Tuyển Tập Tâm Lý Tội Phạm Lôi Mễ

Chương 28

Chương 28
Tầng Trên Địa Ngục

Nhờ vào ánh sáng phía ngoài cửa, Phương Mộc nhìn thấy dưới chân là những bậc cầu thang xi măng để đi xuống tầng ngầm, chắc có khoảng hơn 30 bậc. Phương Mộc thận trọng bước từng bậc một, mới đi được mấy bước, đã hoàn toàn không nhìn thấy con đường ở dưới chân nữa rồi. Quay đầu lại, ánh sáng phía ngoài cánh cửa sắt đó chỉ còn lại một đường lờ nhờ bé xíu. Cậu do dự mấy giây, cắn răng, vẫn dò dẫm đi xuống tiếp, sau đúng một phút, cuối cùng cũng giẫm lên nền xi măng bằng phẳng.
Xung quanh là một màu đen đặc, yên tĩnh một cách đáng sợ. Phương Mộc đứng yên vài giây, cố gắng căng mắt ra nhìn xung quanh, đáng tiếc chỉ nhìn thấy màn đêm đen, có giơ tay ra trước mặt cũng chẳng nhìn thấy ngón tay. Phương Mộc bị màn đêm đen dày đặc vây bủa, cơ thể dường như càng lúc càng nặng, đôi chân mềm nhũn. Đột nhiên cậu nhớ rằng mình có mang theo bật lửa, vội vàng lần tìm.
Tìm thấy rồi, mở nắp, bật lên, một đốm lửa nhỏ vụt sáng. Trước mắt Phương Mộc không còn là bóng tối nữa, cậu phát hiện ra mình đang đứng ở một đại sảnh hình vuông, rộng khoảng 40m2.
Đại sảnh được tạo thành từ xi măng đổ bê tông, ở góc tường xếp một chồng bàn ghế cũ, ngoài ra chẳng còn gì nữa. Bức tường ngay trước mặt, hơi khác với màu xám những bức tường xung quanh, giơ đốm lửa soi, hình như đó là một cánh cửa. Phương Mộc rút dao găm ra, hít một hơi thật sâu, từ từ đi lên trước.
Đó đúng là một cánh cổng sắt, hai cánh cửa sắt han gỉ khép chặt. Phương Mộc đặt tay lên tay nắm lạnh lẽo thô ráp, cảm giác không có bụi. Xem ra, cách đây không lâu, đã có người đến đây. Cậu thử kéo mạnh, cổng sắt phát ra tiếng rít rít nhói tai, cửa đã mở ra.
Mùi ẩm mốc ghê rợn xộc tới khiến Phương Mộc nghẹt thở. Cậu đứng yên, nhờ vào chút ánh sáng yếu ớt của bật lửa, Phương Mộc quan sát thấy phía trước mặt là một hành lang dài. Phương Mộc chợt cảm thấy tâm trạng hoảng loạn đến độ khó mà kìm chế nổi, bật lửa đang cầm trong tay cũng bắt đầu run rẩy.
Lòng bàn tay cảm giác được cán dao găm thô ráp, tâm trạng mới bình tĩnh đôi chút. Phương Mộc cố định thần lại, cố gắng không nhìn xuống điểm tận cùng của hành lang đen kịt đó. Cậu phát hiện ra hai bên trái, phải đều có hai cánh cổng lan can sắt đang mở, bên trong là một phòng rộng khoảng hơn 20m2, Phương Mộc thấp thoáng nhận ra trong đó xếp đầy bàn ghế hỏng. Trên góc phải của vòm cửa có một đồ án Trung Hoa Dân quốc hoen ố, bên dưới có ghi số ‘1’ đã bị hủy hoại nghiêm trọng. Phương Mộc lấy bật lửa soi về phía bên trái, trên vòm cửa cũng có một đồ án tương tự, chỉ có điều số bên dưới là số ‘2’.
Rõ rồi, đây là phòng giam. Nếu như đoán không nhầm, có lẽ Thái Vĩ nằm ở phòng thứ tư phía bên phải của phòng giam. Cũng chính là phòng giam số 7. Nghĩ đến đây, Phương Mộc vô cùng nóng vội, bước từng bước lên phía trước. Nền dưới chân không phải là nền xi măng nữa, khi giẫm lên thấy hơi lay động, nhờ ánh lửa, Phương Mộc thấp thoáng nhìn thấy dưới chân chính là một tấm lưới thép dày đặc. Có lẽ hồi đó đã thiết kế để có thể giúp người canh giữ đồng thời quan sát được hai tầng trên dưới.
Phương Mộc vừa nghĩ vừa nhìn chăm chăm vào phòng giam số 3 đang đến gần, chân vẫn không ngừng bước. Đột nhiên, cậu cảm thấy, chân mình giẫm lên một chất liệu không giống với lưới thép. Khi cậu nhận thấy đó có thể là một miếng gỗ đã bị mục nát, cả thân hình đột nhiên bị rơi xuống dưới.
Những tiếng vang thật lớn, Phương Mộc cùng với miếng gỗ bị giẫm gãy đó cùng rơi xuống tầng dưới của tầng ngầm, ngã vật xuống nền xi măng.
Cú ngã này khá mạnh, trong mấy giây liền, Phương Mộc cảm thấy vùng ngực đau rát, đến độ gần như nghẹt thở. Cậu đau đớn lật người dưới đất, cuối cùng cũng miễn cưỡng thở hắt ra, tiếp đó là một trận ho rút gan rút phổi.
Khó khăn lắm mới dứt được cơn ho, Phương Mộc thở dốc, bò dậy. Kính mắt không biết rơi đi đằng nào rồi, mắt bị bụi bám đầy. Phương Mộc đưa một tay lên dụi mắt, tay còn lại ra sức lần mò tìm kiếm, may mà, cậu nhanh chóng sờ thấy dao găm và bật lửa.
Phương Mộc bật bật lửa, soi lên bên trên, mới phát hiện ra phía trên khoảng 3 mét có một cái hố hình vuông, bên dưới gắn liền với một chiếc thang kim loại. Đây có lẽ là lối đi giữa hai tầng, lúc đầu có lẽ có một cái nắp kim loại có thể đóng mở được, sau đó người ta sợ rằng nếu không cẩn thận sẽ rơi xuống dưới, nên đã đặt mấy tấm gỗ lên trên. Do thời gian quá lâu, miếng gỗ đã bị mục nát rồi.
Phương Mộc cử động tay chân, thấy không có vấn đề gì nghiêm trọng, bèn cầm bật lửa soi xung quanh.
Đây có lẽ là thủy lao. Phương Mộc phát hiện mình đang đứng ở trên một bục xi măng, bên dưới là một bể xi măng rất lớn, sâu đến 2 mét. Trong bể không có thứ gì, có thể thấp thoáng nhìn thấy trên bức tường bể xếp thẳng hàng một số cốc sắt, có lẽ là để cho các phạm nhân hồi đó sử dụng. Phía trước mặt còn có một bể xi măng. Phương Mộc đi chậm rãi men theo thành bể, dưới ánh lửa yếu ớt, hình dáng chiếc bể xi măng dần dần xuất hiện. Đột nhiên, Phương Mộc phát hiện hình như ở dưới đáy bể có gì đó.
Thứ đó đen sì, nhìn trông giống một cái tủ. Phương Mộc nắm chặt con dao găm, thận trọng nhích từng chút một đến đó. Khi đi đến vị trí đối diện với nó, Phương Mộc vươn cánh tay đang cầm bật lửa ra, cố gắng nhìn thật kỹ.
Trong khoảnh khắc, Phương Mộc cảm thấy ngừng thở, nhưng tim lại đập thình thịch. Đó là một chiếc lồng sắt, trong lồng sắt hình như có người!
Phương Mộc định thần lại, run rẩy khẽ gọi: “Này!”
Tiếng gọi bị phóng to vô tận giữa thủy lao trống rỗng, nó vang vọng vào các bức tường, tạo nên thứ âm thanh rất đáng sợ. Người đó không hề nhúc nhích.
Người đó là ai? Người đó còn sống không?
Phương Mộc lấy bật lửa soi xung quanh, nghiến răng, nhảy xuống.
“Thình!”
Bể hơi sâu hơn so với tưởng tượng của cậu, khi chạm xuống đáy, hai chân Phương Mộc cảm thấy đau đớn. Sau khi chạm đất, cậu không đi đến đó ngay, mà nghe ngóng động tĩnh xung quanh, rồi từ từ đứng dậy, cầm con dao găm, bước từng bước đến chiếc lồng sắt.
Đúng vậy, ở trong lồng có một người đang nằm, ánh sáng yếu ớt, Phương Mộc nhìn chằm chằm vào người đó, thận trọng tiến lại gần.
Khoảng cách tới lồng sắt ngày càng gần, hình dáng người đó cũng rõ dần lên, là một người đàn ông, co người nằm nghiêng trong lồng sắt, lưng quay về phía Phương Mộc. Chiếc áo len màu xám đó trông rất quen mắt…
Đung đưa đốm lửa chiếu lên phía đầu người đàn ông đó, mái tóc hoa râm. Mắt Phương Mộc bỗng mở thật to, lẽ nào là…
Cậu chạy vòng đến phía bên kia lồng, quỳ xuống, soi bật lửa vào mặt người đàn ông đó.
Là thầy Kiều!
Nhất thời, Phương Mộc không biết là nên kinh hãi hay vui mừng, là bi thương hay phẫn nộ. Cậu vội quỳ xuống, ra sức lắc mạnh lồng sắt: “Thầy Kiều, thầy Kiều…” Thầy Kiều đầu tóc rối bời, thân hình đã gầy rộc hẳn đi, đang bị lắc mạnh bởi động tác của Phương Mộc, đôi mắt vẫn nhắm nghiền không hề mở ra.
Thầy đã chết rồi sao? Đừng! Phương Mộc giơ tay vào trong, đặt dưới mũi thầy Kiều, may quá, vẫn cảm thấy hơi ấm nhè nhẹ. Phương Mộc vội ấn nhân trung thầy, ra sức gào thét: “Thầy Kiều, thầy tỉnh lại đi, thầy Kiều…”
Không biết bao lâu, tay thầy Kiều đột nhiên nhúc nhích, trong miệng phát ra những âm thanh ‘u… u’. Phương Mộc mừng rỡ, vội vàng lấy tay nâng đầu thầy Kiều, cố gắng đỡ thầy ngồi dậy. Thầy Kiều ho, người mệt lả dựa vào lồng sắt, cố thốt ra một tiếng yêu ớt: “Nước…”
Nước, chỗ này lấy nước ở đâu, Phương Mộc cuống quá quay xung quanh, nhưng khóe mắt lướt nhìn thấy ở góc lồng có một bình nước khoáng. May quá, có non nửa bình nước. Thầy Kiều sau khi uống liền mấy hơi, hơi thở đã dần bình thường lại, mắt cũng từ từ mở ra.
Đôi mắt vốn rất sáng và đầy trí tuệ, lúc này đây vẩn đục vô cùng. Thầy Kiều từ từ chuyển động nhãn cầu, nhìn một lúc mới nhận ra Phương Mộc.
“Là em à?”
“Vâng, em đây, thầy Kiều, em là Phương Mộc!” Phương Mộc hỏi đầy khẩn thiết: “Tại sao thầy lại ở đây?”
Giáo sư Kiều lắc đầu, cười đau khổ nói: “Ôi! Thầy già rồi nên lẩm cẩm, thầy vẫn cứ tưởng có thể thuyết phục nó đi tự thú, thầy cứ tưởng nó vẫn là cậu sinh viên cầu tiến, ngoan ngoãn biết nghe lời năm nào.”
Phương Mộc vội hỏi: “Là Tôn Phổ phải không ạ?”
Giáo sư Kiều thoáng kinh ngạc, bèn gật đầu: “Quả thực thầy đã không nhìn nhầm em.”
“Chúng ta đừng nói nhiều nữa, thầy Kiều, em đưa thầy rời khỏi đây!” Phương Mộc dìu giáo sư Kiều dựa hẳn vào lồng sắt, đứng dậy nhìn khắp lượt cả lồng.
Chiếc lồng sắt, cộng thêm thầy Kiều, phải đến hơn 100kg, di chuyển đã rất khó khăn, chứ đừng nói đến việc chuyển nó lên khỏi bể nước, rồi lại chuyển lên tầng trên. Cách duy nhất là mở được khóa, đưa được thầy Kiều ra rồi tính sau. Phương Mộc nhấc nhấc ống khóa, khá nặng. Cậu rút con dao găm ra, cắm lưỡi dao vào ổ khóa, cố thử lắc vặn, biết là không thể cạy ra được, hơn nữa còn có thể gãy luôn cả lưỡi dao. Cậu quỳ xuống, nói với thầy Kiều: “Thầy đợi em một lát, em tìm thứ gì đó để mở khóa.”
Lời nói chưa dứt, đã nghe thấy âm thanh vang rền phía trên đỉnh đầu.
Một luồng ánh sáng chiếu xuống, chiếu thẳng vào khuôn mặt Phương Mộc đang quỳ bên cạnh chiếc lồng sắt. Phương Mộc bị ánh sáng làm cho chói mắt, cậu vội giơ tay lên che mắt, nhìn về phía đó. Trần nhà xuất hiện một lỗ hổng lớn hình vuông, một chiếc đèn pin đang chiếu thẳng xuống.
Trong khu tầng ngầm vẫn còn có người khác nữa!
Mặc dù bị hoa mắt bởi ánh sáng chói lòa, Phương Mộc vẫn thấp thoáng nhận ra người đó là nam giới.
“Anh là ai?”
Người đó không trả lời, mà chỉ cười ‘hi hi’ mấy tiếng. Trái tim Phương Mộc bỗng chốc lạnh giá, cậu biết đó là ai rồi.
Không để cho cậu kịp nghĩ nhiều, trong tay người đàn ông đó cầm thêm vật gì đó, rót xuống, một thứ mùi nồng nặc nhức mũi tỏa ra từ trên xuống dưới. Phương Mộc né tránh theo bản năng, nhưng một bên ống tay áo vẫn bị ướt đẫm thứ dung dịch đó. Thế nhưng thầy Kiều ở trong lồng sắt không có chỗ tránh, bị ướt đẫm toàn thân.
Phương Mộc giơ lên mũi ngửi, bỗng chốc lông mao toàn thân dựng đứng cả lên. Là xăng.
Người đàn ông phía trên đã biến mất, chỉ còn lại một lỗ hổng hình vuông. Ở lỗ hổng đó toát ra thứ ánh sáng yếu ớt, giống như một con mắt, đang nhìn hai người phía dưới với cái nhìn hiểm ác.
Phương Mộc sợ hãi đến ngẩn người, một lúc sau mới bò đến bên chiếc lồng sắt.
“Thầy Kiều…”
“Em đừng lại đây!” Thầy Kiều nghiêm giọng thét lên.
Phương Mộc đứng nguyên vị trí, không dám nhúc nhích, cũng không dám động đến chiếc bật lửa đó.
Trong bóng đêm, Phương Mộc cứng đờ người, nhìn chiếc lồng sắt chỉ cách đó vài bước chân, thấp thoáng nhìn thấy thầy Kiều từ từ ngồi dậy, đôi mắt rực sáng, như đang suy ngẫm một vấn đề nan giải nào đó.
“Phương Mộc.” Sau mấy giây trầm mặc, thầy Kiều gõ gõ vào lồng sắt: “Em đã từng tận mắt chứng kiến người bị chết cháy phải không?”
Phương Mộc ngẩn người, bất giác ‘Vâng’ một tiếng.
“Hừ hừ, thì ra là thế.” Thầy Kiều lẩm bẩm: “Chẳng trách mà nó mãi không giết mình. Phương Mộc.” Thầy cất cao giọng: “Em có thể nghe được lời tôi nói không?”
“Dạ được!”
“Được, bất cứ lúc nào nó cũng có thể quay lại. Em đứng nguyên ở vị trí cũ, không được nhúc nhích, nghe tôi nói.” Giọng thầy Kiều chậm rãi: “Trước đây, tôi đã từng nghiêm khắc phê bình em vì em giúp đỡ cho bên cảnh sát phá án, em còn nhớ không?”
“Dạ nhớ.”
“Tôi già rồi, già đến nỗi không dám để cho cậu sinh viên tôi yêu quý nhất đối diện với thử thách, sợ sai lầm tương tự sẽ lại trùng diễn.” Thầy Kiều ngừng lại một lát: “Tôi phải thừa nhận, tôi đã sai rồi, em không giống nó. Cho nên, hôm nay em nhất định phải sống sót ra khỏi đây. Bất luận thế nào, em phải ngăn cản nó!”
“Thầy Kiều…”
“Đã nghe thấy chưa?”
“Nghe thấy rồi ạ!” Phương Mộc giật mình, bất giác cũng hét vang.
“Tốt, học trò ngoan.” Thầy Kiều dường như đã dùng cạn sức lực của mình, giọng nói càng lúc càng trầm xuống: “Mau đi đi, rời khỏi đây ngay.”
Phương Mộc nước mắt lưng tròng, cậu dự cảm đây là cuộc nói chuyện cuối cùng của mình với thầy Kiều. Mắt cậu ngân ngấn lệ nhìn thầy Kiều sắp lả đi ở trong lồng.
Tiến thoái lưỡng nan. Đột nhiên, cậu chạy vội lên trước, quỳ xuống trước lồng sắt, khóc thành tiếng: “Thầy Kiều, thầy Kiều, em không thể để thầy lại đây một mình được.”
“Cậu nhóc này.” Giọng thầy Kiều rất đỗi dịu dàng: “Khóc gì thế? Thật chẳng ra gì.” Một bàn tay khô ráp vuốt ve khuôn mặt Phương Mộc.
“Chết không hề đáng sợ.” Thầy Kiều khẽ nói: “Điều đáng sợ chính là một con người không có linh hồn. Tôn Phổ chính là một người không có linh hồn. Đây cũng chính là điểm khác biệt lớn nhất giữa em và nó. Em hãy làm những việc em cần phải làm đi, hãy làm theo cách của em.”
“Hi…hi…” Những tràng cười lạnh lùng vang lên phía trên đỉnh đầu. Phương Mộc ngẩng đầu, ô vuông trên đầu giờ đã bị một bóng đen chiếm cứ. Trong tay hắn là một bó giấy đang rực cháy!
“Không!!!” Lời nói chưa dứt, đám lửa đó đã bay xuống dưới. Phương Mộc trợn mắt trừng trừng nhìn cuộn giấy đó càng lúc càng gần mình, lượn tròn, bốc cháy, liên tục có những đốm lửa nhỏ bay tản mạn, dường như là điệu múa rực rỡ của tử thần. Đột nhiên, phần ngực của Phương Mộc bị một bàn tay đẩy mạnh, khiến cậu bị đẩy ra xa 2 mét.
Và đám lửa đó ngay lập tức đã rơi vào trong lồng sắt. ‘Bùm’, trong thủy lao tối đen bỗng chốc bùng lên một quả cầu lửa khổng lồ. Giáo sư Kiều chỉ hét lên một tiếng ‘A’ ngắn gọn, rồi im bặt, chỉ nhìn thấy ông uốn cong người giữa đám lửa cháy hừng hực, đôi tay nắm chặt vào lồng sắt, lặng lẽ run rẩy.
Phương Mộc ngã ngồi dưới đất, miệng há to, mắt mở trừng trừng nhìn thầy Kiều đang lặng lẽ giãy giụa giữa đám lửa. Khắp bầu không khí tràn ngập mùi cháy khét, thứ mùi vị quen thuộc. Đó là mùi vị của tử vong, mùi vị của cái chết.
Đột nhiên, mọi thứ trước mắt Phương Mộc đều biến mất. Thủy lao, lồng sắt, thầy Kiều, tất cả đều biến mất không để lại chút dấu vết gì. Mà thay vào đó, là một hành lang bốc cháy. Hai bên là những cánh cửa đang cháy hừng hực, trong phòng 352, có thể nhìn thấy Chúc Lão Tứ và Vương Kiện đang bị đốt đến co rúm người lại.
Tôi đang ở đâu?
Trong góc tường có một người đang từ từ đứng dậy, đó là Tôn Mai giờ đã không còn là hình người nữa. Cô giơ đôi cánh tay đầy xương xẩu, toàn thân bốc khói đen, mặc cho từng miếng thịt thấm đầy máu tươi rơi từng miếng xuống đất.
“Đừng giết người nữa…”
Tôn Mai lắc lư, bước từng bước về phía Phương Mộc.
“Đừng giết người nữa…”
Tại sao lại đưa tôi quay lại?
Hãy ôm tôi đi, không hiểu giọng nói của ai chợt vang lên, Tôn Mai cũng được, hắn cũng được, chỉ cần có đủ hơi ấm. Cho dù đó là cảm giác của cái chết. Mấy năm nay, những sự việc này, đã làm tôi quá mệt rồi.
Xin hãy cho phép tôi được buông tay.
“Đã nghe thấy chưa?” Tiếng thét nghiêm khắc đó, rõ ràng là của thầy Kiều.
“A!!!”
Một tiếng vang dội trào ra khỏi lồng ngực Phương Mộc. Mọi thứ trước mắt bỗng tan biến theo tiếng hét. Phương Mộc lại trở lại nền xi măng lạnh lẽo của thủy lao.
Đám lửa cháy rực đã dần dần nhỏ lại, thân thể thầy Kiều chỉ còn lại một mẩu ngắn. Phương Mộc khó khăn bò dậy, im lặng nhìn lồng sắt đang cháy trước mắt.
Hãy để em nhìn thầy lần cuối, thầy giáo của em.
Phương Mộc rút con dao găm ra khỏi túi áo, vứt chiếc áo khoác vướng víu, thật không ngờ cậu không hề cảm thấy lạnh. Nhờ vào ánh lửa, Phương Mộc nhìn thấy ở cách đó không xa, cái vị trí mà cậu đã rơi xuống, một chiếc cầu thang sắt lạnh lẽo đang trầm mặc đứng đó. Cậu bước từng bước lớn đến cầu thang sắt, vịn tay vào những bậc cầu thang sắt hoen ố, nhìn hành lang đen sì sì phía bên trên, nói với mình: Đi lên, cho dù nơi đó là địa ngục.
Phương Mộc trở lại hành lang ở tầng trên. Ánh lửa vẫn còn cháy ở thủy lao khiến cho hành lang không còn tối đen nữa. Phương Mộc không do dự, mà bước nhanh đến phía bên kia của hành lang.
Phòng giam số 3… phòng giam số 5…
Phòng giam số 5 là cuối cùng của hành lang. Phía trước lại là một cánh cửa sắt. Phòng giam số 7, là phía bên kia cửa sao?
Phương Mộc nắm lấy tay nắm cửa, kéo mạnh. Cửa sắt mở ra giữa tiếng vang rền, trước mắt lại là một màn đêm đen kịt. Bật sáng chiếc bật lửa trong tay, Phương Mộc phát hiện ra mình dường như đã đến điểm cuối cùng của tầng hầm. Trước mặt là một bức tường xi măng, hai bên bức tường đều có hai cánh cổng sắt dày đặc. Đất ở giữa hai cánh cổng sắt cũng không phải là lưới thép như hành lang nữa, mà là xi măng đổ bê tông, ở giữa có một miếng sắt rộng khoảng 1m2 có thể kéo ra được. Ở dưới đất phía bên cạnh có chiếc thùng nhựa đựng một ít xăng.
Tay Phương Mộc hơi run rẩy. Số xăng vừa rồi, chính là đổ xuống từ đây. Phương Mộc định thần, lấy bật lửa soi lên cánh cửa phía bên phải. Đúng vậy, 7. Phương Mộc đi đến, hít thở thật sâu, giơ tay kéo cánh cửa sắt…
Trước mắt là một mảng sáng trưng, Phương Mộc bất giác lấy tay che mắt.
“Chào mừng đến thăm.” Một giọng nói lạnh lùng vang lên phía đối diện. Phương Mộc dõi theo tiếng nói.
Tôn Phổ dựa lưng vào tường, mỉm cười nhìn cậu, trong tay cầm khẩu súng ngắn K64, miệng súng đen ngòm đang hướng thẳng vào Phương Mộc.
“Ngươi đang đứng ở bộ phận trung tâm của tầng hầm: Phòng giam số 7.” Hắn nhìn sang bên cạnh chu chu môi: “Kiêm phòng tra khảo.”
Bên cạnh là một cây thập giá bằng sắt, đôi tay Thái Vĩ bị khóa chặt lên thanh ngang, trên miệng bị dính một miếng băng dính màu vàng. Lúc này, anh đang cố gắng giãy giụa, nhìn Phương Mộc chằm chằm, trong miệng phát ra âm thanh u u.
“Sao? Muốn chào bạn mày à?” Tôn Phổ cười hi hi: “Hay là đang cầu xin nó cứu mày thoát ra?”
Hắn cố tình làm ra vẻ tiếc nuối, thở dài: “Nhưng vị anh hùng của chúng ta e rằng còn khó bảo vệ nổi chính mình đấy. Cậu thấy đúng không, sư đệ?”
Hắn ta quay sang Phương Mộc: “Sư đệ, món quà gặp mặt vừa rồi thế nào? Có thích không?”
Phương Mộc mặt lạnh tanh nhìn hắn một cái, tỉnh bơ nhìn ngắm xung quanh. Diện tích của phòng giam số 7 cũng tương tự như các phòng giam khác, chỉ có điều có thêm một số ghế sắt và giá sắt có hình dạng kỳ quái. Trên trần nhà xi măng phía trên đỉnh đầu có hai lỗ thoát khí, ánh sáng chiếu qua lỗ thoát khí xuống, cho nên ở đây không hề tối.
Phương Mộc sau khi nhìn khắp một lượt, mới hướng ánh mắt về phía Tôn Phổ: “Cũng khá đấy, từ 1 đến 7, chắc là tốn không ít tâm trí nhỉ?”
Tôn Phổ dường như hơi có chút nghi ngại đối với biểu hiện không hề phẫn nộ cũng không hề sợ hãi của Phương Mộc. Hắn nhìn Phương Mộc đang có vẻ giống như một người khách đến thăm quan, nụ cười trên mặt đã có vẻ hơi miễn cưỡng: “Đúng vậy, chỉ hy vọng ngươi xứng đáng với tâm huyết này của ta.”
Thật không ngờ Phương Mộc cũng cười: “Thế sao? Vậy mày hy vọng tao thế nào?”
Nụ cười trên mặt Tôn Phổ bỗng chốc biến mất: “Hy vọng mày thế nào?” Hắn lên nòng ‘rắc’ một tiếng, hét lớn: “Mày nói xem?”
Thái Vĩ lại ra sức giãy giụa, tiếng gầm u u khe khẽ, cổ tay đã bị rách toạc máu.
Phương Mộc lướt nhìn anh một cái, vẫn giữ nguyên nụ cười trên mặt: “Chết ư? Ha… ha, mày không phải là người đầu tiên muốn giết tao.” Cậu dừng lại một chút: “E rằng, cũng không phải là người cuối cùng.”
“Ồ?” Tôn Phổ cố tình tạo ra một nét mặt khoa trương: “Mày tưởng rằng có người sẽ đến cứu mày sao?” Hắn giẫm giẫm chân: “Cái lão già ở dưới kia sao?”
Hắn ta giơ cánh tay lên, chĩa thẳng nòng súng vào Phương Mộc: “Sự thực đã chứng minh, mày chính là một thằng ngốc cứ tự cho mình tài giỏi.”
“Vậy sao?” Phương Mộc nhìn chằm chằm vào nòng súng: “Đây cũng là lý do mày muốn giết tao, phải không?”
Cậu hướng ánh mắt từ nòng súng chuyển sang mặt Tôn Phổ, khẽ nói: “Mày ghen tị với tao, sư huynh.”
Mặt Tôn Phổ bỗng chốc trở nên trắng nhợt.
