Chương 4
Cùng ta học việc có một cậu bé tên Tiểu Ngũ, trông nhỏ hơn ta khoảng năm sáu tuổi, nhưng đã sớm ra ngoài mưu sinh, đủ mọi nghề trong thành này đều đã thử qua.
Tiểu Ngũ nói với ta rằng, rượu sữa ngựa và rượu nho ở Tây Vực đem về Trung Nguyên rất dễ bán, ai cũng muốn nếm thử cái lạ. Còn rượu Trung Nguyên thì mềm mại, độ cồn cao mà không quá gắt, người địa phương cũng thường mua về vừa nhâm nhi đậu phộng vừa trò chuyện.
Tiểu Ngũ kể, ông chủ tửu lâu vốn là một anh chàng hàng rong nhỏ, sau theo đoàn buôn bán đổi lấy đồ gốm và trà, gặp được một mỹ nhân ở đây rồi từ đó không muốn trở về Trung Nguyên nữa. Hắn theo đuổi nàng một thời gian dài, sau đó ở lại cưới vợ sinh con, mở một tửu lâu nhỏ. Không ngờ tay nghề nấu rượu và làm món Trung Nguyên của hắn khá tốt, lại vừa may cưới được một người vợ giỏi nấu món Tây Vực và rượu Tây Vực, danh tiếng tửu lâu dần dần lớn mạnh.
Ta cùng Tiểu Ngũ đùa giỡn, quả thực đây là một ông chủ si tình.
Ngày tháng trôi qua, ta dần dần yêu thích những ngày tháng nấu rượu này. Ta ngày ngày say mê trong hương thơm của men rượu và cơm rượu, mỗi lần trở về khách điếm, Nguyệt Nương luôn nhăn mũi bắt ta nhanh chóng về phòng tắm rửa.
Sư phụ dạy nấu rượu bảo ta đã xuất sư, từ nay có thể cùng các công nhân nấu rượu khác nhận lương hàng tháng. Sư phụ nhắc ta trước hết phải đến chỗ ông chủ nhận thẻ công.
Vì vậy, ta - người vẫn luôn nấu rượu ở hậu viện tửu lâu - lần đầu tiên bước vào Bách Vị Lâu. Quả thực Bách Vị Lâu rực rỡ như lời Tiểu Ngũ miêu tả, Đông Tây hòa quyện. Trong lầu không chỉ có đình đài lầu các tinh xảo, mà còn có vũ nữ mặc váy dài tha thướt uyển chuyển. Tiếng ồn ào trong lầu cùng tiếng trống nhạc hỗn tạp khiến ta lạc lối, nhất thời quên mất mục đích đến đây.
"Khách quan, dùng gì?"
Ta xoay người lại, khuôn mặt tuấn tú khó quên ấy lại hiện ra trước mắt, chàng thấy ta cũng có chút ngạc nhiên.
"Ngươi?"
Chúng ta đồng thanh nói.
"Sao ngươi lại ở đây?" Ta hỏi trước.
"Ngươi vẫn chưa về Trung Nguyên sao." Chàng khẽ cười, "Hôm nay rất đông khách, tửu lâu thiếu người nên ta bị bắt đến làm việc."
"Ngươi là người của tửu lâu này?"
"Ta là con trai của ông chủ già này." Chàng gãi đầu, "Hôm đó ta bị lạc đoàn xe của mình. Hôm ấy vừa mới giao rượu từ Trung Nguyên về."
"Thật khéo." Ta cười tươi hơn, "Tiểu Đông Gia, phát thẻ công cho ta đi."
Sau đó ta mới biết chàng tên Tề Việt, là con trai độc nhất của ông chủ Bách Vị Lâu, thỉnh thoảng bị bắt đến tửu lâu giúp việc, hoặc hộ tống đoàn xe giao rượu cho các tửu lâu đặt hàng ở Trung Nguyên, hoặc làm bồi bàn tại tửu lâu nhà mình. Nhưng điều chàng làm nhiều nhất vẫn là chạy lung tung, tất nhiên theo lời chàng là đi hành hiệp trượng nghĩa.
