Tuyển Tập Tâm Lý Tội Phạm Lôi Mễ

Chương 36

Chương 36
Cát Bụi Lại Trở Về Với Cát Bụi

Dương Cẩm Trình lặng lẽ đứng trước bàn làm việc nhìn sợi dây thép trên cổ người chết, thở dài, lấy từ trong túi ra một chiếc USB lắp vào máy vi tính, sau khi di chuột bấm mấy lần rồi quay màn hình về phía Phương Mộc.
“Cậu tự xem lấy nhé.”
Đó là hai đoạn video. Đoạn thứ nhất, trợ lý Trần Triết đến đưa công văn, thấy Dương Cẩm Trình không có ở trong phòng, sau khi nhìn ngó xung quanh liền ngồi sau bàn làm việc, lắc la lắc lư trong chiếc ghế to rộng ấy, lại còn cầm chiếc cốc đựng nước trà của Dương Cẩm Trình lên uống một ngụm.
Đoạn thứ hai: Chính là đoạn quay cảnh thầy Châu siết cổ chết Trần Triết.
“Hắn chính là tên T mà các cậu đang tìm.”
“Vì sao tôi phải tin ông?” Phương Mộc nhìn vào mặt Dương Cẩm Trình: “Ông có chứng cứ gì không?”
Dương Cẩm Trình cười, lộ vẻ mệt mỏi: “Anh chắc chắn biết câu trả lời của tôi. Nhưng anh có thể cầm ảnh của Trần Triết đến cho Khương Đức Tiên và Quách Nhụy xem, chỉ cần nhìn thái độ của họ, cậu sẽ biết tôi nói đúng hay sai. Cậu không giống những người khác, tôi tin rằng cậu có khả năng phân biệt.”
“Thế thầy Châu vì sao lại phải giết Trần Triết?”
“Anh có thể kiểm tra túi của Trần Triết, ở đó chắc chắn có một cái sim điện thoại.” Dương Cẩm Trình chỉ vào Trần Triết: “Hắn ta gọi điện cho thầy Châu, nói tôi là anh T, để cho thầy Châu đến giết tôi.”
“Về sau thì sao?”
“Trần Triết đã thèm thuồng vị trí của tôi đã lâu rồi. Trong đoạn video vừa nãy cũng có thể nhìn thấy - thậm chí hắn ta còn bắt chước cả tôi đeo mặt nạ dưỡng da, dùng cốc của tôi uống nước. Nhưng rất không may cho hắn, tôi đã pha thuốc mê trong cốc nước ấy, thằng cha đen đủi này uống phải liền lăn ra ngủ, làm con ma thay cho tôi.”
“Ông đã cho thuốc mê vào cốc của mình à?”
“Đúng vậy. Bởi vì tôi bị mất ngủ rất nặng, muốn ngủ phải có nó, chỉ có điều chưa kịp uống.” Dương Cẩm Trình quay người về phía Phương Mộc: “Cậu cảm thấy lý do đó có hợp lý không?”
Phương Mộc tái mặt, bước gần hơn một bước: “Ông làm cách nào thuyết phục tôi đó không phải là kế hoạch của ông?”
“Tôi vốn không định thuyết phục cậu!” Dương Cẩm Trình không hề nhượng bộ nhìn thẳng vào mắt Phương Mộc: “Nhưng cậu cũng không có cách nào chứng minh đó là kế hoạch của tôi, đúng không?”
Phương Mộc nhìn ông ta một lúc rồi chậm rãi nói: “Ông đã biết thầy Châu sẽ đến giết mình, cho nên tìm cách lừa cho Trần Triết uống cốc nước của ông, đợi cho hắn hôn mê, ông đã phủ mặt nạ dưỡng da lên mặt anh ta, sau đó lặng lẽ chờ thầy Châu đến giết người. Như thế, ông vừa trừ khử được Trần Triết, lại ép buộc được thầy Châu phải chết, đúng không?”
Dương Cẩm Trình cười mà như không cười, không thừa nhận mà cũng không phủ nhận.
Dưới lầu bỗng vọng lên tiếng còi ú, Dương Cẩm Trình bước đến bên cửa sổ nhìn xuống, rồi quay lại nói: “Cảnh sát đến rồi. Sau khi họ bước vào phòng làm việc này, tôi sẽ không nói gì nữa. Cậu còn điều gì cần hỏi nữa không?”
Phương Mộc không nói gì chỉ nhìn ông ta, răng nghiến ken két.
Thất bại, thất bại thảm hại.
“Thôi được.” Dương Cẩm Trình cười: “Cuối cùng, tôi khuyên anh một câu, đừng áp dụng hình thức điều tra nào với tôi. Anh cũng tự biết, như thế không có giá trị gì, chỉ làm lãng phí thời gian của anh và tôi mà thôi.”
Phương Mộc cảm thấy mọi mạch máu trong người đều dồn cả lên đầu. Anh bất ngờ thò tay ra thắt lưng mở bao súng…
“Đừng đừng đừng.” Sắc mặt Dương Cẩm Trình biểu hiện như đang đối diện với một đứa trẻ lổ mãng nghịch ngợm: “Ở trong phòng này còn có con mắt thứ ba đấy, cậu đừng có mà ngu ngốc thế.”
Cửa bị đẩy mạnh ra, Biên Bình và Trịnh Lâm bước vào, nhìn thấy Phương Mộc và Dương Cẩm Trình đang đối diện nhau, cả hai người bất ngờ đứng ngây ra.
“Phương Mộc, đây là…”
Phương Mộc bỗng nhiên giơ một tay lên, ra hiệu cho Biên Bình đừng hỏi nữa. Anh gần như mất hết sức lực, loạng choạng bước qua hai người đồng nghiệp, từ từ đi ra cửa.
“Cảnh sát Phương!” Dương Cẩm Trình đột nhiên gọi tên anh ở đằng sau, giọng chứa đầy bi thương: “Thực ra tôi cũng rất buồn trước cái chết của thầy Châu.”
Phương Mộc không quay đầu lại, cũng không dừng bước, đi thẳng ra ngoài.
Vụ án mạng ở Sở Nghiên cứu Tâm lý thuộc viện Khoa học thành phố C đã kết thúc điều tra. Đoạn video thu được ở hiện trường đã đủ tài liệu chứng cứ chứng tỏ Châu Quốc Thanh (nguyên là Châu Chấn Bang) chính là hung thủ giết chết Trần Triết. Kẻ tình nghi giết người Châu Quốc Thanh đã sợ tội tự sát, vụ án khép lại.
Vụ án giết người hàng loạt Giáo hoá trường đi vào bế tắc. Do thiếu chứng cứ, Khương Đức Tiên và Quách Nhụy chỉ bị giám sát ở nơi cư trú, nếu trong 12 tháng, cảnh sát không tìm được chứng cứ thì phải bãi bỏ việc cưỡng chế.
Ở một quán trà bên cạnh bệnh viện thuộc trường Đại học Y, Phương Mộc đang ngồi đối diện với Khương Đức Tiên và Quách Nhụy.
Quách Nhụy ngồi im chẳng hề động lòng nhìn ra ngoài cửa sổ, đối diện bên kia đường, toà nhà lớn màu xám của viện Nội trú lặng lẽ đứng đó từ lâu. Còn Khương Đức Tiên không hẳn nhìn thẳng vào Phương Mộc, nhưng khuôn mặt anh ta gần như chết hẳn theo lời nói của Phương Mộc.
“Toàn bộ tình hình đã xảy ra là như vậy.” Phương Mộc bày ảnh của Trần Triết lên mặt bàn: “Hắn chính là anh T, đúng không?”
Quách Nhụy chỉ liếc qua tấm ảnh một cái rồi lại quay ra nhìn tòa nhà của viện Nội trú. Khương Đức Tiên ngắm nhìn tấm ảnh rất lâu, nhìn sắc mặt anh ta Phương Mộc khẳng định sự phán đoán trong lòng.
“Vì sao anh lại muốn nói với chúng tôi những điều này?” Một lúc sau, Khương Đức Tiên mới mở miệng một cách khó khán.
“Chẳng vì sao cả.” Phương Mộc lại châm thêm một điếu thuốc: “Là một luật sư, anh thừa biết chúng tôi không đủ chứng cứ để khởi tố anh. Nhưng việc này không can hệ gì, tôi chỉ cảm thấy nên cho anh chị biết rõ chân tướng của sự việc.”
Ba người lại trở nên im lặng.
Bỗng nhiên, Quách Nhụy đứng lên, hướng về phía Khương Đức Tiên và Phương Mộc cười một cái. Cô ta gầy đến mức chỉ còn cái xác, không thể tả hết được sự kỳ dị và thê thảm trong điệu cười ấy.
“Đến giờ vào thăm rồi!”
Nói xong, cô ta cầm túi xách, vội vã đi ra khỏi quán.
Đứng bên trong cửa sổ kính, Phương Mộc nhìn theo Quách Nhụy gầy trơ xương đi qua đường, chạy vào thang máy của viện Nội trú.
“Cảnh sát Phương!”
“Hả?” Phương Mộc quay lại, Khương Đức Tiên lần đầu tiên nhìn anh, như có điều muốn nói, nhưng chợt ngừng lại.
“Anh nói đi!” Phương Mộc hiểu được tâm sự của Khương Đức Tiên: “Tôi không mang theo thiết bị ghi âm.”
Khương Đức Tiên gượng cười, mắt nhìn ra cửa sổ.
“Thực ra, sau khi giết người xong, tôi cũng không cảm thấy thanh thản. Tôi tin rằng, những người khác cũng cảm thấy như tôi.”
Phương Mộc không biểu lộ tình cảm gì, nhìn Khương Đức Tiên, trong lòng dần dần dịu xuống.
“Chúng tôi thừa nhận tất cả.” Khương Đức Tiên hạ giọng nói: “Hãy cho tôi và Quách Nhụy một ít thời gian.”
Phương Mộc dụi tắt đầu mẩu thuốc vào gạt tàn, thở dài.
“Tuỳ anh thôi!”
Nói xong, Phương Mộc đứng dậy đi ra khỏi quán.
Trên sân ga tàu hỏa thành phố C, Liêu Á Phàm lưng đeo cặp sách bồn chồn nhìn khắp bốn phía, chốc chốc lại nhìn lên đồng hồ đeo tay bằng nhựa.
Cứ mỗi lần tiếng còi hơi vang lên, lại có một đoàn tàu tiến vào ga. Hàng đoàn người tay xách bao lớn bao nhỏ hành lý xuống tàu, lại hàng đoàn người tay xách bao lớn bao nhỏ hành lý lên tàu. Trên cái loa của nhà ga một giọng nói khô khốc thiếu cảm tình nhắc đi nhắc lại: “Vận chuyển hài hòa, xuất hành thuận lợi, đề nghị các quí khách…”
Tiếng còi của người điều độ viên đã cất lên, một nhân viên toa xe xông đến bên Liêu Á Phàm quát lên: “Cô có lên tàu không?”
Liêu Á Phàm nhìn lần cuối cùng ra phía cửa ga người ra vào như mắc cửi, nghiến răng, quay người nhảy lên toa tàu đang từ từ chuyển động.
Tiểu khu Trí Uyển,
Trong nhà Dương Cẩm Trình là một đống bừa bộn, quần áo, sách vở, tài liệu bày khắp nơi trong phòng. Dương Cẩm Trình mồ hôi đầm đìa đang cố gắng đậy cái va li đã được xếp đầy lại.
Đằng sau, trong phòng ngủ của Dương Triển vang lên tiếng đập phá liên tiếp, tiếng chai thủy tinh đập vào tường, có cả tiếng cố cậy ổ khoá cửa cành cạch.
Dương Cẩm Trình mặt tái xanh lại cầm lên một cái va li, xếp tất cả những bằng khen, giấy khen bày trong thư phòng cố nhét vào, vừa định kéo khoá lại thì nghe thấy tiếng chuông cửa.
Dương Cẩm Trình nhìn qua kính mắt mèo, thì ra là người hàng xóm.
Dương Cẩm Trình rủa thầm một câu, mở cửa ra, sốt ruột hỏi: “Gì thế?”
“Tiến sĩ Dương, nhà ông ầm ĩ mấy tiếng đồng hồ rồi, ngay cả ti vi tôi cũng không xem nổi…”
“Ông có thể đi tố cáo với ban quản lý nhà!” Dương Cẩm Trình cắt ngang, rồi đóng cửa lại để mặc ông hàng xóm đứng đó.
Vừa quay trở lại phòng khách lại nghe thấy tiếng Dương Triển gào thét: “Thả con ra đi! Thả con ra đi!”
Dương Cẩm Trình lòng dạ rối bài, hét lên: “Mẹ mày, câm miệng lại cho tao nhờ!”
Tiếng kêu gào trong phòng ngủ bỗng dưng im bặt. Dương Cẩm Trình thở phào nhẹ nhõm, giơ tay lên lau mồ hôi trán, kéo một cái ghế, hạ di ảnh của vợ xuống, sau khi lau chùi qua loa, cẩn thận bỏ vào một cái hộp đựng đầy bọt nhựa.
Bỗng nhiên, mũi ông ta ngửi thấy có mùi khét. Dương Cẩm Trình khịt khịt mũi, lập tức biết được cái mùi khét ấy xuất phát từ trong phòng ngủ của thằng con.
Dương Cẩm Trình luống cuống lấy chìa khoá, mở cửa ra xem. Dương Triển mặc đồ chuẩn bị đi ra ngoài đang dùng bật lửa đốt ga trải giường.
Dương Cẩm Trình không kìm nén được nữa, ông ta nắm tóc thằng con, tát cho nó hai cái thật mạnh, lại đá cho nó một cái văng vào góc nhà.
“Mẹ mày, định làm gì hả?” Dương Triển mồm miệng rớm máu cố gắng bò dậy, hướng về phía Dương Cẩm Trinh gào lên: “Con không đi! Con không ra nước ngoài đâu!”
Dương Cẩm Trình mặt đỏ lên tiện tay bê cả bể cá trên bàn, ném mạnh về phía nó.
Chiếc bể cá rơi cách bên trên đầu Dương Triển không đến nửa mét, vỡ tan trong chớp mắt. Cá, nước, mảnh thuỷ tính vỡ rơi lả tả xuống cạnh người Dương Triển. Thằng bé sợ quá kêu thét lên, hai tay ôm đầu, nấp vào góc phòng run lẩy bẩy.
“Mẹ mày còn quậy nữa ông đánh chết.” Nói xong, Dương Cẩm Trình hâm hâm lôi tấm ga trải giường còn đang bốc khói đi vào phòng vệ sinh.
Ném tấm ga trải giường vào chậu rửa, Dương Cẩm Trình bực tức trở lại phòng khách tiếp tục sắp xếp hành lý, mồm tiếp tục chửi bới:
“Đồ ngu! Bố mày vất vả thế này là vì cái gì? Không phải vì mày thì là vì con mẹ mày à! Cả đời tao đã gây nên tội tình gì mà lại sinh ra cái thằng ăn hại như mày cơ chứ…”
Dương Cẩm Trình mải mê lật giở kiểm tra những tư liệu thư tịch, có cái ông ta trực tiếp vứt bỏ, có cái cho vào va li hành lý nên không cảm thấy Dương Triển đã đứng ngay đằng sau như một bóng ma.
Ông ta lại càng không nhìn thấy Dương Triển đang cầm trong tay một khẩu súng côn quay.
Dương Triển mặt giàn giụa nước mắt thổn thức không ra lời, hai mắt đỏ lừ chứa đầy nỗi tuyệt vọng.
Nó run rẩy giơ súng lên…
Người cảnh sát trật tự tiến sân ga đã chú ý đến thằng bé mấy ngày nay. Hàng ngày nó đều xuất hiện rất đúng giờ trên sân ga, sau đó nó chăm chú quan sát những người khách chuẩn bị lên tàu, như đang tìm người nào đó.
Ngày thứ 4, sau khi đoàn tàu chuyển bánh, nó hình như đã thôi ý định tìm kiếm. Sau khi đứng hồi lâu trên sân ga, nó đến xe bán đồ ăn mua một cái bánh hamburger và một lon cô - ca, ngồi trên ghế đợi tàu thong thả ăn hết. Sau đó, nó đặt cái khuyên tròn trên nắp lon cô - ca vào lòng bàn tay, lật đi lật lại chăm chú ngắm nhìn rồi ném cái lon rỗng ra xa.
Cái vỏ lon trống rỗng lăn lông lốc trên mặt đất, cuối cùng lọt xuống dưới đường kẻ, nằm im lìm giữa hai thanh ray.
Người cảnh sát thấy thằng bé đi về phía mình, bước đi ung dung, sắc mặt bình thản.


