Chương 58
Đại Tướng Quân Vương
Lưu Lăng trần cả thân trên, làn da nâu rám nắng mồ hôi nhễ nhại. Một tay hắn đang cử một cái tạ đá nặng ba trăm cân lên, không ngừng lên xuống, một tay cử hai mươi . Lưu Lăng chuyển tạ đá sang tay trái, cũng cử hai mươi cái.
Đặt tạ đá]xuống đất, Lưu Lăng lắc người một cái, mồ hôi văng ào ào như nước mưa. Thân hình của hắn rất tốt, hai múi cơ ngực săn chắc, sáu múi cơ bụng góc cạnh rõ ràng, vai rộng hông hẹp, lưng hổ eo vượn, mái tóc dài cột đại sau gáy. Hắn đi tới trước giá binh khí, cầm một cây thiết thương lên xem qua.
Người xưa tỉ võ chiến đấu, phần lớn đều là ai sức lớn thì thắng, nhưng chiêu thức né tránh chuyển dịch trong công phu của cao thủ võ thuật thực sự thì không được việc trên lưng ngựa. Nếu tay cầm một thanh bảo kiếm nặng khoảng ba năm cân, múa một bộ kiếm pháp nhẹ nhàng linh hoạt trên lưng ngựa, e là sẽ trực tiếp bị đối phương dùng một thanh đại đao khoảng hơn trăm cân chém xuống ngựa.
Cho nên nói, giao thủ trên chiến trận, không giống với quyết đấu giữa hai cao thủ võ thuật. Kỵ binh song phương cùng nhau xông trận, mặc cho võ công của ngươi có cao cường đến đâu e là cũng sẽ bị đạp chết dưới vó ngựa. Cùng đạo lý, những danh tướng được xưng tụng dũng sĩ có thể đối đầu với vạn người trong truyền thuyết, nếu xuống ngựa cho y một thanh đao nhỏ ngắn, không chừng cũng chẳng đánh lại những đệ tử thân truyền của mấy danh môn đại phái đó.
Vì thế, binh khí đánh trên ngựa, một là phải nặng, hai là phải đủ dài.
Tục ngữ có câu, binh khí dài một tấc thêm một phần mạnh, ngắn một tấc thêm một phần hiểm. Võ công với những kỹ xảo khéo léo đánh cận thân, cộng thêm một thanh đoản đao đoản kiếm đương nhiên sẽ làm ít mà công to. Mà mã chiến, vẫn là trường thương đại đao thực tế hơn. Thanh Long Yển Nguyệt Đao của Quan Nhị Gia, Trượng Bát Xà Mâu của Trương Tam Gia đều là tiêu biểu cho vũ khí mã chiến.
Lưu lăng rất thích trường thương, một là vì thương là vũ khí phổ biến nhất của thời đại này, binh lính và người huấn luyện thường dùng thương và gậy. Hai là, cây thương vừa dài vừa lớn của thần tượng hắn Thường Sơn Triệu Tử Long, từng khiến bao cô gái chết mê chết mệt. Giấc mơ to lớn nhất của một người đàn ông chẳng phải là, tay cầm một cây thương dài, tung hoành sa trường thiên hạ vô địch, bên dưới cũng một cây “thương” dài, tung hoành tình trường sao! Nếu cả hai cây thương này đều luyện hay luyện giỏi, thì cũng xem như một tiểu viên mãn của nhân sinh rồi.
Lưu Lăng múa cây trường thương, hổ hổ sinh phong. Thương pháp của hắn không giống Triệu Nhị. Thương pháp của Triệu Nhị tinh kỳ, chiêu thức liên miên như đại giang đại hải, thương pháp Triệu gia được y thi triển tới mức không có điểm yếu. Còn thương pháp của hắn thì đơn giản dễ hiểu hơn nhiều, chỉ là nắm những thương pháp trọng tâm như đâm, kéo, quét, đập, rồi thêm sự “nhanh” vào.
Chẳng phải Hỏa Vân Tà Thần từng nói sao, võ công thiên hạ không cái nào kiên cố đến mức không thể phá giải, chỉ có tốc độ là không thể vượt qua được!
Lưu Lăng một tay cầm thương, thân người đột nhiên xoay một cái, nương theo quán tính hắn đột nhiên đâm cây thương ra ngoài. Cú này không màu mè, vô cùng đơn giản, đường thương đi thẳng, như một con Hắc Long căng thẳng người. “Rầm” một tiếng, đâm vào một khúc gỗ! Khúc gỗ này lớn gần như eo người, nhưng tốc độ của cây thương quá nhanh, đến nỗi đâm xuyên qua khúc gỗ!