Công việc nấu rượu ở Bách Vị Lâu không quá nặng nhọc, thời gian lại rất tự do. Vì thế ta mỗi ngày đều sớm đến hậu viện, Tề Việt sẽ ngồi trên tường đợi ta làm xong việc, sau đó chúng ta cùng nhau đi "hành hiệp trượng nghĩa".
Đôi khi là đến phía đông thành giúp bà Vương bán rau bê hàng, đôi lúc lại đến phía nam thành dạy dỗ mấy đứa trẻ trốn học, khuyên chúng chăm chỉ đọc sách. Nhưng thường xuyên nhất vẫn là cùng chàng cưỡi ngựa phi nước đại ở biên giới sa mạc.
Ta vốn không giỏi cưỡi ngựa, nên mỗi lần Thái tử đều không cho ta tham gia lớp học cưỡi ngựa cùng chàng. Chàng luôn chê ta quá chậm, vì vậy ta chỉ có thể ngồi một mình trong góc cho ngựa ăn. Còn Tề Việt thì lại là một phu tử rất kiên nhẫn. Thấy ta cưỡi ngựa chậm rãi và thận trọng, chàng cũng giảm tốc độ để đồng hành cùng ta. Ánh tà dương trên sa mạc kéo dài bóng dáng của chúng ta, ta và chàng cưỡi ngựa song song, bóng đổ chồng lên nhau.
Trong lòng Tề Việt ôm giấc mơ hiệp khách, chàng thường miêu tả với ta về giấc mộng giang hồ của mình. Chàng nói rằng một ngày nào đó sẽ đi khắp chân trời góc bể. Ta cười hỏi chàng thế còn Bách Vị Lâu thì làm sao, chàng nghĩ một lát rồi bảo tiện thể mở chuỗi Bách Vị Lâu khắp chân trời luôn.
Thỉnh thoảng chàng cũng xuống bếp nấu vài món Tây Vực, lúc đó ta sẽ đào dưới gốc cây du phía sau viện bình rượu vải mà ta giấu kỹ. Thường thì vào những lúc này, chàng sẽ đùa ta nói sẽ mách ông chủ già biết.
Ta và chàng cũng thường ngồi trên mái nhà trọ giữa đêm khuya để ngắm sao. Ở kinh thành ta chưa từng nhìn thấy sao, vì vậy chàng dạy ta nhận các chòm sao, kể cho ta nghe những câu chuyện thần thoại từ các cuốn truyện mà chàng đã đọc. Một lần tình cờ, chúng ta vô ý bóc mất một miếng ngói trên mái nhà, đánh thức Nguyệt Nương dậy. Bà ấy mắt nhắm mắt mở cầm chổi đuổi theo chúng ta, miệng gầm gừ như muốn ăn tươi nuốt sống.
Vậy là ta cứ thế định cư lâu dài tại thành Mạc này, dù chẳng có người thân thích. Phụ mẫu thường gửi thư thúc giục ta trở về, nhưng ta luôn tìm cách trì hoãn.
Thỉnh thoảng ta cũng nhớ nhà, nhớ Giao Giao.
Ta luôn muốn kể với Giao Giao rằng ta sống rất tốt ở Tây Vực, nơi này thú vị lắm, ta kết bạn được với nhiều người mới. Nhưng nghĩ đến việc Giao Giao sẽ ghen tị rồi khóc lóc om sòm, nên mỗi lần viết thư ta chỉ báo rằng mọi thứ đều ổn, gần đây lại học thêm được kỹ thuật nấu rượu gì đó.
Giao Giao thì vẫn như cũ, viết vào thư đủ loại tin tức thị phi của hoàng thân quốc thích. Mỗi lần nhận thư đều là một tập dày cộp, khiến ta đọc mà hoa cả mắt. Ta luôn không nhớ nổi cậu công tử hay cô tiểu thư nào thuộc phủ nào, là con của vị phu nhân nào.