“Từ khi mày giết Khúc Vĩ Cường, tao đã cảm nhận được loại tâm trạng này của mày. Chặt đôi tay của thủ môn, giống như mày muốn tước đoạt khả năng tư duy suy nghĩ của tao vậy. Mày ghen tị cách tư duy của tao, đúng không?”
“Câm miệng!”
Phương Mộc như thể không hề nghe thấy, cứ nói tiếp: “Bắt đầu từ lần đại hội toàn trường phải không? Mày nhìn thấy tao được mời lên bục phát biểu giống như một người anh hùng, còn mày, chỉ là một nhân viên quản lý thư viện nhỏ bé, chỉ có thể co rúm vào một góc để nhìn tao. Mặc dù mày tự lừa dối mình rằng, tất cả mọi điều này lẽ ra phải thuộc về mày!”
“Câm miệng!”
Thái Vĩ lại vang lên những tiếng u u, Phương Mộc nhìn anh, trong ánh mắt Thái Vĩ toát ra sự lo lắng và cầu xin, dường như đang cầu xin Phương Mộc đừng nói tiếp nữa.
“Cho nên lúc nào mày cũng muốn tìm mọi cách để được so tài với tao một phen.” Phương Mộc nghiến chặt răng, chậm rãi bước từng bước lùi về phía sau, tiếp tục nói: “Mày giết bao nhiêu người như vậy, mục đích là muốn chứng minh tao không khắc họa tâm lý giỏi bằng mày. Nhưng thực sự mày đã thắng được tao chưa? Buổi tối mày có bị gặp ác mộng không? Mày có thể làm tình với bạn gái mày một cách bình thường không? Hay là Thomas Jill đã thực sự làm mày…?” Cậu cười đầy ẩn ý, đột nhiên nhấn mạnh ngữ khí: “Đúng không, sư huynh?”
Mặt Tôn Phổ đột nhiên co giật mạnh, cánh tay vẫn giữ khẩu súng, giơ ra phía trước. Phương Mộc vội vàng tránh sang một bên, gần như đồng thời, ‘Đoàng’ một tiếng, một viên đạn bay lướt qua trán, bắn trúng vào cánh cửa sắt, kêu vang. Phương Mộc quay người, lao đến trước cánh cổng sắt, kéo cửa, lao ra hành lang.
“Keng!” Lại một viên đạn nữa va vào cánh cổng sắt.
Phương Mộc chạy mấy bước, chui vào trong phòng giam số 5, dựa lưng vào tường thở dốc.
Bước chân vội vã từ phía cánh cổng sắt truyền đến, khi chạy đến bên cửa đột ngột dừng lại. Phương Mộc cố gắng nín thở, lắng nghe động tĩnh bên ngoài.
Tôn Phổ đứng ở đó thở hồng hộc, mấy giây sau, hắn bật cười hi hi.
“Mày làm cho tao bị mất khống chế rồi, sư đệ.” Hắn dừng lại một lát: “Thật xấu hổ, chẳng phải sao, đại sư huynh lẽ ra phải giỏi chịu đựng hơn tiểu sư đệ mới phải.”
Trong súng của hắn nhiều nhất cũng còn 5 viên đạn.
Bóng tối chính là tấm bình phong tốt nhất. Trong hành lang tối om, Tôn Phổ cũng không dám hành động bừa, hắn giơ khẩu súng lên, nghiêng tai lắng nghe.
“Sư đệ, mày ở đâu?” Tôn Phổ hét một tiếng: “Đừng có lẩn trốn giống như con chuột nhắt vậy.”
Âm thanh vang vọng dần biến mất, Tôn Phổ nín thở, chăm chú lắng nghe, nhưng giữa màn đêm chẳng có chút động tĩnh gì.
“Hi hi, nói đến chuột.” Tôn Phổ thận trọng bước một bước lên trước: “Mày có thích mấy con chuột tao đã để lại cho mày ở nhà Mạnh Phàm Triết không?”
Hắn nheo mắt, vừa chú ý quan sát tình hình xung quanh, vừa nói: “Đó vốn là để chuẩn bị giúp Mạnh Phàm Triết khắc phục trở ngại tâm lý đấy, thật không ngờ lại dùng cho mẹ nó. Sư đệ, chính mày đã hại chết bà ta.” Trong giọng nói của Tôn Phổ tràn đầy sự giễu cợt: “Nếu như mày không nói điện thoại lớn tiếng ở trong hành lang như thế, thì mày đã sớm bắt được tao nhờ vào bức thư ấy rồi. Hi hi, thế thì Trần Giao và thầy Kiều cũng không cần phải chết. Chẳng phải vậy sao?”
Phương Mộc cảm thấy máu trong toàn thân bỗng chốc dồn cả lên đầu, trong khoảnh khắc đó, cậu hận một nỗi không thể lao ra đâm chết Tôn Phổ.
Tôn Phổ dường như nghe thấy hơi thở dồn dập, hắn ra sức nắm bắt theo hướng tiếng động.
“Tức giận rồi à? Thế thì mau ra đây báo thù cho họ.”
Câu nói này, ngược lại, lại giúp Phương Mộc bình tĩnh trở lại. Cậu ép hơi thở của mình dần dần trở lại bình thường.
Tôn Phổ lắng nghe một lúc, nhưng không thể nhận biết được vị trí của Phương Mộc, lại mở miệng nói tiếp:
“Còn nhớ Mạnh Phàm Triết không?” Tôn Phổ cố ý thở dài đầy luyến tiếc: “Nó thật là xui xẻo. Mày biết không, thực ra tao cũng rất thích nó, cũng thật lòng muốn giúp nó. Nhưng đáng tiếc thay, cái tối hôm ở nhà thi đấu, mày và Thái Vĩ đã làm tao sợ quá.” Hắn dừng lại một lát: “Đúng vậy, tao không thể không thừa nhận, mày làm tao sợ hãi. Tao hoảng quá, đành phải vứt nó ra. Nhưng, mày cũng phải thừa nhận, chiêu này của tao rất lợi hại, nó là một đứa trẻ rất ngoan, biết nghe lời. Hi… hi. Khâm phục tao quá phải không, sư đệ?”
Phương Mộc từ từ ngồi xổm xuống, nhẹ nhàng tìm kiếm xung quanh mình, cậu nhanh chóng sờ thấy một thứ giống như là chân bàn.
“Đoán được ra tao từ khi nào vậy?” Tôn Phổ nhích dần lên trước: “Từ khi tao thay thầy Kiều giảng bài trên lớp? Khà… khà, tao biết việc này rất mạo hiểm, nhưng bục giảng có sức mê hoặc quá lớn. Mày có thể hiểu được không?” Hắn đi một chút rồi dừng lại, chăm chú lắng nghe từng động tĩnh xung quanh.
Phương Mộc khẽ khàng kéo chiếc chân bàn, lặng lẽ nhấc lên, lặng lẽ bước đến cửa phòng giam.
1, 2, 3.
Phương Mộc đột nhiên chạy ra khỏi phòng giam, đồng thời ném chiếc chân bàn về phía cánh cổng sắt, tiếp đó chui vào phòng giam số 6 đối diện.
Khi Tôn Phổ phản ứng lại thì đã muộn, chiếc chân gỗ đã ném mạnh vào mũi hắn, đập mạnh đến nỗi mắt hắn hoa cả lên. Hắn ôm mặt, hướng về phía trước, bắn hai phát súng.
“Pằng, pằng!”
Nhờ vào ánh lửa phụt ra từ nòng súng, Tôn Phổ mới phát hiện ra phía trước không có một ai. Hắn vô cùng tức giận, chạy đuổi theo, nhưng lại cảm thấy không ổn, vội ngồi sụp xuống.
Mũi hắn đau nhức, thứ chất lỏng nóng hổi chảy từ mũi xuống, giơ tay ra lau, cả lòng bàn tay dính đầy máu tanh.
“Mày làm cũng khá đấy…”
Hắn nhổ ra đờm dính đầy máu: “Mày làm tao chảy máu rồi, thằng oắt con. Vẫn may, tao không phải là Mã Khải, nếu không chắc chắn tao sẽ hút sạch máu của mày!”
Phương Mộc giật mình, thất thanh nói: “Mã Khải?”
Âm thanh này đã làm lộ vị trí của Phương Mộc, Tôn Phổ lập tức nhận ra cậu đang ở phòng giam số 6. Hắn cầm súng thận trọng tiến đến.
“Mày rất kinh ngạc phải không? Đúng vậy, Mã Khải đã từng là bệnh nhân của tao, giống như Mạnh Phàm Triết vậy, hắn cũng là một tư liệu thực tế rất đáng để nghiên cứu, đáng tiếc, hắn không tin tưởng tao, tư vấn vài lần đã chạy biến mất. Về sau.” Tôn Phổ dựa vào tường, từ từ lần mò lên trước: “Khi tao nghe nói đến mấy vụ án hút máu người, lập tức nghĩ ngay đến do Mã Khải gây ra. Mày có biết tao vui mừng đến thế nào không? Tao cứ tưởng cuối cùng tao đã có cơ hội để được chứng minh mình. Không ngờ, mày lại tranh trước một bước…” Tôn Phổ cuối cùng cũng sờ đến được mép cửa, thấp thoáng nghe thấy hơi thở dồn dập của Phương Mộc.
Hắn đang ở chỗ chỉ cách mình một bức tường, ngay cạnh cửa.
“Cho nên, mày có biết là tao hận mày đến thế nào không?” Tôn Phổ nhảy lên trước, đồng thời quay người thật nhanh về phía bên phải, nhằm thẳng chỗ gần cửa trong phòng giam bắn một phát: “Pằng!” Dựa vào ánh lửa phát ra ở nòng súng, Tôn Phổ phát hiện ra hướng viên đạn bay đi trống không. Còn chưa kịp đợi hắn kịp phản ứng, Phương Mộc đang ngồi xổm ở chân tường chợt lao đến, húc đầu vào ngực Tôn Phổ. Tôn Phổ bỗng chốc bị mất cân bằng, ngón tay trỏ mất đi sự khống chế, chiếc súng trong tay hắn ‘Pằng, pằng!’ bắn ra hai viên đạn, rồi hắn ngã ngửa người xuống đất.
Cú va chạm này, chính Phương Mộc cũng choáng váng đầu óc, phía đối diện phát ra tiếng rắc rắc. Phương Mộc thở phào. Hắn không còn đạn nữa rồi!
Phương Mộc nắm chặt dao găm, bật bật lửa.
‘Phụt’, đốm lửa vụt sáng trong tay Phương Mộc, đốm lửa tuy nhỏ, nhưng cũng đủ để soi sáng xung quanh. Tôn Phổ đang ngồi dưới đất cách đó mấy bước, đang điên cuồng tìm kiếm thứ gì đó trên người.
Phương Mộc cầm dao, bước từng bước lại gần.
Tôn Phổ lùi từng tí một về phía sau: “Đừng… đừng…”
Nhìn thấy nỗi sợ hãi và tuyệt vọng trong mắt hắn, trong lòng Phương Mộc trào dâng cảm giác sảng khoái.
“Mày sợ rồi à?” Phương Mộc bước chậm rãi, nghiến răng hét: “Những người đó có ai đã từng cầu xin mày tha cho họ không? Có hay không?”
“Cầu xin cậu, đừng giết tôi…”
Giọng Tôn Phổ hơi nghẹn ngào, nhưng trong ánh mắt ngân ngấn lệ dường như có vẻ đang hối hận lại ánh lên sự xảo quyệt.
Tôn Phổ đột nhiên dừng xê dịch, bàn tay đang cầm chiếc súng ấn nút mở hộp đạn, và trên một tay còn lại, xuất hiện thêm một băng đạn!
Phương Mộc ngẩn người, hắn ta vẫn còn đạn!
Lao đến thì đã không thể kịp nữa rồi, Phương Mộc ném chiếc bật lửa đang cầm trong tay về phía hắn ta theo bản năng, quay người bỏ chạy. Còn Tôn Phổ cũng nhét băng đạn vào súng với tốc độ nhanh nhất, lên nòng, nhằm vào Phương Mộc bắn hai phát.
Phương Mộc cảm thấy hai viên đạn bay vụt qua người cậu, bắn trúng vào cửa sắt đối diện ở phía đầu hành lang bên kia, phát ra hai tiếng ‘Keng keng’ giòn tan.
“Pằng!” Lại một viên đạn bắn ở cạnh chân Phương Mộc. Cậu cuống cuồng chạy đến cánh cổng sắt, đẩy thật mạnh, nhưng cánh cửa không nhúc nhích, lần sờ phía dưới, thấy một ống khóa to.
“Keng!” Lại là một viên đạn, bắn vào cánh cổng sắt, lửa bắn tung tóe. Phương Mộc vội tránh, tiện đà lăn người vào trong phòng giam số 1.
Tôn Phổ nhìn thấy cậu trốn vào phòng giam số 1, tìm thấy bật lửa, từng bước tiến đến.
Đứng ở cửa phòng giam số 1, Tôn Phổ bật sáng bật lửa. Một mé phòng giam chất đầy bàn ghế cũ, một mé trống không.
“Hi… hi…” Tôn Phổ nói đầy đắc ý: “Không ngờ phải không? Thái Vĩ còn có một băng đạn dự phòng!”
Phương Mộc bò phía sau đống bàn ghế, thầm mắng mình sơ ý. Bàn tay nắm chặt con dao thoáng run rẩy. Đối phương vẫn còn ba viên đạn, bị hắn giết chết chỉ còn là vấn đề thời gian. Cứ thế mà bị giết chết như thế này sao?
“Nhận thua đi, đừng ngoan cố nữa!” Tôn Phổ cố tình thở dài ra vẻ hối tiếc: “Sao mày lại giống ông già đó vậy?”
Thầy Kiều…
“Hãy làm những việc mà em cần phải làm, làm theo cách của em.”
Trong lòng Phương Mộc đã định ra phương hướng.
“Đúng vậy, tao và thầy Kiều giống nhau.” Phương Mộc từ từ quỳ xuống, thận trọng ngồi sát vào bức tường: “Nhưng mày có biết, sự khác biệt giữa chúng tao và mày không?”
Tôn Phổ hỏi đầy kinh ngạc: “Khác biệt?”
“Mày quả thực là một chuyên gia khắc họa tâm lý rất xuất sắc.” Phương Mộc từ từ đứng lên, nhìn chăm chăm vào cửa: “Nhưng mày không có linh hồn. Không hề có sự kính sợ và trách nhiệm đối với nghề của mày. Mày làm tất cả mọi thứ đều chỉ vì mày mà thôi. Nhưng chúng tao, lúc nào cũng có thể hy sinh bản thân mình để bảo vệ người khác.”
Lúc này, Phương Mộc đã hiểu vì sao thầy Kiều bị chìm vào giữa đám lửa cháy rừng rực, nhưng vẫn không hé răng kêu lên một tiếng. Thầy Kiều chính là quân bài cuối cùng mà Tôn Phổ dùng để hủy hoại tâm lý Phương Mộc. Hắn biết ngọn lửa cháy rực, mùi cháy khét và tiếng kêu thảm thiết sẽ gợi dậy hồi ức đau khổ nhất trong lòng Phương Mộc. Và thầy Kiều cũng nhận thức được điều này, nên thầy đã cố gắng hết sức để không phát ra tiếng kêu thảm thiết, chính là vì để có thể làm giảm bớt sự tấn công tâm lý đối với Phương Mộc khi phải tận mắt chứng kiến cảnh tượng mình bị đốt cháy cho đến chết.
“Câm miệng! Mày nói láo!” Giọng Tôn Phổ run rẩy, tiến lên phía trước một bước.
Phương Mộc cũng thận trọng di chuyển bước chân.
“Mày biết vì sao thầy Kiều khinh thường mày mà lại xem trọng tao không?”
“Ông ấy là một lão già mù mắt!” Tôn Phổ gào to lên: “Tao giỏi hơn mày hàng vạn lần!”
Phương Mộc từ từ di chuyển giữa những khoảng trống của các dãy bàn ghế, khoảng cách tới cửa càng lúc càng gần.
“Bởi vì mày là một con sâu đáng thương, tự cao tự đại, vô tri, chỉ biết dùng hình bức cung để giữ sĩ diện của mình!”
“Câm miệng!” Tôn Phổ cuối cùng cũng mất đi lý trí, hắn điên cuồng lao vào, nhằm thẳng hướng của Phương Mộc mà bắn.
Thời cơ đã đến!
Phương Mộc dồn toàn bộ sức lực của mình đâm mạnh, những đống bàn ghế xếp cao ngất ngưởng rầm rầm đổ xuống. Tôn Phổ đứng ở dưới chỉ kịp phát ra tiếng kêu kinh hãi, bị đè xuống dưới.
Phương Mộc vừa lăn vừa bò, lao đến vị trí Tôn Phổ ngã xuống. Tôn Phổ đang ra sức kéo một cái bàn đang đè lên thân mình, ra sức với khẩu súng bị văng ra một bên. Phương Mộc cầm lấy một cái ghế đập mạnh vào đầu hắn. Chiếc ghế bị đập tan thành mấy mảnh, trên đầu Tôn Phổ lập tức xuất hiện một vết hở lớn, máu tươi phụt ra.
Phương Mộc bước đến, giẫm lên ngực Tôn Phổ, nhanh chóng rút con dao găm ra, kề sát vào cổ hắn.
“Nếu mày còn nhúc nhích, tao sẽ giết mày!”
Tôn Phổ há miệng, quặt đầu sang một bên, không nhúc nhích nữa.
Phương Mộc nhặt súng lên, nhìn Tôn Phổ đã bị ngất lịm đi, chợt giơ súng nhằm thẳng vào hắn. Lồng ngực cậu thở phập phồng, nghiến răng kêu kèn kẹt, mấy giây sau, cậu từ từ hạ súng xuống, nắm lấy cổ áo Tôn Phổ, khó khăn kéo hắn ra khỏi phòng giam số 1.
Con đường dưới chân dường như dài vô tận. Tôn Phổ đã bị ngất lịm trở nên nặng trình trịch, khi kéo hắn vào phòng giam số 7, Phương Mộc cũng đã mệt nhoài.
Thái Vĩ nhắm hờ mắt, toàn thân không còn chút sức lực gì, bị treo lên cây thập giá, nơi cổ tay bê bết máu. Nghe thấy tiếng động, anh mở mắt, nhìn thấy Phương Mộc toàn thân lấm lem đang kéo Tôn Phổ hôn mê bất tỉnh đi vào, trong mắt ban đầu ánh lên sự ngạc nhiên, sau đó là niềm vui sướng, cũng không biết lấy sức lực từ đâu, bắt đầu cử động, miệng phát ra những tiếng u u.
Phương Mộc kéo Tôn Phổ đến giữa phòng giam, thở dốc, vội đi lên trước tháo miếng băng dính bịt miệng Thái Vĩ. Thái Vĩ quên cả đau, hỏi ngay: “Thế nào? Hắn chết chưa?”
Phương Mộc rã rời lắc đầu. Cậu quỳ xuống, lấy dao cắt đứt sợi dây thừng dưới chân Thái Vĩ, rồi lại gắng gượng đứng lên, nhìn cổ tay bị còng chặt máu thịt bê bết của Thái Vĩ.
“Chìa khóa đâu?”
“Chắc là trên người hắn, cậu tìm thử xem.”
Phương Mộc gật đầu, lảo đảo đi đến cạnh Tôn Phổ, cúi người đang định thò tay vào túi áo hắn, đột nhiên, Tôn Phổ không hề nhúc nhích bật cười hi hi. Phương Mộc giật mình nhảy lùi lại phía sau, rút khẩu súng ra nhằm thẳng vào hắn. Tôn Phổ mặt đầm đìa máu tươi, mở đôi mắt sưng vù chỉ còn lại một khe nhỏ, nhìn Phương Mộc, rồi lại nhìn Thái Vĩ, càng cười càng đắc ý. Tiếng cười khô khốc vang vọng khắp phòng giam, khiến con người khó mà chịu đựng nổi.
“Đừng cười nữa!” Bàn tay nắm khẩu súng hơi run rẩy, lớn tiếng hét: “Tao bảo mày đừng cười nữa!”
“Mày tưởng mày thắng được tao sao?” Tôn Phổ vừa ho vừa nói.
Thái Vĩ đứng bên nghiến răng nghiến lợi nhìn hắn, chỉ muốn lao đến đá cho hắn một phát: “Còn chưa chịu thua? Mày cứ chờ đấy, đợi mà ăn đạn đi!”
“Ăn đạn?” Tôn Phổ chợt ngừng cười, mà đổi sang một khuôn mặt khôi hài, toét môi, nhíu mày: “Tao bị bệnh thần kinh, tao là thằng điên! Mày có thể làm gì được tao?”
Lòng Phương Mộc trầm xuống, nếu nói đến những điều cơ bản về giám định tinh thần, không có ai nắm rõ hơn Tôn Phổ. Nếu hắn cố giả điên giả khùng, rất có khả năng thoát khỏi sự trừng phạt hình sự. Cậu quay đầu nhìn Thái Vĩ, anh cũng đang trừng mắt nhìn Tôn Phổ, dường như cũng không thể ngờ được hắn lại giở trò này.
“Mày đừng có mơ! Mày cho rằng, người ở Trung tâm giám định tư pháp đều ngốc hết cả sao?” Thái Vĩ lớn tiếng phản bác, nhưng nghe ra có vẻ không đủ sức thuyết phục.
Tôn Phổ mặc kệ, tự lẩm bẩm như một kẻ điên: “Một chuyên gia tội phạm học, tính tình mẫn cảm, do gặp sự đãi ngộ không công bằng, sự trầm cảm trong lòng không có chỗ để phát tiết, cuối cùng tinh thần trở nên thất thường, đã thành sai lầm lớn, ha ha! Hai vị, các người cảm thấy thế nào?”
Mặt Phương Mộc sạm đen lại, nhìn chăm chăm vào Tôn Phổ.
“Hoan nghênh các người đến bệnh viện tâm thần để thăm tôi!” Tôn Phổ vẫn lầm bầm không dứt: “Đến lúc đó, tao sẽ mời mày ăn thịt nướng thế nào? Hả, sư đệ?” Hắn ngóc đầu lên, nở nụ cười nhìn Phương Mộc: “Thịt nướng, hi hi, tao thích cái mùi vị đó quá!”
Phương Mộc khẽ gầm một tiếng, lao mạnh đến người Tôn Phổ, vứt con dao trong tay, giữ chặt trán Tôn Phổ, một tay gí súng vào đầu hắn. Cậu phẫn nộ đến nỗi toàn thân run rẩy, nước mắt cũng từ từ trào ra khỏi khoang mắt.
Thân hình co rúm của Kim Xảo trong hộp giấy…
Sự cầu cứu tuyệt vọng của Mạnh Phàm Triết…
Thầy Kiều đến chết cũng vẫn giữ im lặng…
Không thể tha cho hắn…
Quyết không thể!
Phương Mộc lên đạn, động tác này đã kích thích Tôn Phổ, hắn ra sức cựa quậy cái miệng đã bị ấn đến độ biến dạng, gào lên:
“Bắn đi, nào… giết tao đi…”
Cơ mặt Phương Mộc giật giật thật mạnh, nhìn chằm chằm vào khuôn mặt đầy khiêu khích của Tôn Phổ…
Chỉ cần một phát, chỉ cần bóp cò nhẹ nhàng một phát…
Là đủ để đưa tên ác quỷ này xuống địa ngục…
“Phương Mộc, đừng bắn!” Thái Vĩ vội hét lên: “Hắn đang dụ cậu mắc lừa đấy, đừng có đền mạng mình vào!”
Phương Mộc rùng mình, ngón tay cái vẫn bóp cò.
“Pằng! Pằng!”
Thái Vĩ tuyệt vọng quay đầu đi, xong rồi, Phương Mộc đã đền cả mạng mình vào rồi, cái giá này quá lớn.
Bên tai chợt truyền đến mấy tiếng va chạm giòn tan, tiếp đến, có thứ gì đó trơn nhẵn lăn xuống dưới chân mình.
Thái Vĩ cúi đầu xuống, là một viên đạn. Anh vội ngẩng đầu lên.
Đầu Tôn Phổ vẫn nguyên vẹn, hắn đang nhắm mắt lại, dường như đang nín thở, mặt đỏ bừng bừng. Trên nền xi măng ở trên đỉnh đầu hắn không quá năm phân có hai lỗ nhỏ màu trắng xám.
Phương Mộc vẫn giữ tư thế bắn súng, gần như không động đậy. Khẩu súng trên tay đã không còn đạn, nòng súng đang bốc khói. Một lúc lâu sau, Phương Mộc mới vạch túi áo của Tôn Phổ, cầm chiếc chìa khóa trong tay. Lúc này, Tôn Phổ mới từ từ thở ra.
Phương Mộc nhìn chằm chằm vào mặt Tôn Phổ, đột nhiên mỉm cười, cậu nói chậm rãi, nhưng rõ ràng: “Muốn chết? Không dễ như vậy đâu. Mày hãy đợi lên pháp trường đi!”
Cậu đứng thẳng dậy, rút từ trong túi quần ra một chiếc bút máy, huơ huơ trước mắt Tôn Phổ: “Mày nhìn xem, đây là cái gì?” Nói xong, cậu liền đứng dậy, quay người bước về phía Thái Vĩ.
Thái Vĩ thở phào, đang định khen ngợi mấy câu liền đột nhiên nhìn thấy Phương Mộc đang đi về phía mình làm một động tác kỳ lạ: cậu thò tay vào cổ áo len, khi thò tay ra, trên tay có thêm một món đồ.
Tôn Phổ vẫn nằm ở nguyên vị trí, sau khi nhìn chằm chằm lên trần nhà mấy giây, đôi mắt bỗng mở to. Bút ghi âm?!
Trong lúc giãy giụa gắng gượng đứng lên, tay hắn lại sờ thấy con dao găm Phương Mộc để bên cạnh. Trong khoảnh khắc, hắn như có được thần lực, bò dậy, túm lấy con dao găm, lao về phía lưng Phương Mộc.
Thái Vĩ nhìn thấy động tác của Tôn Phổ, con tim như bị bóp nghẹt, anh đang định hét lên nhắc Phương Mộc, nhưng lại bị nét mặt Phương Mộc làm cho ngẩn người.
Phương Mộc tỉnh bơ nhìn Thái Vĩ, ánh mắt mang theo nụ cười.
Đúng vậy, tôi biết Tôn Phổ đang làm gì phía sau tôi.
Tôi cũng biết hắn đang giơ cao con dao găm trong tay.
Phương Mộc từ tốn nhét một viên đạn vào súng, sau đó khẽ lên nòng, rắc.
Cậu thậm chí còn có thời gian rướn mày với Thái Vĩ. Anh có còn nhớ viên đạn này không? Sau đó, quay người, giơ súng.
Người trước mặt trợn tròn mắt kinh ngạc, đứng sững lại, là ai?
Cùng là Ngô Hàm và Tôn Phổ giơ cao con dao găm, trước mắt Phương Mộc, hai người hợp làm một.
Bất luận mày là ai. Tao nghĩ, hãy giải quyết dứt điểm đi!
Phương Mộc bóp cò.
Trên đầu Tôn Phổ ngay lập tức xuất hiện một lỗ nhỏ, đầu hắn dường như bị đấm mạnh một cái ngã ngửa ra phía sau, gần như đồng thời, một thứ gì mang màu sắc lẫn giữa màu đỏ và trắng phụt ra từ phía sau óc.
Tôn Phổ thẳng người ngã vật xuống.
‘Keng’, một viên đạn vỏ đồng khẽ khàng rơi xuống đất.
Cho đến tận khi tiếng súng nổ vang vọng ở trong phòng giam số 7 đã dần dần biến mất, miệng Thái Vĩ há to sửng sốt vẫn chưa ngậm lại.
Phương Mộc từ từ đặt súng xuống, cảm giác sức lực trong cơ thể đã bị rút sạch. Cậu nhìn Tôn Phổ đang co giật dưới đất, quay người mở còng tay, đỡ Thái Vĩ toàn thân cứng đờ. Cậu cố gắng né tránh ánh mắt nghi hoặc, kinh ngạc của Thái Vĩ, khẽ nói:
“Đi thôi, chúng ta rời khỏi đây!”