Vĩ Thanh
Khung Cảnh Phía Sau Chốn Đô Thành

‘Báo buổi sớm’ thành phố C trích tin đã đưa ngày 6 tháng 2:
…Một người họ Dương nào đó thông báo cậu ta đã ném khẩu súng mình đã dùng xuống hồ nhân tạo to nhất thành phố - Bắc Hồ. Cảnh sát đã ngay lập tức tổ chức thợ lặn tiến hành mò tìm, nhưng cho đến khi bản tin này được phát đi khẩu súng vẫn chưa được tìm thấy. Trước mắt, vụ án đang được tiến hành điều tra.
Trích tin đã đưa ngày 10 tháng 3:
… Người họ Dương lúc bắn chết bố chưa đầy 14 tuổi, chưa đủ tuổi cấu thành tội phạm, hiện không còn ai thân thích. Sở Công an thành phố C quyết định đưa Dương Triển cải tạo tại trại Giáo dưỡng thiếu niên hư thành phố C.
Trích tin đã đưa ngày 22 tháng 3:
… Sau khi Phó tổng giám đốc công ty Hầu và bảy người có liên quan đến tội phá hoại bị Sở Công an bắt theo pháp luật, công ty bất động sản Hằng Kim lập tức lên tiếng thanh minh. Hành vi của Phó tổng giám đốc Hầu và những người khác là hành vi cá nhân, không có liên quan đến công ty bất động sản Hằng Kim. Theo tin cho biết, trong số đó một người đàn ông tên là Vũ Tử bị buộc tội cố ý giết người không thành…
Sau khi thầy Châu chết một tháng, Khương Đức Tiên ly hôn với vợ con, tất cả tài sản đều để lại cho vợ. Ba tháng sau, vợ và con Khương Đức Tiên nhập cư Singapo.
Một tuần sau, Đàm Kỷ chết âm thầm trong bệnh viện thuộc Đại học Y. Ngày hôm sau, Khương Đức Tiên và Quách Nhụy đến đầu thú tại Sở Công an thành phố C. Đến đây việc điều tra vụ án giết người hàng loạt Giáo hoá trường kết thúc và chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát khởi tố.
Một trường tiểu học thành phố C. Hoàng hôn.
Trên sân thể thao không một bóng người, bóng đêm đang dần dần nuốt chửng đường chạy điền kinh màu đất đỏ và thảm cỏ nhân tạo. Trên cái đu ở góc đông bắc sân trường, thấp thoáng một cái bóng nhỏ bé.
Hạ Thiên ngồi lắc lư thong thả trên cái đu, trong đôi mắt trống rỗng của nó một màu đen kịt, không một tia sáng. Nó hát khẽ ngân nga, nhạc điệu cổ quái, lời ca lẫn lộn, giống như những lời lẩm bẩm ú ớ của kẻ đang nằm mơ.
Dưới chân nó, một con chó nhỏ bị day đi day lại. Theo chiều đu đưa của cái đu, bộ lông mượt mà của con chó cũng lật đi lật lại dưới gót giày của Hạ Thiên.
Đêm tối, trên các con đường của thành phố C.
Phương Mộc lái chiếc xe Jeep, sục tìm khắp hang cùng ngõ hẻm, mỗi lần nhìn thấy bóng một bé gái tuổi thanh niên, anh đều cho xe đi chậm lại, sau khi nhìn rõ mặt mới lại chạy tiếp.
Điện thoại di động rung liên tục, Phương Mộc không chú ý lắm, chỉ nhìn qua màn hình một cái rồi quăng điện thoại ra ghế sau.
Anh đèn đường vàng vọt thoắt ẩn thoắt hiện lướt qua mặt anh, Phương Mộc đã rất mệt mỏi, nhưng ánh mắt anh vẫn sắc bén, lo lắng và ngoan cố.
Trước cửa trại Giáo dưỡng thiếu niên hư, 20 học viên bị tập trung giáo dưỡng đang chuyển những viên thủy tinh lên một chiếc xe tải. Sau khi xếp hàng xong, chiếc xe tải nổ máy ầm ầm chạy đi. Những nhân viên xếp thành hàng để người quản giáo đếm quân số và điểm danh rồi trở vào trường.
Trong thùng chiếc xe tải tối om, một cái sọt to chất đầy trân châu bỗng nhiên lắc lư. Tiếp theo những hạt trân châu đang rơi rào rào xuống sàn xe một thằng bé đầu đội một tấm ván từ trong sọt đứng lên.
Chiếc xe tải dừng lại chờ đèn đỏ tại một ngã tư, sau khi khởi động trở lại thì người cảnh sát giao thông giật mình trợn mắt lên khi thấy cửa sau của chiếc xe tải bị mở ra, những sọt trân châu to tướng trên thùng xe lung lay như sắp đổ.
Người cảnh sát thổi còi, khởi động xe mô tô chạy đuổi theo.
Một cái bóng màu xám nhỏ bé vội vàng vọt qua đường, chui vào một cái ngõ nhỏ.
Khi quay trở ra, nó đã thay một bộ thường phục rõ ràng là không vừa lắm, thong thả đi dọc theo đường cái.
Bức tường ở sân Thiên sứ Đường đã bị đập bỏ, căn nhà nhỏ hai tầng cũng tan hoang. Các loại phương tiện vận chuyển hạng nặng đang chuyển ra ngoài những ngói tàn gạch vỡ. Vườn rau ngày trước tràn đầy sự sống giờ đây ngập đầy rác thải xây dựng. Chỉ có ở trong khe hở này mới bắt gặp một chút màu xanh đang cố gắng giãy giụa.
Trên công trường đang di dời bụi đất bay mù mịt, thằng bé ngẩn người ra nhìn sự thay đổi hoàn toàn của Thiên sứ Đường, bất chấp bụi đất phủ đầy trên người, trên mặt.
Tiếng còi rít lên chói tai trên công trường, những người công nhân đang làm việc vội vàng lùi ra bên đường. Một người lái xe mồm ngậm thuốc lá, tinh thần linh hoạt, lái một chiếc xe cần cẩu chạy gần vào căn nhà hai tầng của Thiên sứ Đường. Những người công nhân đội mũ bảo hiểm, tay cầm dụng cụ, vừa cười nói vui vẻ vừa đứng chờ.
Cánh tay dài ngoẵng của chiếc xe cẩu từ từ chuyển động, quả cầu sắt to đu đưa trong lúc hạ xuống, người lái xe lấy chuẩn mục tiêu, đưa quả cầu sắt đập mạnh vào ngôi nhà nhỏ.
“Rầm.” Ngôi nhà nhỏ hai tầng đung đưa, từng mảng gạch to tướng rơi xuống, nhưng nó vẫn chưa chịu đổ sập.
Những người công nhân vây quanh bắt đầu ồn ào, người lái xe thổi phù điếu thuốc trên miệng, khởi động lại quả cầu sắt đập tiếp.
“Rầm.” Ngôi nhà nhỏ không trụ được nữa, sập xuống sau tiếng rạn vỡ khủng khiếp.
Tiếp theo sự sập đổ của ngôi nhà, khói bụi bốc lên dày đặc, mấy người công nhân vừa nãy vẫn còn cười đùa tíu tít giờ chạy toả ra tìm chỗ nấp.
Chỉ có thằng bé vẫn đứng yên lặng, nhìn chằm chằm vào đám bụi đất đang bốc lên đầy mặt.
Mấy phút sau, bụi đất đã tạm lắng xuống.
Những người công nhân từng tốp hai, ba người trở lại công trường làm việc. Thằng bé lau bụi trên mặt thở dài một cái, rảo bước về phía cái cây to nhất trong sân. Mùa xuân đã đến. Cây đại thụ im lặng cả một mùa đông dài giờ bắt đầu lấy lại sức sống, đầu cành đã có thể nhìn thấy những mầm cây đang nhú lên. Thằng bé trèo lên một nhánh cây thò tay vào một tổ chim bỏ hoang lấy ra một cái túi ni lông màu đen.
Nó từ từ tụt xuống ngồi dựa vào gốc cây.
Trong túi ni lông có một vật được quấn bằng mấy lượt giấy báo, bên ngoài buộc dây đai. Thằng bé kiên nhẫn tháo dây đai và giấy báo, để lộ ra một khẩu súng côn.
Nó tháo ổ đạn ra một cách thành thạo, đổ hết sáu viên đạn ra lòng tay. Những vỏ đạn bằng đồng vân vàng óng, trơn bóng như mới. Thằng bé vứt đạn và vỏ đạn xuống đất, cẩn thận vuốt ve thân súng lạnh ngắt, lại bóp cò cho ổ đạn quay quay. Sự chuyển động thông suốt và tiếng cò súng lách cách làm cho nó rất mãn nguyện. Thằng bé nghịch mãi không chán. Nó phát hiện ra cả một mùa dông dài cũng không làm cho khẩu súng bị gỉ.
Trên khuôn mặt bẩn thỉu của nó hé nở một nụ cười.
Trên công trường không xa, tiếng người ồn ào, tiếng máy ầm ĩ, ai cũng chăm chỉ đập phá cái nơi trước đây đã từng là thiên đường. Không ai chú ý đến thằng bé, càng không ai chú ý đến cái vật mà nó cầm trong tay.
Thằng bé đứng bất động nhìn cái bãi hoang tàn và đám người bận rộn, một lát sau, nó cúi đầu, tìm nhặt lại những viên đạn lúc nãy vứt dưới đất, cuối cùng nó chọn một viên lắp vào ổ đạn. Nó tháo ổ đạn ra, quay một vòng, sau đó ‘cạch’ một tiếng lắp trả lại thân súng.
Xung quanh trở nên im ắng, chỉ nghe thấy tiếng chim trên cành cây vui vẻ kêu chiêm chiếp. Thằng bé khịt khịt mũi, như ngửi thấy mùi hương quen thuộc của cô bé xinh đẹp ấy.
Nó hướng về phía Thiên sứ Đường không còn tồn tại, bình tĩnh nhấc tay phải lên, đặt nòng súng vào thái dương.
Lạch cạch.
Lạch cạch.
-Hết-