Lưu Lăng vẫn rất hài lòng với lực độ của nhát thương này. Tay dùng sức, quẩy sang hai bên trái phải, “rắc” một tiếng, khúc gỗ to tròn ấy bị hắn chém làm đôi!
Lưu Lăng rút cây thương về, kéo về phía sau, một tay thuận thế nắm vào vị trí dưới đầu thương một chút, cơ thể xoay chuyển để hai tay nắm lấy cán thương, đập cây thiết thương xuống đá thanh thạch dưới đất như một cây côn, “rầm” một tiếng, đá thanh thạch vừa lớn vừa nặng được lát dưới đất bị hắn đập tan thanh mấy mảnh!
Lúc này, quản gia lão Ngô dẫn theo một thân binh mặc quân phục của đại doanh Kinh Kỳ nhanh chân đi tới.
- Vương gia, thân binh dưới trướng của Đỗ Uy tướng quân đại doanh Kinh Kỳ nói có việc cầu kiến.
Lão Ngô cúi người hành lễ nói.
Lưu Lăng thu thương lại, quăng cây thương qua một bên, cây thương soạt một cái vừa cắm đúng vào giá binh khí. Hắn vừa đi vừa cầm khăn lên lau mồ hôi, hỏi: - Có phải dại doanh Kinh Kỳ xảy ra chuyện gì không? Hôm nay tới phiên trực của Đỗ Uy đúng không, không lẽ cổng thành xảy ra chuyện gì?
Thân binh đó nhìn Lão Ngô một cái. Lưu Lăng cười nói: - Cứ nói đi.
Thân binh đó rầm một cái quỳ xuống, nói: - Vương gia, có chuyện lớn rồi, hai mươi vạn đại quân của Hậu Chu vào ba ngày trước đã xâm phạm biên giới rồi!
Lưu Lăng cứng người lại, hắn nhanh chân bước lên, hỏi: - Nhận được tin khi nào, có chính xác không?
Thân binh đó nói: - Mới đây thôi, một Đô ngu hầu của Phủ Viễn quân không ngủ không nghỉ chạy từ biên giới phía nam tới báo tin. Đô tướng quân đã cùng Đô ngu hầu Phủ Viễn quân đó vào cung diện thánh. Đô tướng quân kêu tiểu nhân lập tức đến thông báo cho Vương gia, tiểu nhân không dám chậm trễ!
Lưu Lăng quăng khăn lau cho Lão Ngô và nói: - Biết rồi, ngươi về trước đi, bổn vương vào cung ngay bây giờ!
Lưu Lăng nhanh chân bước vào phòng ngủ, thay triều phục. Triệu Nhị và Hoa Tam Lang đã đợi ở bên ngoài. Cả ba người, đem theo mười mấy hộ vệ cưỡi ngựa phi nhanh về phía hoàng cung. Vừa đi tới nửa đường, thì thấy một kỵ sĩ phóng ngựa tới từ phía trước. Khi cả hai bên cách nhau không xa, người đối diện hỏi: - Có phải Trung Thân Vương điện hạ?
Lưu Lăng ghìm cương Hồng Sư Tử lại, thì thấy một người mặc quân phục Đại nội thị vệ, trong lòng đã hiểu. Hắn phẩy tay một cái: - Ta đã biết rồi, bây giờ vào cung ngay!
Đại nội thị bệ đó thở phào một cái, lén nhìn Lưu Lăng, chỉ thấy Trung Thân Vương vẻ mặt nghiêm trọng, nhưng không hề hoảng loạn. Rồi lại nghĩ tới phản ứng của Đại Học Sĩ Tô Tú, thị vệ này không khỏi ngầm thán phục định lực của Trung Thân Vương. Y thúc ngựa đi theo sau hộ vệ của Lưu Lăng, thẳng hướng Hoàng cung.
Tới cửa Hoàng thành, vừa xuống ngựa thì thấy một nội thị cưỡi ngựa xông ra từ trong Hoàng thành. Nội thị đó vừa ra khỏi cửa thì thấy Lưu Lăng đã tới, y ghìm cương xuống ngựa, vội vã đi mấy bước rồi quỳ xuống trước ngựa của Lưu Lăng: - Nô tì khấu kiến Trung Thân Vương, Bệ hạ tuyên người nhanh chóng vào cung!
Lưu Lăng đưa cương ngựa cho một hộ vệ, nói một câu biết rồi, sải bước đi vào.