Vĩ Thanh

Trong phòng tạm giam của thành phố J, Phương Mộc ngủ một giấc thật ngon suốt mấy ngày liền. Không mộng mị!
Dưới yêu cầu của cậu, Thái Vĩ đã sắp xếp cho cậu một phòng giam đơn. Đồ ăn uống hàng ngày đều được mua từ nhà hàng ăn uống ở bên ngoài đưa vào. Phương Mộc cũng được đọc báo mới, mỗi ngày còn có một bao thuốc lá Trung Hoa. Lúc rảnh rỗi, Phương Mộc ngồi trên giường sắt, qua ô cửa sổ nhỏ trên tường, lặng lẽ nhìn những đám mây trắng lững lờ trôi, mặt trời và mặt trăng thay nhau xuất hiện.
Thỉnh thoảng nhớ đến một vài người, một vài chuyện. Chỉ khác là, tâm trạng Phương Mộc đã yên bình hơn rất nhiều, dường như không còn có sự việc nào có thể gợi lên cơn sóng dữ dội trong lòng cậu được nữa.
Thì ra, giết người cũng chỉ thế mà thôi.
Mấy hôm sau, cơ quan công an đã phát hiện một lượng vật chứng lớn trong nhà Tôn Phổ, chứng thực Tôn Phổ chính là hung thủ của những vụ giết người, và sai người đến trường Đại học J thông báo tình hình vụ án, nỗi oan của Mạnh Phàm Triết đã được rửa sạch. Đồng thời nhận định, hành vi của Phương Mộc là tự vệ chính đáng, vụ án xóa bỏ. Lời làm chứng của Thái Vĩ có tác dụng then chốt.
Điều duy nhất khiến Phương Mộc cảm thấy nuối tiếc, chính là không thể tham gia lễ truy điệu của thầy Kiều.
Thái Vĩ đón Phương Mộc ra khỏi phòng tạm giam. Đó là một ngày nắng to. Khi Phương Mộc bước ra khỏi phòng tạm giam, vừa vặn mặt trời chiếu xuống đỉnh đầu. Được tắm nắng dưới ánh nắng chói chang của buổi trưa, toàn thân hơi tê tê, rất dễ chịu, Phương Mộc cũng uể oải vươn vai giống như bao người khác.
Ở trên xe, Thái Vĩ lặng lẽ giúp Phương Mộc sắp xếp đồ vật cá nhân, gồm cả chiếc bút máy đó. Phương Mộc cầm chiếc bút máy trong tay ngắm nghía hồi lâu, cuối cùng thận trọng ôm chặt vào trong lòng. Thái Vĩ nhìn cậu, đột nhiên hỏi: “Cậu cố ý làm như vậy phải không?” Anh chỉ vào chiếc bút máy đó: “Đó chỉ là một chiếc bút bình thường.”
Phương Mộc không trả lời anh, cậu biết khi Thái Vĩ làm chứng không hề nhắc đến chiếc bút máy. Thái Vĩ thấy cậu không trả lời, cũng không hỏi nữa, lặng lẽ khởi động xe ô tô. Khi lái xe đến cổng trường, Thái Vĩ đột nhiên như nhớ ra điều gì.
“À, phải rồi.” Anh sờ trên người một lúc: “Tôi đã đòi lại vật này cho cậu.”
Anh chìa tay ra, con dao găm nằm trọn trong lòng bàn tay anh. Phương Mộc không nhận lấy ngay, mà lặng lẽ nhìn nó mấy giây, rồi mới giơ tay ra đỡ lấy.
“Tôi đi đây!” Cậu khẽ nói một câu, rồi nhảy xuống xe. Đi được mấy bước, Thái Vĩ ở phía sau gọi cậu lại, cất tiếng hỏi: “Cậu có còn nhớ, tôi đã có lần kiến nghị cậu làm cảnh sát không?” Phương Mộc nhìn anh, gật đầu. Thái Vĩ cúi đầu, như thể đang suy ngẫm điều gì, mấy giây sau, anh dường như hạ quyết tâm lớn, nói: “Tôi rút lại lời nói của mình.” Nói xong, anh khởi động máy, lái xe đi.
Phương Mộc nhìn chiếc xe Jeep dần biến mất ở đằng xa, mỉm cười, quay người bước vào cổng trường. Hôm nay là ngày cuối cùng của kỳ thi cuối kỳ, các sinh viên đã thi xong đều nôn nóng kéo va-li hành lý lớn bé, vội vàng ra ga tàu hỏa.
Phương Mộc đi giữa đoàn người tất tưởi đó, chậm rãi bước về ký túc xá.
Trở về phòng 304, Phương Mộc ngồi trên giường, nhìn thấy trên bàn vẫn chất đống tài liệu, đưa tay ra sờ, đầy bụi. Phương Mộc lặng lẽ ngồi thêm một lát, bắt đầu thu dọn đồ đạc.
Những việc cần làm đều đã làm cả rồi, cũng chẳng cần ở lại đây thêm làm gì nữa. Buổi chiều sẽ đến phòng quản lý nghiên cứu sinh đăng kí chuyển đến khu ký túc xá khác.
Đồ đạc của Phương Mộc không nhiều, chỉ một loáng đã thu dọn xong. Cậu phủi phủi bụi dính trên tay, cầm chậu rửa mặt và khăn mặt, mở cửa ra.
Ơ?
Ngoài hành lang có rất nhiều người đang đứng, Đỗ Ninh cũng ở đó. Mọi người đều nhìn Phương Mộc chằm chằm.
Phương Mộc bất giác ngẩn người.
Đỗ Ninh bước đến, đứng trước mặt Phương Mộc, lặng lẽ nhìn Phương Mộc mấy giây, lại nhìn vào phòng 304.
“Cậu đang thu dọn đồ à?” Cậu quay sang nhìn Phương Mộc: “Cậu muốn rời khỏi đây à?” ‘Ừ.’ Phương Mộc không muốn nói nhiều, nghiêng người đi qua Đỗ Ninh.
“Này!” Đỗ Ninh ở phía sau lớn tiếng nói: “Còn việc cậu đã hứa với tớ thì sao?”
Phương Mộc quay lại: “Gì cơ?”
Đỗ Ninh làm mặt lạnh: “Cậu đã hứa với tớ, nếu tìm thấy hung thủ sẽ nói với tớ đầu tiên.”
Phương Mộc thoáng ngẩn người, cười đau khổ, lắc đầu, quay người bước đi.
“Cậu tưởng cứ đi như vậy là xong sao?”
Phương Mộc không kìm nổi, định hỏi: “Vậy cậu muốn thế nào?” Nhưng vừa quay người, thấy Đỗ Ninh đang nhìn cậu, bật cười: “Nếu lại xuất hiện một Tôn Phổ, bọn tớ phải làm thế nào?” Cậu ta vỗ vỗ vai Trâu Đoàn Kết đứng bên cạnh, Trâu Đoàn Kết làm mặt quỷ với Phương Mộc, gọi mấy bạn đứng bên cạnh bước vào phòng 304.
Đỗ Ninh mỉm cười nhìn Phương Mộc: “Cho nên, cậu ở lại đi.”
Cậu từ từ đi về phía Phương Mộc, bên cạnh là các bạn đang bận rộn chuyển hành lý của Phương Mộc vào phòng 313.
Đỗ Ninh đứng trước mặt Phương Mộc, rồi chợt giơ tay đấm một cái lên vai Phương Mộc: “Còn một tin mừng nữa, sáng nay tớ vừa nhận được điện thoại của Lưu Kiện Quân, cậu ấy đang hồi phục rất tốt, sẽ nhanh chóng quay trở lại.”
Hai tháng sau.
Mùa đông năm nay kết thúc rất sớm. Phương Mộc vẫn mặc chiếc áo khoác bông, đi lại trong sân trường Sư phạm, một lát toàn thân đã đầm đìa mồ hôi.
Vừa mới nhận được tin nhắn của Lưu Kiện Quân, cậu vui mừng khoe với Phương Mộc, mình đã đi chầm chậm được rồi. Phương Mộc ngửi mùi phấn hoa thơm ngát trong không khí, cảm thấy tâm trạng cũng tuyệt vời như thời tiết ngày hôm nay vậy.
Lớp băng trong hồ đã tan ra, có thể nhìn thấy lớp sương mù đang khẽ khàng chuyển động phía trên mặt nước. Phương Mộc nhìn sang phía bên kia hồ, ở đó trước đây vốn trồng một rặng liễu, giờ đây đã trở thành một cửa hàng dành cho sinh viên, chiếc loa trước cửa đang phát ra bài hát quen thuộc: “Bầu trời cao rộng”.
Phương Mộc ngồi xuống một phiến đá bên hồ, nhớ lại bộ dạng chống gậy của mình hai năm trước, bất giác bật cười.
Cậu rút con dao găm từ trong túi ra, tỉ mỉ ngắm nghía nó. Cán dao màu xanh đen.
Nó đã từng đi theo hai người chủ của nó, chứng kiến quá nhiều sự việc. Hồi đó, khi nó bắt đầu được hình thành từ trong dây chuyền sản xuất thô sơ, chắc nó không thể nào ngờ được rằng, mình lại có sự từng trải phong phú đến nhường này. Còn lúc này đây, nó lặng lẽ nằm trong tay Phương Mộc, vui vẻ tiếp nhận người chủ ngắm nhìn nó, dường như đã quên mất khi nó nằm trong tay hai người khác, hung tướng đã bộc lộ hoàn toàn.
Dao, từ đầu đến cuối vẫn là dao. Tại sao lại bắt nó chịu đựng nhiều thứ đến như vậy. Phương Mộc khẽ mỉm cười, biết chịu đựng, chỉ có chúng ta mà thôi.
Phương Mộc đứng dậy, nhấc nhấc con dao găm trong tay, đột nhiên vung tay lên.
Con dao găm tạo nên một đường vòng cung sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời, ‘tõm’ một tiếng rơi xuống hồ nước. Hồ nước gợn lên những gợn sóng lăn tăn, nhưng rất nhanh, lại bình lặng như lúc đầu.
Tạm biệt, Ngô Hàm!
-Hết-
Đề thi đẫm máu đã kết thúc, nhưng cuộc chiến đấu của Phương Mộc chỉ mới bắt đầu… Mời các bạn đón đọc các tập tiếp theo của Seri Tâm lý tội phạm.