Ngoại Truyện
Chiếc Hộp Của Skinner*

Năm 1993, trên tầng 15 khu nhà William James trong trường đại học Harvard Hoa Kỳ.
Cánh cửa của một gian phòng làm việc bỗng rộng mở. Một nam giới người châu Á bước ra, rồi đến một nam giới người Mỹ cao và gầy, ra sau.
“Cũng được, nếu giáo sư Châu vẫn giữ muốn như vậy.” Người Mỹ tiện tay khép cửa lại, nhún vai: “Có điều, ngài sẽ phát hiện ra rằng những cái hộp đó không thần kỳ như ngài tưởng tượng đâu!”
“Giáo sư Kolb, tôi làm phiền giáo sư quá.” Vị giáo sư họ Châu chân thành nói: “Rất cảm ơn ngài.”
Giáo sư Kolb gượng cười: “Không có gì. Nói thực tình, tôi đã quen rồi, các học giả ngoại quốc đến thăm trường đều rất muốn xem các thứ đó.”
Hai người vừa đi trên hành lang vừa trò chuyện. Vừa đi đến cửa thang máy, thì ở cửa một căn phòng đối diện có một phụ nữ tay ôm chồng tài liệu bước ra. Người phụ nữ ấy bước đi, và bỗng nhiên có một con chó đen xinh xắn lách giữa đôi chân của người phụ nữ chạy đến trước mặt giáo sư Kolb và ngẩng đầu sủa ầm lên.
Giáo sư Kolb giật mình, nhảy sang một bên để tránh nó.
Người phụ nữ vội cúi xuống ẵm con chó lên, luôn miệng xin lỗi: “Lạy Chúa, rất xin lỗi ngài giáo sư Kolb! Kìa, Curry, cưng ơi đừng thế nữa.”
Con chó giãy giụa trong lòng chủ nhân, nhao về phía giáo sư Kolb sủa ngậu xị.
“Đã là lần thứ ba rồi đấy, Meris!” Giáo sư Kolb vẫn chưa hết sợ: “Nếu cô vẫn cho nó ở đây thì cô phải để mắt đến nó chứ!”
Cầu thang máy đã lên đến tầng 15, sau tiếng chuông ‘keng’, cửa thang máy từ từ mở ra.
Giáo sư Kolb gần như nhảy vội vào thang máy, rồi ấn ngay nút khép cửa lại, khi cửa đã khép kín, thang máy bắt đầu đi xuống, vẻ mặt ông mới dãn ra phần nào.
Giáo sư Châu mỉm cười: “Giáo sư Kolb không thích chó à?”
“Đâu chỉ là không thích?” Giáo sư Kolb lau trán lấm tấm mồ hôi: “Tôi cực ghét cái lũ quỷ sứ lông xù ấy!”
“Xin lỗi ngài.”
“Không có gì.” Giáo sư Kolb nhún vai: “Hồi 9 tuổi tôi đã từng bị chó hàng xóm cắn vào đây này…” Ông chỉ vào bắp chân mình: “Cho nên tôi vẫn ngán lũ động vật này…”
Nói đến đây, giáo sư Kolb bỗng nhớ ra điều gì đó, ông nháy mắt với giáo sư Châu: “Theo lý luận của Skinner, thì tôi vừa bị tác dụng phụ của uy lực.”
“Ha ha…” Giáo sư Châu cũng bật cười: “Ngài cũng nên coi chuyện vừa rồi là một lần điều trị để giảm bớt nhạy cảm.”
“Chúa ơi!” Giáo sư Kolb làm bộ ‘đau khổ’ một cách hài hước: “Đừng đùa nữa, ông Châu thân mến của tôi.”
Lại một tiếng ‘keng’, thang máy dừng lại, cửa từ từ mở ra.
Họ đã xuống đến tầng hầm.
Bước trên những bậc cầu thang đi xuống, giáo sư Châu dần thích nghi với ánh sáng yếu ớt. Các thứ bày trong vùng tối dần hiện ra rõ hình hài. Kê sát tường là những chiếc tủ kính cực to, thấp thoáng trong nó là một vật màu trắng, có những góc nhòn nhọn thì phải. Giáo sư Châu bước lại gần những cái tủ ấy, nhận ra trong đó là những tiêu bản của một giống chim nào đó, được dựng cố định ở tư thế đang bay. Ông lặng lẽ nhìn những cái đầu với vô số lỗ thủng nhỏ li ti và hốc mắt trên đó, thầm nghĩ, nếu những con chim này đang bay lượn trên không trung thì cảnh tượng đó sẽ như thế nào.
“Ngài Châu!” Giáo sư Kolb chỉ vào một góc trong tầng hầm: “Ở kia!”
Giáo sư Châu nhìn về hướng ông ta chỉ. Có mấy cái hộp được đặt cạnh nhau và lặng lẽ xếp ở một góc. Hơi thở của ông bỗng gấp gáp, ông đứng nguyên tại chỗ một lúc rồi từ từ bước lại.
Những cái hộp này trông rất bình thường không có gì đặc biệt, lại có vẻ không mấy kiên cố, rất dễ bị long ra. Điều khiến ông kinh ngạc là chúng lại có màu xám, không hề bắt mắt.
Giáo sư Châu lẩm bẩm: “Những cái hộp của ông Skinner màu đen kia mà?”
“Ha ha… có rất nhiều vị cũng hỏi cái câu này.” Giáo sư Kolb bật cười: “Có trời mới biết, tại sao họ lại nghĩ rằng hộp của ông Skinner phải là màu đen. Chắc là để tăng thêm cảm giác bí hiểm.”
Dưới ánh sáng âm âm, khó mà nhận ra những cái hộp này làm từ chất liệu gì. Bề mặt không nhẵn nhụi, lại còn được lắp thêm tay nắm và trục xoay của thiết bị ghi chấn động, và các loại tay gạt nho nhỏ để điều chỉnh. Giáo sư Châu đi vòng quanh, cúi xuống quan sát tỉ mỉ những cái hộp này. Ông nín thở, dường như e ngại rằng hơi thở của mình sẽ làm bay lớp bụi mỏng trên bề mặt của chúng; với ông, những hạt bụi li ti này cũng hết sức thiêng liêng, không được phép xâm phạm.
“Không sao đâu, ngài Châu.” Giáo sư Kolb nhận ra sự e ngại của ông Châu: “Ngài có thể sờ vào chúng.”
Giáo sư Châu mỉm cười cảm ơn ông Kolb, rồi lại nhìn vào những cái hộp. Ông hít sâu một hơi, rồi thò tay vào sờ thử các chi tiết. Sau đó hình như bạo dạn hẳn lên, ông nhẹ nhàng quay một cái trục, ấn thanh gạt điều khiển của cái hộp. Nơi ngón tay có cảm giác rin rít nằng nặng, hình như kể từ ngày Skinner đi xa, những cái hộp này không được chăm sóc bảo dưỡng.
Những điều này khiến ông Châu cảm thấy hơi bất bình.
Ông đứng thẳng người lên, từ từ đưa tay vào ô cửa nho nhỏ của cái hộp; đồng thời ông quay sang nhìn giáo sư Kolb như có ý dò hỏi.
Giáo sư Kolb nhún vai, làm động tác tay tỏ ý ‘cứ tự nhiên’.
Giáo sư Châu kéo cánh cửa nhỏ ra, thoáng do dự, rồi ông thò đầu vào.
Một thứ mùi pha trộn đủ thứ bỗng phả ra, hình như là mùi phân chim, thức ăn cho chim và mùi lông vũ bị mục. Thứ mùi rất thật, thậm chí mũi có cảm giác ngưa ngứa vì những sợi lông chim li ti lướt qua mũi. Cổ giáo sư Châu nổi da gà, toàn thân ông khẽ run run. Ông nhìn những mảnh gỗ xinh xắn làm bàn đạp cho chim, những cái chén mộc mạc đựng thức ăn cho chim mổ, rồi, ông bỗng có cảm giác kỳ lạ vừa muốn chạy trốn lại vừa muốn tìm hiểu kỹ hơn nữa.
Skinner đã từng dùng những thiết bị này để thực nghiệm về sức mạnh của sự cường hóa gián tiếp. Tuy lý luận của ông đã bị chỉ trích rất nhiều, nhưng rõ ràng là ông đã chỉ ra những hành vi nào của con người có thể được bồi dưỡng, được nhân lên hoặc bị xóa bỏ.
Vào lúc này, giáo sư Châu có cảm giác rất tự hào vì mình được tham dự vào lịch sử. Thậm chí ông khao khát được làm con chim bồ câu hoặc con chuột để Skinner dạy bảo, khen ngợi hoặc trừng phạt.
Đúng vào lúc này thì đèn trong tầng hầm nhấp nháy mấy lần, rồi tắt ngấm.
“Chúa ơi!” Giáo sư Kolb kêu lên: “Giáo sư Châu có cần tôi đi kiếm chiếc đèn pin cho ông không?”
Bóng tối bất ngờ ập đến, giáo sư Kolb hoàn toàn không nhìn thấy gì trước mặt nữa, và, người Trung Quốc đang đứng gần ông cũng không trả lời ông.
“Ngài Châu?” Sau mấy giây chờ đợi, ông Kolb không nén nổi nữa. “Ngài vẫn ở đây đấy chứ?”
Trong bóng tối, mọi vật dưới tầng hầm này dần hiện lên bóng dáng lờ mờ của nó. Giáo sư Kolb nhìn thấy một bóng đen vẫn đang đứng bên cái hộp.
“Không cần, cảm ơn ngài Kolb.” Giọng của bóng đen cứ như đang nói mê: “Tôi nghĩ, cứ thế này là được rồi.”
Họ lên khỏi tầng hầm, trở lại chốn nhân gian ấm áp. Giáo sư Kolb như không chịu nổi ánh mặt trời quá mạnh, ông rút khăn tay ra lau đôi mắt, rồi ngoảnh nhìn giáo sư Châu. Giáo sư Châu thì đang nhìn mãi về phía thảm cỏ xanh ở phía xa xa, cứ như người mất hồn.
Giáo sư Kolb lấy làm lạ, những ai đã xem những cái hộp Skinner thì hoặc là phấn chấn, hoặc là thất vọng, hoặc thấy nhẹ nhõm, chứ vẻ mặt như của vị giáo sư người Trung Quốc này, lần đầu tiên ông nhìn thấy.
“Ngài Châu vẫn ổn đấy chứ?”
“Hả?” Giáo sư Châu tỉnh ra: “Vâng, tôi rất ổn.” Ông nghĩ ngợi, rồi khẽ hỏi: “Câu chuyện về con gái ông ta, có thật không?”
“Không. Đó chỉ là lời đồn đại. Trong lễ tang ngài Skinner tôi còn nhìn thấy cô ấy.” Giáo sư Kolb quay người lại, đối diện với ông Châu: “Giáo sư Châu! Ở Trung Quốc cũng có rất nhiều người tôn sùng ngài Skinner phải không?”
“Vâng.” Giọng ông Châu rất kiên định: “Tôi là một trong số đó.”
“Vậy là, ngài cũng cho rằng nhân loại không có ý chí tự do?”
Ông Châu gật đầu: “Có lẽ ý chí tự do là một thứ phản ứng ngầm đối với thế giới bên ngoài.”
Giáo sư Kolb lặng lẽ nhìn ông Châu mấy giây, rồi nói: “Ngài cho tôi xin điếu thuốc lá, được không?”
Ông Châu hơi ngạc nhiên, nhưng vẫn lấy trong túi áo ra bao thuốc, rút một điếu ra mời và châm lửa cho ông Kolb.
“Tôi không biết giáo sư Kolb cũng hút thuốc.”
Giáo sư Kolb thận trọng rít một hơi thuốc lá, rồi bỗng ho sặc sụa.
“Không… thưa ngài, tôi chưa bao giờ hút thuốc lá.” Giáo sư Kolb vất vả lắm mới dừng được cơn ho, ông vẫn thở hơi gấp gáp: “Nhưng lúc này tôi lại làm thế - không phải là xuất phát từ ý chí tự do hay sao?”
Giáo sư Châu bật cười, nhưng nét cười lập tức chuyển sang nét buồn bã.
“Giáo sư Kolb có hiểu về Trung Quốc không?”
“Hiểu rất ít.” Hai ngón tay giáo sư Kolb vân vê điếu thuốc đang cháy dần ngắn lại, và gắng chìa nó ra càng xa mình hơn.
“Trong mười năm từ năm 1966 đến năm 1976, ở Trung Quốc có một phong trào…” Giáo sư Châu chăm chú nhìn giáo sư Kolb: “Hồi đó được gọi là cách mạng văn hóa.”
“Tôi có biết chuyện đó.” Vẻ mặt giáo sư Kolb trở nên nặng nề: “Đó là một tai họa, đúng không?”
“Đúng! Cho nên về sau chúng tôi gọi nó là kiếp nạn mười năm.” Giáo sư Châu nhìn sang chỗ khác: “Trong mười năm ấy, thân thể và tinh thần tôi đã bị tổn thương nghiêm trọng.”
“Ôi, thưa ngài, tôi rất xin lỗi.” Vẻ mặt giáo sư Kolb đầy vẻ băn khoăn: “Lẽ ra tôi không nên nhắc đến chuyện đó.”
“Không sao.” Giáo sư Châu mỉm cười: “Đó là một thời kỳ rất bất thường có tính chất toàn dân, ai ai cũng dấn thân vào một cách cuồng nhiệt. Hành vi của người Trung Quốc được vun đắp bởi lịch sử và văn hóa mấy ngàn năm, dường như đã bị lật nhào chỉ trong phút chốc. Cho nên, bấy lâu nay tôi luôn muốn biết nguyên nhân.”
Ông quay nhìn tòa cao ốc màu trắng ở phía sau, khẽ nói: “Có lẽ, Skinner có thể giải đáp câu hỏi này.”
“Nhưng…” Giáo sư Kolb nhún vai: “Ông ấy đã không còn nữa.”
“Nhưng lý luận của ông ấy vẫn còn.” Giáo sư Châu quay lại nhìn giáo sư Kolb, và tủm tỉm cười pha nét sâu xa, bí hiểm: “Thậm chí, chúng tôi có thể để ông ấy phục sinh - ở Trung Quốc.”
Mùa xuân năm 1999. Trường Đại học Sư phạm thành phố C.
Giờ lên lớp buổi sáng đã kết thúc, tiếng chuông tan lớp vang lên. Đám sinh viên ùa ra khỏi các lớp học, rồi rảo bước sang lớp học khác, đi thư viện hoặc trở về ký túc xá ngủ bù. Giáo sư Châu Chấn Bang vẫn còn đứng trên bục giảng sắp xếp lại giáo án. Các động tác của ông rất chậm, ánh mắt ông vẫn chú ý đến một nam sinh ở góc lớp học. Anh ta không ngớt nhìn ngó hai bên và thu xếp cặp sách, rất chậm.
Các bạn nhanh chóng ra về hết. Anh ta có vẻ hơi căng thẳng rảo bước lên chỗ bục giảng, rồi lấy từ cặp sách ra mấy tờ giấy, đưa cho giáo sư Châu Chấn Bang.
Ông cầm lấy, và lướt nhìn một lượt.
“Đây là những biểu hiện của họ trong tuần qua à?”
“Vâng. Kể từ sau khi thầy biểu dương Dương Lập, cậu ấy đặc biệt hứng thú với môn học này, đã mấy lần đến thư viện rồi trở về nói chuyện với em về tác dụng của ám thị, tác dụng của người ngoài cuộc…” Anh sinh viên có ý hạ thấp giọng và không ngớt nhìn xung quanh: “Còn Dư Lạc Bình thì… cậu ấy không dám đọc truyện trong giờ lên lớp của thầy, ngay đem theo cũng không dám nữa. Mấy hôm trước, cậu Bình còn vay của các bạn trong ký túc xá 100 tệ để đền sách cho thư viện - vì hai cuốn truyện bị thầy xé bỏ khá đắt.”
“Được! Tôi hiểu rồi.” Châu Chấn Bang cẩn thận cất mấy tờ giấy vào cặp: “Cảm ơn cậu.”
“Thưa thầy, xin thầy giữ kín các chuyện này cho em.” Anh ta ghé sát người lại: “Nếu họ biết là em tố giác thì họ sẽ tẩy chay em mất thôi.”
“Đây không phải là tố giác.” Châu Chấn Bang mỉm cười: “Đây là nghiên cứu khoa học - là một phần của tâm lý học thực nghiệm.”
Anh ta gật đầu, hình như cảm thấy được an ủi phần nào. Rồi anh ta lại nghĩ ngợi, và hơi đỏ mặt.
“Thưa thầy, năm nay em định vào Đảng, thầy cũng biết là…” Anh ta hơi lúng túng mỉm cười: “Điểm thi cuối học kỳ của em… nên được điểm cao một chút…”