Lúc này vẫn chưa đến lúc thiết triều, nhưng bên ngoài Hoàng thành sớm đã có các đại nhân ngồi trong kiệu nhắm mắt nghỉ ngơi, người không có ngủ đã liếc thấy Lưu Lăng vội vã đi vào cung thành. Hai đại nhân đến sớm tụ vào nhau, chỉ vào cung môn nghị luận: - Không biết xảy ra chuyện gì nữa?
Người kia nói: - Xem ra là có chuyện lớn xảy ra rồi, ngươi thấy không, nội thị cưỡi ngựa ra thành, nếu không phải chuyện rất là bức bách, nội thị làm sao dám cưỡi ngựa trong cấm thành?
Lưu Lăng tiến thẳng vào Thừa Tiên Điện. Lúc này Đại thần trực phiên của Quân Cơ Xứ Tô Tú, Thiên tướng thủ thành môn Đỗ Uy, và một Đô ngu hầu Phủ Viễn quân đã không màng sống chết hỏa tốc tới đây báo tin, tất cả đều đã ở trong đại điện. Hai chân của Đô ngu hầu này đã tê cả rồi, là hai thị vệ đỡ y đi vào đây.
Lúc Lưu Lăng đi vào Thừa Tiên Điện, thì nghe tiếng Hiếu Đế hỏi một cách dồn dập: - Ngươi nói gì?
Đô ngu hầu đó không thể quỳ xuống, nên nằm nhào xuống đất hành lễ: - Thái tử Hậu Chu Quách Siêu té từ trên ngựa xuống khi đang luyện binh và bị ngựa đạp chết. Hoàng đế Hậu Chu Quách Uy vì quá đau buồn nên đã ngã bệnh, ngày thứ hai thì băng hà. Trước khi chết Quách Uy truyền ngôi lại cho nghĩa tử Quách Vinh của mình. Ba ngày trước, Quách Vinh đã đăng cơ dưới sự ủng hộ của văn võ bá quan Hậu Chu, xưng là Chu Thế Tông. Chu Thế Tông Quách Vinh viện cớ mã phu phụ trách cho con ngựa đạp chết Quách Siêu là gián điệp của Đại Hán chúng ta, ngay ngày đăng cơ đã dẫn theo hai mươi vạn quân ngự giá thân chinh!
Hiếu Đế tức tới vỗ bàn: - Hay cho cái cớ! Hay cho một Quách Vinh đầy dã tâm! Nghĩa phụ huynh trưởng của hắn vừa chết còn chưa được chôn, hắn không lo, mà lại phát binh tấn công Đại Hán ta!
Y chỉ Đô ngu hầu và hỏi: - Còn tin gì nữa không, nói tiếp.
Đô ngu hầu đó liếm liếm cái môi khô, dùng hai bàn tay yếu ớt đỡ thân mình dậy, rồi nói: - Quách Vinh lệnh cho Tôn Huyền Đạo làm chủ soái, Phiêu Kỵ Tướng Quân Sài Tín làm tiên phong, điểm binh hai mươi vạn tấn công thẳng vào nước ta. Lúc mạt tướng chạy về, Phủ Viễn quân ít không đánh lại nhiều, Đàn Châu đã thất thủ, Ngọc Châu bị tám vạn đại quân của Tôn Huyền Đạo vây khốn. Mạt tướng đột phá trùng trùng bao vây chạy về báo tin, chỉ là không biết Ngọc Châu có còn cầm cự được không.
Y nghỉ một lúc rồi nói tiếp: - Bệ hạ, Phủ Viễn quân của Ngọc Châu chưa tới năm ngàn, Tướng quân Đỗ Nghĩa lãnh đạo quân dân liều chết đối kháng. Lúc mạt tướng xông ra, cổng nam Ngọc Châu cũng sắp bị công phá rồi! Xin Bệ hạ nhanh chóng phát binh cứu viện!
Sắc mặt cảu Hiếu Đế âm trầm, hai tay nắm chặt thành quyền!
Bây giờ cục thế vừa mới hơi hơi ổn định trở lại, cống phẩm hàng năm cho Đại Liêu phía Bắc vẫn chưa đủ, văn võ bá quan cái gì cũng có thể nói ngầm ra, làm cho lòng người hoảng loạn. Mà ngay vào thời khắc sống chết như thế, Hậu Chu lại tới phạm biên! Quốc gia này đã trăm ngàn lỗ hổng rồi, quốc khố trống rỗng, nguồn binh không đủ, lấy gì chống lại hai mươi vạn đại quân của Hậu Chu đây?