Ngoại Truyện
Quả Của Cây Độc

Trời vừa hé sáng, ông Điền đã dậy.
Không khí những ngày cuối hè đầu thu hơi se lạnh. Cả thôn Bát Đạo hết sức yên tĩnh, thỉnh thoảng mới nghe thấy tiếng chó sủa rời rạc từ phía xa vọng đến, càng cho ta cảm giác nơi này yên tĩnh khác thường.
Ông Điền mặc thêm áo, nhẹ tay đóng cổng sân, rồi chắp tay sau lưng bước ra ngoài.
Người đã có tuổi thường ngủ rất ít. Cũng may, không khí sớm mai trong lành, ra ngoài đi dạo cũng tốt. Ông đã suốt đời gắn bó với ruộng vườn, con trai công tác ở thành phố nhiều lần ngỏ ý đón ông ra đó sống cho nhàn hạ, nhưng ông vẫn thích ở đây hơn. Nghe tiếng gà gáy, hít thở hương thơm của đồng lúa, ngắm nhìn ruộng ngô vàng óng, vẫn thích hơn hẳn thành thị san sát nhà cao tầng.
Mặt trời dần ló ra, ông Điền vẫn chầm chậm bước đi trên con đường làng, thỉnh thoảng mới gặp một vài nông dân dậy sớm, ông bèn dừng chân chào hỏi, trò chuyện mấy câu. Rồi ông lại bước đi, nhưng bỗng cảm thấy bụng dưới đau tưng tức căng căng, ông vội rảo bước về khu ruộng của nhà mình.
Cái thứ ‘việc nặng nề’ này, nên làm trên ruộng của nhà mình, là điều tổ tiên nhiều đời đã dặn dò, ông Điền không thể quên.
Ông bước đi rõ nhanh. Lúc đi ngang qua nhà ông Đổng ở phía đông của thôn, ông đã giơ tay để sẵn sàng chào một câu. Nhưng nhìn vào chỉ thấy khu nhà trống vắng, chứ không thấy Hồ Nguyệt Nga thường dậy đúng giờ để quét sân như mọi ngày. Ông Điền vừa lẩm bẩm vừa cắm cúi rảo bước, nhưng chỉ bước đi vài bước ông đã lập tức đứng lại.
Có một thứ gì đó vừa đập vào mắt ông, dường như rất gây ấn tượng.
Ông xoay người sang, tay bám vào hàng rào và thò đầu nhòm vào sân. Mới thoáng nhìn, ông đã phải trợn tròn mắt.
Rồi ông dụi mắt để nhìn lại, dường như ông không tin ở đôi mắt già nua của mình nữa.
Ông nghĩ ngợi mấy giây, rồi thận trọng bước lại gần cánh cổng ngoài sân, đưa tay lên khẽ đẩy.
Cổng ‘kẹt’ một tiếng và mở ra ngay.
Họ không khóa. Ông Điền cau mày rõ chặt. Ông nhìn sang hai bên, chỉnh trang lại áo quần, rồi từ từ bước vào ngôi nhà ngói ở trong sân.
Chỉ mười mấy bước chân, ông vừa đi vừa chăm chú nhìn vào hai cánh cửa sắt của ngôi nhà đang đóng im ỉm.
Vì ở chỗ tay nắm cửa đang có một cây gậy gỗ đặt ngang.
Ông bước lại gần cửa sắt, nheo mắt nhìn cây gậy gỗ. Định thò tay vào nhấc ra, nhưng ông bỗng nghĩ đến một điều gì đó bèn rụt tay lại. Ông bắt đầu thở gấp, rồi ông quay người bước về phía ô cửa sổ.
Bậu cửa sổ hơi cao, ông phải kiễng chân, nghển cổ, cố nhìn vào bên trong nhà.
Bỗng ông có cảm giác cổ họng mình như bị ai đó bóp chặt, đũng quần ông ướt và nóng.
Năm 1998. Ở thành phố J.
“Đến lúc này, mọi sự thật đã được làm rõ.” Tôn Phổ chỉnh lại cặp kính trên sống mũi, nhìn khắp lượt lớp học đang im phăng phắc: “Chị A nghĩ rằng, nếu bà mẹ không sang Anh quốc thì bà sẽ không bị tai nạn giao thông, nhưng, sở dĩ bà phải sang Anh quốc là vì chị A mắc bệnh lao cần phải sang châu Âu chữa trị. Chị A còn cho rằng, mình mắc bệnh lao là hậu quả của việc mình không chịu nghe lời khuyên của bà mẹ, chị thường ăn mặc phong phanh, bị nhiễm lạnh.”
Một vài học trò tỏ ra đã hiểu vấn đề, bắt đầu ghé tai nhau thì thầm trao đổi.
“Cho nên, mọi nỗi sợ hãi mà chị A thể hiện ra bên ngoài…” Tôn Phổ giơ tay nhìn đồng hồ: “…thực ra xuất phát từ sự áy náy cắn rứt đối với bà mẹ.”
Chuông hết giờ học vang lên vừa đúng lúc.
“Giờ này tuần sau thầy trò lại gặp nhau! Tạm biệt.”
Có học trò phì cười, Tôn Phổ hất tay, đám học trò bắt đầu thu dọn cặp sách. Anh ta cúi xuống sắp xếp lại giáo trình, giáo án. Vẫn còn mấy học trò đứng vây quanh bàn giáo viên chưa chịu bước đi.
“Thưa thầy, lúc trước thầy nói…” Một nữ sinh hỏi rất nhiệt tình: “Sợ hãi là sự ức chế kìm nén phản ứng đối với tính dục và công kích, e rằng không thể giải thích nổi vụ án về chị A?”
Tôn Phổ mỉm cười, cất tài liệu vào cặp, hơi cúi người xuống, nhìn cô học trò qua phía trên gọng kính.
“Cho nên, vụ án này chứng minh một điều, những sự kiện gây chấn thương tâm lý không liên quan đến bản năng cũng có thể xuất phát từ phòng vệ tâm lý mà nảy sinh nỗi sợ hãi đối với một vật thể, một hoàn cảnh hoặc một hoạt động nào đó.”
“Nói vậy tức là…” Cô gái tỏ ra nghi hoặc: “Tâm lý học sẽ là một bộ môn không có quy luật rõ ràng hay sao?”
“Chính nó không phải là điểm hết sức hấp dẫn của tâm lý học hay sao?” Tôn Phổ tủm tỉm cười hỏi vặn lại.
Cô gái cũng mỉm cười: “Thưa thầy Tôn Phổ, em hiểu rồi, em sẽ chăm học đến nơi đến chốn.”
Tôn Phổ xua tay: “Mau về đi ăn cơm đi, nếu không, món sườn rán sẽ bị người ta tranh mất hết đấy!”
Đám học trò chạy ào đi rất nhanh. Tôn Phổ nhấc cái máy nhắn tin đeo ở thắt lưng ra, vừa nhìn, anh ta đã lập tức cau mày.
Sự yên tĩnh mọi ngày của thôn Bát Đạo không còn nữa, khắp thôn khắp xóm là bóng cảnh sát đi hỏi han tìm hiểu, đầu thôn cuối thôn đều lấp lóa những ánh đèn nhấp nháy của xe cảnh sát. Mặt trời đã lên cao ba con sào rồi, mà ngoài đồng ruộng cũng chỉ thấp thoáng vài ba người làm việc nhà nông. Gần như toàn bộ dân thôn đều tập trung ở cổng nhà ông Đổng ở mé đông thôn. Nơi này đã bị cảnh sát phong tỏa. Khu nhà vốn không rộng, lúc này trưởng thôn và trưởng ban an ninh trật tự đang cùng mấy anh cảnh sát khám nghiệm hiện trường xem xét xung quanh. Họ có thừa nhiệt tình và sự cảm thông, nhưng nhiều hơn cả là nỗi sợ hãi thật sự nảy sinh từ trong lòng họ. Đám đông đứng ngoài vành đai vàng cảnh giới thì rất vô duyên, người phì phèo thuốc lá, người thì tay chống cuốc xẻng, hoặc lớn tiếng tranh luận hoặc khẽ xì xào bàn tán. Có vẻ như cảnh tượng trước mắt khiến họ khoái trá hơn là cảm thấy kinh ngạc.
Ai cũng cố kiễng chân, nghển cổ nhìn vào ngôi nhà gạch trong sân.
Trong đó đã xảy ra chuyện gì thế?
Tôn Phổ cũng muốn biết.
Một cảnh sát trẻ đi trước, dẫn ông lách qua đám đông, đi thẳng vào ngôi nhà ngói trong kia. Cảnh sát đứng trong sân đều lên tiếng chào Tôn Phổ. Anh ta không thể chào hỏi từng người, chỉ gật đầu đáp lại họ. Vị nam giới mặc ‘thường phục’ được cảnh sát vì nể này, lại khiến đám đông đứng xem phải xì xào bàn tán.
“Chắc anh ta là lãnh đạo…”
“Xem chừng, đã xảy ra chuyện tày đình…”
“Anh ta, ít ra cũng là cấp giám đốc…”
Triệu Vĩnh Quý đang đứng trước cửa nhà, nhìn đi nhìn lại cây gậy gỗ trong tay. Thấy Tôn Phổ bước lại, anh buông cây gậy xuống và nói với giọng hậm hực.
“Tôi nhắn tin cho anh mấy lần, mà bây giờ anh mới đến?”
“Lúc đó tôi đang lên lớp.” Tôn Phổ chú ý đến cây gậy trong tay Triệu Vĩnh Quý: “Gì thế? Nó là hung khí à?”
“Không phải.” Triệu Vĩnh Quý gượng cười, chìa cây gậy ra: “Chúng tôi đến hiện trường, thấy của nợ này cài ngang trên hai tay nắm ở cánh cửa.”
Cây gậy gỗ dài khoảng 70cm, đường kính khoảng 4cm, bề mặt nhẵn nhụi, một đầu bị nứt gãy. Vết gãy có vẻ còn mới.
“Giống như là…”
“Đúng thế.” Triệu Vĩnh Quý nhìn sang bên cạnh. Một nhân viên khám nghiệm hiện trường đang cầm một lưỡi xẻng cho vào túi đựng vật chứng.
“Nó là cán xẻng.” Triệu Vĩnh Quý nói tiếp: “Có vẻ như vừa mới bị gãy.”
Tôn Phổ ‘ừ’, rồi anh ta nhìn vào cánh cửa đã mở.
“Hung thủ không muốn cô ta chạy ra để kêu cứu à?”
“Không phải…” Sắc mặt Triệu Vĩnh Quý bỗng nặng nề: “Không chỉ có một nạn nhân.”
Cửa ra vào gồm hai cánh cửa sắt sơn xanh lá cây. Phía trên là ô kính được lắp thêm lưới sắt bảo vệ, ô kính cánh bên trái bị vỡ một miếng, phía sau lưới sắt một tờ lịch treo tường được dùng lấp vào che tạm. Sau cánh cửa sắt là tiền sảnh bày một vài thứ đồ đơn giản, nhưng ngăn nắp. Tường bên phải tiền sảnh trổ một cửa nhỏ, đi vào gian nhà kho. Bên trái tiền sảnh, gần cửa, là bếp lò, trên đó đặt chiếc nồi gang màu đen, trong nồi còn một ít thức ăn là thịt lợn kho dưa. Bên cạnh bếp lò có một cửa nhỏ đi vào buồng ngủ, tức là hiện trường chính.
Tôn Phổ vừa mở cánh cửa buồng ngủ thì một mùi tanh nồng của máu xộc ra ngạt thở. Anh ta nghiêng người né sang bên. Cảnh tượng trước mắt khiến anh ta kinh ngạc trợn tròn mắt.
Trên chiếc giường lò* với đống chăn đệm nhàu nát loang lổ những vết máu đã khô cứng.
Một nữ nạn nhân cao tuổi, thi thể dài 160cm, nằm sấp theo hướng bắc - nam, không mặc quần, đầu rũ xuống thành giường lò, không nhìn thấy mặt, sau gáy nham nhở, mái tóc dày rối mù dính bết máu khô; trên mặt đất cũng có vũng máu.
Một nữ nạn nhân nhỏ tuổi, thi thể dài 130cm, nằm ngửa theo hướng nam - bắc, đầu ngoảnh sang bên phải, mắt hé mở, trán bên trái bị lõm sâu hoắm, là một vết thương mở; hai chân nạn nhân dang rộng, một tờ báo đậy giữa hai đùi.
Tôn Phổ cau mày rất căng, anh ta ngoảnh nhìn Triệu Vĩnh Quý. Triệu Vĩnh Quý gật đầu: “Các vật chứng ở hiện trường đều đã được định vị, và thu lại đầy đủ.”
“Chắc đều là chấn thương sọ não dẫn đến tử vong?”
“Thương tích rất nặng ở hộp sọ.” Anh cán bộ pháp y họ Dương đứng bên nói: “Chắc hung khí là một cái búa.”
“Để lại ở hiện trường à?”
“Không.” Triệu Vĩnh Quý lắc đầu: “Chúng tôi đã tìm rất kỹ, nhưng chưa phát hiện ra vật gì khớp với vết thương.”
Tôn Phổ gật đầu, không nhìn các tử thi nữa, anh ta quan sát khắp căn buồng. Rất nhanh, anh ta chú ý đến một cái hộp đấu dây điện đèn gắn trên tường bên trái giường lò, bên dưới hộp là một sợi dây ngắn.
Triệu Vĩnh Quý nhận ra ánh mắt của Tôn Phổ, bèn bước lại nhìn.
“Nó là dây công-tắc đèn.”
“Tôi biết.” Tôn Phổ bước lại bên giường lò: “Nhưng anh không cảm thấy nó quá ngắn à?”
Triệu Vĩnh Quý suy nghĩ: “Kể cũng phải. Nếu nằm trên giường thì không thể với tới sợi dây.”
Tôn Phổ nhếch mép, tỳ đầu gối trái lên mép giường lò, rồi cúi nhìn vị trí cái gối; sau đó anh điều chỉnh tư thế, nghiêng người về phía trước, đưa tay ra đầu chót của sợi dây và làm động tác ‘cắt dây’; rồi anh lại đưa tay về phía sau bên trái. Tiếp đó, anh ngoảnh sang nhìn bức tường bên trái: ở đó có một cái tủ gỗ dài rất cũ, mặt đất không có gì. Rồi Tôn Phổ lại nhìn sang bên phải.
Và nhìn thấy trên mặt đất có một đoạn dây giật công-tắc đèn.
Tôn Phổ đứng thẳng người lên, chỉ đoạn dây đó, nói: “Cầm đoạn dây kia về.”
Triệu Vĩnh Quý ra hiệu cho cấp dưới. Vẻ mặt Quý có phần ngượng nghịu, chắc vì anh biết mình đã chủ quan không chú ý đến đoạn dây này.
“Hắn là một gã thuận tay trái.” Tôn Phổ không chú ý đến vẻ mặt của Triệu Vĩnh Quý, anh ta đưa mắt nhìn quanh một lượt: “Và, khi gây án, hắn mang theo dao.”
Triệu Vĩnh Quý quay sang bên khẽ bảo một chiến sĩ trinh sát trẻ: “Ghi lại đi!”
Tôn Phổ lại nhìn vào hai tử thi nằm trên giường lò. Mấy phút sau, anh ta bỗng hỏi: “Nam chủ nhân của nhà này đâu?”
Triệu Vĩnh Quý mở sổ công tác, lật giở xem, rồi nói: “Chủ hộ là Đổng Song Bình, đi làm ăn ở Hạc Cương - Hắc Long Giang. Hai nạn nhân là Hồ Nguyệt Nga vợ ông ta và Đổng Nguyệt con gái họ.”
Triệu Vĩnh Quý ngừng một lát: “Đã thông báo cho Đổng Song Bình, ông ta đang trên đường trở về.”
Tôn Phổ gật đầu, rồi anh ta bước lên một bước, đứng bên giường lò cúi nhìn tờ báo che giữa hai đùi nạn nhân nhỏ tuổi. Tôn Phổ lẩm bẩm:
“Tại sao hắn lại dùng tờ báo này nhỉ?”
“À…” Anh Dương pháp y thản nhiên chêm một câu: “Đó là do tôi đậy lên cho cháu bé.”
“Anh?” Tôn Phổ lập tức quay sang: “Anh còn đụng đến thứ gì nữa?”
“Không.” Dương vội giải thích: “Tôi chỉ che tờ báo lên, chứ không đụng đến thứ gì khác.”
“Anh Dương!” Tôn Phổ đứng thẳng người, hình như đang cố gắng kìm nén tâm trạng của mình: “Phải giữ nguyên hiện trường ban đầu thì mới hữu ích cho việc phân tích tâm lý hung thủ. Bất cứ sự xê dịch thay đổi nào cũng đều có thể ảnh hưởng đến phán đoán của tôi.”
“Tôi hiểu ạ, thưa thầy, tôi làm về pháp y, nhưng quả thật tôi cũng không dám nhìn.” Dương ngập ngừng, giọng nói bỗng khàn khàn: “Tôi cũng có con gái trạc tuổi này…”
Tôn Phổ nhìn anh Dương pháp y mấy giây, vẻ mặt của anh ta dịu đi. Rồi anh bước lên, đưa tay lật tờ báo lên.
Tất cả mọi người có mặt đều rùng mình lắc đầu.
Lúc Tôn Phổ ra khỏi khu công an, đêm đã rất khuya.
Nhìn ‘Trung tâm phục hồi tâm lý Phổ Nguy’ ở phía xa xa vẫn còn sáng đèn, anh ta thấy phấn chấn và rảo bước nhanh hơn.
Ngụy Nguy vẫn đang chờ anh ta, vừa thấy anh ta về, cô lập tức rời đi-văng đứng lên.
“Anh ăn cơm chưa?”
“Đã ăn tí chút ở Sở công an.” Tôn Phổ cởi áo khoác, đặt chiếc cặp lên ghế. Vừa xoay người sang bên anh liền nhìn thấy cái khay với các món vẫn ‘niêm phong’ đặt trên bàn.
“Em chưa ăn à?”
“Vâng.” Ngụy Nguy cất cuốn sách trong tay lên giá sách: “Chờ anh về cùng ăn mà!”
Tôn Phổ nhìn cô, mỉm cười.
“Anh sẽ ăn với em.”
“Được!” Ngụy Nguy bước lại bên bàn, nhấc cái khay lên, nghĩ ngợi, rồi lại nói: “Hay là, anh cứ nghỉ một lát đã.”
“Không cần.” Tôn Phổ đón lấy cái khay, rồi nhìn sang ghế đi-văng: “Em cứ ngồi đi, để anh làm.”
Không gian lúc nửa đêm, tuyệt đối yên tĩnh. Cả một vùng đều đang trong chìm trong bóng tối, chỉ riêng Trung tâm phục hồi tâm lý ở trong khu dân cư này còn sáng một ngọn đèn nho nhỏ. Nếu lúc này có ai đi qua ô cửa sổ ấy sẽ nhìn thấy một đôi nam nữ đang ngồi đối diện nhau ăn cơm và trò chuyện.
Cuộc sống là thế, thời gian cứ lặng lẽ trôi đi.
Cả hai đều đang nghĩ nếu cứ được như thế này mãi thì cuộc đời quá đẹp.
Ăn xong cơm, Tôn Phổ rửa sạch một quả táo rồi đưa cho Ngụy Nguy, còn mình thắt tạp dề và đi vào rửa bát. Ngụy Nguy vừa cắn táo ăn vừa đứng tựa cửa gian bếp nhìn Tôn Phổ nhanh nhẹn cọ rửa bát đĩa.
Thỉnh thoảng Tôn Phổ ngoảnh lại, bốn mắt gặp nhau và mỉm cười.
“Hôm nay có ai đến không?” Tôn Phổ vẩy cái khay cho ráo nước, rồi cài nó lên giá cho ngay ngắn.
“Châu Chí Siêu đến.” Ngụy Nguy ném hạt táo vào thùng rác: “Thấy anh không có nhà, anh ấy nói chuyện với em mấy câu rồi ra về.”
“Anh ấy kể cũng vất thật, phải chạy đi chạy về hai nơi, mỗi lần khứ hồi mất đến ba tiếng đồng hồ.” Tôn Phổ lau khô tay, cởi tạp dề, rồi cùng Ngụy Nguy ra khỏi gian bếp.
“Đúng thế. Hôm nay em gợi ý anh ấy đi gặp giáo sư Dương Cẩm Trình ở thành phố C. nhưng anh ấy không đồng ý, và nói chỉ muốn được anh điều trị cho.”
“Giáo sư Trình rất giỏi.” Tôn Phổ cười: “Có lẽ là vì Châu Chí Siêu tương đối tín nhiệm anh. Tình trạng anh ấy thế nào?”
“Cũng tạm được. Có khá hơn lần trước.” Ngụy Nguy do dự: “Nhưng, tính nóng nảy thì vẫn rất rõ.”
“Anh ta cần hỗ trợ thời gian dài.” Tôn Phổ ngáp: “Lần sau anh ta đến, nếu anh vắng nhà thì em làm trợ giúp anh ta thay anh.”
“Em không dám làm, anh ạ!” Ngụy Nguy sà đến ngả đầu vào ngực Tôn Phổ: “Anh là chuyên gia, chứ đâu phải em.”
“Chuyên gia gì chứ?” Tôn Phổ mỉm cười, vuốt tóc Ngụy Nguy: “Em cứ coi như mình đang thực tập tốt nghiệp.”
“Sao gần đây anh bận khiếp thế?” Tay Ngụy Nguy vỗ nhẹ lên ngực Tôn Phổ: “Lại có vụ án gì đó à?”
“Ừ!” Bàn tay dịu dàng của Ngụy Nguy khiến Tôn Phổ cảm thấy dễ chịu, lim dim mắt: “Anh ngờ rằng vẫn là kẻ gây ra mấy vụ án trước đây.”
“Liệu anh có bị nguy hiểm gì không?” Ngụy Nguy ngẩng lên nhìn Tôn Phổ.
“Nói gì vớ vẩn thế? Không!” Bàn tay Tôn Phổ vuốt tóc Ngụy Nguy chậm lại: “Anh đâu có đi bắt ai?”
“Anh vẫn nên cẩn thận thì hơn.”
“Được! Em cứ yên tâm.” Giọng Tôn Phổ dần lắng xuống: “Việc thầy Bình giao cho, anh không thể làm hỏng.”
“Anh cũng lạ thật, đã được đặc cách phong phó giáo sư rồi thì nên yên tâm mà dạy học.” Ngụy Nguy hơi dẩu môi: “Và còn việc ở phòng khám nữa. Sao anh cứ phải dính dáng đến các chuyện đáng sợ kia làm gì?”
Tôn Phổ không đáp. Ngụy Nguy nhẹ nhàng ngồi thẳng lên, cô nhận ra Tôn Phổ đã ngả người trên đi văng và ngáy o o.
Kể từ cuối tháng 3 năm 1998, vùng ngoại ô thành phố J liên tiếp xảy ra bốn vụ án đột nhập nhà riêng cưỡng dâm giết người. Vụ thứ nhất xảy ra lúc 2 giờ sáng ngày 28 tháng 3, tại thôn Du Thụ thị trấn Ngũ Long khu Phong Thủy thành phố J. Nạn nhân là Viên Khiết, nữ, 41 tuổi, góa chồng, ở một mình. Hung thủ đột nhập qua cửa sổ, sau khi cưỡng hiếp nạn nhân, hắn dùng vật cứng có lẽ là búa đinh đánh nạn nhân cho đến chết. Có dấu vết lục soát trong nhà, tiền bạc bị lấy đi hết.
Vụ thứ hai xảy ra trong khoảng từ 1 đến 4 giờ sáng ngày 17 tháng 5, tại thôn Lộc Dương thị trấn Giang Mật khu Phong Thủy thành phố J. Người bị hại gồm Dương Mậu Căn, nam, 53 tuổi; Vu Song Hoa, nữ, 50 tuổi và Dương Chi Anh, nữ, 22 tuổi, là con gái của vợ chồng Căn - Hoa. Hung thủ rạch thủng cửa lưới chống muỗi, rồi vào nhà. Các dấu vết ở hiện trường cho thấy, sau khi đột nhập vào nhà, hung thủ trước hết cắt đứt dây giật công-tắc đèn và dây điện thoại, sau đó dùng vật cứng (tựa như búa) đánh vào đầu Dương Mậu Căn và Vu Song Hoa cho đến chết. Sau khi cưỡng hiếp Dương Chi Anh, hung thủ cũng dùng thủ đoạn như trên đánh chết cô. Xác Vu Song Hoa cũng có dấu hiệu bị làm nhục. Có dấu vết lục soát trong nhà, tiền mặt bị lấy đi hết.
Vụ án thứ ba xảy ra trong khoảng từ 3 đến 5 giờ sáng ngày 9 tháng 8, tại thôn Lượng Môn xã Kim Châu khu Thiên Cảng thành phố J. Nạn nhân là Vương Hiểu Huệ, nữ, 37 tuổi, sống một mình, kinh doanh một tiệm bách hóa nhỏ. Hung thủ lẻn vào nhà thuận lợi. Thấy trong nhà có các dấu vết vật lộn, ngờ rằng nạn nhân bị hung thủ kéo vào gian trong cưỡng hiếp, sau đó dùng vật cứng (tựa như búa) đánh chết. Phát hiện thấy trong âm đạo nạn nhân và quần nạn nhân có các vệt tinh dịch, kết quả xét nghiệm cho biết, đó thuộc về một nam giới có nhóm máu A. Trong cửa hàng tạp hóa có dấu vết bị lục lọi, tiền doanh thu ngày hôm đó bị lấy mất.
Vụ án thứ tư xảy ra từ khoảng 2 đến 4 giờ sáng ngày 3 tháng 9, tại thôn Bát Đạo thị trấn Tam Đài khu Nam Cảng thành phố J. Nạn nhân là Hồ Nguyệt Nga, nữ, 35 tuổi và Đổng Nguyệt, nữ, 9 tuổi. Hung thủ trèo qua tường vây đột nhập, thò tay vào chỗ bị vỡ kính ở cửa sắt mở được cửa và vào nhà, cắt dây giật công tắc đèn. Sau khi cưỡng hiếp Hồ Nguyệt Nga, hắn dùng hung khí đánh chết nạn nhân; sau đó cưỡng bức Đổng Nguyệt, rồi cũng dùng thủ đoạn tương tự giết chết nạn nhân. Trong nhà, có dấu vết bị lục soát, tiền mặt bị lấy mất.