“Tôi đã nhận lời với cậu rồi mà.” Châu Chấn Bang khẽ vỗ vai anh ta: “Cứ yên tâm. Nhưng vẫn cần cậu giúp tôi quan sát hai cậu kia.”
“Vâng ạ, em xin hứa…” Anh ta liên tiếp gật đầu.
Châu Chấn Bang vừa đi ra khỏi khu nhà dạy học thì có một nam giới đứng bên chiếc xe hơi Audi đỗ bên đường chạy lại, đón lấy chiếc cặp trong tay ông.
“Cẩm Trình? Sao cậu lại đến đây?” Châu Chấn Bang hơi ngạc nhiên: “Cậu đang ở trong bệnh viện chăm sóc cô ấy kia mà?”
“Vẫn là bệnh cũ thôi mà, không sao ạ.” Dương Cẩm Trình mở cửa xe, chờ Châu Chấn Bang ngồi vào ghế sau, anh đóng cửa lại, rồi anh vòng qua mũi xe, ngồi trước vô-lăng.
“Về luôn Ban nghiên cứu, phải không ạ?” Dương Cẩm Trình vừa thắt dây an toàn vừa hỏi.
“Về đó.” Châu Chấn Bang tựa vào lưng ghế: “Tôi hơi mệt, về nghỉ một lát đã.”
Chiếc xe ra khỏi trường Đại học Sư phạm, chạy về hướng trung tâm thành phố. Thành phố này đang có những dấu hiệu phục hồi sau mùa đông, đó đây trên mọi góc phố thấp thoáng những màu xanh của lộc non mới nhú. Thành phố sau mấy tháng bị bụi xám bụi nhờ nhờ hoành hành cũng đã dần khoe ra càng nhiều hơn những sắc màu. Châu Chấn Bang mỉm cười nhìn những tốp người rất đa dạng đang đi lại trên đường.
“Thầy ạ, học kỳ sau thầy đừng lên lớp ở Đại học Sư phạm nữa.” Xe dừng lại chờ đèn đỏ, Dương Cẩm Trình nói: “Thầy quá bận rộn rồi, còn dành thì giờ để lên lớp cho sinh viên chính quy, e sẽ rất mệt mỏi.”
“Bộ môn tâm lý ở Đại học Sư phạm mấy năm qua không phát triển mấy, nhân lực bị thiếu nghiêm trọng.” Châu Chấn Bang khẽ thở dài: “Tôi vốn trưởng thành từ Đại học Sư phạm, các lãnh đạo cũ đứng ra mời tôi, tôi nỡ từ chối hay sao? Cứ nên giúp họ xây dựng đội ngũ giảng viên đã rồi tính sau.”
Đèn xanh. Dương Cẩm Trình nhấn ga chạy lên.
“Em rất lo lắng cho thầy.” Dương Cẩm Trình nhìn Châu Chấn Bang qua gương chiếu hậu: “Mấy năm nay thầy già đi rất nhanh.”
“Là quy luật tự nhiên thôi mà.” Châu Chấn Bang vuốt tóc, bật cười: “Có muốn trốn cũng chẳng được.”
“Thầy đừng nghĩ thế.” Dương Cẩm Trình lớn tiếng một cách hài hước: “Nói câu hơi khó nghe - thầy phải sống đến ngày hoàn thành Kế hoạch về môi trường giáo hóa!”
Nhắc đến chuyện này, Châu Chấn Bang bỗng trở nên nghiêm nghị, ông hơi rướn người về phía trước, khẽ hỏi: “Báo cáo theo dõi phần một của giai đoạn hai, đã chỉnh lý xong chưa?”
“Đã xong cả rồi.” Giọng Dương Cẩm Trình rất dứt khoát: “Thầy xem xem hôm nào thuận tiện, em sẽ đến phòng làm việc của thầy để báo cáo với thầy?”
“Về những người tình nguyện thì sao?”
“Nửa đầu số tình nguyện viên đã được nhận thù lao, giao kèo về bảo mật cũng đã được ký kết. Nửa số tình nguyện viên tiếp theo, đang kêu gọi, vẫn còn thiếu vài người nữa.”
“Nên tranh thủ thời gian.” Châu Chấn Bang rất hài lòng với hiệu suất làm việc của Dương Cẩm Trình. Ông lại rướn người về phía trước nhìn hai bên đường phố ồn ã lao xao, không mục đích. Ánh mắt ông bỗng dừng lại ở một vị trí, không dời.
“Cẩm Trình, dừng xe!”
Mệnh lệnh đột ngột đưa ra khiến Dương Cẩm Trình hơi bất ngờ, anh vội giảm tốc độ rồi đỗ xe bên đường. Không đợi xe dừng hẳn, Chu Chấn Bang đã nhảy xuống đường rồi rảo bước trở lại một ngã tư ở đoạn phố phía sau.
Ở đó có hai nam giới một già một trẻ đang đứng chờ ở đầu tuyến sơn vạch trắng dành cho người đi bộ, chờ đèn xanh sáng lên. Ông già ngồi trên xe lăn, nam giới trẻ tuổi một tay đặt lên lưng ghế, tay kia đút túi quần, bình thản không sốt ruột.
Châu Chấn Bang vội bước đến. Lúc này đèn đỏ đã bắt đầu nhấp nháy, người trẻ tuổi đã đẩy cái xe nhúc nhích. Châu Chấn Bang gần như chạy vụt đến và giữ cái xe lăn lại, kêu lên: “Kìa, anh Vương!”
Động tác này khiến cả hai người bọn họ giật mình. Ông già mở to mắt nhìn Châu Chấn Bang một lúc, rồi bỗng xúc động kêu lên.
“Anh Châu! Đúng là anh Châu rồi!”
Dương Cẩm Trình khóa cửa xe, rồi vội chạy đến nơi. Châu Chấn Bang và ông già kia đang ôm chầm lấy nhau, nắm tay vỗ vai rất thân thiết. Anh thanh niên thì bình thản đứng sang một bên, buồn tẻ nhìn đèn xanh đỏ.
Chắc họ là bạn lâu năm mới gặp. Dương Cẩm Trình nhã nhặn mỉm cười với anh ta, và lặng lẽ đứng đó chờ đợi. Có thể nhận ra Châu Chấn Bang và ông già kia đều rất hưng phấn, cả hai luôn miệng hỏi han tình hình của nhau và nói về cuộc sống của mình. Đứng bên nghe một hồi, Dương Cẩm Trình nhận ra mấy nét chính: ông già có cuộc sống bình dân, vợ đã mất, anh con trai duy nhất đang chờ xin việc làm. Ông rất ngưỡng mộ vị trí và danh phận của giáo sư Châu Chấn Bang hiện nay, ông luôn gọi anh con trai hãy ‘làm quen với chú Bang’. Anh ta luôn nở nụ cười, và cũng đoán ra ‘chú Bang’ đang là nhân vật đình đám.
Từ xa, Dương Cẩm Trình nhìn thấy một cảnh sát giao thông đang đứng bên chiếc xe Audi, anh đành nhắc ông Châu Chấn Bang rằng đoạn phố này không được đỗ xe.
Châu Chấn Bang vẫn còn rất lưu luyến, ông hỏi số điện thoại của ông già họ Vương, rồi mới bắt tay chào tạm biệt hai cha con họ.
Trở lại xe, vào ngồi rồi, Dương Cẩm Trình tò mò nhìn ông già kia vẫn đang giơ tay vẫy, và hỏi ông Châu Chấn Bang: “Vương tiên sinh là thế nào với thầy?”
Châu Chấn Bang cũng đang giơ tay vẫy cho đến khi không nhìn thấy bóng họ nữa, rồi mới ngồi ngay ngắn trên ghế.
“Vương huynh là bạn cũ từ thời tôi phải về nông trường cải tạo lao động*, hồi đó ông ấy là công nhân nhà máy nước, và bị coi là phần tử cánh hữu.” Châu Chấn Bang dường như vẫn đang chìm trong niềm vui tái ngộ với bạn cũ và những mối thương cảm về một thời đã qua: “Hồi đó tôi thể lực kém, nếu không được Vương huynh chăm sóc cho thì có lẽ tôi chẳng còn được sống đến bây giờ.”
Châu Chấn Bang và Dương Cẩm Trình cùng trầm mặc một lúc. Ông ngồi nhìn ra ngoài cửa kính cứ như người mất hồn. Dương Cẩm Trình hiểu rằng, điều tốt nhất đối với Châu Chấn Bang lúc này là: đừng quấy rầy.
Khi xe chạy đến gần Ban nghiên cứu tâm lý thuộc Viện khoa học xã hội thành phố C, thì dòng suy tư của Châu Chấn Bang cũng trở về với hiện thực.
“Cẩm Trình, tôi nghỉ trưa một lát, chiều, cậu báo cáo với tôi về tình hình thực hiện phần một nhé!”
“Có lẽ chiều nay thầy nên nghỉ, đừng làm việc nữa thì hơn.” Dương Cẩm Trình lái xe vào sân Viện khoa học xã hội: “Hôm nay là ngày gì, thầy quên rồi hay sao?”
Chu Chấn Bang chưa hiểu: “Là ngày gì?”
“Sinh nhật của thầy.”
Tiệc mừng sinh nhật ông Châu Chấn Bang tổ chức tại đại sảnh của khách sạn tỉnh. Toàn thể nhân viên Ban nghiên cứu tâm lý đều đến dự. Châu Chấn Bang thường không ưa thích cái cách chúc mừng như thế này, nhưng lại không nỡ phụ lòng mọi người. Nhất là khi Dương Cẩm Trình đưa ra mấy chai rượu Ngũ Lương mà anh đã nhờ bạn mua hộ, thì Châu Chấn Bang cảm thấy mình cũng nên thư giãn một chút.
Thế là mọi người đều vui vẻ thoải mái hết cỡ. Năm chai rượu được dốc chổng ngược, cạn sạch sành sanh. Đến gần nửa đêm cuộc vui mới tan, mọi người chào nhau ra về. Dương Cẩm Trình đương nhiên nhận nhiệm vụ đưa Châu Chấn Bang về nhà.
Lên xe. Dương Cẩm Trình nhìn Châu Chấn Bang đã ngà ngà say, hỏi: “Thầy cảm thấy thế nào?”
Châu Chấn Bang xua tay: “Không sao.”
“Thế thì ổn ạ.” Dương Cẩm Trình quay lại, khởi động máy: “Em sẽ đưa thầy đến một nơi thú vị.”
Châu Chấn Bang chỉ có hai sở thích: một là rượu Ngũ Lương, hai là mát-xa tắm gội. Cho nên, khi xe đỗ trước cửa một nhà chuyên tổ chức dịch vụ tắm thì Châu Chấn Bang bất giác mỉm cười trách vui: “Gã này thật là… thì ra tôi cũng là đối tượng nghiên cứu của cậu mất rồi!”
Chắc vì rơi vào ngày cuối tuần nên trong này rất đông khách. Châu Chấn Bang và Dương Cẩm Trình cởi quần áo. Dương Cẩm Trình nhìn đám đông nhấp nhô dưới bể tắm. Anh lấy một chiếc khăn tắm quấn quanh người, và cầm một chiếc khăn nữa đưa cho Châu Chấn Bang, nhưng ông không cầm.
“Xuống tắm, thì quấn nó làm gì?”
Dương Cẩm Trình có vẻ ngượng nghịu, nghĩ ngợi, rồi cởi phăng cái khăn tắm ra.
Hai con người như thế này vốn dĩ chẳng khiến bất cứ ai phải chú ý. Nhưng mấy phút sau khi Châu Chấn Bang đứng dưới vòi hoa sen xối nước, thì không ít người xung quanh bắt đầu xì xào bàn tán. Và càng có nhiều người đưa mắt nhìn vào nửa người dưới của ông. Nhưng Châu Chấn Bang coi như không nhìn thấy họ, ông vẫn thản nhiên hưởng thụ làn nước ấm xối vào khắp người. Dương Cẩm Trình thoạt đầu thấy khó chịu, nhưng khi thấy thầy vẫn cứ bình thản như không, thì không hiểu sao anh bắt đầu ‘điên tiết’, rồi anh ngẩng đầu lên, can đảm nhìn về phía những ánh mắt kia cho đến lúc bọn họ phải quay mặt sang chỗ khác.
Thầy đã từng nói rằng, đó chỉ là một bộ máy của thân thể mà thôi, nếu không cần đến sinh sản thì nó cũng chẳng khác gì cái khúc ruột thừa.
Nghĩ đến đây, Dương Cẩm Trình bất giác nhìn sang ông Châu Chấn Bang. Ông già cho đến giờ vẫn chưa từng lấy vợ, lúc này đang ngửa mặt đứng dưới cái vòi hoa sen để tắm rửa. Thân thể không cường tráng, thậm chí có thể là hơi yếu. Nước phun lên mặt ông bắn tung ra thành một màn sương mờ mờ, trông toàn cảnh dường như có nét thánh thiện cao khiết.
Chớ có coi thường con người bị khiếm khuyết một phần bộ phận sinh dục này. Dương Cẩm Trình thầm nói với mình. Ông ấy có thể sắp xếp nên một xã hội loài người hoàn toàn khác, và trở thành lãnh tụ của cái xã hội ấy.
Còn Dương Cẩm Trình - trợ thủ của vị lãnh tụ ấy - đang tham gia vào ý tưởng vĩ đại của ông.
Toàn thân Dương Cẩm Trình bỗng hơi run run.
Một giờ sau, hai người đã cực kỳ nhẹ nhõm, họ bước vào một gian thuê bao. Trên bàn đã bày sẵn mấy món ăn. Dương Cẩm Trình cứ như nhà ảo thuật giơ một chai rượu Ngũ Lương lên và nháy mắt với Châu Chấn Bang.
“Em bớt lại được một chai, thưa thầy.”
Châu Chấn Bang phì cười, vui vẻ ngồi xuống.
Chỉ lát sau, chai rượu đã vơi đi già nửa. Châu Chấn Bang thấy mình bắt đầu rớm mồ hôi, chúng đọng lại những đốm muối nhỏ li ti dính trên người, mươn mướt thật dễ chịu. Ông vân vê ly rượu trong tay, và nhìn Dương Cẩm Trình đang tiếp đồ nhắm cho mình, chân thành nói: “Cảm ơn cậu, Cẩm Trình.”
Dương Cẩm Trình mỉm cười: “Thầy đừng khách khí. Thầy xưa nay sống độc thân, em là học trò của thầy, đương nhiên phải quan tâm đến thầy. Và, thầy đã rất tin ở em, thầy giao cho em những việc quan trọng.”
“Cậu là sinh viên cũ của tôi, một sinh viên ưu tú nhất.” Châu Chấn Bang nghiêm trang nói: “Cho nên tôi muốn cậu hỗ trợ tôi để hoàn thành kế hoạch giáo hóa trường.”
Đó là một bí mật riêng của hai thầy trò. Chỉ hai người mới biết rõ nội dung của chương trình ấy, không có bất cứ ai khác biết. Nhưng trong thời kỳ hòa bình, hình như bất cứ bí mật nào cũng có những tình tiết không thể để lộ ra.
“Chỉ hiềm, thầy ạ, em hay nghĩ rằng liệu chúng ta có nên tiến hành cái kế hoạch này không.”
“Sao?” Châu Chấn Bang nhướng mày: “Tại sao cậu lại nghĩ thế?”
“Gần đây em đọc lại hai tác phẩm của Skinner, ‘Wall Gordon thứ hai’ và ‘Tự do siêu việt và lòng tự tôn’, em có cảm nhận khác với cách đây mười năm.” Tay Dương Cẩm Trình búng mấy hạt lạc rang trong đĩa: “Có những phần vẫn khiến em phấn chấn như trước, ví dụ, dùng ‘công trình nghiên cứu hành vi’ để xây dựng xã hội loài người, cũng có những phần khiến em thấy lo lắng.”
“Thử nói xem?” Châu Chấn Bang đặt ly rượu xuống, ngồi thẳng lưng lên, chăm chú nhìn cậu học trò.
“Có một bài bình luận sách nói rằng thực ra Skinner đang dùng phương thức thuần phục chó để thuần phục nhân loại.” Dương Cẩm Trình mím môi: “Điều ấy làm cho em không có chút cảm giác nào để theo đuổi một sự nghiệp cao cả.”
“Lý luận kinh điển về phản xạ có điều kiện của Pavlov*, đã dùng chó làm vật thí nghiệm.” Châu Chấn Bang mỉm cười: “Thời đó, phát hiện này vĩ đại không kém bước đột phá khoa học nói rằng mặt trời đứng im tại chỗ.”
