đặc điểm của Nạp Hải Thôn Thiên khí đưa Không Ma chân nguyên lực đạt tới trình độ ngang bằng với các loại nguyên lực khác.
Bước tiếp theo, Dư Tắc Thành bắt đầu tu luyện Cực Nguyên chân nguyên lực. Loại nguyên lực này cũng vậy, không còn khả năng tinh tiến, chỉ có thể nhờ vào đặc điểm của Nạp Hải Thôn Thiên khí, đưa nó đạt tới trình độ ngang bằng với các loại nguyên lực khác.
Tuy rằng Cực Nguyên Hà Quang này được xưng là quang, nhưng không hiện ra một tia hào quang nào cả, ngược lại hấp thu tất cả quang mang, có năng lực ăn mòn thâu tóm siêu mạnh, có thể hấp thu dung hợp tất cả chân nguyên. Điểm tiếc nuối duy nhất là năng lực thẩm thấu trước kia nay đã hoàn toàn tiêu tan.
Cuối cùng Dư Tắc Thành bắt đầu luyện tập Tiên Tần Luyện Khí thuật. Lần tu luyện này, dần dần Dư Tắc Thành đã cảm ngộ được một điểm khác của Tiên Tần Luyện Khí thuật, lần này nó không còn biến hóa đặc tính của các loại nguyên lực khác, mà là dần dần dung hợp tất cả đặc tính của năm loại nguyên lực kia, hơn nữa còn có cảm giác như sắp sửa thoát thai hoán cốt, nhưng vẫn còn thiếu một bước vào cửa. Không biết mình có sơ ý bỏ qua điểm mấu chốt nào không, khiến cho nó không thể đạt tới trình độ cải thiên hoán địa.
Rốt cục tu luyện Lục Khí xong, Dư Tắc Thành không lo chuyện khác, bắt đầu chuyên tâm tu luyện tại đây. Thoáng chốc thời gian hai năm đã qua, rốt cục Dư Tắc Thành tu luyện Lục Khí trong Hoàng Ngưu cốc đã đạt tới trình độ Kim Đan đỉnh phong.
Nhờ lãnh ngộ Huyết Cương Thần Quyết, Tử Phủ Kim Đan khí, bí pháp Xuất Khiếu tông, khiến chân nguyên lực của Dư Tắc Thành đạt tới mức độ không thể nào tưởng tượng, cao cấp hơn mười lần chân nguyên của Kim Đan Chân Nhân khác đạt tới cảnh giới Kim Đan đỉnh phong. Trong tất cả Kim Đan Chân Nhân của Hiên Viên kiếm phái, không ai có thể sánh với Dư Tắc Thành về chân nguyên lực.
Nhưng cảnh giới của Dư Tắc Thành vẫn chỉ là cảnh giới Tâm Động sơ cấp. Bởi vì muốn nâng cao tu vi ở cảnh giới Tâm Động, không phải chỉ cần chân nguyên gia tăng là có thể nâng cao, mà là cần tâm động, có được sở ngộ.
Theo như tiền nhân tổng kết, Tâm Động kỳ được chia làm bảy cửa ải khó khăn, bao gồm phá ngộ, định tâm, thương tình, khổ bi, mạc ai, tang thân, vô trợ. Thật ra bảy cửa ải này cũng không phải là cố định, không người nào giống người nào, có người không hề trở ngại đã thuận lợi quá quan, có người không hiểu vì sao kẹt ở một trong bảy cửa quan này cả trăm năm. Tuy rằng các phái cũng nghiên cứu ra vô số linh dược để vượt qua Tâm Động kỳ, nhưng ở một mức độ nào đó, chuyện này cần phải có cơ duyên.
Thật ra Dư Tắc Thành không thèm để ý tới chuyện nâng cao cảnh giới. Hắn đã luyện thành Lục Khí, rốt cục có thể chuyển sang luyện kiếm, hắn muốn luyện ra Kiếm Đạo Duy Ngã độc nhất vô nhị của riêng mình.
Mỗi lần Dư Tắc Thành tu luyện xong đều chạy vào thế giới Bàn cổ xem vết kiếm mà Trung Hưng Tổ Sư lưu lại. Mỗi lần quan sát hắn đều có cảm giác kỳ dị, khó tả bằng lời, vết kiếm này chẳng khác nào ngọn đuốc trong đêm, chỉ dẫn cho Dư Tắc Thành, cho hắn một phương hướng đi tới.
Mỗi lần xem xong vết kiếm này, Dư Tắc Thành lại giở Tâm Ma Tàn Ảnh ra xem. Mỗi lần hắn xem Tâm Ma Tàn Ảnh đều có cảm giác rằng Tâm Ma Tàn Ảnh này ghi lại mười bảy loại kiếm thuật, nhưng những kiếm thuật ấy đều cần ngộ đạo. Hơn nữa Dư Tắc Thành có cảm giác rằng kiếm ý của Tâm Ma Tàn Ảnh này nếu đem ra so sánh với một kiếm của Trung Hưng Tổ Sư kia, hoàn toàn là hai khái niệm bất đồng, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.