Tình hình điều tra hiện trường cho thấy cả bốn vụ án mạng này, hung thủ đều dùng thủ đoạn gây án tương tự; ở các hiện trường đều để lại vài dấu chân đi giày đế cao su, cỡ 39. Các dấu chân đều có đặc trưng như nhau. Quan sát các vết thương dẫn đến tử vong của nạn nhân, ngờ rằng đều do một chiếc búa cán ngắn gây ra. Ngoài vụ án ngày 9 tháng 8 ra, thấy rằng khi cưỡng hiếp nạn nhân, hung thủ đều sử dụng bao cao su, cho nên không để lại dấu vết sinh học làm vật chứng. Tuy nhiên, giám định các sợi tóc - ngoại trừ tóc của nạn nhân - thu được ở hiện trường, thấy rằng đều là của một người thuộc nhóm máu A.
Căn cứ vào các tình hình nói trên, cảnh sát quyết định tổ chức trinh sát điều tra đồng thời cả bốn vụ án này. Họ thành lập tổ chuyên án do trưởng công an khu Phong Thủy làm tổ trưởng, Triệu Vĩnh Quý là tổ phó. Trước đó, giáo sư Kiều Doãn Bình ở Học viện pháp luật thành phố J đã được ủy thác phân tích hai vụ án đầu tiên. Trung tuần tháng 7, giáo sư Bình được nước ngoài mời đi thăm giao lưu, nên ông giao lại việc này cho Tôn Phổ là học trò cũ mà ông tin cậy tiếp tục làm.
Sáng sớm, tại khu công an Phong Thủy.
Tôn Phổ vẻ mệt mỏi, bước lên bậc thềm đá nhẵn bóng. Vừa đi qua cửa quay, anh ta đã nhìn thấy Triệu Vĩnh Quý đang ngồi trên ghế dài kê bên cạnh cửa, hút thuốc. Có vẻ như anh ta cũng đang bộn bề bao suy nghĩ.
Thấy Tôn Phổ vào, Triệu Vĩnh Quý đứng dậy, đưa tay lên xoa mặt, rồi bước ra đón.
“Chúng tôi nên cử xe đến đón thầy mới đúng.”
“Đừng trịnh trọng thế, nhà tôi ở gần đây thôi mà.” Tôn Phổ mỉm cười: “8 giờ rưỡi họp, phải không?”
“Vâng.” Triệu Vĩnh Quý nhìn phòng họp ở phía sau: “Các anh em vẫn chưa đến đủ.”
Triệu Vĩnh Quý mời Tôn Phổ hút thuốc, và bật lửa cho anh châm thuốc.
“Có điểm gì mới chưa?” Triệu Vĩnh Quý nhìn chiếc cặp da Tôn Phổ khoác trên vai.
“Tôi đã chỉnh lý bản báo cáo về phác họa tâm lý nghi phạm.” Tôn Phổ rít một hơi thuốc lá, sắc mặt anh ta có nét mệt mỏi: “Sẽ đọc trong cuộc họp.”
“Vâng.” Triệu Vĩnh Quý ngập ngừng: “Khi nào thì giáo sư Bình mới về?”
Tôn Phổ nhìn anh, mỉm cười: “Chắc là tháng sau. Thế nào? Chắc anh chưa tin tôi?”
Triệu Vĩnh Quý vội thanh minh: “Không phải thế. Anh và giáo sư Bình đều là chuyên gia.”
“Anh nghi ngờ tôi, nghi ngờ kỹ thuật phác họa tâm lý, cũng là chuyện thường tình.” Vẻ mặt Tôn Phổ rất nhẹ nhõm: “Rồi kết quả sẽ nói lên tất cả.”
Cuộc họp đã rà soát lại toàn bộ tư liệu và vật chứng liên quan đến ba vụ án mạng đầu tiên, và thông báo về tình hình trinh sát điều tra vụ án cưỡng dâm giết người vừa xảy ra ngày 3 tháng 9.
Sau khi các cán bộ hữu quan trình bày xong, ánh mắt mọi người đều nhìn sang Tôn Phổ.
Có ánh mắt tò mò, có ánh mắt nghi ngờ, thậm chí có cả những ánh mắt gườm gườm thật là khó hiểu.
Tôn Phổ đã quen với những ánh mắt như thế này. Vì, một phó giáo sư mới ngoài 30 tuổi đã khiến người ta phải chú ý, mặt khác, xưa nay cảnh sát vẫn áp dụng chiến thuật quen thuộc là ‘loại trừ mò’ trong vô số đối tượng, và cũng là đường lối tư duy cố định của các trinh sát viên, còn ‘dấu vết tâm lý nghi phạm’ là một danh từ quá mới, thậm chí rất nhiều cảnh sát chưa từng nghe nói đến khái niệm ‘phác họa tâm lý nghi phạm’. Chỉ dựa vào hiện trường gây án để suy ra nghề nghiệp, môi trường sống, gia cảnh, thời trẻ, tính cách, thói quen của nghi phạm, thậm chí suy ra đặc điểm khuôn mặt và cách ăn mặc của nghi phạm… e chuyện này có phần hoang đường.
Tôn Phổ rút thuốc lá ra châm, từ từ rít một hơi. Rồi anh ta mở cặp rút ra tập tài liệu. Lúc này cả phòng họp bỗng im phăng phắc, mọi ánh mắt đều nhìn chằm chằm vào từng động tác của anh ta.
Tôn Phổ mỉm cười.
Với con mắt của Tôn Phổ, có thể cơ bản khẳng định cả bốn vụ án mạng này là do một kẻ gây ra. Các đặc tính sinh lý của hung thủ: nam giới, tuổi chừng 35 đến 45, chiều cao từ 1,60 đến 1,65 mét, cân nặng từ 50 đến 60kg; vóc người thấp nhỏ, hơi gầy. Đặc trưng bên ngoài cơ thể: không rõ. Thuận tay trái. Tứ chi bình thường, không có tật. Thuộc nhóm máu A.
Sở dĩ có thể đưa ra các kết luận như trên, là vì căn cứ vào kết quả phân tích các vật chứng thu được ở hiện trường như dấu chân, tóc, tinh dịch… mặt khác, căn cứ vào thời gian gây án của hung thủ: phần lớn là sau nửa đêm về sáng, là lúc mọi người đều ngủ rất say. Các nạn nhân đều bị hung thủ dùng búa sát hại, họ gần như không có phản kháng gì. Từ đó suy đoán rằng, hung thủ không đủ tự tin vào thể lực của mình để hành động, nên hắn chọn thời gian gây án như vậy để loại trừ khả năng phản kháng của nạn nhân. Ngoài ra, trong vụ án ngày 9 tháng 8, hiện trường cho thấy khi hắn cưỡng dâm đã xảy ra vật lộn kịch liệt với nạn nhân; người bị hại này cao 1,65 mét, nặng 46kg, từ đây suy ra hung thủ có vóc người thấp nhỏ, thể lực không mấy cường tráng.
Xét về thuộc tính xã hội, hung thủ chưa có vợ hoặc đã ly hôn; kết hợp với đặc điểm lứa tuổi của y, có nhiều khả năng là đã ly hôn. Hắn sống một mình hoặc chỗ ở không cố định. Tình trạng kinh tế kém, thói quen vệ sinh cá nhân kém, nơi ở bày các vật dụng lộn xộn bừa bãi, thói quen sinh hoạt không ra gì. Phản ánh ở bề ngoài của hung thủ: ăn mặc lôi thôi nhếch nhác, tóc dài bù xù, có thể để râu ria.
Xét về thuộc tính địa lý: cả bốn vụ án đều không có ai nhận ra hiện trường có vấn đề gì khác thường, vì thế không thể suy đoán về giọng nói của hung thủ và các thông tin liên quan. Nhưng cả bốn vụ án đều xảy ra ở vùng nông thôn quanh thành phố J, cho nên có thể suy đoán rằng hung thủ là người địa phương này, có khả năng đăng ký hộ khẩu thường trú ở nông thôn. Phạm vi hoạt động thường ngày của y là giữa nông thôn và thành phố.
Xét về thuộc tính tâm lý, chắc chắn hung thủ là kẻ không bình thường. Trong cả bốn vụ án, các nạn nhân nữ đều bị y xâm hại tình dục. Y xâm hại từ thi thể nữ nạn nhân cho đến bé gái chưa đầy 10 tuổi, chứng tỏ y là kẻ có hành vi sinh lý hết sức bất thường, từ đó suy đoán rằng hung thủ có vấn đề nghiêm trọng về nhân cách bất thường.
Trước hết, thủ đoạn gây án của hung thủ có tính chất vũ lực tàn bạo. Hiện trường cho thấy, sau khi đột nhập vào nhà, y ngắt nguồn điện hoặc cắt dây điện thoại, sau đó lập tức tấn công người bị hại. Sau khi loại bỏ khả năng phản kháng của nạn nhân nam giới, y thực hiện cưỡng dâm nạn nhân nữ giới. Sau khi đã thỏa mãn thú tính, y không thương tiếc thẳng tay sát hại nạn nhân, thậm chí giết cả nhà. Trong vụ án ngày 3 tháng 9, sau khi gây án, lúc rời hiện trường, hung thủ dùng cán xẻng đã bị bẻ gãy cài vào tay nắm cửa từ bên ngoài để chốt chặt, ngăn chặn khả năng cuối cùng của nạn nhân là kêu cứu, phản ánh rõ rệt ý đồ quyết sát hại nạn nhân.
Mặt khác, hung thủ có bệnh lý về nhu cầu tính dục, quá mạnh, bất thường. Trong vụ án ngày 17 tháng 5, sau khi đã cưỡng dâm rồi giết nạn nhân là cô gái Dương Chi Anh, y dường như vẫn chưa hết cơn thèm khát, y tiếp tục làm nhục thi thể của Vu Song Hoa là mẹ của Chi Anh. Tình hình hiện trường cũng cho thấy, khi làm nhục thi thể của Vu Song Hoa, hung thủ không che đầu và mặt đã máu me bê bết của tử thi. Cũng tức là, y không cho rằng cái xác vừa mới bị cứng lại này đã từng là một người sống, mà chỉ là một bộ phận sinh dục nữ dành cho hắn thỏa cơn cuồng dâm mà thôi. Trong vụ án ngày 3 tháng 9, hung thủ cũng cưỡng dâm rồi giết người, sau đó lại xâm hại tình dục bé gái Đổng Nguyệt mới 9 tuổi. Khám nghiệm tử thi cho thấy, vì Đổng Nguyệt còn quá bé, chưa phát dục trưởng thành, hung thủ đã làm rách bộ phận kia của Nguyệt để y có thể hoàn thành hành động cưỡng dâm. Các chi tiết nói trên đều thể hiện hung thủ có nhu cầu tính dục rất lớn, và cực kỳ coi rẻ sinh mạng của người khác.
Điểm cuối cùng, tình hình hiện trường của cả bốn vụ án cho thấy, sau khi cưỡng dâm giết người xong, hung thủ đều lục soát hiện trường và cướp đi hầu hết tiền mặt, sau đó mới bỏ đi. Từ đó có thể suy đoán rằng hung thủ có hai động cơ gây án: nói cho dễ hiểu, một là thỏa mãn thú tính, hai là tiền. Tôn Phổ nhận định rằng nhu cầu nội tâm hung thủ chỉ còn lại hai bản năng thấp nhất đó, cũng tức là năng lực cảm nhận về bản thân tương đối thấp, khả năng kết nối với thế giới bên ngoài cũng kém. Vì thế suy ra y không có vị trí đáng kể trong xã hội và không thể làm những công việc đòi hỏi phải có kỹ năng.
Về thuộc tính quá khứ phạm tội, vụ án xảy ra ngày 28 tháng 3 không phải hung thủ lần đầu gây án; chắc y phải có tiền sự phạm tội và rất có khả năng gây án liên quan đến xâm hại tình dục. Đồng thời, có lẽ hung thủ đã từng bị trừng phạt thụ án, cho nên y có năng lực phạm tội và năng lực phản trinh sát nhất định. Tại sao lại nói thế? Tại vì khi gây án y đã cắt dây giật đèn, dây điện và dây điện thoại; y ‘biết’ dùng bao cao su khi hành động cưỡng dâm.
Tổng hợp tất cả lại, Tôn Phổ đề nghị tổ chuyên án khi trinh sát điều tra ở các khu vực nông thôn thị trấn gần hiện trường các vụ án nên kết hợp điều tra loại trừ những nam giới có các đặc trưng kể trên. Đồng thời, Tôn Phổ cũng cho rằng, vì hung thủ có tình trạng bất thường về nhu cầu sinh lý như nói trên, rất có thể y sẽ hay la cà ở những nơi tổ chức dịch vụ gội đầu, mát-xa, nhà hàng đẳng cấp thấp thực ra là những chốn ăn chơi trụy lạc trá hình. Tiền bạc trộm cướp được, ngoài chi dùng cho sinh hoạt ra, thường sẽ nướng vào các chốn bẩn thỉu như vậy. Vì thế, tiến hành loại trừ theo hướng này rất có thể sẽ có thu hoạch.
Cuối cùng, Tôn Phổ nói rằng, xét về quy luật gây án của hung thủ, khi y không thể dùng cách nào khác để thỏa mãn thú tính thì rất có thể y sẽ lại gây án cưỡng dâm và giết người. Cho nên, các hoạt động trinh sát đối với y cần chú trọng nâng cao hiệu suất.
Phải nhanh chóng tối đa để khép lại vụ án. Đây cũng là nguyện vọng bức thiết của tổ chuyên án. Bốn vụ án mạng xảy ra liên tiếp đã khiến Công an tỉnh tập trung chú ý, và đã ra lệnh cho Sở công an thành phố đưa ra cam kết, giao hẹn thời gian phá án.
Dưới áp lực lớn, các tổ viên tổ chuyên án đều rất căng thẳng, công tác điều tra đã nhanh chóng triển khai. Nhưng, địa bàn khu Phong Thủy là khu vực rộng nhất thành phố, lại bao gồm nhiều thị trấn trực thuộc, tuy phân tích của Tôn Phổ đã thu hẹp diện điều tra loại trừ, nhưng ‘phác họa’ đó của anh thì dường như rất xa xôi, liệu có đáng tin không?
Người đặt niềm tin nhiều nhất vào Tôn Phổ vẫn là Triệu Vĩnh Quý. Là một cảnh sát đứng tuổi có thâm niên trong nghề gần 20 năm, nhưng Triệu Vĩnh Quý cũng hay buồn vì trình độ văn hóa có hạn của mình, vì thế anh luôn rất đề cao sức mạnh của tri thức. Trong mấy vụ án nghiêm trọng xảy ra ở giai đoạn trước, giáo sư Kiều Doãn Bình ở thành phố J này đã giúp đỡ rất nhiều trong công tác trinh sát phá án của cảnh sát, điều đó khiến Triệu Vĩnh Quý rất tin tưởng ở kỹ thuật phác họa tâm lý nghi phạm.
Giáo sư Bình đi vắng, chính ông đã tiến cử học trò tài ba thì người học trò này không thể non tay nghề.
Tôn Phổ, bề ngoài có vẻ bình thản như không, nhưng thực ra thâm tâm anh ta lo lắng hơn bất cứ ai trong tổ chuyên án. Mấy vụ án mà giáo sư Bình giao cho anh ta làm tuy đều kết thúc có hiệu quả, nhưng các vụ án đó đều chưa thật sự mang tính điển hình, tiêu biểu. Với Tôn Phổ, tham gia mấy vụ ấy chỉ như tích lũy kinh nghiệm mà thôi; nói cách khác, là để luyện tay nghề. Thực ra anh ta còn có một ước mơ rất hùng vĩ.
Kỹ thuật phác họa tâm lý nghi phạm xuất phát từ phương Tây, kho dữ liệu về đặc trưng tâm lý được xây dựng sớm nhất vào cuối thập kỷ 70 thế kỷ trước ở Ban khoa học hành vi thuộc FBI Hoa Kỳ. Sau khi kỹ thuật này được đưa vào Trung Quốc, các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã bắt đầu đi sâu nghiên cứu. Tuy nhiên, kỹ thuật phác họa tâm lý nghi phạm rất khác với kỹ thuật kiểm tra DNA có thể lợi dụng kết luận sẵn có. Kỹ thuật ấy của phương Tây, chỉ có thể học tập lý luận cơ bản, chứ các dữ liệu về chỉ tiêu và đặc trưng tâm lý đều không có giá trị tham khảo. Nguyên nhân chủ yếu là vì người phương Tây và người phương Đông có sự khác biệt rất lớn về lịch sử, văn hóa, tôn giáo, nhân chủng và giá trị quan; và chúng trực tiếp ảnh hưởng đến mô thức hành vi của từng cá thể.
Mơ ước của Tôn Phổ là có thể nhanh chóng xây dựng một hệ thống chỉ tiêu tâm lý và kho dữ liệu về đặc trưng hành vi của người Trung Quốc. Việc này tất nhiên sẽ rất gian nan, rất tốn thời gian và sức lực. Tuy nhiên, cái danh hiệu ngất cao ‘người đặt nền móng cho kỹ thuật phác họa tâm lý nghi phạm người Trung Quốc’ quả là rất hấp dẫn.
Anh không thể ‘bỏ lỡ’ bốn vụ án mạng liên hoàn này, dù về phương diện ý nghĩa điển hình hay về giá trị của vụ án.
Cho nên, anh không thể, và cũng không cho phép mình thất bại.
Điều mà Tôn Phổ không ngờ là, chỉ vài hôm sau, công tác trinh sát đã có bước tiến quan trọng.
Tổ trọng án căn cứ vào các đặc trưng về nghi phạm mà Tôn Phổ đề xuất, tổ chức điều tra loại trừ trong một phạm vi nhất định, đồng thời kết hợp đi thăm dò hỏi han trong các khu dân cư quanh vùng, một nghi phạm đã rơi vào tầm ngắm của tổ chuyên án.
Đó là Vương Vĩnh Lợi, 41 tuổi, dân tộc Hán, đã ly hôn, đăng ký hộ khẩu ở thôn Lượng Môn xã Kim Châu - cũng là nơi đã từng xảy ra vụ án cưỡng dâm giết người ngày 9 tháng 8. Vương Vĩnh Lợi học hết tiểu học rồi ở nhà làm nông nghiệp, lúc nông nhàn thì theo cha có nghề mộc đi làm thuê lặt vặt ở vùng xung quanh. Tháng 10 năm 1985 Vương Vĩnh Lợi cưới vợ là một cô gái họ Đổng, là người cùng thôn rồi sinh một con gái. Vốn biếng nhác ham chơi, lại có thói côn đồ lưu manh, khiến tình cảm vợ chồng dần rạn nứt. Cha mẹ của Lợi lần lượt qua đời năm 1989 và 1992. Năm 1993, Lợi bị tòa án xử 4 năm tù vì tội càn rỡ xâm hại phụ nữ. Cũng năm ấy, Lợi và vợ làm thủ tục ly hôn, Lợi chỉ được chia hai gian nhà gạch, con gái do vợ nuôi. Năm 1996, Lợi được giảm nửa năm tù và được tha về. Y trở về quê. Nhưng vì không có việc gì làm, y trở lại nghề cũ là làm mộc để duy trì sinh hoạt. Một số dân thôn quen thuộc với Lợi cho biết y thuận tay trái.
Theo điều tra dư luận cho biết, sau khi ra tù, Lợi hầu như không hề chịu cải tạo, trái lại còn khốn kiếp hơn. Khi đi làm thuê, Lợi đã nhiều lần chòng ghẹo đàn bà con gái của nhà chủ, hoặc giở ngón thô bạo, nên bị chủ nhà đánh mắng. Cũng vì thế, Lợi chẳng kiếm được mấy đồng và sống trong cảnh túng bấn. Sau khi xảy ra vụ án cưỡng dâm giết người ‘ngày 9 tháng 8’, có người dân nhìn thấy Lợi cũng đến xem hiện trường với vẻ mặt căng thẳng. Hôm sau, y xách đồ nghề thợ mộc lên thành phố, cho đến nay vẫn chưa về. Về sau, cảnh sát đã bắt được Lợi tại một quán trọ nhỏ ở thị trấn Ngũ Long.
Tin này khiến Tôn Phổ rất mừng. Ngay sau đó, anh lập tức tập hợp toàn bộ tư liệu để nghiên cứu suốt đêm, đồng thời đôn đốc tổ chuyên án tổ chức đối chiếu các đặc trưng cá nhân của Vương Vĩnh Lợi với các dấu vết và vật chứng thu được ở hiện trường vụ án mạng.
Điều tra cho biết, Vương Vĩnh Lợi cao 1,63 mét, lúc bị bắt, y đi đôi giày cao su ‘Giải phóng’ cỡ 3, mang theo hòm đồ nghề thợ mộc gồm búa, tràng đục, cưa… Cảnh sát đã khám nơi ở của Vương Vĩnh Lợi, thấy có rất nhiều sách, tạp chí với nội dung tục tĩu, bài tú-lơ-khơ và các bức tranh quảng cáo in ảnh khỏa thân. Đồ dùng trong phòng rất bừa bãi lộn xộn, bẩn thỉu. Kết quả giám định cho biết Lợi thuộc nhóm máu A, vết tinh dịch rớt lại trong vụ án mạng ‘ngày 9 tháng 8’ là của Lợi.
Vậy là, phác họa tâm lý nghi phạm của Tôn Phổ, các vật chứng mà cảnh sát nắm được, tất cả đều tập trung vào Vương Vĩnh Lợi.
Vương Vĩnh Lợi được coi là nghi phạm hàng đầu.
“Nhưng, vẫn còn vấn đề.” Triệu Vĩnh Quý cau mày, miệng ngậm thuốc lá, tay giở một xấp tư liệu bên cạnh: “Giám định về dấu chân với cỡ giày, hoa văn trên đế giày, đều khớp, nhưng độ mài mòn thì khác nhau, thói quen của bước chân cũng khác.”
“Vấn đề đó không lớn.” Tôn Phổ gần như không đặt trọng tâm chú ý vào dấu giày: “Bất cứ giám định nào cũng có một chút sai lệch. Cứ bảo họ làm lại đi. Anh nên xem cái này…”
Đó là một trang biên bản thăm dò quần chúng. Triệu Vĩnh Quý đọc xong, vẻ mặt anh băn khoăn.
“Cái này thì có tác dụng gì?” Triệu Vĩnh Quý đưa trả lại Tôn Phổ: “Chẳng qua chỉ nói là thằng khốn ấy từ bé đã là một gã không ra gì.”
“Một hàng xóm của Vương Vĩnh Lợi đã cho biết nội dung này.” Tôn Phổ mỉm cười: “Ông già 60 tuổi nói rằng mình biết Lợi từ bé. Nội dung này không có tác dụng kết tội Lợi, nhưng ít ra cũng chứng minh cho suy đoán của tôi.”
Tờ biên bản cho thấy: Vương Vĩnh Lợi vốn là một đứa trẻ ngang bướng. Khi học tiểu học, vì cha Lợi có vụ việc tranh chấp với hàng xóm, nên đêm khuya Lợi đã mò đến đốt đống cỏ khô của nhà đối phương. May sao có người kịp thời phát hiện nên đã dập được lửa, không gây ra hỏa hoạn nghiêm trọng. Rồi người ta thấy nó chỉ là thằng bé con, nên chỉ cần gia đình xin lỗi và bồi thường, là được. Ông già hàng xóm này nói rằng, Lợi là một gã rất quái thâm*. Nói chung, trẻ con nhìn thấy chó hoang mèo hoang, đứa dễ tính thì cho chúng chút thức ăn gì đó, nhưng Vương Vĩnh Lợi thì khác, nếu bắt được những con vật ấy thì hắn hành hạ đủ kiểu cho đến chết mới thôi. Hàng xóm đã từng nhìn thấy Lợi tẩm dầu hỏa vào con chuột rồi châm lửa. Nhìn con chuột bốc cháy và chạy như điên, hắn khoái trá như đốt pháo ngày tết. Ngoài ra, Lợi từ bé có tật đái dầm, hàng xóm thường chứng kiến bà mẹ của Lợi lầu bầu trách mắng nó tè ướt hết cả chăn chiếu, bà ta phải đem ra sân phơi. Khi Lợi trưởng thành rồi, cái tật ấy ấy mới chấm dứt.