“Vâng, em biết.” Dương Cẩm Trình gãi đầu, có vẻ như thấy khó xử: “Nhưng em vẫn cảm thấy vướng mắc, nghĩ mãi cũng không thể vượt qua. Thầy còn nhớ chuyện Khương Đức Tiên không?”
“Có chứ! Thì sao?”
“Ngày đó chúng ta thu xếp Mã Xuân Bồi và Hạ Lê Lê với tư cách cha và con gái làm tình trước mặt anh ta. Đúng như thầy nói, anh ta đã bị chúng ta ‘nhào nặn’. Tuy chuyện đã trôi qua cả chục năm, nhưng anh ta vẫn không bỏ được thói quen tự sướng, anh ta vẫn thường xuyên thể hiện sự quan tâm khác thường với các cô bé xung quanh.”
“Phải! Những số liệu thí nghiệm liên quan đến Khương Đức Tiên, rất có giá trị đối với chúng ta.”
“Đúng thế. Em còn nhớ, chúng ta đã rất mừng về điều đó.” Dương Cẩm Trình ngẩng nhìn Châu Chấn Bang: “Tuy nhiên, em vẫn luôn nghĩ rằng, nếu không được giáo dục tốt, nhất là giáo dục về pháp luật, thì liệu Khương Đức Tiên có biến thành một kẻ tội phạm chuyên gian dâm với gái vị thành niên không?”
Châu Chấn Bang im lặng. Ông rút một điếu thuốc, Dương Cẩm Trình bật lửa cho ông châm.
Hút được nửa điếu thuốc, Châu Chấn Bang thở dài thườn thượt.
“Cẩm Trình, cậu vẫn biết cơ thể tôi khiếm khuyết.” Châu Chấn Bang khẽ nói: “Nhưng cậu có biết tại sao tôi bị mất bộ phận ấy không?”
“Không ạ.” Vẻ mặt Dương Cẩm Trình trở nên nặng nề: “Em không dám hỏi, và thầy cũng chưa từng nói đến.”
“Năm 1969, tôi mới làm công tác giảng dạy ở Đại học Sư phạm ít lâu. Ngày 19 tháng 4 năm ấy tôi trên đường đi đến hiệu sách Tân Hoa trên đường Trùng Khánh thì gặp ngay cuộc ẩu đả giữa hai phái*. Tôi đang chạy đi tìm chỗ ẩn nấp, vừa chạy được mấy bước tôi cảm thấy người nóng rực. Về sau tôi mới biết có một viên đạn đã bay từ sau mông và xuyên qua chỗ này của tôi.” Châu Chấn Bang chỉ vào bên dưới: “Nằm trên giường bệnh, tôi luôn nghĩ thực ra là thế nào nhỉ? Tại sao dân chúng thành phố đều biến thành thế này? Tôi cảm thấy những lý luận mà mình đã học trong trường đại học đều không thể giải thích nổi thứ đại họa đang xảy ra xung quanh. Hình dung bọn họ là dã thú cũng chưa xứng, vì dã thú thì không thể duy trì được sự nhất trí cao độ trong hành vi, nhưng bọn họ thì lại mất hết tính người.”
“Cho nên, thầy bắt đầu nghiên cứu về Skinner?”
“Đúng! Vì lý tưởng của ông ấy là xây dựng một xã hội như thế này: tầng lớp thống trị là tập hợp bởi các nhà tâm lý học, phụ trách đặt ra pháp luật và chính sách để kiểm soát và giáo hóa dân chúng, khiến họ vừa có nhân tính lại vừa phục tùng các mệnh lệnh.” Châu Chấn Bang đứng dậy, chỉ ra ngoài cửa sổ: “Cẩm Trình, cậu có thể giả thiết rằng nếu toàn thể dân chúng trong cái xã hội đó đều có nhân tính cao thượng, đồng thời tiếp thu sự cường hóa tích cực thì đó sẽ là một thế giới tốt đẹp biết bao!”
“Ý của thầy là…” Dương Cẩm Trình chậm rãi nói: “…sẽ có khả năng triệt để loại trừ những tai họa tương tự tái diễn?”
“Đúng!” Châu Chấn Bang nói với giọng khẳng định: “Dù có những biến động xã hội to lớn thì cũng vẫn thúc đẩy xã hội ấy vững bước tiến lên.”
“Nếu thế thì…” Ánh mắt Dương Cẩm Trình trở nên xa xăm, vẻ mặt anh như đang trong mơ: “Đó sẽ là một xã hội hoàn mỹ.”
“Đúng thế!” Châu Chấn Bang rất xúc động: “Khoa học kỹ thuật đã cải tạo thế giới quá nhiều, đã đến lúc phải cải tạo chính nhân loại! Nếu chim bồ câu có thể biết chơi bóng bàn thì nhân loại… khoa học kỹ thuật mà nhân loại có thể phát triển sẽ là vô bờ bến khó bề tưởng tượng nổi!”
“Cũng tức là, những thứ chúng ta làm chính là những việc để cải tạo lịch sử loài người?”
“Cẩm Trình! Skinner đã chứng minh rằng việc khen thưởng sẽ có lợi cho con người xây dựng những hành vi tốt đẹp, còn chúng ta sẽ chứng minh rằng trừng phạt cũng có tác dụng xây dựng tương tự.” Ánh mắt Châu Chấn Bang rực sáng nhìn Dương Cẩm Trình, ông đặt tay lên vai anh: “Chúng ta, cậu và tôi, có thể khiến cho ngành tâm lý học trở nên vĩ đại chưa từng thấy!”
Dương Cẩm Trình sửng sốt nhìn Châu Chấn Bang, anh bỗng trào nước mắt.
Bốn giờ sáng, chiếc xe Audi từ từ dừng bánh dưới một tòa nhà trong khu gia đình của Viện khoa học xã hội thành phố C. Dương Cẩm Trình mở cửa sau của xe, rồi mở cốp xe, nhấc ra một thùng các-tông khá lớn. Sau đó anh đỡ Châu Chấn Bang đang chân nam đá chân xiêu lên gác.
Đưa Châu Chấn Bang vào phòng rồi, Dương Cẩm Trình rót cho ông cốc nước nóng, sau đó anh cáo từ ra về. Châu Chấn Bang đã phải chào thua hơi men, không kiểm soát nổi mình nữa, nhưng đầu óc ông lại cực kỳ tỉnh táo. Có lẽ do kết quả của cuộc đàm đạo thoải mái với anh học trò cưng nên ông vẫn cảm thấy rất hưng phấn. Uống xong cốc nước nóng, vẫn chưa hề có cảm giác buồn ngủ. Ông ngồi bên bàn ăn một lúc, rồi đứng dậy tìm thuốc lá. Vừa đứng lên, ông bất chợt nhìn thấy cái thùng các-tông của Dương Cẩm Trình đặt ở tiền sảnh.
Châu Chấn Bang cau mày, nghĩ bụng, không hiểu anh chàng kia đang chơi cái trò gì đây. Ông nhấc cái thùng lên, nó rất nặng. Không thể không tò mò, ông lấy con dao dọc giấy rạch cái nắp thùng ra, ông bỗng rất kinh ngạc.
Quà Dương Cẩm Trình mừng sinh nhật ông. Là một cái hòm mô phỏng cái hòm của Skinner, rất hoàn hảo.
Chiều hôm sau, ở phòng làm việc của Châu Chấn Bang.
Dương Cẩm Trình khóa cửa lại, xác định có thể yên tâm vì không bị ai quấy rầy, anh bắt đầu báo cáo với Châu Chấn Bang.
Kế hoạch đồ sộ ‘giáo hóa trường’ đã được bí mật tiến hành 12 năm. Tuy người tham gia khá đông, nhưng ngoài Châu Chấn Bang và Dương Cẩm Trình ra, không ai được biết toàn bộ kế hoạch là gì. Hai thầy trò đã tốn rất nhiều thời gian để tuyển chọn được một số người làm đối tượng thực nghiệm. Họ đến từ các gia đình có hoàn cảnh khác nhau, trưởng thành trong môi trường khác nhau, cơ bản có thể đại diện cho các tầng lớp xã hội phổ biến nhất. Sau đó hai thầy trò dùng danh nghĩa Ban nghiên cứu tâm lý để bố trí các thực tập sinh quan sát thường xuyên các đối tượng thực nghiệm, yêu cầu họ ghi lại trung thực sinh hoạt thường ngày của các đối tượng. Khi đã nắm được quy luật hành vi và các đặc trưng tâm lý cơ bản của các đối tượng, thì bố trí các tình nguyện viên tham dự vào đời sống thường ngày của các đối tượng. Việc lựa chọn tình nguyện viên phải rất nghiêm ngặt, cần thẩm tra về danh phận, nhân cách, chưa từng có tiền án tiền sự, ngoài ra, giữa họ với nhau cũng không có các mối quan hệ xã hội đan xen. Có nhiều cách để các tình nguyện viên tham dự vào, và đều là những sự kiện có tính đột phá do con người tạo ra, vì vậy buộc phải hoàn thành trong một lần. Ví dụ, các hành vi có thể nhìn thấy, hoặc bị người lạ ôm hôn. Sau khi nhập cuộc, tình nguyện viên phải được nhận khoản thù lao nhất định và phải ký cam kết giữ bí mật. Đồng thời, lại cử một đợt thực tập sinh mới tiếp tục theo dõi sát sao các đối tượng tham gia thực nghiệm, ghi lại những thay đổi trong hành vi của họ từ sau khi tham dự. Cứ cách một thời gian, các thực tập sinh lại được thay đổi, nhằm bảo đảm có thể thật sự chú ý đến đối tượng thực nghiệm, và cũng vì không để cho ai có thể dần dần nắm bắt được nội dung và mục tiêu cuối cùng của thực nghiệm.
Giai đoạn một của Kế hoạch giáo hóa trường kéo dài mười năm, với 5 người là đối tượng thực nghiệm. Tuy hao tổn nhân lực vật lực rất lớn, nhưng ngoại trừ Khương Đức Tiên với hành vi mang tính chất chứng kiến ra, không thấy bốn đối tượng thực nghiệm kia xuất hiện các thay đổi rõ rệt về hành vi và các phản ứng về tâm trạng mang tính quy luật. Những chuyện này không ảnh hưởng đến niềm tin của Châu Chấn Bang, ông và Dương Cẩm Trình lại tỉ mỉ lựa chọn mười đối tượng thực nghiệm khác và đã đưa một số trong đó tham dự vào các tình huống do con người bố trí.
Dương Cẩm Trình báo cáo với Châu Chấn Bang về tình hình quan sát những đối tượng này.
Có thể nói báo cáo rất tỉ mỉ bao gồm đủ mọi nghiên cứu các khía cạnh về đối tượng: việc sinh hoạt ăn ở, nghỉ ngơi, quy luật hành vi, thay đổi tâm trạng, quan hệ xã hội, công tác và học tập. Cuối cùng, Dương Cẩm Trình đưa ra ý kiến so sánh và phân tích tình hình của đối tượng trước và sau khi tham dự, và đây cũng là trọng tâm của báo cáo.
“Thầy xem cái này ạ.” Dương Cẩm Trình mở cái kẹp văn bản đưa cho Châu Chấn Bang một tấm ảnh. Người trong ảnh là một thiếu niên chừng 11-12 tuổi, mặc đồng phục học sinh rộng thùng thình, đang vừa đi vừa ăn kem, khuôn mặt nở nụ cười nhẹ nhõm vui vẻ.
“Cậu ta là Đàm Kỷ, 12 tuổi, đang học lớp 6 tiểu học số VI ở khu Hồng Viên thành phố C.” Dương Cẩm Trình giở các tài liệu trong tay: “Tính cách ngây thơ, cởi mở, cha mẹ đều có nghề nghiệp chính đáng, thu nhập khá, quan hệ gia đình tốt đẹp.”
“Ừ, tôi vẫn nhớ người này, tình huống tham dự là bất ngờ đưa vào môi trường đen tối, đúng không?”
“Đúng! Tình nguyện viên tên là Tưởng Bái Nghiêu, anh ta mạo nhận là đồng nghiệp của cha cậu bé Đàm Kỷ, dẫn Đàm Kỷ vào rạp xem phim, cho cậu ta uống nước ngọt có pha thuốc mê. Sau khi cậu bé đã bị mê man, Tưởng Bái Nghiêu đặt cậu ta xuống gầm ghế. Lúc tan rạp, không ai phát hiện ra cậu bé vẫn còn nằm dưới sàn, cho đến khi rạp đóng cửa. Được biết tình hình tiếp đó là: sau khi Đàm Kỷ tỉnh lại, nó kêu khóc và chạy lung tung trong rạp tối om, cuối cùng lại ngất đi. Về sau, được một người thường trực phát hiện ra.”
Dương Cẩm Trình gấp kẹp văn bản lại, tủm tỉm cười có nét bí hiểm: “Giả tưởng của chúng ta trước đó là: Đảm Kỷ sẽ có tâm trạng sợ hãi vì khung cảnh tối om, từ đó ảnh hưởng đến quy luật hành vi của cậu ta. Tuy nhiên, một tình huống bất ngờ đã phát sinh.”
“Thế à?” Châu Chấn Bang cảm thấy hứng thú: “Là gì?”
“Thầy lại xem cái này đi!” Dương Cẩm Trình lại đưa ra một tấm ảnh. Vẫn là nhân vật chính Đàm Kỷ, chỉ khác là cậu bé đang đứng tại chỗ ngơ ngác nhìn bốn bề xung quanh, vẻ lo lắng và sợ hãi.
“Hình như cậu ta…” Châu Chấn Bang nhìn tấm ảnh, cau mày: “…bị lạc đường?”
“Đúng!” Dương Cẩm Trình mỉm cười: “Cậu bé bị mất… cảm giác về phương hướng.”
“Cảm giác về phương hướng?”
“Vâng. Cậu ta không thể phân biệt bên phải bên trái hoặc đông tây nam bắc nữa; dù trên đường trở về nhà đã quen thuộc chục năm qua, cậu ta cũng mất phương hướng. Trong hơn một năm sau đó, cha mẹ Đàm Kỷ phải đưa đón con đi học và tan học. Báo cáo của nhóm thực tập sinh thứ hai cho thấy: Đàm Kỷ từ đó không thích ra khỏi nhà, quan hệ xã hội nhạt dần, phạm vi giao lưu cũng thu hẹp lại. Có thể dự đoán rằng, từ nay về sau cậu ta khó có thể học tập mọi kỹ năng liên quan đến phương hướng.”
“Chúng ta mong cậu ta sẽ thấy sợ hãi bóng tối, nhưng cậu ta lại mất cảm giác về phương hướng…” Châu Chấn Bang thẫn thờ, lẩm bẩm: “Bộ não của loài người quá ư phức tạp… liệu có thể còn bao nhiêu vấn đề chúng ta vẫn chưa làm rõ?”
“Và còn một chuyện này em nghĩ là nên nhắc với thầy.” Dương Cẩm Trình hơi ngừng lại: “Trong nhóm đối tượng thực nghiệm thứ nhất, phản ứng của Đàm Kỷ mạnh nhất, rõ rệt nhất. Đồng thời, em phát hiện ra rằng cường độ của tình huống để cho cậu ta tham dự, là lớn nhất.”
Châu Chấn Bang im lặng, đứng dậy đi đi lại lại trong phòng làm việc. Dương Cẩm Trình gấp kẹp giấy tờ lại, lặng lẽ ngồi đó chờ thầy đưa ra chỉ thị.
Cuối cùng, Châu Chấn Bang dừng bước, dường như ông đã hạ quyết tâm.
“Chuẩn bị thực nghiệm giai đoạn hai, đồng thời chỉnh sửa lại kế hoạch tình huống tham dự.” Sắc mặt Châu Chấn Bang trang nghiêm, đôi mắt sau cặp kính phóng ra những tia khó bề kiềm chế: “Tăng cường độ của tình huống tham dự.”
Màn đêm buông xuống mỗi ngày một chậm, cùng nhiều dấu hiệu khác, chứng tỏ mùa hè đang đến gần.