Khi Lưu Lăng đi tới cửa Thừa Tiên Điện, thì vừa đúng lúc nghe thấy những lời này của Đô ngu hầu đó. Hắn đứng ở cửa nghe xong, trong lòng cảm thấy căng thẳng. Sáu châu phía Nam, tổng số Phủ Viễn quân không quá bảy vạn, phần lớn tập trung ở Tiêu Châu, Ứng Châu. Nhân mã phòng giữ ở bốn châu phủ còn lại thì mỗi nơi chỉ khoảng năm ngàn mà thôi, lại thêm tường thành lâu năm không được tu sửa, làm sao có thể chống đỡ đại quân hai mươi vạn, sĩ khí cao trào, trang bị quân nhu đầy đủ của Hậu Chu?
Lại thêm, từ lần trước hắn bị nhốt vào thiên lao, giữa các tướng lĩnh của Phủ Viễn quân, ai cũng không phục ai, suốt ngày đấu đá với nhau, sớm đã không còn sĩ khí đoàn kết của trước đó nữa. Đại quân Hậu Chu thế như chẻ tre, công phá Đàn Châu, vây khốn Ngọc Châu. Vậy mà trước đó Phủ Viễn quân không hề phát hiện! Từ đó có thể thấy Phủ Viễn quân đã xuống cấp tới mức nào!
Chỉ mới hơn hai năm thôi! Lưu Lăng không khỏi thở dài, chỉ mới hơn hai năm thôi, Phủ Viễn quân hắn cực khổ gầy dựng nên, đã trở nên như thế này! Bảy vạn tướng sĩ của bảy doanh trại Phủ Viễn quân, vốn dĩ là bức tường phía nam hắn dựng cho Đại Hán. Nhưng bây giờ, chỉ là một đám tàn binh đang rên rỉ dưới gót chân ngựa của thiết kỵ Hậu Chu!
Đàn Châu mất rồi, Ngọc Châu nhất định cũng không giữ được rồi. Nhưng đây vẫn chưa phải tồi tệ nhất, chỉ cần Tiêu Châu và Ứng Châu chưa mất, thì Lưu Lăng có tự tin rằng có thể đánh đuổi đại quân Hậu Chu về lại bên kia biên giới!
Nghĩ tới đây, Lưu Lăng cất bước bước vào Thừa Tiên Điện.
- Thần Lưu Lăng, khấu kiến Bệ hạ!
- Lão Cửu, cuối cùng đệ cũng đến rồi!
Hiếu Đế thấy Lưu Lăng đến rồi, tảng đá đè lên lồng ngực nãy giờ cuối cùng cũng thả lỏng đôi chút. Trong lúc kích động, y rời khỏi ghế ngồi và nhanh chân đi xuống bậc thềm, một tay kéo lấy cánh tay của Lưu Lăng.
- Lão Cửu, Hậu Chu cử binh hai mươi vạn, bây giờ đã lấy mất Đàn Châu, Ngọc Châu cũng sắp nguy tới nơi rồi, đệ có kế sách gì không?
Hiếu Đế lúc này đã không còn sự điềm tĩnh thường ngày nữa, hỏi rất nóng vội. Y kéo tay Lưu Lăng và nói: - Về mặt quân vụ, trẫm không bằng đệ. Trận chiến này, trẫm dựa vào đệ hết đó.
Lưu Lăng vẫn quỳ xuống dập đầu theo qui tắc, sau đó đứng dậy nói: - Bệ hạ, Lưu Lăng đã hiểu.
Lúc này chuyện quá khẩn cấp, Lưu Lăng biết bây giờ trong Bắc Hán Quốc này, tướng lĩnh năng chinh thiện chiến đếm trên đầu ngón tay. Nếu hắn không nhận cái gánh này, e là không ai có thể phá giải kiếp nạn này. Thế nên, lúc này không phải lúc khách sáo, hắn cũng không từ chối, mà xoay người hỏi Đô ngu hầu đó: - Ngươi tên là gì? Làm việc dưới trướng của ai?
Đô ngu hầu đó chỉ khoảng hai mươi tuổi, cát bụi trên mặt che mất vẻ anh tuấn vốn có trên khuôn mặt. Y nghe Trung Thân Vương Lưu Lăng tới rồi, hai mắt sáng rực nhìn qua. Lúc này nghe Lưu Lăng hỏi chuyện, y kích động đến mức có chút không thể tự kiềm chế. Y phủ phục dưới đất và trả lời: - Mạt tướng là tân binh dưới trướng Đỗ Nghĩa tướng quân của doanh trại số 6 Phủ Viễn quân, Đô ngu hầu Dương Nghiệp, tham kiến Đại Tướng Quân Vương!
Đại Tướng Quân Vương!