Nhìn thấy Triệu Vĩnh Quý vẫn có vẻ chưa hiểu mấy, Tôn Phổ tiếp tục giải thích.
“Từ tờ biên bản này, anh nên nhận ra ba từ khóa: phóng hỏa khi còn bé, đái dầm, và ngược đãi động vật.”
Triệu Vĩnh Quý hơi suy nghĩ, khẽ gật đầu.
“Khoa học phương Tây nghiên cứu về tội phạm đã chứng minh rằng, những ai hồi nhỏ có cả ba cái tật này, thì lớn lên rất có khả năng phạm tội, nhất là phạm tội về tình dục.” Vẻ mặt Tôn Phổ dần trở nên nặng nề: “Năm 1976, David Berkowitz tên tội phạm trong vụ án giết người hàng loạt với tên gọi ‘Đứa con trai của nhà tiên tri Samuel’* thừa nhận hồi nhỏ hắn đã lập ‘kỷ lục’ đốt nhà hơn 1.000 lần, và hắn cũng từng ngược đãi động vật.”
Triệu Vĩnh Quý há hốc miệng, nghệt ra hồi lâu, rồi lại nhìn vào tập tư liệu trong tay.
“…Có tiền sự… lưu manh…” Triệu Vĩnh Quý lẩm bẩm, rồi ngẩng nhìn Tôn Phổ: “Vậy thì, tên này có vẻ rất khớp…”
“Tôi cho rằng chính là hắn!” Giọng Tôn Phổ kiên quyết: “Các anh thường nói rằng khẩu cung là chứng cứ số một, thế thì liệu mà bắt hắn mở miệng đi!”
Rồi Tôn Phổ bổ sung một câu: “Thì giờ có hạn, nên càng nhanh càng tốt.”
Nhưng, cuộc thẩm vấn tên Vương Vĩnh Lợi không hề thuận lợi. Khi bị bắt, hắn luôn miệng kêu ‘tôi không giết Vương Hiểu Huệ’, câu này chứng tỏ hắn có biết về vụ án ngày 9 tháng 8, cho nên cảnh sát lại càng thêm nghi ngờ hắn. Khi hỏi cung, Vương Vĩnh Lợi tự khai mình có quen Vương Hiểu Huệ, nhưng không giết chị ta; cảnh sát bèn đưa ra chứng cứ dấu vết tinh dịch là của hắn thì hắn công nhận đêm hôm 9 tháng 8 hắn có quan hệ tình dục với Huệ, nhưng vẫn phủ nhận việc sát hại chị ta.
Vương Vĩnh Lợi khai rằng, hắn mãn hạn tù trở về thôn thì không còn gia đình vợ con gì nữa, không có điều kiện kinh tế cộng với từng có tiền án thì hắn khó mà có thể tái hôn với ai. Để giải quyết nhu cầu sinh lý, hắn thường đến các lò gội đầu, mát-xa… ở thôn và thành phố để chơi bời bằng số tiền ít ỏi kiếm được khi làm nghề mộc. Nghe nói Vương Hiểu Huệ bán tạp hóa ở thôn là một phụ nữ phóng túng, hắn bèn đến gạ gẫm và cả hai đã nhanh chóng dan díu với nhau.
Điều tra được biết, Vương Hiểu Huệ, 37 tuổi, thời học trung học đã từng dan díu với một giáo viên rồi mang bầu, đành phải bỏ học rồi đi phá thai. Do bác sĩ thao tác cẩu thả nên đã gây hậu quả cho Huệ là vĩnh viễn mất khả năng sinh sản. Vì tiếng xấu hồi trẻ, nên Huệ đến năm 28 tuổi mới lấy chồng là một người họ Lư, từ nơi khác đến. Lấy chồng rồi, Huệ vẫn không chịu an phận, ngựa quen đường cũ, tằng tịu với nhiều đàn ông trong thôn, bản thân lại không thể sinh con, hậu quả là năm 1996, người chồng họ Lư không chịu nổi nữa bèn ly hôn với Huệ rồi trở về quê ở Sơn Đông. Còn Vương Hiểu Huệ, sau khi ly hôn, Huệ sống một mình và mở tiệm tạp hóa. Dân thôn phản ánh rằng, Huệ mở tiệm bán hàng chỉ nhằm che mắt thiên hạ, thực ra chị ta hành cái nghề hạ lưu kia để kiếm sống. Mỗi lần chiều khách, Huệ thu từ 20 đến 50 nhân dân tệ. Khi xảy ra vụ án, Vương Vĩnh Lợi và Vương Hiểu Huệ đã duy trì quan hệ mua bán dâm được một thời gian.
Lợi khai rằng đêm hôm đó y mang theo 40 tệ mới kiếm được mò đến nhà Huệ. Sau khi cả hai xong xuôi, y cho Huệ 30 tệ rồi ra về. Sáng hôm sau Lợi biết tin Vương Hiểu Huệ bị hại, bèn đi đến đó xem. Nhưng rồi y nghĩ rằng có lẽ mình bị liệt vào diện tình nghi, bèn bỏ vào nội thành tạm lánh. Vì Lợi sống một mình, lại mò đến nhà Huệ lúc nửa đêm, nên không ai có thể làm chứng cho các lời khai kể trên của y.
Tuy nhiên, giám định các dụng cụ hành nghề mộc của Lợi, đều không phát hiện thấy vật chứng hay dấu vết gì khả nghi, cái búa thợ mộc của y cũng không khớp với vết thương của nạn nhân.
Mọi người đều nhận định Vương Vĩnh Lợi chính là hung thủ, nhưng vẫn không thể có đầy đủ chứng cứ xác đáng. Cho nên, nội dung quan trọng nhất vẫn chỉ là khẩu cung của Vương Vĩnh Lợi.
Tôn Phổ nhanh nhẹn đẩy cửa ‘Trung tâm phục hồi tâm lý Phổ Nguy’. Bên trong, Ngụy Nguy đang nói chuyện với Châu Chí Siêu, cả hai thấy anh về đều đứng lên.
Châu Chí Siêu quần áo đầu tóc bụi bậm, chìa tay ra: “Chào bác sĩ Phổ!”
“Rất xin lỗi, xin lỗi anh.” Tôn Phổ vừa cởi ba-lô ra vừa bắt tay Châu Chí Siêu: “Tôi vừa tan lớp.”
“Không sao.” Châu Chí Siêu mỉm cười: “Tôi cũng vừa đến đây, đang nói chuyện với cô Ngụy Nguy.”
Tôn Phổ cởi áo khoác, rồi đến giá áo lấy chiếc blu trắng mặc vào, và dặn Ngụy Nguy rót hai tách trà.
“Thế nào rồi, anh Siêu?” Giọng Tôn Phổ vẫn còn thở hơi gấp: “Trông khí sắc anh khá tốt đấy.”
“Cũng tạm được.” Châu Chí Siêu ngượng nghịu gãi đầu: “Gần đây tôi không buồn bực như trước nữa.”
“Vậy là việc điều trị cũng đang có tác dụng, anh cần phải kiên trì cho đến khi khỏi hoàn toàn.”
“Vâng.”
Ngụy Nguy bưng ra hai tách trà đặt xuống trước mặt Châu Chí Siêu và Tôn Phổ, sau đó cô tỳ cánh tay lên vai Tôn Phổ, tươi cười nhìn Châu Chí Siêu.
Châu Chí Siêu cũng mỉm cười với Ngụy Nguy.
Tôn Phổ vỗ lên cánh tay Ngụy Nguy và ra hiệu, Ngụy Nguy hiểu ý, bèn mỉm cười với Châu Chí Siêu rồi quay người bước vào gian trong.
Tôn Phổ ngả người sang Châu Chí Siêu, khẽ nói: “Nhu cầu sinh lý vẫn mạnh như thế chứ?”
Châu Chí Siêu đỏ mặt, cầm tách trà nóng lên nhấp một hụm, ngần ngừ một lúc rồi trả lời: “Vẫn rất ham cái món ấy.”
“Ở tuổi anh mà vẫn rất ham, cũng là điều bình thường thôi.” Tôn Phổ đưa ngón tay lên chỉnh cặp kính: “Nhưng, tình dục, nên là thứ cùng đem lại niềm vui cho cả hai người. Anh nên nghĩ đến cảm nhận của người ta.”
“Nhưng Phó Hoa là vợ tôi…” Châu Chí Siêu mở to mắt: “Vợ ngủ với chồng không phải là chuyện đương nhiên hay sao?”
“Đúng, chị ấy là vợ anh. Nhưng, vợ cũng là người bạn đời của ta, chứ không chỉ vì cái chuyện ấy.” Tôn Phổ kiên nhẫn gợi mở: “Anh phải tôn trọng và quan tâm đến chị ấy, để chị ấy cảm nhận được tình cảm của anh, thì chị ấy sẽ không phản cảm với sinh hoạt vợ chồng.”
“Nhưng, bác sĩ Phổ không biết…” Châu Chí Siêu ngao ngán nói: “Nhà tôi từ chối tôi, tôi thì rất bức xúc… toàn thân cứ như bốc lửa.”
Lúc này máy nhắn tin của Tôn Phổ đeo ở thắt lưng bỗng ‘tít tít’, anh nhấc ra xem, rồi ra hiệu xin lỗi Châu Chí Siêu.
“Xin lỗi nhé. Anh nói tiếp đi.”
Châu Chí Siêu gật đầu, tiếp tục nói một lèo.
“Có lúc tôi ra ban công hút liền mấy điếu thuốc cũng không sao bình tĩnh trở lại được, đầu óc cứ nghĩ đến cái chuyện ấy…”
Châu Chí Siêu không để ý rằng, từ lúc Tôn Phổ đọc tin nhắn, sắc mặt anh bỗng rất đăm chiêu, rồi anh mở cặp lấy ra một tập tài liệu, lật giở…
“…Tôi cũng cảm thấy mình có lỗi với vợ, nhưng nhìn thấy cô ấy vùng vằng giãy giụa tôi lại càng hưng phấn, càng hăng hái hẳn lên… bác sĩ nói xem, có phải tôi còn mắc bệnh gì khác nữa không…”
Tôn Phổ không đáp, vẫn chỉ lật giở tập tài liệu trong tay, vẻ mặt đầy lo âu.
“Bác sĩ Phổ?”
Tôn Phổ chợt tỉnh ra, ngoảnh sang nhìn Châu Chí Siêu mấy giây rồi luôn miệng xin lỗi.
“Xin lỗi, xin lỗi…” Trán Tôn Phổ lấp lóa ánh sáng, có lẽ là mồ hôi túa ra: “Anh… vừa nói gì nhỉ?”
Châu Chí Siêu cau mày, không đáp, chỉ chăm chú nhìn Tôn Phổ.
Khu tạm giam số 2 của Sở cảnh sát. Trong một căn phòng.
Tôn Phổ ngồi đối diện với cảnh sát Triệu Vĩnh Quý, cả hai đều im lặng, và ngồi rít thuốc lá.
Từ mấy hôm nay cảnh sát đã bắt Vương Vĩnh Lợi về để điều tra xử lý, nhưng việc thẩm vấn tiến triển rất chậm. Những tưởng sẽ lấy được khẩu cung một cách thuận lợi, thực tế lại khác hẳn. Vương Vĩnh Lợi trước sau như một phủ nhận hành vi giết người. Cho đến giờ, cảnh sát chỉ thu được kết quả là đêm hôm xảy ra án mạng, Lợi có quan hệ mua bán dâm với Vương Hiểu Huệ, ngoài ra không thể chứng minh các tình tiết khác của vụ án. Trong chuỗi chứng cứ rất chặt chẽ và có lý kia, vẫn thiếu không chỉ một mắt xích.
Tôn Phổ không sao hiểu nổi, và cảm thấy rất lo lắng. Xét từ quá trình từ nhỏ đến lớn, đặc trưng nhân cách và mô thức hành vi… Vương Vĩnh Lợi đều rất khớp với phác họa tâm lý của Tôn Phổ, nhưng thằng cha này vẫn khăng khăng một mực cãi rằng mình không giết người. Lẽ nào những phán đoán của mình là sai lầm?
Không, không thể! Tôn Phổ lập tức gạt bỏ cái ý nghĩ này.
Mình không thể mắc sai lầm.
“Bây giờ nghĩ lại, thấy rằng vụ án này vẫn còn không ít những điểm đáng ngờ.” Triệu Vĩnh Quý lại châm điếu thuốc nữa: “Nếu Vương Vĩnh Lợi là hung thủ, thì trong ba vụ án trước hắn đều dùng bao cao su, riêng vụ ngày 9 tháng 8 này hắn lại không dùng và để lại vết tích tinh dịch? Hung thủ là kẻ biết cách che đậy dấu vết, không để lại vật chứng kia mà?”
Tôn Phổ nghĩ ngợi, rồi chầm chậm nói: “Có lẽ là, có chi tiết nào đó anh chưa chú ý đến. Chỉ có vụ án này, gã Vương Vĩnh Lợi đột nhập vào nhà một cách yên ổn. Có lẽ y biết rằng Vương Hiểu Huệ là loại đàn bà buông thả. Rất có khả năng y bất chợt nảy sinh ý định giết người, lại không mang theo bao cao su, cũng là chuyện bình thường thôi. Còn về chuyện giết người…” Tôn Phổ ngập ngừng: “Có lẽ, sau khi hành lạc xong, Vương Vĩnh Lợi nảy sinh lòng tham tiền bạc, rồi tranh cãi với Vương Hiểu Huệ, dẫn đến giết người…”
“Vậy hung khí đâu?” Triệu Vĩnh Quý lập tức hỏi vặn: “Nếu Vương Vĩnh Lợi bất chợt nảy ra ý định giết người thì hắn lại đem búa hay sao?”
“Một tay thợ mộc luôn mang theo đồ nghề là chuyện bình thường.”
“Đêm khuya mang đeo đồ nghề lủng củng đi khắp nơi ư?”
“Rất có thể hắn vừa mới từ thành phố trở về.” Tôn Phổ cất cao giọng: “Anh Quý à, đây không phải là trọng điểm.”
“Đây chính là trọng điểm.” Triệu Vĩnh Quý lấy điếu thuốc trên môi xuống: “Cái búa của Vương Vĩnh Lợi không khớp với vết thương của nạn nhân - cho nên nó không bị coi là hung khí, thì chúng tôi phải nói kiểu gì để thuyết phục viện kiểm sát khởi tố hắn?”
“Hắn là thợ mộc.” Tôn Phổ dường như phải rất cố gắng kiềm chế mình: “Một gã thợ mộc có thể có vài cái búa, nghe không xuôi à?”
“Có vẻ như thầy định thuyết phục tôi…” Triệu Vĩnh Quý lim dim mắt: “…hay là thầy thuyết phục mình?”
“Tôi chỉ nói sự thật thôi.” Tôn Phổ sa sầm nét mặt: “Anh có thể chất vấn tôi, nhưng anh không thể phủ nhận sự tồn tại của khả năng này.”
“Vậy cái búa hắn dùng để gây án đâu?”
“Rất có khả năng hắn đã vứt đi rồi.” Tôn Phổ nói rất kiên quyết: “Vương Vĩnh Lợi là kẻ đã có tiền án, hắn rất biết cách che giấu, sau khi gây án thì hắn đổi công cụ khác, điều này chẳng có gì là lạ.”
Triệu Vĩnh Quý im lặng, nghĩ ngợi một lát, rồi anh chậm rãi nói.
“Cũng có thể giải thích như thế.” Triệu Vĩnh Quý rít một hơi thuốc lá: “Nhưng chúng tôi buộc phải tìm ra hung khí kia, nếu không sẽ đuối lý trước viện kiểm sát.”
“Chuyện đó là ở các anh. Còn tôi, dù tài ba đến mấy cũng không thể đoán ra hắn vứt hung khí ở đâu.”
Triệu Vĩnh Quý lắc đầu, vẻ ngao ngán: “Thằng khốn ấy không hé răng thì chúng tôi biết tìm ở đâu bây giờ?”
Tôn Phổ không nói gì, chỉ mân mê bao thuốc lá trong tay, ngây nhìn vào một góc căn phòng. Mấy phút sau, anh thở dài, mạnh tay bóp bẹp bao thuốc, dường như đã rất quyết tâm.
“Anh Quý à…” Tôn Phổ nghển sang Triệu Vĩnh Quý, nói giọng rất thấp: “Tôi chưa tham dự vào nhiều vụ án, nhưng tôi biết công an các anh có thủ đoạn để xử lý…”
Triệu Vĩnh Quý từ từ ngồi thẳng người, nhìn lên khuôn mặt của Tôn Phổ.
“Không chỉ có một mình Vương Vĩnh Lợi là nghi phạm không chịu cung khai sự thật.” Tôn Phổ trở lại tư thế cũ, nói rõ từng chữ một: “Tôi tin rằng, các anh nhất định có cách bắt hắn phải mở miệng.”
Triệu Vĩnh Quý nhìn xung quanh một lượt, rồi ngoảnh lại nhìn Tôn Phổ, mấy giây sau anh thản nhiên hỏi: “Anh Tôn Phổ, anh định làm gì?”
Tôn Phổ không đáp, và cũng ngồi thẳng người, nhìn sang Triệu Vĩnh Quý.
“Anh Quý.” Tôn Phổ nhẩn nha nói: “Anh lập gia đình bao lâu rồi?”
Triệu Vĩnh Quý nghĩ ngợi: “Mười lăm năm rồi.”
“Chắc cháu đã lớn?”
“13 tuổi. Thì sao?”
“13 tuổi.” Tôn Phổ mỉm cười: “Học lớp 7 đúng không? Cháu trai hay cháu gái?”
“Cháu gái.”
“Anh có yêu cháu không?”
Triệu Vĩnh Quý xoay người, đối diện với Tôn Phổ: “Anh định nói về vấn đề gì?”
Tôn Phổ ngoảnh đi, nhìn khắp căn phòng bằng ánh mắt xa xăm không mục đích.
“13 tuổi, tuổi đẹp như hoa.” Tôn Phổ châm điếu thuốc: “Anh Quý ạ, tôi tin rằng, dù anh về nhà muộn đến đâu, anh cũng vào thăm con gái, dù cháu đã ngủ rồi, anh cũng thơm cháu một cái đúng không?”
Triệu Vĩnh Quý không đáp, ánh mắt anh dần trở nên trìu mến.
“Tôi chưa kết hôn, nhưng tôi biết…” Giọng Tôn Phổ rất thấp, nhưng dường như có một sức cuốn hút không thể cưỡng lại: “Có con rồi, chúng ta sẽ sống vì con cái.”
Triệu Vĩnh Quý mỉm cười, khẽ gật đầu: “Sau này, thầy Phổ cũng sẽ cảm nhận được.”
Tôn Phổ quay sang nhìn Triệu Vĩnh Quý. Anh giơ tay phải đang kẹp điếu thuốc, mở ngón giữa và ngón cái ra thành một cự ly hơn chục cen-ti-mét.
Triệu Vĩnh Quý không hiểu ý Tôn Phổ là gì.
“Dài bằng chừng này.” Tôn Phổ nhìn Triệu Vĩnh Quý, vẻ mặt trở nên nặng nề: “Để có thể cưỡng dâm cháu bé Đổng Nguyệt mới 9 tuổi, tên Vương Vĩnh Lợi phải làm rách bên dưới của cháu bé một đường dài chừng này - để có thể đưa cái của nợ ấy của hắn vào.”
Giọng Tôn Phổ bỗng trở nên khàn khàn: “Anh Dương pháp y cho tôi biết, Vương Vĩnh Lợi làm rách lúc cháu bé vẫn còn sống.”
Triệu Vĩnh Quý nín lặng, sửng sốt nhìn Tôn Phổ.
“Cháu bé ấy không thể được như con gái anh, đi học, tan lớp, đi chơi trung tâm giải trí, không được thơm trong giấc ngủ.” Mép Tôn Phổ hơi động đậy, như định cố mỉm cười: “Mãi mãi không thể.”
Triệu Vĩnh Quý vẫn nín lặng nhìn Tôn Phổ, nhưng hơi thở của anh dần gấp gáp, hai môi mấp máy, đôi mắt anh dần rơm rớm.
Phải đến nửa phút sau, Triệu Vĩnh Quý đứng bật dậy, mở cửa bước ra ngoài.
Vẻ mặt của Tôn Phổ bỗng mệt mỏi khác thường, anh ta vứt mẩu thuốc đi, rồi ngồi tựa trên đi-văng, tay trái áp lên trán, mắt nhắm lại.
Đến hôm thứ ba, thì Vương Vĩnh Lợi bắt đầu mở miệng, hắn khai nhận rằng mình đã liên tục bốn lần cưỡng dâm giết người, và khai rõ mọi chi tiết gây án; đồng thời cũng khai rằng đã vứt cây búa gây án xuống một cái giếng cạn ở đầu thôn Lượng Môn. Cảnh sát đã đến đó tìm cây búa, nhưng không thấy. Đến chiều hôm đó, Vương Vĩnh Lợi lại khai rằng hắn vứt cây búa vào một căn nhà dân bỏ hoang ở thôn Lộc Trường, cảnh sát lại đến thôn đó sục tìm, nhưng vẫn không thấy hung khí ấy đâu, và cũng không hề có căn nhà dân bỏ hoang nào cả.
Còn việc cảnh sát đã làm như thế nào để lấy được khẩu cung thì Tôn Phổ không hỏi kỹ.
Chỉ có thể tiếp tục thẩm vấn Vương Vĩnh Lợi.
Đến hôm thứ tư, tại trại giam số 2 của thành phố J.
Một quản giáo bộ dạng còn ngái ngủ, tay cầm tờ phiếu gọi thẩm vấn, vật vờ bước đến cửa một buồng giam một người, gõ vào cánh cửa sắt: “Vương Vĩnh Lợi, lên thẩm vấn.”
Phòng giam im ắng, không một tiếng trả lời.
Quản giáo ngáp dài, ngán ngẩm tiếp tục gõ cửa, những âm thanh leng keng chói tai vang khắp hành lang.
“Vương Vĩnh Lợi, mày đừng ngủ nữa, dậy đi!”
Trong buồng giam vẫn im lặng như tờ.
Quản giáo chửi đổng, rồi rút thanh dùi cui đeo bên hông ra, cầm chìa khóa tra vào ổ, mở cửa buồng giam.
“Đ… mẹ, nhà ngươi…”
Câu chửi tục dừng lại nửa chừng, như bị tắc họng. Quản giáo trợn mắt há hốc miệng nhìn ô cửa sổ bên phải buồng giam. Chiếc dùi cui trong tay rơi xuống sàn.
Vương Vĩnh Lợi gục đầu, buông thõng hai tay, nửa quỳ nửa đứng tựa lưng vào tường; phía sau gáy có một rẻo vải dài màu trắng thít chặt, đầu kia của rẻo vải buộc trên chấn song sắt của cửa sổ.
Cánh học trò ngồi bên dưới bắt đầu rỉ tai nhau xì xào bàn tán râm ran khắp phòng học. Nhiều học trò gác bài vở sang bên, nghi hoặc nhìn thầy Tôn Phổ đang đứng như pho tượng trên bục giảng.
Thầy Phổ chưa bao giờ đọc tin nhắn trong khi đang lên lớp, lần này là ngoại lệ, thầy không chỉ ngừng giảng bài mà còn giữ nguyên tư thế cúi nhìn máy nhắn tin liền hai phút.
Thầy yên lặng, nhưng trò thì lao xao. Khi lao xao trở nên ồn ào thì thầy Tôn Phổ bỗng hiểu ra và trở về thực tế.
Tôn Phổ ngẩng đầu lên, lập tức cảm thấy mồ hôi chảy xuống tận cổ, ươn ướt lành lạnh. Nhìn đám học trò bỗng im bặt, Tôn Phổ cố gượng nở nụ cười, xua tay trông cứng đơ đơ.
“Ta nghỉ thôi!”
Học trò bao giờ chẳng thế, dù thầy cô lên lớp hấp dẫn đến mấy cũng không bằng được tan lớp về sớm. Trong thoáng chốc, phòng học đã vắng tanh.
Tôn Phổ không trụ nổi nữa, anh ta ngồi phịch xuống cái ghế phía sau.
Khu công an Phong Thủy. Phòng giải phẫu pháp y.
Triệu Vĩnh Quý lật tấm vải trắng ra, trên bàn là thi thể Vương Vĩnh Lợi. Trông có vẻ còm nhỏ hơn thường ngày, cái xác trông như ngắn cũn cỡn so với bàn giải phẫu.
Tôn Phổ sững sờ nhìn những nhát cắt rạch và vết khâu ngang dọc chồng chéo đáng sợ trên xác Vương Vĩnh Lợi.
Và những vết tụ máu tím bầm chưa tan, rải rác trên khắp thi thể.
Tôn Phổ ngoảnh đi, gắng không nhìn vào những vết thương hình thành lúc cái xác này vẫn còn là người sống, và càng không muốn nghĩ về nguyên nhân hình thành các thương tích đó.
“Tại sao hắn lại kiếm được dây thừng?”
“Không phải dây thừng.” Sắc mặt Triệu Vĩnh Quý tái xanh: “Anh ta xé áo quần thành các rẻo vải - rồi tự thắt cổ ở tư thế ngồi.”
“Vì quá sợ bị trừng trị nên tự sát.” Tôn Phổ kéo tấm vải lên: “Cũng dễ hiểu thôi. Nếu không, hắn không thể thoát khỏi một viên đạn.”
“Sợ bị trừng trị, nên tự sát.” Vẻ mặt Triệu Vĩnh Quý không nhẹ nhõm như Tôn Phổ: “Nhưng tiền đề là phải có tội đã.”
“Chẳng khó gì.” Tôn Phổ nghĩ ngợi: “Chúng ta đã lấy được khẩu cung của hắn.”
“Và không có bất cứ thứ gì khác.” Triệu Vĩnh Quý bỗng dằn giọng: “Ngoại trừ một vệt tinh dịch khốn nạn kia!”
Tôn Phổ không lập tức phản bác, anh bình tĩnh nhìn Triệu Vĩnh Quý mấy giây, rồi chậm rãi nói:
“Kết quả đã là thế này rồi, điều duy nhất chúng ta cần làm là… khiến cho cái kết quả này hợp tình hợp lý.”
Triệu Vĩnh Quý tròn mắt nhìn lại Tôn Phổ lâu đến nửa phút, rồi toàn thân anh như chùng hẳn xuống.