Trên sân vận động của trường tiểu học trực thuộc nhà máy sợi thủy tinh, chỉ lèo tèo mấy bóng người; mảnh đất thoáng đãng này có vẻ như rộng hơn hẳn mọi ngày. Trên đường chạy vòng quanh sân vận động, có mấy vị cao tuổi đang lững thững đi bách bộ. Họ, hoặc đi một mình hoặc đi thành đôi, có người đang nghe đài mang theo người, có người chỉ vừa đi vừa trò chuyện. Mặt trời đỏ ối đang từ từ lặn xuống chân trời phía tây của thành phố này. Những sự vật được ánh tà dương yếu ớt phủ xuống đều hiện lên những viền vàng nhàn nhạt. Đã sắp hết khoảng thời gian gọi là giờ cao điểm tan tầm, các khu nhà im ắng suốt một ngày đang hiện lên những khung cảnh náo nhiệt nhất vào lúc chạng vạng tối. Dường như mọi ô cửa sổ đều vọng ra những âm thanh của bát đĩa xoong nồi va chạm nhau, hòa trộn với những mùi vị của đủ các món ăn bay khắp trong không khí đang oi nóng.
Ở góc tây bắc của sân vận động, có một bóng người gầy nhỏ đang mải miết bên cái bàn bóng bàn làm bằng xi măng, có thể nghe rõ tiếng lách cách của quả bóng va đập lên mặt tường cứng đanh.
Đó là một chú bé khoảng 8 tuổi, đang say sưa vụt bóng lên mặt tường đối diện. Tuy ‘đối thủ’ chỉ là mảnh tường trước mặt, nhưng chú bé vẫn giao đấu rất hăng hái, mồ hôi trán chảy xuống ướt khắp cả khuôn mặt đỏ hồng. Mỗi lần đối thủ ‘trả bóng’ ra ngoài bàn, chú bé đều giơ nắm đấm hét lên khoái trá.
Bên cạnh bàn bóng là một ca nước to, bên trong còn độ một phần tư nước.
Ánh sáng mỗi lúc một tối thêm, khu trường dần chìm trong bầu không khí hắt hiu. Khi những tia sáng cuối cùng tắt hẳn trên khu nhà dạy học, cả khu nhà trở nên trầm mặc và đồ sộ khác thường, cứ như một con thú khổng lồ đang ngồi đó chờ thời cơ để vồ mồi.
Bên trên nó khu nhà dạy học, có một nam giới đang lặng lẽ đứng, ánh mắt luôn dõi theo chú bé đang tập bóng bàn ở góc tây bắc. Hồi lâu sau, người ấy giơ tay xem đồng hồ, rồi xách cái túi nilon dưới chân lên, quay người bước đi.
Lúc này bóng tối đã bao trùm lên vùng xung quanh cả khu trường. Rất nhanh, màn đêm đã nuốt chửng cả sân vận động yên tĩnh.
Chú bé hình như không nhận ra, thậm chí không biết mặt trời đã lặn khi nào, đường bóng bay trên đầu dần trở nên mờ nhạt, cuối cùng không nhìn thấy gì nữa.
Sau một cú vụt bóng rất đẹp, chú bé thở mạnh, đặt cái vợt xuống. Chú rất thỏa mãn vì ‘đối thủ’ đã đại bại.
Chú cất cái vợt và quả bóng vào cặp sách, cầm ca nước lên tu một hơi cạn sạch, sau đó vừa lau mồ hôi vừa bước về phía khu nhà dạy học.
Ở cổng khu nhà, chú bé gặp một bác già thường trực đang cầm chìa khóa ra khóa cổng. Nhìn thấy chú bé, ông già bật cười mắng yêu: “Lại là chú nhóc! Ngày nào cũng đến đây đi tè vào giờ này!”
Chú bé lè lưỡi nhìn ông già, rồi nó cười toe toét chạy vào nhà vệ sinh ở cuối hành lang.
Hành lang tối om nên có vẻ như dài vô tận. Ngôi trường tiểu học này có tuổi thọ khá lâu và rất ít được tu sửa, trông rất lem nhem. Tường vây thì bẩn thỉu, vữa trát lở lói, nền xi măng thì sứt mẻ mấp mô. Chú bé chạy đến cửa nhà vệ sinh, đẩy cánh cửa gỗ kêu ‘két két…’ rồi bước thẳng vào chỗ đi tiểu.
Ngọn đèn điện 15w treo trên trần đang khẽ kêu sè sè, ánh sáng chập chờn trông giống như một con mắt ‘độc nhãn’ liên tục hấp háy. Chú bé cũng mặc kệ, chú chỉ muốn ‘giải phóng’ ngay cái bụng dưới đang căng tức, chú nhanh chóng tụt quần tè luôn.
Dòng nước mạnh mẽ phun vào bệ xí lát gạch men sứ, kêu ‘tồ tồ…’
Bỗng phía sau chú bé có tiếng thở dốc nặng nề, hình như là những tiếng rên rỉ cuối cùng của một người bị thương nặng.
Chú bé rùng mình một cái, đồng thời dòng nước đang phun cũng chấm dứt. Chú hơi nghiêng đầu lắng nghe, nhưng ngoài tiếng sè sè của cái bóng đèn ra, không nghe thấy âm thanh nào khác.
Chú nhích mép, xoay người lại và tiếp tục tè cho đã. Khi chú sắp tè xong, thì lại nghe thấy một chuỗi âm thanh lạ lùng từ phía sau vọng đến.
“Á a…”
Lần này thì nghe rõ, âm thanh kéo dài. Chú bé quay phắt người lại, mặc cho chút nước còn sót rớt lên mũi giày. Chú nhìn vào bốn cánh cửa gỗ ở bốn ô trước mặt, rồi xác định tiếng rên phát ra từ ô cửa thứ hai từ bên trái sang.
Chú bé vội vàng chỉnh đốn cái quần, đưa mắt nhìn sang hai bên, rồi lại nhìn vào cánh cửa gỗ tróc sơn loang lổ ấy. Lúc này tiếng sè sè của bóng đèn càng rõ, và càng đối lập với nhà vệ sinh im ắng. Chú bé cảm thấy hơi căng thẳng, nhưng cũng càng thêm tò mò. Chú rón rén bước đến cánh cửa nọ, ghé tai lắng nghe, nhưng lại không nghe thấy bất cứ âm thanh nào.
Chú bé bỗng cảm thấy mồm miệng khô ran, chú thè lưỡi liếm môi, rồi hắng giọng, và lớn tiếng hỏi: “Có ai trong đó không?”
Vừa nói ra, chú bé lập tức giật mình vì giọng nói run run của chính mình, chú bất giác lùi lại hai bước.
Bên trong cánh cửa hoàn toàn im ắng.
Cảm thấy nghi hoặc, chú bé lại nhìn sang hai bên, sau đó chú xốc cái quai cặp sách trên vai, nuốt nước bọt, rồi từ từ đưa tay ra thử đẩy cái cánh cửa.
Một tiếng ‘két…’ sắc nhọn, cánh cửa gỗ hé ra một khe hẹp.
Chú đẩy thêm lần nữa, cánh cửa bị mở ra quá nửa.
Bóng đèn trên trần chập chờn lúc sáng lúc tối. Chú bé hít một hơi thật sâu…
Bên trong cánh cửa, là một người mặc đồ đen, mặt hướng vào tường, lưng quay ra ngoài, hai chân choãi hai bên bệ xí.
Chú bé chưa kịp hỏi một câu thì người mặc đồ đen đã từ từ xoay người trở ra.
Ngọn đèn trên vẫn chập chờn lúc sáng lúc tối.
Chú bé biết rõ đôi mắt mình mở ra rõ to, hai con mắt lồi ra như sắp bật khỏi hốc mắt, chú cũng biết mồm mình tuy há hốc, nhưng không thể phát ra bất cứ âm thanh nào.
Vì chú nhìn thấy mặt người mặc đồ đen… không phải là mặt.
Mà là một mặt phẳng trơn nhẵn, trắng nhợt, không có mắt mũi mồm tai.
Ông già thường trực ngồi xổm trước cổng khu nhà dạy học, đầu lắc lư, miệng ê a nhẩm theo bài hát phát ra từ chiếc ra-đi-ô đặt bên chân. Đã hút xong một điếu thuốc lá, ông bỗng nhớ ra chú bé con đánh bóng bàn tối nào cũng chạy vào trong kia đi tè, vẫn chưa ra.
Ông hơi bực mình, tay vung vẩy chùm chìa khóa bước về phía nhà vệ sinh ở đầu kia của hành lang.
Ông giận dữ đẩy cửa, gắt ầm lên: “Này thằng bé con, mày ngã…”
Chưa nói hết câu, ông đã trợn mắt há miệng đứng chôn chân tại chỗ.
Chú bé nghiêng người, nằm rũ ra trên một vũng nước bẩn ở chính giữa nhà vệ sinh.
Ban nghiên cứu tâm lý thuộc Viện khoa học xã hội thành phố C. Trong phòng làm việc của Dương Cẩm Trình.
Dương Cẩm Trình đang nhìn một nam giới ngồi trước mặt cầm bút ký tên rất bay bướm trên bản cam đoan giữ bí mật, thấy ổn cả rồi, anh cầm lên cất vào két sắt khóa lại. Sau đó anh mở ngăn kéo lấy ra một chiếc phong bì đưa cho người ấy.
Người ấy đưa tay ra nhận, nhưng chưa thấy Dương Cẩm Trình buông tay đang cầm phong bì ra.
“Kể từ lúc này, tôi và anh không còn dính dáng gì với nhau nữa.” Ánh mắt Dương Cẩm Trình sáng quắc: “Tôi nói đã rõ ràng rồi chứ?”
Người ấy gật đầu. Dương Cẩm Trình buông tay ra. Người ấy mở phong bì rút ra một xấp tiền rồi đếm. Sau đó mỉm cười nhìn Dương Cẩm Trình và gật đầu, đứng dậy bước đi, nhưng lại nhớ ra một việc.
“Thằng bé kia…” Người ấy ngập ngừng: “Sau đó, thế nào?”
“Đó không phải chuyện anh cần quan tâm.” Dương Cẩm Trình cúi xuống, tự châm cho mình điếu thuốc: “Nhận tiền thù lao rồi, chuyện ấy không liên quan gì đến anh nữa.”
Người ấy hơi ngượng nghịu, cố nặn ra nụ cười, rồi quay người bước ra khỏi căn phòng.
Dương Cẩm Trình lặng lẽ hút hết điếu thuốc, anh nhìn đồng hồ, rồi cầm một cái kẹp văn bản lên, bước ra đi sang phòng họp.
Căn phòng họp nhỏ này đang có người đợi anh. Thấy anh bước vào, người ấy đứng dậy với vẻ hơi căng thẳng.
Dương Cẩm Trình khóa cửa lại, rồi mỉm cười nhìn anh ta, bảo anh ta ngồi xuống.
“Anh là Vương Tăng Tường, phải không?” Dương Cẩm Trình ngồi đối diện với anh ta, tay mở kẹp văn bản ra.
“Đúng!” Vương Tăng Tường nghĩ ngợi, rồi bổ sung: “Chủ nhiệm Châu Chấn Bang của các anh là bạn cũ của cha tôi.”
“Tôi biết. Chúng ta đã từng gặp nhau.” Dương Cẩm Trình mỉm cười.“Chúng tôi có một dự án nghiên cứu khoa học đang muốn tuyển tình nguyện viên, chủ nhiệm Châu Chấn Bang giới thiệu anh với tôi.”
“Đúng thế. Cha tôi thể lực kém, tôi muốn làm việc kiếm thêm ít tiền.” Vương Tăng Tường vui vẻ thẳng thắn thừa nhận: “Và, tôi lại sắp cưới vợ, cũng cần tiền.”
“Được, tôi hiểu.” Dương Cẩm Trình đặt kẹp văn bản xuống: “Những tư liệu về anh mà chúng tôi có được, bao gồm hoàn cảnh gia đình, học lực, quá trình trưởng thành… coi như cơ bản đều phù hợp với yêu cầu của chúng tôi…”
“Các vị điều tra về tôi à?” Vương Tăng Tường ngắt lời, cau mày, tỏ ra khó chịu: “Còn tôi thì không hay biết gì cả?”
“Mong anh hiểu cho.” Dương Cẩm Trình kiên nhẫn giải thích: “Công trình nghiên cứu khoa học này thuộc diện bảo mật, cho nên chúng tôi phải tìm hiểu một số điểm cần thiết về tình nguyện viên.”
“Đó là dự án gì?” Vương Tăng Tường càng cau mày chặt hơn: “Chắc không phải chuyện phạm pháp đấy chứ?”
“Tôi vừa nói rồi, dự án trong diện bảo mật, cho nên cho phép tôi không thể tiết lộ nội dung.” Nét cười trên khuôn mặt Dương Cẩm Trình hơi cứng lại: “Có một số nội dung có lẽ hơi cao hơn trình độ tiếp thu của người dân bình thường, nhưng tôi có thể bảo đảm với anh hoàn toàn không đến mức cấu thành tội phạm hình sự.”
Vương Tăng Tường hơi nghĩ ngợi, rồi lại hỏi: “Các vị, với danh nghĩa nhà nước đấy chứ?”
“Đúng!”
“Cũng tức là… chính phủ đứng ra?”
Dương Cẩm Trình bật cười: “Anh có thể cho là như vậy.”
“Thế thì được.” Vương Tăng Tường thở phào: “Còn tôi, tôi phải làm những gì?”
“Đến lúc đó chúng tôi sẽ thông báo với anh.” Dương Cẩm Trình đứng dậy, định kết thúc cuộc gặp mặt.
Nhưng Vương Tăng Tường vẫn ngồi yên: “Tôi cảm thấy cần phải biết mình sẽ làm gì - để còn chuẩn bị tinh thần.”
“Anh không cần chuẩn bị gì hết. Việc chúng tôi bảo anh làm, là việc mà người bình thường đều có thể hoàn thành.” Dương Cẩm Trình cất cao giọng: “Hoàn thành rồi, anh sẽ được nhận thù lao 5.000 nhân dân tệ.”
“Năm nghìn?” Tâm trạng tò mò của Vương Tăng Tường đã hoàn toàn tan biến bởi con số này: “Mỗi lần, năm ngàn?”
“Chỉ một lần thôi.” Dương Cẩm Trình giơ một ngón tay lên: “Sau đó chúng ta không bao giờ liên lạc với nhau nữa.”
Nói xong, Dương Cẩm Trình bước ra, mở cửa phòng, lặng lẽ chờ Vương Tăng Tường.
Không còn cách nào khác, Vương Tăng Tường đành đứng dậy chào ra về. Bước đến cửa, anh bỗng hỏi: “Chú Châu Chấn Bang có đây không?”
“Thầy ấy không có ở đây.” Dương Cẩm Trình không nhìn anh ta nữa, quay người đóng cửa lại: “Vào thành phố dự cuộc họp.”
“Tôi không có ý gì khác…” Vương Tăng Tường hơi đỏ mặt: “Tôi chỉ muốn gặp để nói lời cảm ơn chú ấy. May nhờ chú ấy quan tâm, tôi đã được làm tiếp vị trí của cha tôi, tôi đã được đi làm ở nhà máy nước rồi.”
“Được, tôi sẽ chuyển lời của anh đến thầy ấy.” Dương Cẩm Trình chìa tay ra: “Anh cứ yên tâm.”
Tiễn Vương Tăng Tường ra về rồi, Dương Cẩm Trình đi thẳng sang phòng làm việc của Châu Chấn Bang. Vừa bước vào, anh đã nhìn thấy dụng cụ mô phỏng cái hộp của Skinner bày ở vị trí nổi bật trên giá sách.
“Đã gặp cậu Vương Tăng Tường chưa?” Châu Chấn Bang đặt tập tài liệu xuống bàn: “Thế nào rồi?”
“Cũng được.” Dương Cẩm Trình hơi do dự: “Về cơ bản là đạt yêu cầu.”
Châu Chấn Bang nắm bắt được vẻ mặt của anh, ông mỉm cười: “Có vấn đề à?”
“Vâng.” Dương Cẩm Trình cũng không giấu nữa: “Anh ta có nhiều băn khoăn, và, em cảm thấy anh ta là người rất hay tò mò.”
“Những điều không nên cho anh ta biết thì tuyệt đối không nói ra.” Châu Chấn Bang dặn dò: “Và, anh ta quan tâm đến 5.000 tệ kia hơn, cho nên vấn đề sẽ không lớn. Tình huống dành cho anh ta nhập cuộc, có khó không?”
“Không khó.” Dương Cẩm Trình mỉm cười: “Đơn giản hơn nhiều so với tình huống đối với Đường Duy.”
“Này, thằng bé thế nào rồi?”
“Vẫn chưa có báo cáo tiếp theo. Nhưng xét tình hình mấy hôm nay, thấy rằng mô thức hành vi của Đường Duy đã có thay đổi.” Dương Cẩm Trình vừa nhớ lại vừa nói: “Suốt ngày hôm qua nó không vào nhà vệ sinh của trường học.”