“Thầy Phổ ạ, tôi vẫn đang nghĩ…” Triệu Vĩnh Quý nhìn cái xác bên dưới tấm vải trắng: “…có phải chúng ta đã bắt nhầm người không?”
“Không! Tuyệt đối không.” Tôn Phổ phủ định thẳng thừng: “Không thể nhầm! Khẳng định là hắn!”
Triệu Vĩnh Quý không nói thêm nữa, anh kéo cái ghế ngồi xuống, vùi mặt vào hai bàn tay.
Tôn Phổ bước lại đặt bàn tay lên vai Triệu Vĩnh Quý, chậm rãi nói.
“Anh Quý, chuyện này chẳng thể trách bất cứ ai. Hắn sợ bị trừng trị nên tự sát. Hắn biết rõ mình không tránh khỏi cái chết. Có người muốn mình được gọn nhẹ - không hiếm thấy những người như thế này.” Tôn Phổ nhìn xung quanh, rồi hạ thấp giọng: “Thực ra, hắn chết, lại khiến sự việc trở nên giản đơn. Quyền chủ động vẫn trong tay chúng ta.”
Triệu Vĩnh Quý ngẩng đầu nhìn Tôn Phổ.
“Gã Vương Vĩnh Lợi không có người nhà thân thích, sẽ không có ai truy cứu vụ tự sát của hắn cả.” Tôn Phổ tiếp tục nói: “Còn điều mà anh gọi là ‘tội’, thì không khó. Vân tay, cái búa, tóc… chắc không cần tôi chỉ bảo anh?”
Triệu Vĩnh Quý nhìn ra nơi khác, vẻ do dự. Lát sau anh ngẩng đầu lên, như định nói gì đó.
“Anh không sai gì cả.” Tôn Phổ không chờ Quý nói: “Vương Vĩnh Lợi có tội, chết là phải! Chúng ta chỉ là làm cho sự việc hoàn mỹ trọn vẹn mà thôi.”
Tôn Phổ ngừng lời, đặt tay ấn nhẹ lên vai Quý: “Chúng ta không cần thiết phải vì một kẻ như thế này mà tổn hao anh và cả các đồng đội của anh nữa.”
Triệu Vĩnh Quý lại cúi đầu xuống, hồi lâu sau, anh thở dài thườn thượt.
Ba ngày sau, tổ chuyên án báo cáo lên Sở: nghi phạm Vương Vĩnh Lợi đã cung khai, thừa nhận mình đã gây ra các vụ án mạng liên hoàn, tinh dịch, tóc, dấu chân thu được ở hiện trường đều khớp với nghi phạm; cộng với kết quả đối chiếu cây búa và các vật chứng khác mà nghi phạm sử dụng, tất cả là một chuỗi chứng cứ đầy đủ. Công tác trinh sát phá án đã thành công. Xét thấy nghi phạm Vương Vĩnh Lợi đã tự sát vì sợ bị trừng trị, nay khép lại vụ án này, chấm dứt xử lý.
Đúng là một tin vui lớn. Chung cuộc hoàn mỹ.
Mỗi người lại trở về cuộc sống của mình, bận rộn với các vụ án, hoặc trở lại bục lên lớp.
Thế nhưng, những chuyện bất ngờ lại thường đến sớm hơn người ta tưởng.
Năm ngày sau khi khép lại vụ án, Sở công an thành phố J nhận được điện thoại gọi từ Sở công an thành phố W. Người gọi điện tự giới thiệu là Đài Vĩ, ở Phòng cảnh sát hình sự Sở công an thành phố W; anh ta hỏi rằng có phải thành phố J nửa năm qua liên tiếp xảy ra mấy vụ án liên hoàn cưỡng dâm giết người không. Anh cảnh sát trực ban trả lời ‘đúng thế’, và cho biết đã phá án xong xuôi.
“Đã phá án ư?” Anh cảnh sát Đài Vĩ rất kinh ngạc: “Không thể! Vì hung thủ đang nằm trong tay chúng tôi.”
Theo Sở công an thành phố W cho biết, hồi 3 giờ sáng ngày 17 tháng 9, trung tâm cảnh sát 119 của thành phố nhận được điện thoại khẩn nói rằng, ở thôn Bắc Bá thị trấn Đào Tiên khu Song Hồ xảy ra vụ án cưỡng dâm giết người. Công an thị trấn Đào Tiên nhận được tin báo liền nhanh chóng cử lực lượng đến. Người báo tin là một nam trung niên họ Lưu. Ông ta cho biết, một ngày trước khi xảy ra vụ án, ông ta đang đánh mạt chược ở nhà người bạn đến sáng sớm hôm sau mới ngừng chơi. Khoảng 3 giờ sáng ông ta về nhà thì thấy cổng sân nhà họ Lâm hàng xóm mở toang, trong nhà vẫn sáng đèn, nhưng có tiếng vật lộn đánh nhau và kêu cứu. Ông Lưu và nhà họ Lâm vốn có quan hệ tốt, ông Lâm trước khi vào nội thành làm công có lời nhờ ông Lưu để ý hộ nhà cửa; cho nên ông Lưu mới cầm một thanh củi bước vào nhà xem sao. Vừa bước vào cửa thì ông bị tấn công bằng một vật cứng, khiến ông bị thương ở đầu và vai phải. Trong bóng tối, ông cố vung thanh củi chống trả, hai bên giao đấu chừng nửa phút thì kẻ lạ mặt kia nhanh chân tháo chạy. Ông Lưu chỉ nhìn dưới ánh trăng nhận ra đối phương là một gã nhỏ con. Cảnh sát đến hiện trường, lập tức sơ bộ xem xét và hỏi ba người bị hại. Sự việc là: đêm hôm đó, người bị hại là Diêu X cùng đứa con trai 7 tuổi ngủ ở nhà. Lúc tờ mờ sáng, Diêu X bỗng nhận ra có ai đó đang lần sờ quần áo mình bèn chống cự và kêu cứu. Đứa con lên 7 cũng thức dậy và kêu khóc ầm ĩ, kẻ kia liền cầm búa đánh thằng bé (chỉ bị thương nhẹ). Cô Diêu X thấy thế quyết bảo vệ đứa con, cô bị hắn dùng búa đập bị thương đầu và cánh tay trái. Khi đang chống cự giằng co thì ông Lưu chạy vào trợ giúp. Nhân lúc ông Lưu đánh nhau với đối phương, cô Diêu X chạy vào bếp lấy ra con dao thái thịt chém bị thương kẻ đột nhập kia.
Tìm hiểu xong, cảnh sát nhận định rằng hung thủ chưa thể chạy đi xa, bèn truy kích theo dấu chân và vết máu của hung thủ. Vào hồi 5 giờ sáng thì bắt được hắn đang nấp trong một thửa ruộng ngô, đồng thời cũng thu được cây búa và dao là công cụ gây án của hắn.
Cảnh sát lập tức hỏi cung, hung thủ khai hắn là Dương Cửu Sơn, năm nay 42 tuổi, không nghề nghiệp, đã ly hôn, không có nơi ở cố định; năm 1991 đã bị kết án 5 năm tù giam về tội cưỡng dâm, cuối năm 1996 mãn hạn được tha về. Hắn cũng thừa nhận tội lỗi gây ra đêm qua. Cảnh sát tiếp tục điều tra khai thác sâu hơn, Dương Cửu Sơn lại lần lượt khai nhận mình đã gây ra 4 vụ cưỡng dâm, giết người, cướp của ở thành phố J. Về vụ án này, đây là lần đầu tiên Sơn mò sang địa phận thành phố W để gây án. Theo lời khai của hắn, cung cách phạm tội cơ bản của hắn là: khi có tiền thì ra thành phố chơi gái, lúc hết tiền thì về nông thôn cưỡng dâm, giết người. Trong thời gian đi tù trước đây, Dương Cửu Sơn đã học được vô số mánh khóe gây án, cho nên hắn có khả năng nhất định để ‘phản trinh sát’. Vì thế, khi phạm tội, hắn biết cách ngắt nguồn điện, cắt dây điện thoại để nạn nhân không thể cầu cứu ai, hắn còn đeo găng tay, dùng bao cao su để ngăn chặn mọi khả năng trinh sát.
Và, Dương Cửu Sơn là kẻ thuận tay trái.
Được công an tỉnh xem xét điều chỉnh, Sở công an thành phố W đã giao tên Dương Cửu Sơn và toàn bộ hồ sơ tài liệu về hắn cho công an thành phố J là địa bàn chủ yếu xảy ra các vụ án mạng, để thành phố J xử lý. Họ khởi động lại toàn bộ trình tự trinh sát điều tra vụ án cưỡng dâm giết người hàng loạt khủng khiếp này. Kết quả giám định cho biết, nghi phạm Dương Cửu Sơn thuộc nhóm máu A, mẫu tóc cũng khớp với tóc tìm thấy ở các hiện trường. Khi bị bắt, Dương Cửu Sơn đi giày đế cao su nhãn hiệu Giải Phóng, khớp với kết quả khám nghiệm các dấu giày để lại ở các hiện trường. Và, cái búa y mang trong người cũng trùng khít với các vết thương trên đầu các nạn nhân. Còn các chứng cứ khác cũng phù hợp với lời khai của chính hắn.
Về vụ án cưỡng dâm giết người ngày 9 tháng 3, chính y đã khai nhận toàn bộ, cảnh sát đã chỉnh lý lại cả quá trình như sau: đêm hôm đó Vương Vĩnh Lợi và Vương Hiểu Huệ quan hệ mua bán dâm xong, Lợi ra về. Sau đó không lâu, gã Dương Cửu Sơn đi lang thang đến tiệm tạp hóa vẫn còn bán hàng, bèn kiếm cớ vào mua thuốc lá, tán dóc với nữ chủ quán Vương Hiểu Huệ và được biết trong tiệm chỉ có một mình Huệ, y bèn kéo Huệ vào gian trong cưỡng dâm (có sử dụng bao cao su) rồi giết Huệ. Cũng tức là, trong đêm hôm đó Huệ quan hệ sinh lý với hai gã đàn ông.
Sau khi đã xâu chuỗi toàn bộ các tình tiết, cảnh sát tuyên bố toàn bộ vụ án được làm sáng tỏ. Sở công an thành phố J chuyển hồ sơ sang viện kiểm sát thành phố để thẩm tra và khởi tố.
Đồng thời, nhận định rằng tổ chuyên án kết luận Vương Vĩnh Lợi là hung thủ cưỡng dâm giết người khi trước, là sai lầm.
Vậy là, cái kim trong bọc ắt có ngày lòi ra.
Tiếp theo, là vận hành cơ chế truy cứu vụ điều tra xử lý sai. Để tránh không gây ra ảnh hưởng càng xấu hơn, Sở công an thành phố J không hé lộ quá nhiều thông tin ra bên ngoài. Chúng ta nên biết, trong những năm tháng mà ngành truyền thông chưa mấy phát triển, áp chế dư luận không phải là chuyện khó làm. Tuy nhiên, những ai liên quan đều bị xử lý thích đáng. Có người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, có người bị bãi chức, bị giáng chức, và hạ cấp bậc.
Sau khi nhận được tin này, giáo sư Kiều Doãn Bình đã kết thúc sớm chuyến đi giao lưu học thuật để trở về nước.
Tôn Phổ đã tìm đến nhà giáo sư Bình lần thứ tư, ông Bình cũng lần thứ tư cự tuyệt không tiếp Tôn Phổ.
“Cậu đừng trách ông ấy.” Vợ giáo sư Bình nói, và đưa tách trà cho Tôn Phổ đang ngồi như khúc gỗ ở một góc đi-văng: “Nửa đêm qua ông ấy mới về đến nhà, lại uống hơi nhiều rượu, nên để ông ấy nghỉ ngơi đã.”
Tôn Phổ cố nở nụ cười, rồi bỗng nhìn thấy cái túi nilon khá to đặt bên cửa, đã phủ một lớp bụi mỏng - trong đó là thuốc lá thơm Phù Dung Vương và trà lần trước anh đem biếu thầy Bình.
“Ông già ấy đã quăng đi, tôi lại lén nhặt vào đấy!” Bà Bình chú ý đến ánh mắt của Tôn Phổ: “Chờ ông ấy nguôi giận, tôi sẽ lại đưa cho ông ấy.”
“Em cảm ơn cô.” Tôn Phổ cúi đầu, nói giọng khàn khàn.
“Nghe nói cậu đã đóng cửa Trung tâm phục hồi tâm lý rồi?”
Tôn Phổ gật đầu. Sau khi sự việc vỡ lở, Tôn Phổ đã bị tước bỏ tư cách chuyên gia cấp II tư vấn tâm lý, trung tâm của anh ta sớm muộn gì cũng phải đóng cửa. Điều khiến anh ta thấy bất ngờ là, anh ta với tư cách ‘thầy dùi’ chỉ dẫn cánh hình sự bức cung dẫn đến làm sai be bét vụ án, đến giờ anh ta vẫn chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tôn Phổ đặt tách trà xuống, rồi đứng lên bước đến trước cửa căn phòng ngủ của giáo sư Bình đang khép chặt, gõ cửa.
Trong căn phòng vẫn im lặng không một hồi âm.
“Thưa thầy Bình, em đã sai lầm, em đã nhận ra lỗi lầm của mình.” Tôn Phổ nghẹn ngào: “Em thừa nhận mình đã quá nóng vội. Có lẽ lúc này dù nói gì cũng không kịp nữa. Nhưng, thưa thầy, xin thầy cho em một cơ hội… xin thầy tha thứ cho em…”
Tôn Phổ không nói tiếp được nữa, anh ta vội vã khom người ‘làm lễ’ trước cánh cửa, rồi cúi đầu quay ra.
Bên trong phòng ngủ, giáo sư Kiều Doãn Bình thở dài, đặt cuốn sách trong tay xuống, nhắm mắt lại.
Tôn Phổ là một học trò có năng khiếu nhất trong đám học trò ông đã từng dạy, và cũng là người rất có triển vọng. Tham vọng của Tôn Phổ, không phải ông không biết, ông cũng vẫn ủng hộ anh ta dồn tâm trí vào phương hướng này. Có lẽ sự bất đồng duy nhất là ở chỗ, giáo sư Bình cho rằng xây dựng một hệ thống tiêu chí tâm lý và kho dữ liệu hành vi của người Trung Quốc là việc cực khó khăn, không thể hoàn thành trong một hai thế hệ các nhà nghiên cứu tâm lý. Tôn Phổ có thể là người đặt nền móng, nhưng không thể là người hoàn thành. Nhưng rõ ràng là Tôn Phổ không thỏa mãn và cũng không bằng lòng với vai trò phát cây dọn đường cho người đi sau.
Tôn Phổ ham muốn quá nhiều, đó là ưu điểm, nhưng cũng là điểm yếu ‘chết người’ của anh ta.
Chẳng phải giáo sư Bình không tạo cho anh ta cơ hội. Điều mà Tôn Phổ không biết là giáo sư gần như vừa xuống máy bay đã chạy bổ đi khắp nơi, vì anh ta Sở công an thành phố C rất nể thầy Bình đã hợp tác nhiều năm có hiệu quả, nên mới ‘lờ đi’ không truy cứu trách nhiệm hình sự với Tôn Phổ nữa. Một điều khiến ông rất cảm động: Triệu Vĩnh Quý không ‘phun ra’ Tôn Phổ. Quý nói đại ý rằng, ai trực tiếp làm người ấy phải chịu, một mình anh xin nhận trách nhiệm chính; mình nghe Tôn Phổ ‘xui dại’ là tại mình ngu, và không thể trách người khác.
Trách nhiệm pháp luật có thể miễn, nhưng không thể không xử lý hành chính. Trong bữa tiệc mà giáo sư Bình mời để ‘bôi trơn’ dàn xếp, ông đã phải uống đến ‘gần chết vì rượu’, phía Đại học thành phố J rốt cuộc đã nhượng bộ: không sa thải Tôn Phổ, nhưng phải bị điều động ra khỏi khu vực giảng dạy, cho về thư viện trường làm chân quản lý.
Mọi kết luận đã thực thi. Kể từ đó trường Đại học thành phố J mất đi một phó giáo sư tâm lý xuất sắc, và thư viện trường thì có thêm một anh thủ thư. Anh thủ thư này không hay đứng trước các giá sách ngất cao kiểm kê lật giở, mà rất thích đứng ở các hành lang để nghe tiếng giảng bài vọng ra từ các lớp học.
Vẻ mặt anh ta có nét ngưỡng mộ, coi thường, xen lẫn khát vọng, nhưng nhiều hơn cả là sự đố kỵ rất sâu.
Một ngày cuối tháng 10 năm 1998, một nam giới để râu, tay xách cái xắc du lịch bước đến trước cửa ngôi nhà đã từng là ‘Trung tâm phục hồi tâm lý Phổ Nguy’. Im ắng, không một bóng người, ngay tấm biển hiệu cũng đã biến mất. Anh ta bước ra bốt điện thoại công cộng ở đầu phố, gọi đi gọi lại mấy lần một số điện thoại, nhưng không thấy ai nghe máy. Anh ta lại thử gửi mẩu tin đến một số máy nhắn tin, rồi kiên nhẫn đứng đó chờ*. Sau mấy tiếng đồng hồ, hút hết một bao thuốc lá, anh ta đành bỏ cuộc. Xách hành lý lên, anh ta nhìn lại lần cuối cái ngôi nhà nho nhỏ kia, sắc mặt anh ta càng nặng trĩu nghi hoặc và lo âu.
Anh ta đeo cái xắc lên vai, rồi bước đi, hòa vào dòng người đông đúc trong giờ cao điểm, giao thông đang chật cứng mặt đường.
Anh ta chỉ không biết rằng, ly biệt lần này không phải là vĩnh biệt.
Thời gian không nhanh không chậm cứ thế trôi đi, cũng chẳng mấy chốc đã đến năm 2002.
Tôn Phổ dần dần cũng quen với công việc của người thủ thư, và cũng ít lò dò đến khu nhà dạy học. Anh ta bắt đầu hòa nhập với các nhân viên của thư viện, kiên nhẫn nghe đủ các mẩu tin vỉa hè bát nháo và góp chuyện, anh ta cũng thích đi chợ và cân nhắc xem nên chế biến món thịt chiên như thế nào để ngoài giòn trong mềm.
Tất cả, cũng khiến Ngụy Nguy được an ủi. Dù Tôn Phổ kiệt xuất hay bình thường, miễn là vẫn có anh thì mọi bề vẫn đều tốt đẹp.
Và, Ngụy Nguy hiểu rất rõ, không phải Tôn Phổ buông xuôi, mà là anh đang chờ thời cơ.
Một buổi chiều đầu xuân, Ngụy Nguy vội vã bước vào phòng mượn sách số 3 của thư viện trường Đại học thành phố J, từ xa cô đã nhìn thấy Tôn Phổ ngồi sau quầy mượn - trả sách rất chăm chú đọc một tờ báo, bên cạnh còn có vài cuốn sách đang mở ra.
“Gọi em đến gấp thế, có việc gì xảy ra à?” Ngụy Nguy vẫn đang thở mạnh: “Gọi điện cho anh, anh không nghe.”
“Anh không nghe thấy.” Tôn Phổ có vẻ như không mấy chú ý: “Em trở về nhà cũ, tìm hộ anh một hồ sơ bệnh án.”
“Bệnh án nào?”
“Của một bệnh nhân tên là Mã Khải, mắc chứng hoang tưởng và trầm cảm nặng.”
“Cần gấp lắm không?” Ngụy Nguy nhìn đồng hồ: “Em còn phải về nhà lấy chìa khóa.”
“Rất gấp. Anh cần đọc nó tối nay.” Tôn Phổ mỉm cười, đưa tay ra qua mặt bàn, vỗ lên bàn tay Ngụy Nguy: “Em chịu khó đi giúp anh đi!”
Ánh mắt Tôn Phổ không hờ hững, và lại rực sáng như bốn năm về trước, hình như có sự việc gì đó đã khơi dậy đốm lửa còn sót lại từ thẳm sâu trong lòng anh ta.
Ngụy Nguy nhìn đôi mắt long lanh của Tôn Phổ, gật đầu.
“Được!”
Nói rồi co quay người bước đi, nhưng Tôn Phổ đã gọi giật lại.
“Em xách cái này về.” Anh đưa tay xuống gầm bàn nhấc ra một cái túi nilon màu đen: “Thịt bò thượng hạng. Về, xát muối lên bề mặt đã, rồi ướp rượu vang. Tối nay anh sẽ làm món bít-tết cho em ăn.”
Nét cười rạng rỡ khuôn mặt Ngụy Nguy, cô cầm lấy cái túi rồi lè lưỡi tỏ ý ‘thèm ăn’, sau đó quay người bước đi rõ nhanh.
Đi đến cửa, cô suýt nữa va phải một cậu có lẽ là sinh viên, cậu ta cũng không để ý đến cô, tiếp tục chạy ào đến chỗ Tôn Phổ.
Nếu thời gian bỗng ngừng trôi, và thế giới này ngừng vận động ở giây phút đó.
Thì chắc chắn đây sẽ là một cảnh mà đấng tạo hóa rất muốn nhìn thấy.
Một nam, một nữ, và một chàng trai đang đi giữa họ.
Anh ta luôn vui với việc khiến người ta cảm nhận được sức mạnh và sự bí hiểm khôn lường của anh ta; khi mà ai ai cũng rất nhẹ dạ và đầy lòng hiếu kỳ nhằm đến tương lai, chính là khi anh ta cực kỳ thản nhiên nói cho họ biết rằng, tất cả chỉ là trò chơi mà anh ta đã thiết kế hoàn mỹ.
Tôn Phổ nhận ra anh chàng đang chạy thẳng đến chỗ mình. Anh biết anh ta thường hay đến mượn sách, và biết rõ thầy giáo hướng dẫn anh ta là giáo sư Kiểu Doãn Bình. Vẫn đang thở mạnh, anh ta chìa ra một tờ ghi danh mục các cuốn sách.
Tôn Phổ lướt nhìn danh mục sách ghi trong đó, và bất giác nhìn xuống mấy cuốn sách anh đang mở ra trước mặt. Vào lúc này ánh mắt Tôn Phổ càng thêm rực sáng.
Anh ta ngẩng đầu lên.
Anh thanh niên soi thấy bóng mình méo mó trên mắt kính của Tôn Phổ, tuy vẫn gầy gò nhợt nhạt như trước, nhưng trông lại có nét rất khôi hài.
Anh ta cười với ‘chính mình’.
- Chết, là cảm giác như thế nào?
- Chết, chẳng khác nhiều so với sống.
- Có thể nhìn thấy họ không?
- Họ là ai?
- Là những người mà tôi nhung nhớ.
- Đương nhiên, giống như lúc này tôi có thể nhìn thấy anh.
- Kìa, đừng nói những câu ly kỳ như thế.
- Ha ha…
- Đúng thế! Đâu phải ai cũng có thể đục thủng tôi.
- Tôi không định nói lời xin lỗi.
- Tôi biết anh không thể. Còn tôi giờ đây đã chẳng bận tâm điều đó nữa rồi.
- Tại sao anh vẫn chưa ra đi?
- Anh nhầm rồi, tôi không có mặt ở đây.
- Vậy thì anh ở đâu?
- Anh ở đâu thì tôi ở đó.
- Tôi không hiểu anh nói gì.
- Viên đạn kia không chỉ xuyên qua tôi, mà còn cả anh nữa.
- Giống như tự soi gương và nổ súng?
- Đúng!
- Ý anh là, chúng ta thực ra chỉ là một người ư?
- Đúng. Chắc là anh rất kinh ngạc?
- Không kinh ngạc. Nhưng tôi rất biết anh đã nhầm. Vì hình ảnh trong gương là ngược với anh.
- Hả?
- Nói cho dễ hiểu, đó là một người hướng về bên trái, một người hướng về bên phải.
- Anh hướng về bên trái hay bên phải?
- Điều đó không quan trọng. Chúng ta hoàn toàn khác nhau, điều này mới là quan trọng.
- Khác nhau ở chỗ nào?
- Bây giờ đến lượt anh hỏi tôi chắc?
- Đúng. Tôi rất muốn biết.
- Tôi có thứ mà anh không có: đó là một thứ không thể mất đi.
- Là tình yêu ư? Anh đang nói đùa.
- Tôi không nói đùa. Cô ấy bao la đến nỗi anh không thể nhìn thẳng vào cô ấy.
- Có lẽ… có lẽ anh nói đúng.
- Đang nhớ đến cô ấy chứ gì?
- Tôi có thể không trả lời, được không?
- Đương nhiên có thể.
- Ta đối thoại đến đây thôi.
- Được!
- Tạm biệt.
- Tạm biệt.