Châu Chấn Bang ‘à’ một tiếng, nhưng vẻ mặt ông không thể hiện điều gì.
“Đối tượng thực nghiệm tiếp theo, là ai?”
“Là người này.” Dương Cẩm Trình giở kẹp văn bản ra tìm, rồi cầm lên một tấm ảnh đưa cho Châu Chấn Bang. Trong ảnh là một bé gái đang đứng trước một quầy nhỏ ven đường chọn cặp tóc. Không rõ có phải người chụp cố ý lựa góc nhìn không, bé gái trông rất xinh. Khuôn mặt trắng trẻo nõn nà, mái tóc nổi bật cái cặp tóc nhiều màu sắc lấp lánh, trông nó lung linh như một thiên sứ. Châu Chấn Bang ngắm tấm ảnh rất lâu, rồi đưa trả lại Dương Cẩm Trình.
“Bé này tên gì?”
“Thẩm Tương, 14 tuổi, đang học lớp 8 trường trung học số 4 của thành phố.”
“Chủ đề tham dự là gì?”
“Mùi vị. Kế hoạch của chúng ta là…”
Máy nhắn tin BP của Dương Cẩm Trình đeo ở thắt lưng bỗng kêu ‘bíp bíp’. Anh làm động tác xin lỗi Châu Chấn Bang rồi cúi nhìn các dòng chữ Hán hiện trên màn hình. Sau đó Dương Cẩm Trình ngẩng lên, vẻ mặt băn khoăn nhăn nhó.
“Xin lỗi thầy.” Dương Cẩm Trình gượng nở nụ cười: “Em muốn xin nghỉ phép mấy hôm, được không ạ?”
Bệnh viện trung tâm thành phố C. Khu buồng bệnh.
Dương Cẩm Trình xách một cái túi nilon, chạy như ma đuổi, chạy lên cầu thang, rồi ngoặt vào hành lang, sau đó đẩy cửa một gian buồng bệnh nhân.
Một phụ nữ sắc mặt vàng nhợt đang nằm trên giường, một bé trai khoảng 2 tuổi ngồi bên. Người phụ nữ tươi cười nhìn bé, nắm hai bàn tay nhỏ xinh của nó đưa lên vẫy vẫy. Đứa bé thích thú cười như nắc nẻ, cái mông của nó không ngớt ngọ ngoạy trên bụng người phụ nữ.
Dương Cẩm Trình hơi cau mày, đặt cái túi nilon xuống bên giường rồi đưa tay ra bế chú bé.
“Triển Triển, không được đè lên người mẹ!”
Chú bé không chịu ngồi trong lòng Dương Cẩm Trình, nó vùng vằng giãy giụa và giơ hai tay về phía người phụ nữ, nó vẫn muốn tiếp tục nô đùa như vừa rồi. Xem chừng không được chiều nữa, nó trề môi khóc nhè luôn.
Một phụ nữ đứng tuổi đang ngồi bên giường vội đứng lên đón lấy chú bé từ tay Dương Cẩm Trình, vừa đung đưa vừa vỗ nhẹ vào lưng nó.
“Thôi nào… Triển Triển đừng khóc nữa, Triển Triển ngoan lắm…”
Dương Cẩm Trình vừa lúng túng vừa bực mình, anh nói với bà: “Mẹ ơi, sao mẹ lại đưa thằng bé vào bệnh viện làm gì? Ở đây náo loạn đủ thứ… nó còn bé tí…”
“Để cho mẹ Triển Triển gặp con, thì sao?” Bà không bằng lòng, tiếp tục lầu bầu: “Nửa tháng nay nó không nhìn thấy mẹ, ngày nào nó cũng hỏi mẹ cháu đâu rồi, thì mẹ biết trả lời nó ra sao?”
“Đúng đấy, anh đừng trách mẹ nữa.” Người phụ nữ vội xuê xoa: “Tại em nhắn mẹ đưa con vào chơi một lát.”
Dương Cẩm Trình nhìn trách bà mẹ, rồi lại nhìn đứa bé đang quấy khóc, anh càng thêm bức xúc. Anh ngồi xuống mép giường, nhấc cái túi nilon lên hỏi vợ: “Em ăn một chút đi. Anh mua cháo đây này.”
Người vợ miễn cưỡng ngồi dậy cười với Dương Cẩm Trình: “Em ăn một chút vậy.”
Dương Cẩm Trình mở túi nilon ra, ngoảnh sang bà mẹ: “Còn mẹ và cháu, thì sao?”
Bà mẹ vẫn chưa nguôi giận, lạnh lùng nói: “Tôi và nó về nhà ăn cơm.” Nói rồi bà sửa soạn đi giày, đội mũ cho thằng bé. Vợ Trình và đứa con thơm nhau mấy lần, sau đó bà mẹ bế thằng bé lên rồi ra về. Đi gần đến cửa, bà nói nhỏ với Dương Cẩm Trình: “Con nên tranh thủ vào thăm vợ, chứ đừng luôn mồm kêu là bận việc. Ngày nào cũng bận những việc gì thế không biết?”
Trong buồng bệnh chỉ còn lại hai vợ chồng Dương Cẩm Trình. Tất cả bỗng trở nên yên tĩnh. Dương Cẩm Trình đặt một xấp tài liệu lên giường, ngồi đọc. Vợ anh ngồi tựa vào đầu giường vừa từ từ ăn cháo vừa xem ti-vi. Lát sau, cô nhìn Dương Cẩm Trình đang hết sức chăm chú đọc tài liệu. Cô tắt ti-vi, rồi cầm một cuốn tạp chí lên xem.
Thời gian từng giây từng phút trôi đi, cô vẫn giữ yên lặng, thỉnh thoảng lại ngẩng đầu nhìn sang Dương Cẩm Trình vẫn đang đọc mải miết. Sắc mặt anh càng lúc càng nhăn nhó, cuối cùng anh bực tức bỏ lại mấy trang, thò tay vào túi áo tìm bao thuốc lá. Vừa rút điếu thuốc ra, có lẽ anh cảm thấy không nên, bèn đứng dậy bước ra ngoài.
Người vợ vẫn chú ý đến anh, cô nói: “Anh cứ ngồi trong này mà hút!” Cô ngừng lại, khuôn mặt thoáng hiện nét cười bẽn lẽn: “Em muốn anh ở bên em.”
Dương Cẩm Trình cảm thấy ấm lòng, anh khua điếu thuốc lên: “Anh sẽ trở vào rất nhanh thôi.”
Anh ra tít tận cuối hành lang, lặng lẽ đứng đó hút thuốc và dõi nhìn làn khói xanh xanh từ từ dâng lên trước mặt, rồi dần tan.
Điều khiến anh đang lo lắng là, 5 người tham dự tình huống thực nghiệm, thì đã hoàn thành 4 người; các báo cáo theo dõi sau đó cho thấy, ngoài Đường Duy ra, phản ứng của các đối tượng kia rất bình thường. Nếu thiếu các số liệu phong phú và mang tính điển hình, thì Kế hoạch về môi trường giáo hóa sẽ không thể hoàn thành thuận lợi. Giả thiết của Châu Chấn Bang là, dùng thời gian khoảng 25 năm để hoàn thành kế hoạch này, nhưng nếu cuối cùng chỉ thu được một số luận cứ đáng buồn thì rất có thể giáo hóa trường sẽ phá sản, thất bại.
Hai mươi nhăm năm trời. Dương Cẩm Trình thầm nhẩm tính. Đến lúc đó, mình đã gần sáu mươi tuổi. Lẽ nào hao tổn già nửa đời người để vật lộn với một thứ kế hoạch thất bại?
Nên tăng thêm số lượng đối tượng thực nghiệm… hay là nên tăng cường độ của tình huống tham dự?
Anh đang nghĩ ngợi thì máy nhắn tin BP bỗng kêu ‘bíp bíp…’
Nhân lúc Dương Cẩm Trình ra ngoài hút thuốc, người vợ bật máy tính lên xem, vừa xem một lát thì thấy Dương Cẩm Trình vội vã mở cửa bước vào, vừa nhanh tay thu dọn xấp tài liệu vừa nói với vợ: “Anh phải về Ban nghiên cứu.”
Người vợ có phần thất vọng, cô nghĩ ngợi, rồi dặn dò: “Tối anh đừng vào nữa. Anh đã vào bốn đêm rồi, nên về nhà thay quần áo đi!”
“Ừ.”
“Nên về cho sớm mà ngủ cho lại sức.” Cô dường như có chút khó xử: “Lúc nào rỗi thì anh lại vào với em.”
Dương Cẩm Trình mỉm cười đáp lại, rồi xách cái túi lên vội vã đi ra khỏi căn buồng.
Chiếc xe Audi màu đen phóng như bay trong màn đêm đen kịt. Dương Cẩm Trình cầm vô-lăng, vẻ mặt nặng trĩu, thỉnh thoảng anh liếc nhìn cái lọ thủy tinh đặt bên dưới ghế cạnh vô-lăng. Đó là cái lọ kiểu lọ đồ hộp, nhãn mác đã vứt, nắp đang đóng rất chặt. Nhưng Dương Cẩm Trình vẫn cảm thấy một thứ mùi nồng nồng ngai ngái lan tỏa trong xe. Anh hạ cửa kính xuống, cố không nghĩ về hình ảnh ghê tởm của hỗn hợp chất thải và nước ấy.
Trí nhớ về khứu giác luôn tồn tại trong bộ não người ta lâu nhất. Mong sao có thể lấy được số liệu có sức nặng mà thực nghiệm cần phải có.
Dương Cẩm Trình nhấn chân ga mạnh hơn.
Khi xe Dương Cẩm Trình chạy đến một con ngõ nhỏ gần trường trung học số 4 của thành phố C, thì Vương Tăng Tường đã đứng đó chờ anh khá lâu.
Dương Cẩm Trình vừa xuống xe anh ta đã chạy ngay lại, đồng thời ‘nổ’ luôn một lô câu hỏi liền tù tì như bắn súng liên thanh.
“Muộn thế này rồi sao anh còn gọi tôi ra? Tại sao lại phải đến đây? Đêm nay sẽ làm thực nghiệm gì đó phải không? Tôi thì chẳng đem theo thứ gì cả…”
Dương Cẩm Trình tựa vào cánh cửa xe, im lặng nhìn Vương Tăng Tường. Và anh bỗng cảm thấy không thiết mở miệng nói với anh ta nữa. Hình như gã đàn ông đang đứng trước mặt anh còn khô cứng vô duyên hơn cả con ngõ, bóng đèn đường và cái thùng rác!
Hắn không xứng đáng xuất hiện ở đây, không xứng đáng tham gia vào một kế hoạch vĩ đại như thế. Rồi một ngày kia, hắn ý thức được rằng thế giới xung quanh ngày càng tốt đẹp, thì hắn không nên cảm thấy mình là một cái đinh ốc lặng lẽ góp phần cấu trúc nên cả một hệ thống. Không được! Hắn thậm chí không đáng là một hạt bụi bám trên cái hệ thống đó!
Hắn chỉ là kẻ bình thường, ngu xuẩn, là hàng chợ, là con buôn giảo hoạt.
Hắn không biết có người đang mạo hiểm lao vào cuộc cải tạo chính nhân loại, hắn không biết có người đang nát óc suy nghĩ tìm cách có được những số liệu phong phú hơn, luận cứ đầy đủ hơn. Hắn chỉ quan tâm đến mấy đồng tiền còm cõi, như một cái móng tay, chỉ có năm ngàn bạc đáng khinh.
Dương Cẩm Trình bỗng mỉm cười, anh cảm thấy mình là đấng tạo hóa đang đứng quan sát một con kiến đáng thương.
“Tối nay chúng tôi cần anh làm một việc.”
“Việc gì? Có khó lắm không?” Vương Tăng Tường lập tức truy hỏi: “Có phải mạo hiểm không? Anh phải cho tôi biết rõ nguyên nhân hậu quả chứ? Kẻo mà…”
“Không khó.” Dương Cẩm Trình nhìn xung quanh, rồi tùy hứng chỉ vào một cửa hiệu bán văn phòng phẩm đã đóng cửa: “Anh đến đập vỡ cái ô cửa kính kia!”
Vương Tăng Tường rất nghi hoặc nhìn ô cửa kính đó, rồi lại nhìn Dương Cẩm Trình. Anh ta bước đến ô cửa kính nhìn vào bên trong cửa hiệu.
“Hiệu văn phòng phẩm Giai Lạc… trong này có những gì? Chắc không có đồ gì quý giá chứ? Nếu phá của họ thì tôi có phải bồi thường không?”
“Không.” Dương Cẩm Trình đưa mắt nhìn xuống, anh đã quá ngán không muốn phí lời với gã này nữa: “Bên trong, thứ đáng tiền nhất, có lẽ là cây bút xóa và con dao gọt bút chì.”
“Thế à?” Vương Tăng Tường đã hơi yên tâm, anh ta bắt đầu tìm xung quanh: “Dùng cái gì để đập nhỉ?”
“Tùy!”
Cuối cùng, Vương Tăng Tường nhặt một hòn gạch, đứng trước cửa kính, chuẩn bị tư thế, quay lại hỏi Dương Cẩm Trình: “Tôi đập nhé?”
Dương Cẩm Trình châm điếu thuốc, hất tay.
“Choang…” Sau đó là những tiếng ‘rầm rầm…’ nặng nề.
Dương Cẩm Trình nhìn cảnh tượng trước mặt, thản nhiên như không. Vương Tăng Tường thì vừa căng thẳng vừa hưng phấn chạy lại xúc động nói: “Sau đây, chúng ta làm gì nữa?”
Dương Cẩm Trình miệng ngậm điếu thuốc, chỉ tay ra đầu con ngõ: “Chạy đi!”
Vương Tăng Tường co cẳng chạy vụt đi, chạy được vài chục mét, anh ta không quên ngoái lại gọi to: “Mai tôi đến nhận tiền, anh nên chuẩn bị sẵn đi…”
Dương Cẩm Trình tựa lưng vào xe, không đáp, cũng không ngoảnh lại.
Hút hết điếu thuốc, anh nhìn khu nhà dạy học ở phía sau bức tường vây, thì vừa khéo nhìn thấy một căn phòng duy nhất có ánh đèn, nhưng đèn vụt tắt.
Anh gí chân day tắt mẩu thuốc, ngẩng nhìn cả hai đầu con ngõ đều tối om, anh đi về một đầu ngõ.
Phải có ai làm việc gì đó chứ!
Vì giáo hóa trường.
Vì một thế giới mới.
Nửa giờ sau, Dương Cẩm Trình chạy ra từ trong con ngõ lúc này đã càng tối hơn, trông anh nhếch nhác và sợ hãi hơn cả cô nữ sinh trung học ở phía sau anh.
Anh luống cuống nhảy vào chiếc xe Audi, lập tức nổ máy, rồi nhấn chân ga. Xe húc đổ một thùng rác, sau đó loạng choạng phóng ra khỏi con ngõ.
Cho đến khi xe chạy được gần hai cây số, Dương Cẩm Trình mới nhìn thấy mỗi chiếc xe chạy ngược lại với anh đều nhấp nháy đèn pha một cách giận dữ chiếu vào xe anh, thì ra anh quên chưa bật đèn pha xe mình.
Đáng sợ hơn nữa là, anh phát hiện ra đầu óc mình cứ tự động hiện lên một câu nói:
“Kể từ nay trong thân xác ngươi tồn tại thứ đó của ta, ngươi sẽ suốt đời ám mùi của nó.”
Dương Cẩm Trình lập tức thấy căng thẳng.
Đừng! Không được! Ta mới là chúa tể. Quyền chủ động phải nằm trong tay ta!
Anh lần túi áo tìm bao thuốc, nhưng những ngón tay run bần bật không thể cầm nổi thứ gì, bàn tay đang nắm vô lăng cũng chuồi đi, đến nỗi chiếc xe bắt đầu đánh võng ngoằn ngoèo trên đường.
Dương Cẩm Trình văng tục một câu, tay trái nắm chặt vô-lăng, đưa ngón tay phải vào mồm cắn thật mạnh. Anh đã hơi tỉnh ra một chút. Nhưng một cảm giác khác, càng rõ rệt hơn, đã lan tỏa khắp thân thể anh.
Đúng, đó là tấm thân mềm mại và đang run rẩy của cô gái.
“Đại học Sư phạm.” Cậu ta ưỡn ngực, nói giọng oang oang: “Em tên là Trần Triết.”
Bốn mắt nhìn nhau. Cả hai đều không biết rằng, họ có vẻ như không có gì liên quan đến nhau, nhưng thực ra gạch nối giữa họ là một con người, một cái tên, và một cái hộp.
Họ đều không biết rằng: trong tương lai không xa sẽ lại có dịp nhìn nhau một cách xa lạ như thế này.