LÔI MỄ


TÂM LÝ TỘI PHẠM
Cuồng Vọng Phi Nhân Tính


Dịch giả:
Hương Ly

Lưu Quang Thuyết
Nhà xuất bản: Hồng Đức
Phát hành: Cổ Nguyệt Book
Thể loại: Trinh Thám, Tâm Lý Tội Phạm
Ebook and Edit: Vinaguy-Kegisu


Phần Dẫn
Ngày Nhà Giáo

Quá trưa, cả thành phố vẫn chìm trong màn sương mù dày đặc. Trong không khí dường như tràn ngập đủ loại cát bụi, tuy nhẹ tênh, nhưng lại có cảm giác ngột ngạt. Đoàn xe nườm nượp nối đuôi nhau như những dòng chảy của sắt thép chia cắt con đường trong thành phố dường như cũng phải chịu áp lực của bầu không khí nặng nề này. Cái thành phố bị ô nhiễm nặng bởi ngành công nghiệp đang ở thời khắc rệu rã nhất trong ngày.
Lúc này đây, một giọt nước trong dòng chảy hồng thủy đã rời bỏ phương hướng ban đầu, quành gấp khi đi đến dốc của cầu vượt. Sau khi đi xuyên qua những con đường dọc ngang đan chéo nhau như mạng nhện thì dừng trước một tòa nhà ba tầng kiến trúc cũ.
Cánh cửa xe viết hàng chữ: “Tổ chương trình Thực hiện ước mơ của đài truyền hình thành phố C” đột nhiên bị kéo ra, mấy người nhảy xuống xe, ai nấy đều bận rộn bắt tay vào việc.
Một cô gái trẻ có khuôn mặt khả ái vừa lấy tay vuốt tóc vừa hỏi bác tài xế: “Đúng là ở đây phải không ạ?”
Sau khi nhận được câu trả lời khẳng định, cô bèn quay lại hỏi đạo diễn chương trình: “Hẹn với cô giáo tuần trước mấy giờ nhỉ?”
“2 giờ!” Đạo diễn chương trình lật giở cuốn sổ ghi chép lịch ghi hình: “Cô giáo nói cần phải dọn dẹp phòng một chút, nếu để bừa bộn quá thì khó coi lắm!”
Cô gái nhìn đồng hồ: “Ừm, cũng gần đến giờ rồi. Ơ, Tiểu La đâu nhỉ?” Cô nhìn dáo dác xung quanh, rồi đi đến cạnh xe, gõ cửa sổ: “Xuống đi chứ, cậu còn ngẩn người ở đó làm gì vậy?”
Một chàng trai trẻ sắc mặt u uất đang ngồi trong xe, nhìn chăm chăm vào tòa nhà ba tầng trước mặt. Nghe thấy tiếng cô gái gọi, cậu hít thở thật sâu, cầm lấy bó hoa cúc vàng để ở hàng ghế sau, rồi xuống xe.
Cô gái đã cầm chiếc micro và chuẩn bị sẵn tư thế đứng trước tòa nhà, miệng lẩm nhẩm lời dẫn chương trình. Nhìn thấy Tiểu La vẫn đứng nguyên không nhúc nhích, cô sốt sắng vẫy vẫy tay ra hiệu cho cậu hãy đi đến cạnh mình.
Khi đạo diễn chương trình ra hiệu bắt đầu ghi hình, trên mặt cô gái lập tức xuất hiện nụ cười mang tính chất nghề nghiệp.
“Các bạn xem truyền hình thân mến, tôi là Quan Lệ - người dẫn chương trình Thực hiện ước mơ. Hiện giờ, chúng tôi đang đứng dưới khu nhà của cô giáo Tần - cô giáo chủ nhiệm cấp 2 của Tiểu La. Lát nữa, chúng tôi sẽ dẫn Tiểu La đến gặp cô giáo Tần - người mà cậu luôn mong ngóng được gặp mặt.” Cô đưa micro đến trước mặt Tiểu La: “Tiểu La, hôm nay là ngày nhà giáo, trong ngày đặc biệt này, bạn sắp được gặp vị ân sư đã làm thay đổi số phận của bạn. Xin hỏi, lúc này bạn đang rất hồi hộp phải không?”
Tiểu La sắc mặt lạnh lùng, nhìn chằm chằm vào ống kính máy quay, hồi lâu mới thốt ra hai chữ: “Hồi hộp!”
Quan Lệ rất không hài lòng về biểu hiện của Tiểu La, nhưng trên mặt vẫn nở nụ cười rạng rỡ: “Bạn Tiểu La chắc là do quá hồi hộp. Sắp được gặp lại vị ân sư bao năm không gặp, tôi nghĩ, bất luận là ai cũng đều không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả được hết thứ tâm trạng này. Được rồi, xin các bạn xem truyền hình hãy dõi theo ống kính máy quay của chúng tôi, cùng đến thăm người giáo viên đáng yêu đáng kính này nhé!”
Ngay sau khi tiếng ‘dừng’ của đạo diễn, nụ cười trên môi của Quan Lệ cũng biến mất luôn, cô nhíu mày nói với Tiểu La: “Tiểu La, nét mặt của cậu lúc nãy quá gượng gạo, khô cứng, cậu phải thể hiện ra thứ tâm trạng vô cùng mong ngóng và hưng phấn. Đừng căng thẳng, thả lỏng mình một chút.”
Tiểu La không tiếp lời, toàn thân cứng đờ ôm chặt bó hoa, cứ nhìn chằm chằm lên trên tòa nhà.
“Còn bó hoa này nữa, hoa cúc vàng.” Quan Lệ bĩu môi: “Thôi, đành vậy, giờ cũng không kịp đổi nữa rồi.”
Đi qua bậc cầu thang và hành lang nhỏ hẹp bẩn thỉu, cả đoàn người dừng lại trước một cánh cổng sắt phía bên trái ở tầng 3. Đạo diễn ra hiệu muốn quay cảnh cả đoàn bước vào. Sau khi mọi thứ đã chuẩn bị xong xuôi, trên mặt Quan Lệ lại khôi phục lại nụ cười, giơ tay lê gõ cửa, chiếc máy quay cũng chuyển động theo.
“Ai đấy?” Một giọng nữ giới già nua ở trong cửa hỏi vọng ra.
“Chúng tôi là người ở đài truyền hình, xin hỏi cô giáo Tần có nhà không?”
Cửa mở ra, một người phụ nữ gầy gò nhỏ bé hiện ra bên cánh cửa, nụ cười trên mặt trông hơi gượng gạo, khóe mắt lén liếc xéo vào ống kính máy quay.
“Mời vào, xin mời vào!” Người phụ nữ gầy gò nhỏ bé nói.
Đây là một căn hộ cũ có hai phòng, đồ đạc trong phòng tuy cũ, nhưng được sắp xếp rất ngay ngắn. Mọi người đều đứng ở phòng khách, căn phòng vốn đã nhỏ, giờ đây càng trở nên chật chội hơn. Cô giáo Tần nhìn thấy Quan Lệ tươi cười rạng rỡ và máy quay lấp lánh phát ra ánh đỏ, nhất thời không biết xử trí ra sao. Quan Lệ nắm lấy tay cô giáo Tần, giọng nói ngọt ngào: “Cô giáo Tần, trước tiên xin chúc mừng cô nhân Ngày nhà giáo. Hôm nay chúng tôi còn đem đến cho cô một món quà vô cùng đặc biệt!” Cô chỉ vào một người trong đoàn ‘Chính là cậu học sinh mong ngóng đến thăm cô.’
Tiểu La bước tới từ phía sau nhân viên quay phim, trên tay vẫn ôm bó hoa cúc vàng. Cậu đứng trước mặt cô giáo Tần, lặng lẽ nhìn cô giáo.
Chẳng phải đã dặn trước là phải ôm thật thắm thiết sao? Quan Lệ ra sức trừng mắt với Tiểu La, lấy tay ra hiệu.
Tiểu La không buồn để ý đến cô, chợt mở miệng hỏi: “Cô là cô giáo Tần Ngọc Mai phải không?”
Cô giáo Tần rất băn khoăn trước câu hỏi của Tiểu La: “Đúng vậy, cậu…”
“Cấp 2 tử đệ Xưởng sản xuất giấy.”
“Thế à, cậu là học sinh khóa nào?”
Nét mặt Tiểu La bỗng thư thái hẳn, thậm chí cậu đã cười: “Em không phải là học sinh của cô, cô có quen Thẩm Tương không?”
Cô giáo Tần nhíu chặt đôi lông mày, dường như đang cố gắng lục tìm cái tên đã bị lãng quên từ lâu trong kho ký ức: “Thẩm Tương, Thẩm Tương…” Đột nhiên, sắc mặt cô thay đổi: “Cậu, cậu là…”
Tiểu La không trả lời, chỉ đưa bó hoa trên tay về phía trước, cô giáo Tần giơ tay đón lấy. Cô còn chưa kịp chạm vào bó hoa đó, đã nhìn thấy Tiểu La rút một con dao từ sau bó hoa ra.
Liền ngay say đó, cô giáo cảm thấy một vật sắc lạnh đâm vào bụng mình.


Truyện Cùng Thể Loại

Các Đại Năng Đã Để Lại Thần Thức


Lưu ý: Vui lòng tải app để có thể lưu lại thần thức trên truyện này
Tải app để đọc truyện sớm nhất