LÔI MỄ


TÂM LÝ TỘI PHẠM
Sông Ngầm


Dịch giả:
Vũ Thị Hà
Nhà xuất bản Văn Học
Phát hành: Cổ Nguyệt Book
Thể loại: Trinh Thám, Tâm Lý Tội Phạm
Ebook and Edit: Vinaguy-Kegisu


Mỗi con người hy sinh vì tương lai tươi đẹp đều là một tượng đài.
Julius Fucik


Phần Dẫn
Cạm Bẫy

Người đàn ông dừng xe ở bên đường, đưa mắt nhìn con ngõ hẹp bên tay phải, khóa cửa xe cẩn thận rồi bước xuống.
Con ngõ vốn đã không rộng, lại thêm mười mấy hàng quán kinh doanh lấn chiếm vỉa hè. Anh vừa khó nhọc len qua những sợi móc treo điện thoại, những con thú bông, vừa nhìn quanh quan sát các gian hàng hai bên đường. Cuối cùng, anh dừng lại trước cửa một quán nhỏ có cái tên Vua cá nướng Ba Thục*, sau khi đọc tấm biển hiệu cẩn thận, anh đưa tay đẩy cánh cửa kính lem đầy vết dầu.
Bây giờ là ba rưỡi chiều, quán vắng khách. Bà chủ quán ngồi sau chiếc bàn phục vụ gật gà ngủ. Cánh cửa kính vừa được mở, thiết bị cảm ứng treo trên khung cửa liền phát ra câu nói: “Kính chào quý khách”. Bà chủ quán lập tức tươi tỉnh, vừa lay nữ nhân viên phục vụ đang ngủ gật bên cạnh, vừa dụi mắt mời chào khách.
Vị khách đứng ở cửa, nhìn một lượt quanh gian quán vắng vẻ rồi nói: “Tôi có đặt một bàn.”
“Vâng.” Bà chủ quán lật giở cuốn sổ nhỏ trong tay: “Anh Hình* đúng không?”
Vị khách khẽ gật đầu, thay cho lời xác nhận.
“Bàn số 7.”
Cô phục vụ bàn dẫn khách ngồi vào bàn, mở cuốn thực đơn rồi hỏi: “Anh gọi món luôn bây giờ hay đợi một lát nữa?”
“Một lúc nữa.” Vị khách dường như không để tâm vào cuốn thực đơn, mà chăm chú ngắm một vật hình tròn trên bàn.
“Món nổi tiếng của quán chúng tôi là cá nướng Ba Thục, me chua lê trắng…”
“Một lúc nữa.” Vị khách nói bằng giọng vừa phải, nhưng rất rõ ràng: “Cho tôi một cốc nước mơ.”
Cô phục vụ bàn hơi bĩu môi, gập thực đơn mang đi.
Vị khách cầm vật ở trên bàn lên, đó là một thứ đồ chơi đoán vận mệnh qua các chòm sao, vỏ làm bằng loại nhựa tồi, mặt ngoài có in mười hai chòm sao, phía dưới mỗi chòm sao có một cái lỗ nhỏ để bỏ tiền xu, nếu bỏ vào một đồng xu một tệ*, từ cái lỗ nhỏ phía dưới sẽ bật ra một mẩu giấy cuộn ghi thông tin về vận may trong tháng, con số may mắn, màu sắc may mắn…
Vị khách mỉm cười, lẩm bẩm: “Cái thằng ôn này cũng giỏi chơi thật.” Nói xong, anh lấy ra một đồng xu một tệ nhét vào lỗ bỏ tiền dưới chòm sao sư tử rồi kéo chiếc cần quay. Từ chiếc lỗ nhỏ bật ra một mẩu giấy cuộn.
Vị khách cầm cuộn giấy đưa lên săm soi, cuộn giấy được nhét trong một chiếc ống nhựa, đầu kia nhét một cuộn giấy khác nhỏ hơn. Anh khều lấy cuộn giấy nhỏ đó rồi mở ra, trên mẩu giấy có ghi một dòng chữ nhỏ: Khách sạn Thành Loan, 624.
Góc phía dưới bên phải có một hình chữ thập màu đỏ, rất nhỏ, nếu không nhìn kĩ sẽ không thể thấy được, đột nhiên anh cảm thấy máu nóng trong người dồn hết lên đỉnh đầu.
Cô phục vụ bưng cốc nước mơ đến bàn số 7, vị khách đã đi từ lúc nào. Trên bàn còn để lại mười tệ và cuộn giấy chưa mở. Cô bực mình lẩm bẩm ‘đồ khùng’, bỏ tiền vào trong khay, ngẫm nghĩ giây lát rồi tò mò cầm cuộn giấy lên, rút ra khỏi ống và mở ra.
… Tháng này sao tai sát chiếu mệnh, đại án mạng…
Khách sạn Thành Loan nằm ở ngoại ô, không xếp loại sao, rất ít người đến đây thuê phòng, mùa này lại càng vắng vẻ. Khi lái xe đến nơi, vẫn còn sớm so với giờ hẹn mười mấy phút, anh ngồi trong xe hút điếu thuốc.
Chiếc móc treo trang trí dưới gương chiếu hậu đung đưa theo gió, trong có lồng ảnh một cô gái, nụ cười rạng rỡ như hoa.
Vật bằng sắt giắt ở thắt lưng cứng cộm, anh nhẹ nhàng rút ra, để trong tay chăm chú ngắm nhìn. Khẩu súng ngắn 64 được giữ gìn cẩn thận bóng lên sắc xanh dưới ánh nắng chiều. Anh tháo hộp đạn, lần lượt kiểm tra từng viên đạn rồi lắp đạn vào băng. Làm xong, anh thấy lòng bàn tay khẽ toát mồ hôi.
Có phải là căng thẳng không? Không, không được căng thẳng, mày phải cảm thấy rất khoan khoái mới đúng. Anh tự nói với mình như vậy rồi đứng dậy xuống xe.
Bước vào cửa, đi qua sảnh lớn, vào thang máy, tất cả đều bình thường. Càng đến gần phòng 624, anh càng thấy nhẹ nhõm. Nhưng khi đến trước cửa, đưa tay lên định gõ cửa, thì phát hiện cửa phòng chỉ khép hờ. Bất cẩn quá mức. Anh cau mày, nghĩ bụng lát nữa phải mắng cho thằng ôn này một trận.
Trong phòng không có người, từ phòng vệ sinh vọng ra tiếng nước chảy ào ào. Anh càng bực, đưa tay gõ mạnh mấy nhát vào cửa phòng vệ sinh rồi ngồi lên chiếc giường kê sát tường, tiện tay bật ti vi.
Màn hình hiện ra mấy đứa trẻ béo mũm mĩm đang nhìn một đống đồ uống sữa chua sặc sỡ đủ màu ngây ngô cười. Anh nhìn vào màn hình ti vi, nhưng không để tâm xem, trong đầu còn mải tính toán những chi tiết của việc phải làm: Đầu tiên phải xác định vị trí của đối phương, số người… có dùng súng hay không… sau khi sự việc xảy ra sẽ giải thích động cơ thế nào? Phòng vệ chính đáng hay là…
Bỗng anh phát hiện ra, không ngờ còn nhiều chi tiết chưa được tính toán đến thế - xem chừng việc này cũng không dễ làm như vậy.
Tiếng nước chảy nhỏ dần rồi mất hẳn. Chưa xem hết đoạn quảng cáo, cửa phòng vệ sinh đã mở ra.
Anh sầm mặt lại đưa mắt nhìn lên, chiếc điều khiển từ xa trong tay rơi bịch xuống đất.
Người đi ra là một cô gái, trên người không một mảnh vải.
Anh ngây ra mất mấy giây, phản ứng tiếp theo không phải là nhắm mắt lại mà là đứng dậy rút súng.
Vì anh nhìn thấy cổ cô gái đang bị thắt chặt bằng một chiếc khăn mặt, phía sau cô gái là bàn tay một gã đàn ông đang nắm chặt đầu còn lại của chiếc khăn. Gã đàn ông nhún thấp núp sau người cô gái, không nhìn rõ mặt hắn, cũng không thấy được hành động ở cánh tay kia của hắn. Nhưng rất rõ ràng, gã đàn ông này không phải là người anh đang chờ.
Khuôn mặt cô gái đẫm nước mắt, đầu ngửa ra sau, người xiêu vẹo ưỡn ra phía trước, rõ ràng, đang bị vật gì đó ấn vào sau lưng.
“Xin anh…” Giọng của cô gái nghẹn trong cổ: “… cứu tôi!”
Khuôn mặt cô gái đã bị sự đau đớn và nỗi sợ hãi lên đến tột cùng làm cho biến dạng, cảm giác xấu hổ vì bị đàn ông nhìn thấy cơ thể khiến cô muốn đưa tay che ngực và phần dưới, nhưng cảm giác đau nhói từ phía sau lưng làm cô buộc phải cố sức ưỡn ngực ra phía trước, hai tay đờ đẫn che trên người.
“Buông cô ta ra!” Cảnh tượng bất ngờ trước mắt khiến anh rối trí, anh kéo khóa nòng súng cạch một tiếng: “Anh là ai?”
“Anh buông cô ta ra.” Anh cố gắng bình tĩnh lại, thận trọng dịch bước, định ngắm trúng vào gã đàn ông: “Có việc gì chúng ta bình tĩnh nói chuyện.”
Gã đàn ông vẫn im lặng, không hề đáp lời, vì vậy không thể biết được ý đồ của hắn ta.
“…Cứu tôi… ” Mặt cô gái đã bị thắt đến tím tái, vừa bật ra được hai chữ, đột nhiên mắt cô trợn lên, cổ họng phát ra những tiếng rên đáng sợ, toàn thân run lên bần bật.
Anh kịp trông thấy một đoạn kim loại sáng bóng xuyên ra từ ngực trái của cô gái.
Gần như cùng lúc đó, gã đàn ông đẩy cô gái ra, quay người mở cửa chạy. Cô gái đã không còn nói được, ánh mắt đầy tuyệt vọng và khẩn cầu. Vừa bước được một bước, thân hình cô đã đổ nhào xuống đất.
Nhát dao đâm rất dứt khoát, thậm chí cô gái còn chưa kịp chảy máu. Nhưng anh biết rất rõ, cô gái đã bị đâm xuyên tim.
Không kịp suy nghĩ nhiều, anh nghiến răng bước qua cơ thể còn đang co giật của cô gái, giương súng đuổi theo.
Tên giết người không hề có ý định trốn ra khỏi khách sạn, mà lại chạy lên trên theo lối cầu thang.
Sự việc giết người xảy ra bất ngờ khiến tâm trí anh hỗn loạn, tại sao cô gái đó lại ở trong phòng? Gã đàn ông cầm dao là ai? Tại sao hắn lại giết cô gái? Vô số câu hỏi nảy ra khiến anh bỗng mất đi khả năng suy nghĩ và phân biệt, trong đầu chỉ còn một ý nghĩ: Quyết không để kẻ giết người chạy thoát!
Ở mỗi góc ngoặt, anh đều giương súng quan sát bốn xung quanh, sau khi chắc chắc không có mai phục mới tiếp tục chạy đuổi theo. Như vậy lẽ ra khoảng cách giữa anh và hung thủ càng lúc sẽ càng xa, nhưng hung thủ dường như không hề có ý định chạy tiếp. Khi nhận ra tiếng chân vội vã trên đỉnh đầu dần biến mất, anh nhìn thấy hung thủ đứng thở hổn hển ở ban công phía trên.
Khoảnh khắc đó, anh có thể khẳng định ánh mắt hung thủ có thoáng một chút bi thương, nhưng cảm giác đó lập tức hoàn toàn được thay đổi bởi thần thái quyết tâm muốn chết.
Tiếp đó, hung thủ dang hai cánh tay, để lộ toàn bộ phần ngực, hai tay giơ lên quá đầu - lao về phía anh bằng một tư thế hết sức ngu xuẩn.
Chỉ kịp nhìn thấy ánh kim loại lóe lên trong tay gã, anh liền bóp cò súng theo phản xạ bản năng.
Sức mạnh cực lớn của đầu đạn khiến cơ thể hung thủ lệch đi trong không trung, chưa kịp nhào đến trước mặt anh đã ngã sập xuống đất.
Anh cầm súng bước lên, lấy chân đá hung khí trong tay gã đàn ông, nhát đá khiến anh ngây ra, đó không phải là hung khí gì, mà chỉ là một chiếc thìa sắt thông thường.
Anh vội đưa mắt nhìn hung thủ đang nằm ngửa dưới đất, máu trên ngực hắn trào ra, ánh mắt đờ đẫn, hơi thở gấp gáp.
Nghĩ bụng không ổn rồi, anh khom người gí mạnh đầu súng vào hàm hung thủ, quát lớn: “Rốt cuộc mày là ai? Ai bảo mày làm việc này?”
Khóe miệng đầy máu của hung thủ bỗng lộ ra một nụ cười bí hiểm, anh khó nhọc quay mắt hắn lại, không ngờ ánh mắt hắn đầy giễu cợt.
“Mày… tiêu rồi.”
Mặc dù giọng nói rất khẽ, nhưng anh nghe thấy rất rõ ràng. Trong giây lát, anh thấy đầu mình trống rỗng, chỉ còn biết nhìn chằm chằm vào gương mặt sắp chết trước mắt.
Bỗng có tiếng bước chân dồn dập vội vã từ trên lầu vọng xuống, anh vội đứng lên, cảnh giác nhìn chằm chằm vào chiếc thang máy phía trên. Trong chớp mắt, có mấy người xông đến ban công. Trong tiếng quát đồng thanh và tiếng mở chốt an toàn của cả hai bên, người dẫn đầu kinh ngạc hỏi: “Cục trưởng Hình, có phải là anh không?”
“Tiểu Tống?” Sau khi đã nhận ra đối phương, người được gọi là cục trưởng Hình bỏ súng xuống: “Sao các cậu lại ở đây?”
Tiểu Tống bối rối ra hiệu cho mấy người đi cùng bỏ súng xuống: “Chúng em nhận được tin báo, trên tầng mười hai có bọn tụ tập dâm loạn, nên…”
Vừa bước xuống cầu thang mấy bước, Tiểu Tống liền nhìn thấy hung thủ đang nằm ngửa trên mặt đất. Anh lập tức dừng lại, nhìn hung thủ rồi lại nhìn sang cục trưởng Hình, không hiểu việc gì đã xảy ra.
“Phát súng vừa nãy có phải là anh bắn không?”
“Phải.” Cục trưởng Hình hơi bực bội: “Vừa nãy hắn giết người ở phòng 624. Cậu dẫn mấy người qua canh chặt hiện trường, sau đó báo cho Sở cử người đến. Cậu, cả cậu nữa.” Anh chỉ hai cảnh sát còn lại: “Xem hắn ta còn cứu được không.”
Tiểu Tống lập tức làm theo mệnh lệnh, lấy điện thoại di động ra vừa bấm số vừa lao xuống dưới lầu. Hai cảnh sát ở lại hiện trường lập tức cúi xuống bên hung thủ, một người vạch mắt, một người sờ mạch. Mấy giây sau, cả hai cùng đứng lên và đồng thời lắc đầu.
“Hô hấp nhân tạo cho nó!” Cục trưởng Hình rõ ràng vẫn nuôi hy vọng: “Chỉ cần có thể nói là được.”
Nghe lệnh, hai người lập tức lại ngồi xuống thao tác. Ấn ngực, thổi hơi vào mồm hung thủ. Sau khi làm liên tục mấy phút, cơ thể hung thủ vẫn mềm nhũn bất động. Vẻ mặt cục trưởng Hình càng lúc càng tối đăm đăm. Thấy cậu cảnh sát lau vết máu trên mồm, chuẩn bị làm hô hấp nhân tạo cho hung thủ một lần nữa, cục trưởng Hình liền khoát tay: “Thôi!”
Anh đứng chống nạnh, chăm chú nhìn người chết mấy giây, thấp giọng nói: “Các cậu ở đây canh chặt hiện trường, tôi qua bên kia xem thế nào.”
Vừa bước vào hành lang tầng 6 liền gặp Tiểu Tống đang gọi điện thoại, thấy Cục trưởng Hình, Tiểu Tống lập tức ngắt điện thoại.
“Thế nào?” Cục trưởng Hình vẫn đang nghĩ về cô gái ở phòng 624, anh vừa hỏi vừa bước đi, nhưng liền bị Tiểu Tống lấy tay chặn lại.
“Cục trưởng Hình, đề nghị anh giao nộp lại khẩu súng của anh.”
“Cái gì?” Cục trưởng Hình vô cùng sửng sốt: “Cậu nói cái gì?”
“Đề nghị anh giao nộp lại súng của anh!” Tiểu Tống đặt tay lên chuôi súng ở thắt lưng: “Đây là quyết định của Sở!”
Cục trưởng Hình ngây người ra, lúc định thần lại đã thấy bốn cảnh sát vây chặt quanh mình. Anh ngẫm nghĩ một chút rồi nén giận, phục tùng rút súng đưa ra. Gần như cùng lúc đó, một cảnh sát phía sau nhanh chóng rút vòng số tám, chỉ nghe tách một tiếng, cánh tay cục trưởng Hình đã bị còng lại.
Cái lạnh băng của kim loại và cảm giác đau vì bị kéo khiến Cục trưởng Hình có chút kháng cự theo phản xạ bản năng, nhưng ngay lập tức, cánh tay còn lại cũng bị còng chặt.
“Các cậu làm cái gì thế hả?” Cục trưởng Hình nổi giận: “Rốt cuộc là thế nào?”
Tiểu Tống rón rén bỏ súng vào một chiếc túi thu giữ tang vật, nhìn lãnh đạo đang giận dữ, ngẫm nghĩ một lúc rồi khẽ nói: “Chúng em vừa lục soát phòng 624.” Cậu ta dừng lại giây lát: “Trong phòng, không có bất cứ thứ gì.”


Truyện Cùng Thể Loại

Các Đại Năng Đã Để Lại Thần Thức


Lưu ý: Vui lòng tải app để có thể lưu lại thần thức trên truyện này
Tải app để đọc truyện sớm nhất